Tải bản đầy đủ (.doc) (120 trang)

Ths kinh te chinh tri giải quyết việc làm cho thanh niên ở thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (642.55 KB, 120 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc làm và giải quyết luôn là vấn đề then chốt trong tiến trình phát
triển kinh tế xã hội. Đây khơng chỉ là vấn đề kinh tế mà còn là vấn đề xã hội
có tính chất tồn cầu; là mối quan tâm hàng đầu của các quốc gia, dân tộc nói
riêng và của tồn nhân loại nói chung. Mỗi quốc gia trên thế giới khơng phân
biệt chế độ chính trị - xã hội, trình độ phát triển, đều phải quan tâm đến việc
làm và giải quyết việc làm cho người lao động nói chung, thanh niên nói
riêng. Có thể khẳng định, giải quyết việc làm hiệu quả luôn gắn liền với sự
phát triển bền vững của mọi quốc gia, dân tộc trên toàn thế giới.
Ở Việt Nam, vấn đề việc làm cho người lao động, chính sách tạo việc
làm, chống thất nghiệp được Đảng và Nhà nước chỉ rõ: Giải quyết việc làm là
yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh
tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức
xúc của nhân dân. Trong đó, vấn đề thanh niên nói chung, việc làm cho thanh
niên nói riêng đã là mục tiêu của cách mạng ngay từ khi Đảng ta mới ra đời:
“Công tác thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc, một trong những nhân
tố quyết định sự thành bại của cách mạng”, chính vì thế “vấn đề thanh niên
phải đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược phát huy nhân tố và nguồn lực con
người”. Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã xác định đối với thế hệ trẻ cần
phải: “chăm lo giáo dục, bồi dưỡng, đào tạo phát triển toàn diện về chính trị,
tư tưởng đạo đức lối sống, văn hố, sức khoẻ, nghề nghiệp, giải quyết việc
làm, phát triển tài năng và sức sáng tạo, phát huy vai trị xung kích trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [22]; Nghị quyết 25 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khoá X nhận định tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
cơng tác thanh niên trong thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hoá; Chiến lược
phát triển thanh niên đến 2010 có mục tiêu cố gắng giảm thiểu tình trạng thất
nghiệp, thiếu việc làm trong thanh niên v.v… Như vậy, vấn đề thanh niên,



2
việc làm cho thanh niên đã và đang là mục tiêu của cách mạng, là mối quan
tâm chung của toàn xã hội.
Đà Nẵng - một thành phố trẻ đang trên đà phát triển mạnh, phấn đấu là
khu vực kinh tế trọng điểm Miền Trung - Tây Nguyên. Trong những năm qua,
cùng với quá trình phát triển của cả nước, thành phố Đà Nẵng đã có sự
chuyển biến mạnh mẽ về nhiều mặt, kinh tế - xã hội phát triển nhanh, an ninh
chính trị ổn định, đời sống của đại bộ phận nhân dân từng bước được nâng
lên. Trong những thành tựu về kinh tế - xã hội, thì vấn đề việc làm cho người
lao động nói chung và việc làm cho thanh niên nói riêng đã được quan tâm.
Mặc dù đã được quan tâm và có sự đầu tư nhất định, song vấn đề việc
làm cho thanh niên ở thành phố Đà Nẵng hiện cịn có những khó khăn như:
trình độ tay nghề chun mơn, trình độ tin học, ngoại ngữ còn hạn chế; nhận
thức của một bộ phận người lao động chưa rõ, xuất hiện tư tưởng trông chờ, ỷ
lại; thơng tin thị trường lao động cịn thiếu so với yêu cầu của nhà đầu tư; rãi
rác ở một số địa phương/vùng, vấn đề giải quyết việc làm cho thanh niên chưa
thực sự được chú trọng.
Hiện nay, số lượng lao động được giải quyết việc làm có tăng song
chưa bền vững, tỷ lệ thiếu việc làm, thất nghiệp trong thanh niên cịn cao, thu
nhập sau khi có việc làm còn thấp. Điều này dẫn đến nảy sinh nhiều vấn đề
bức xúc, gây dư luận xã hội như: thanh niên phải trật vật để có được việc làm;
nhưng nhiều khi việc làm có được lại trái với chun mơn được đào tạo, thậm
chí vì mưu sinh, họ phải chấp nhận làm cả những cơng việc trái với pháp luật;
hoặc có một số bị lừa gạt khi tìm kiếm việc làm hoặc có được việc làm nhưng
mang tính chất khơng ổn định, thiếu bền vững v.v…Vì vậy, giải quyết việc
làm cho thanh niên ở thành phố Đà Nẵng đang là vấn đề nhận được sự quan
tâm sâu sắc của Đảng, Chính quyền thành phố, các cơ quan chức năng có liên
quan và tồn thể người dân thành phố. Do đó, đề tài: “Giải quyết việc làm
cho thanh niên ở thành phố Đà Nẵng” được chọn làm luận văn tốt nghiệp
Thạc sỹ kinh tế, chuyên ngành Kinh tế chính trị, mã số 62 31 01.



3
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây, vấn đề việc làm, giải quyết việc làm được
nghiên cứu với nhiều góc độ khác nhau, từ nhiều tác giả và cơ quan nghiên
cứu. Có thể nêu một số nghiên cứu điển hình mà đề tài luận văn này có thể
tham khảo như:
- “Vấn đề giải quyết việc làm ở Việt Nam” của GS.TS Phạm Đức
Thành, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 64.
- Giải quyết vấn đề lao động và việc làm trong quá trình đơ thị hố,
cơng nghiệp hố nơng nghiệp, nơng thơn của TS Nguyễn Hữu Dũng đăng trên
tạp chí Lao động - Xã hội số 246 (từ 1-15/9/2004).
- Thị trường lao động và định hướng nghề cho thanh niên của TS
Nguyễn Hữu Dũng, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội, 2005.
- Thị trường lao động Việt Nam - thực trạng, giải pháp, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội 2006 do TS Nguyễn Thị Thơm (chủ biên).
- Việc làm và chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam hiện nay, của
tác giả Phạm Đức Chính, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 363 (tháng 8/2008).
- Phương hướng giải quyết việc làm cho thanh niên đến năm 2015, của
TS Phạm Hữu Đắc, Tạp chí Lao động & xã hội số 353 (từ 16-28/2/2009).
- Một số vấn đề việc làm bền vững cho thanh niên, của Lê Quang
Trung, Tạp chí Lao động & xã hội số 333 (từ 16-30/4/2008).
- Để dạy nghề gắn với giải quyết việc làm, của PGS-TS Cao Văn Sâm,
đăng trên Tạp chí Lao động & xã hội số 331 (từ 16-31/3/2008).
- Đẩy mạnh tạo việc làm trong nước thời gian tới, của tác giả Nguyễn
Thanh Hồ, Tạp chí Lao động & xã hội số 350 (từ 01/15/1/2009).
Ngồi ra, cịn một số luận văn thạc sĩ, tiến sĩ kinh tế viết về vấn đề việc
làm, giải quyết việc làm ở một số địa phương như: Hà Nội, Bắc Ninh, Vĩnh
Phúc, Hải Dương, Nghệ An, Thái Bình, Hưng n. Ví như: Giải quyết việc

làm ở Thái Bình: Thực trạng và giải pháp, của tác giả Bùi Xuân An, bảo vệ


4
tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh năm 2005; Việc
làm và chính sách tạo việc làm ở Hải Dương của tác giả Bùi Thanh Thuỷ, bảo
vệ tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2007;
Việc làm trong phát triển kinh tế xã hội ở huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, của
tác giả Trần Văn Kỳ, bảo vệ tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ
Chí Minh, năm 2008; Giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn miền Tây
Nam Bộ, của tác giả Nguyễn Hữu Duyên, bảo vệ năm 2008, tại Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh; Việc làm cho người lao động ở
huyện Từ Liêm, Hà Nội trong giai đoạn hiện nay, của tác giả Nguyễn Thị
Huệ, bảo vệ tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh năm
2010. Về cơ bản, các cơng trình trên đã trình bày được một số vấn đề về lý
luận, thực trạng về thu nhập, đời sống, việc làm của người lao động trong q
trình đơ thị hóa, cơng nghiệp hóa. Qua đó các tác giả đã đưa ra nhiều quan
điểm, giải pháp và kiến nghị nhằm giải quyết việc làm cho người lao động
nhằm bảo đảm thu nhập và ổn định đời sống.
Với Thành phố Đà Nẵng cũng đã có những nghiên cứu xoay quanh chủ
đề này, như: Đà Nẵng nỗ lực chuyển đổi ngành nghề, giải quyết việc làm cho
lao động diện giao đất, của tác giả Lê Minh Hùng, đăng trên Tạp chí lao động
xã hội số 259 (từ 16-31/9/2005); Đà Nẵng dự báo nhu cầu lao động qua dạy
nghề đến năm 2020, của tác giả Phan Văn Sơn, đăng trên Tạp chí Lao động và
xã hội số 356 năm 2009; Đà Nẵng đào tạo nghề đáp ứng nhu cầu nhân lực
phục vụ vùng kinh tế trọng điểm Miền Trung, của tác giả Bắc Sơn, đăng trên
Tạp chí Lao động&xã hội số 354 năm 2009 v.v… Các cơng trình nghiên cứu
nói trên đã tiếp cận nghiên cứu vấn đề việc làm cho người lao động trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế và đề cập đến vấn đề việc làm, giải quyết việc
làm cho thanh niên ở những khía cạnh chuyên biệt như dạy nghề với tạo việc

làm, dự báo nhu cầu lao động cho phát triển kinh tế Đà Nẵng với tư cách là
vùng kinh tế trọng điểm…. Song, chưa có cơng trình nào nghiên cứu một


5
cách toàn diện về việc làm, giải quyết việc làm cho thanh niên trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng, đặc biệt là dưới góc độ kinh tế chính trị. Vì vậy, đề tài:
“Giải quyết việc làm cho thanh niên ở thành phố Đà Nẵng” mà học viên
lựa chọn làm đề tài luận văn Thạc sỹ là không trùng lắp với các nghiên cứu đã
được cơng bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Mục đích của luận văn là xây dựng mơ hình giải quyết việc làm hiệu
quả cho thanh niên trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, thơng qua việc phân tích
những ưu điểm, hạn chế của việc giải quyết việc làm cho thanh niên ở thành
phố Đà Nẵng thời gian qua (từ 2005 đến 2009). Trên cơ sở đó, đề xuất
phương hướng và giải pháp nhằm giải quyết việc làm cho thanh niên thành
phố Đà Nẵng một cách hiệu quả trong giai đoạn từ nay đến 2015.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để thực hiện mục đích trên, nhiệm vụ của luận văn là:
+ Làm rõ những cơ sở khoa học của việc giải quyết việc làm cho thanh
niên trong giai đoạn hiện nay.
+ Phân tích thực trạng giải quyết việc làm cho thanh niên ở thành phố Đà
Nẵng trong thời gian qua; chỉ rõ những thành công, hạn chế và nguyên nhân.
+ Đề xuất phương hướng, giải pháp giải quyết việc làm cho thanh niên
ở thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn từ nay đến 2015.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề giải quyết việc làm cho
thanh niên ở thành phố Đà Nẵng.

4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu tình hình giải quyết việc làm cho thanh niên trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2005 đến 2009. Trên cơ sở đó chỉ ra phương
hướng giải quyết việc làm cho thanh niên thành phố Đà Nẵng đến 2015.


6
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam;
lý thuyết việc làm hiện đại.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mác-Lênin, đề tài có sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp,
phương pháp thống kê, phương pháp trừu tượng hố khoa học...
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Luận văn làm rõ cơ sở khoa học của vấn đề giải quyết việc làm nói
chung và xây dựng mơ hình giải quyết việc làm cho thanh niên nói riêng.
- Phân tích các nhân tố tác động đến việc làm cho thanh niên trong q
trình cơng nghiệp hóa và hội nhập.
- Phân tích đánh giá cụ thể thực trạng giải quyết việc làm cho thanh
niên ở thành phố Đà Nẵng từ 2005-2009, từ đó đề xuất phương hướng và
những giải pháp khả thi trong giải quyết việc làm cho thanh niên thành phố
Đà Nẵng giai đoạn 2010- 2015.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo và
phụ lục, luận văn gồm 3 chương, 10 tiết.



7
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VIỆC LÀM
VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO THANH NIÊN
1.1. VẤN ĐỀ VIỆC LÀM, GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM

1.1.1. Quan niệm về việc làm, giải quyết việc làm
1.1.1.1. Quan niệm về việc làm
Ngày nay, việc làm, thiếu việc làm, thất nghiệp là một trong những vấn
đề có tính chất tồn cầu, là mối quan tâm của hầu hết các quốc gia, bởi nó ảnh
hưởng trực tiếp đến sự phát triển của một đất nước. Tăng việc làm, giảm tỉ lệ
thất nghiệp là một trong những biện pháp quan trọng để từng bước ổn định và
nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo phát triển bền vững. Đặc biệt đối với
Việt Nam, tốc độ tăng dân số, nguồn lao động cao, trong khi tốc độ tăng
trưởng kinh tế, tạo việc làm bị hạn chế do khả năng cung về vốn, tư liệu sản
xuất còn thấp.
Về mặt bản chất, việc làm là quan hệ tích cực, sáng tạo của chủ thể việc
làm với hoạt động sống của mình, với ý nghĩa, nội dung và mục đích đặt ra.
Tùy thuộc vào từng thời điểm, khơng gian và từng chủ thể có cách tiếp cận
vấn đề, đưa ra các khái niệm khác nhau về việc làm.
Việc làm là một phạm trù tổng hợp liên kết các q trình kinh tế, xã hội
và nhân khẩu; nó thuộc loại vấn đề chủ yếu nhất của toàn bộ đời sống xã hội.
Hiện nay, trên các phương tiện thông tin đại chúng, khái niệm “việc làm” và
“thị trường lao động” không hiếm khi bị đồng nhất với nhau. Hệ thống việc
làm được đưa thêm hàng loạt chức năng không đúng với tính chất của nó, cịn
thị trường lao động được tăng thêm tính chất tổng hợp. Khái niệm việc làm và
khái niệm lao động có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, nhưng khơng hồn tồn
giống nhau. Việc làm là những quan hệ xã hội giữa con người, mà trước hết là
những quan hệ kinh tế và pháp lý về việc đưa người lao động vào hợp tác lao



8
động cụ thể trong một chỗ làm việc xác định. Hoạt động lao động, trước hết,
đó là một q trình, còn việc làm là tài sản của chủ thể mà bằng cách nào đấy
được đưa vào (hay là loại trừ ra) từ q trình đó. Về giác độ kinh tế, việc làm
thể hiện mối tương quan giữa sức lao động và tư liệu sản xuất, giữa yếu tố
con người và yếu tố vật chất trong quá trình sản xuất. Việc làm gắn với quá
trình tăng thu nhập, giảm sự nghèo khổ của người lao động, đồng thời không
đi ngược lại lợi ích cộng đồng mà pháp luật qui định. Nói cách khác, việc làm
là cơng việc, những hoạt động có ích, không bị pháp luật cấm và mang lại thu
nhập cho bản thân hoặc tạo điều kiện để tăng thu nhập cho các thành viên
trong gia đình, đồng thời góp một phần cho xã hội.
Khi nghiên cứu quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, C.Mác có đề cập
đến việc làm, nhưng ông chưa đưa ra khái niệm về việc làm. C.Mác nói: “Sự
tăng lên của bộ phận tư bản khả biến (v) của tư bản, và do đó sự tăng thêm số
cơng nhân đã có việc làm, bao giờ cũng gắn liền với những biến động mạnh
mẽ và việc sản xuất ra số nhân khẩu thừa tạm thời” [31, tr.159].
Với quan niệm trên của Mác thì việc làm có liên quan mật thiết với lao
động. Việc làm thể hiện mối quan hệ của con người với nơi làm việc cụ thể
mà ở đó q trình lao động được diễn ra, đồng thời nó là tiền đề, điều kiện
cần và đủ để đáp ứng nhu cầu về lao động, là nội dung cơ bản của hoạt động
lao động sản xuất vật chất của con người. Xét về mặt kinh tế thì việc làm biểu
hiện mối quan hệ yếu tố con người và yếu tố vật chất hay giữa sức lao động
và tư liệu sản xuất. Ngoài ra, giữa việc làm và dân số cũng có một liên hệ biện
chứng với nhau như hình với bóng.
Theo Ghihantơ, nhà kinh tế thuộc Viện Hải quan Ln Đơn thì: Việc
làm theo nghĩa rộng là toàn bộ các hoạt động kinh tế của một xã hội, nghĩa là
tất cả những gì quan hệ đến cách kiếm sống của một con người, kể cả quan hệ
xã hội và các tiêu chuẩn hành vi tạo thành khn khổ của q trình kinh tế.
Theo quan niệm này thì tất cả các hoạt động mang lại nguồn thu nhập cho



9
cuộc sống của mọi người đều gọi là việc làm. Quan niệm này khơng thể chấp
nhận được vì đã đồng nhất việc làm hợp pháp và việc làm bất hợp pháp (thu
nhập bất chính, tham nhũng, bn bán ma t, cờ bạc, mại dâm...)
Các nhà kinh tế Soonhin và Grincốp của Liên Xô lại cho rằng, việc làm
là sự tham gia của người có khả năng lao động vào một hoạt động xã hội có
ích trong khu vực xã hội hóa của sản xuất, trong học tập, trong cơng việc nội
trợ, trong kinh tế phụ của các nông trang viên. Theo khái niệm này thì những
người đang đi học, đang tham gia hoạt động trong các lực lượng vũ trang,
những người nội trợ đều coi là người có việc làm. Ngày nay, ở Liên Bang Nga
khái niệm này được qui định rõ trong Bộ luật Việc làm của dân cư Liên Bang
Nga như sau: việc làm là hoạt động của công dân nhằm thỏa mãn những nhu
cầu xã hội và của cá nhân, đem đến cho họ thu nhập và khơng bị pháp luật
Liên bang ngăn cấm.
Theo Giangmuli - phó cố vấn kinh tế của Văn phòng tổ chức lao động
quốc tế (ILO): việc làm có thể được định nghĩa như một tình trạng trong đó có
sự trả cơng bằng tiền hay hiện vật do có một sự tham gia tích cực có tính chất
cá nhân và trực tiếp vào nỗ lực sản xuất. Quan niệm này có sự mở rộng, khái
quát hơn so với hai quan niệm trên. Tuy vậy, quan niệm này có phần hạn chế
đó là chỉ thừa nhận hoạt động nào mà được trả công trực tiếp bằng hiện vật
hay hiện kim mới được coi là có việc làm thì chưa thật sự phù hợp với điều
kiện kinh tế thị trường. Bởi vì, theo quan niệm này thì những người làm cơng
việc nội trợ hay giúp việc gia đình khơng được tơn trọng và khơng thuộc
phạm trù việc làm. Tại Hội nghị quốc tế lần thứ 13 năm 1983, ILO đã đưa ra
khái niệm về người có việc làm như sau: Người có việc làm là những người
làm một việc gì đó, có được trả tiền cơng, lợi nhuận hoặc được thanh tốn
bằng hiện vật hoặc những người tham gia vào các hoạt động mang tính chất
tự tạo việc làm vì lợi ích hay thu nhập gia đình khơng nhận được tiền cơng

hay hiện vật.


10
Theo quan niệm này thì người có việc làm là những người lao động ở
tất cả các khu vực công lập và tư nhân, cá thể, hộ gia đình, có thu nhập đem
lại nguồn thu nhập nuôi sống bản thân, gia đình và xã hội. Do đó, khái niệm
này khá hồn chỉnh vì nó phù hợp trong nền kinh tế hiện đại và nền kinh tế đa
thành phần như nước ta hiện nay. Vì vậy, khái niệm này được các quốc gia
thừa nhận và đã được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới.
Tuy có nhiều quan niệm khác nhau về việc làm, nhưng các quan niệm
đó có chung một điểm tương đồng như sau: thực chất của việc làm là sự kết
hợp sức lao động với tư liệu sản xuất hay một cách cụ thể hơn: việc làm là
toàn bộ những công việc thuộc các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, thương mại
- dịch vụ, hoạt động quản lý kinh tế - xã hội mà pháp luật không cấm, mang
lại thu nhập hay lợi ích cho người lao động. Với quan niệm này thì khái niệm
việc làm dùng để chỉ một chỗ lao động cụ thể nào đó của q trình lao động
đang diễn ra để phân biệt có việc làm với thất nghiệp, khơng có việc làm.
Ở Việt Nam, khi mới dành được độc lập, chủ tịch Hồ Chí Minh đã có
Chỉ thị: chúng ta phải ra sức đấu tranh làm cho nhân dân ai cũng ăn no, mặc
ấm, có việc làm, có giờ nghỉ, được học tập. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho đây là
trách nhiệm của Đảng và Chính phủ. Về việc làm, Chủ tịch Hồ Chí Minh
quan niệm rằng: bất cứ làm gì có ích cho nước nhà, cho nhân dân, cho giai
cấp đều vẻ vang.
Trước đây, trong cơ chế kế hoạch hoá, tập trung, quan liêu, bao cấp,
quan niệm về việc làm rất hạn hẹp. Người lao động được coi là có việc làm và
được xã hội thừa nhận, tôn vinh là những người có việc làm trong các cơ quan
hành chính nhà nước, cơ quan sự nghiệp, trong khu vực kinh tế nhà nước và
kinh tế tập thể; xã hội không thừa nhận việc làm ở các thành phần kinh tế
khác và không có thất nghiệp và thiếu việc làm, lao động dư thừa, việc làm

khơng đầy đủ...Trong cơ chế đó, nhà nước bố trí việc làm cho người lao động,
từ đó xác định trách nhiệm giải quyết việc làm là của nhà nước. Với phương


11
thức tuyển dụng vào biên chế nhà nước suốt đời đã tách khái niệm việc làm
và cả khái niệm thất nghiệp khỏi phạm trù lao động, tạo tâm lý, tư tưởng trông
chờ, thụ động, ỷ lại vào nhà nước của người lao động.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, quan
niệm về việc làm đã có sự thay đổi căn bản. Việc làm cho người lao động
vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Vì vậy, Đảng và Nhà
nước ta ln quan tâm đến việc làm cho người lao động. Trên cơ sở vận
dụng khái niệm việc làm của ILO và căn cứ vào điều kiện kinh tế - xã hội
cụ thể nước ta, quan niệm mới về việc làm được thể hiện trong Bộ luật lao
động của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1994 (sửa đổi, bổ
sung các năm 2002, 2006, 2007). Tại điều 13, chương II của luật quy định:
Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm đều
được thừa nhận là việc làm. Từ quy định trên, có thể khái quát khái niệm
việc làm như sau: việc làm là những hoạt động lao động sản xuất trong tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội mang lại thu nhập cho người lao động
mà không bị pháp luật cấm.
Khái niệm việc làm của Bộ Luật lao động Việt Nam được cụ thể hóa,
có thể hiểu dưới ba dạng hoạt động sau:
- Làm các công việc để nhận tiền công, tiền lương bằng tiền mặt hoặc
hiện vật.
- Làm các công việc để thu lợi nhuận cho bản thân.
- Làm các cơng việc cho hộ gia đình mình nhưng khơng được trả thù
lao dưới hình thức tiền lương, tiền cơng cho cơng việc đó.
Theo quan niệm trên, một hoạt động được coi là việc làm cần thỏa mãn
hai tiêu thức:

Một là, hoạt động đó phải có ích và tạo ra thu nhập cho người lao động
và cho các thành viên trong gia đình. Điều này chỉ rõ tính hữu ích và nhấn
mạnh tiêu thức tạo ra thu nhập của việc làm.


12
Hai là, hoạt động đó khơng bị pháp luật ngăn cấm. Điều này chỉ rõ tính
pháp lý của việc làm, quan niệm đã rõ ràng hơn so với quan niệm của ILO.
Hoạt động có ích khơng giới hạn về phạm vi, ngành nghề và hoàn toàn phù
hợp với sự phát triển của thị trường lao động ở Việt Nam trong quá trình phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần. Người lao động hợp pháp ngày nay được
đặt vào vị trí chủ thể, có quyền tự do hành nghề, tự do liên kết kinh doanh, tự
do tìm kiếm việc làm, tự do thuê mướn người lao động trong khuôn khổ của
pháp luật, không bị phân biệt đối xử dù làm việc trong hay ngoài khu vực Nhà
nước. Điều này khẳng định tính chất pháp lý trong hoạt động của người lao
động thuộc khu vực ngoài Nhà nước và các khu vực phi chính thức.
Hai điều kiện đó có quan hệ chặt chẽ với nhau, là điều kiện cần và đủ
để một hoạt động lao động được thừa nhận là việc làm. Nếu một hoạt động
tạo ra thu nhập, nhưng vi phạm pháp luật như trộm cắp, buôn bán ma túy, mại
dâm ... thì khơng được thừa nhận là việc làm. Mặt khác, một hoạt động là hợp
pháp và có ích, nhưng không tạo ra thu nhập cũng không được thừa nhận là
việc làm.
Nhận thức về việc làm và tạo việc làm đã có sự chuyển biến căn bản.
Nếu như trước đây, quan niệm phổ biến là Nhà nước chịu trách nhiệm tạo việc
làm và bố trí việc làm cho người lao động thì nay đã chuyển sang quan niệm
tạo việc làm là trách nhiệm của Nhà nước, doanh nghiệp, xã hội và của chính
bản thân người lao động. Sự thay đổi này phù hợp với thực tiễn phát triển nền
kinh tế thị trường, có vai trị quan trọng trong q trình giải phóng sức lao động,
thúc đẩy tạo việc làm và phát triển thị trường lao động ở nước ta.
Khái niệm việc làm theo Bộ luật lao động có nội hàm rất rộng từ những

công việc tại công ty, cơ quan cơng sở, bệnh viện, trường học, các đồn thể
nhân dân đến cơng việc nội trợ giúp việc gia đình, ni dạy con cháu đều
được xã hội tôn vinh và thừa nhận là việc làm. Vì vậy, khái niệm việc làm
ngày càng được mở rộng thêm tạo điều kiện để giải phóng năng lực sản xuất


13
hay sức sản xuất của xã hội; khơi dậy mọi tiềm năng của lao động góp phần
tạo nhiều việc làm cho người lao động. Thị trường lao động được mở rộng
trên tất cả các ngành, lĩnh vực, các thành phần kinh tế cả trong nước và ngồi
nước. từ đó, người lao động được tự do hành nghề, tự do hợp tác liên doanh,
thuê mướn và sử dụng lao động theo quy định của pháp luật.
Quan niệm về việc làm nêu trên đã mang tính khái qt cao, tuy nhiên
vẫn cịn một số hạn chế, cụ thể là:
Thứ nhất, xét trên phạm vi rộng thì hợp pháp của một hoạt động lao
động được thừa nhận là việc làm tùy thuộc vào luật pháp của mỗi quốc gia và
mỗi thời kỳ. Có hoạt động là việc làm ở nước này nhưng lại không được thừa
nhận là việc làm ở nước khác.
Thứ hai, khơng phải mọi hoạt động có ích và cần thiết cho gia đình, xã
hội đều tạo ra thu nhập mặc dù nó góp phần làm giảm chi tiêu cho gia đình
thay vì th người làm cơng.
Khái niệm việc làm có hai đặc trưng cơ bản đó là mang lại thu nhập và
không bị pháp luật cấm là cơ sở để xã hội thừa nhận là việc làm. Điều này thể
hiện như sau:
Về mặt pháp lý: việc làm phải hợp pháp, phải chịu sự điều chỉnh của
pháp luật về độ tuổi, về những ngành nghề được làm và không được làm.
Về mặt kinh tế: việc làm phải đáp ứng lợi ích kinh tế của người lao
động, người sử dụng lao động và đóng góp cho tăng trưởng và phát triển
quốc tế.
Về chính trị: việc làm thể hiện rõ những quan điểm, đường lối lãnh đạo

của giai cấp cầm quyền.
Về xã hội: việc làm phải phù hợp với truyền thống văn hoá, đạo đức,
phong tục tập quán, công bằng xã hội.
Về mặt cá thể: việc làm thể hiện những tri thức, năng lực, phẩm chất
của người lao động khi tham gia việc làm ở những ngành cụ thể.


14
- Phân loại việc làm
Trong lý thuyết và cả trong thực tế việc làm được chia làm nhiều hình
thức khác nhau. Trong khuôn khổ của thị trường lao động quốc gia, hoạt động
lao động của con người được tổ chức với sự trợ giúp của những hình thức tổ
chức pháp lý khác nhau, được phân biệt bởi định mức điều tiết pháp lý thời
gian và chế độ ngày làm việc, sự đều đặn của hoạt động lao động, vị trí thực
hiện công việc ...
- Việc làm đầy đủ: khái niệm việc làm đầy đủ khơng thể chỉ giải thích
theo một nghĩa, nó phụ thuộc vào tiêu chí và tính chất của vấn đề. Đầy đủ ở
đây khơng có nghĩa là việc làm chung cho tất cả mọi người, đảm bảo chỗ làm
việc cho tất cả dân số có khả năng lao động. Xã hội ln có khuynh hướng đạt
được cân đối nguồn lao động trong mức tối đa, dự đoán dòng chuyển động
nguồn lao động được dựa trên cơ sở dự báo và lên kế hoạch tạo chỗ làm việc.
Trong tư duy và thực tế ở phương Tây, việc làm đầy đủ là tình hình nền
kinh tế, mà ở đó tất cả những người mong muốn làm việc có việc làm với
mức lương thực tế khống chế. Trong ngữ cảnh này nó được sử dụng đồng
nhất như khái niệm “tồn dụng nhân lực”.
Trong lý thuyết kinh tế và thực tế người ta còn chia việc làm đầy đủ ra
thành nhiều dạng như việc làm năng suất, hiệu quả và hợp lý.
- Việc làm năng suất có nghĩa là việc làm tạo ra những phúc lợi và dịch
vụ hữu ích cả cho xã hội và cả cho từng người lao động.
- Việc làm hợp lý dự đoán sự phân chia một cách tối ưu người đang làm

việc theo các ngành sản xuất và các khu vực lãnh thổ của đất nước với mục đích
sản xuất ra những sản phẩm và sử dụng những dịch vụ phục vụ cho nhu cầu.
- Việc làm hiệu quả là việc làm trong sản xuất sinh lợi nhuận được
trang bị kĩ thuật với tổ chức lao động tiên tiến, năng suất lao động cao và đảm
bảo chất lượng sản phẩm. Nó dự đốn sự hiện có những cán bộ và đội ngũ
những nhà quản lý có trình độ chun nghiệp cao và hướng tới cơng việc có


15
hiệu quả. Khả năng việc làm hiệu quả này thường hướng vào sự phát triển
toàn diện con người và hoàn tồn chấp nhận được, nhưng nó khá rộng và
khơng có khả năng đo được bằng một chỉ tiêu. Tuy nhiên có thể đưa ra tính
chất định lượng để đánh giá qua hệ thống chỉ tiêu như:
+ Mức độ việc làm của cư dân bằng lao động chuyên nghiệp trên tổng
dân số, thể hiện dưới dạng phần trăm (gọi là hệ số việc làm). Hệ số này cho
thấy sự phụ thuộc mức độ việc làm vào yếu tố nhân khẩu, có nghĩa là hệ số
sinh, chết và tốc độ tăng trưởng dân số, được tính tốn trên các con số thống
kê, hệ số đó là một trong những con số biểu hiện sự phồn vinh của xã hội.
+ Mức độ việc làm của dân số có khả năng lao động trong nền kinh tế xã hội. Về quan điểm kinh tế học, mức độ việc làm của dân số có khả năng
lao động thể hiện, một mặt là đòi hỏi của kinh tế - xã hội đối với người lao
động, mặt khác là đòi hỏi của người lao động về chỗ làm việc. Nó được tính
theo hệ số phần trăm giữa tổng số dân cư đang hoạt động chuyên nghiệp với
số lượng tồn bộ dân số có khả năng lao động (nguồn nhân lực).
+ Tỉ lệ phân chia nguồn lao động xã hội theo lĩnh vực cơng ích xã hội.
Khi tính được hệ số việc làm bằng lao động chuyên nghiệp ta có thể xác định
được hệ số việc làm bởi việc học hành cũng như các dạng hoạt động công ích
xã hội khác. Điều đó cho phép làm rõ những tỉ lệ cần thiết.
+ Cấu trúc phân bố người lao động hợp lý theo ngành và theo khu vực
kinh tế. Chỉ tiêu này, thường được gọi là chỉ tiêu hợp lý, tỉ lệ phân chia tiềm
năng lao động theo dạng việc làm, ngành, khu vực kinh tế ...

+ Chỉ tiêu gắn với việc tối ưu hóa cấu trúc chun mơn nghề nghiệp
của người lao động, cho phép làm rõ sự phù hợp cấu trúc chuyên môn nghiệp
vụ của dân số lao động với cấu trúc chỗ làm việc, đồng thời cũng xác định hệ
thống đào tạo cán bộ là phù hợp với đòi hỏi của nền kinh tế.
Về hiệu quả việc làm có thể theo chỉ tiêu định mức thất nghiệp. Hiện
nay, ở phương Tây, việc làm đầy đủ và có hiệu quả đạt được khi có sẵn định


16
mức thất nghiệp tự nhiên. Định mức thất nghiệp tự nhiên là mức độ của nó
mà kiềm chế mức lương thực tế và giá cả không thay đổi với mức tăng trưởng
năng suất lao động bằng 0. Trong thực tế, định mức thất nghiệp được tính
bằng cách tính tổng thất nghiệp tạm thời và thất nghiệp cấu trúc. Phương pháp
đơn giản nhất để tính định mức thất nghiệp tự nhiên là tính theo mức độ của
nó trong điều kiện lạm phát ở mức vừa phải. Vì vậy, khơng nên đánh giá việc
làm đầy đủ và có hiệu quả chỉ theo một phương pháp, mà để nhận được thơng
tin chính xác thì nên sử dụng hệ thống các chỉ tiêu đã nêu trên.
- Việc làm hợp lý: là sự thỏa mãn nhu cầu làm việc cho bất cứ ai có khả
năng lao động trong nền kinh tế quốc dân và phù hợp với trình độ, nguyện
vọng của họ.
Việc làm hợp lý không những hàm chứa nội dung việc làm đầy đủ mà
cịn nói rõ việc làm đó phải phù hợp với khả năng và nguyện vọng của người
lao động. Việc làm hợp lý, do vậy có năng suất lao động và hiệu quả kinh tế xã hội cao hơn so với việc làm đầy đủ. Trong quá trình thực hiện việc làm đầy
đủ, cần từng bước, từng bộ phận thực hiện việc làm hợp lý. Việc làm hợp lý
phản ánh sự phù hợp về mặt số lượng và chất lượng của các yếu tố con người
với điều kiện vật chất của sản xuất và xã hội, hợp lý giữa lợi ích cá nhân
người lao động và lợi ích của xã hội.
Khái niệm việc làm đầy đủ và việc làm hợp lý cũng chỉ mang ý nghĩa
tương đối. Vì trong nền kinh tế thị trường có điều tiết thì việc làm đầy đủ và
việc làm hợp lý khơng có nghĩa là khơng có người thất nghiệp. Mục tiêu phấn

đấu của chúng ta là việc làm, tiến tới việc làm đầy đủ, việc làm hợp lý và tự
do lựa chọn việc làm.
- Việc làm chính: là cơng việc mà người thực hiện dành nhiều thời gian
nhất hoặc có thu nhập cao hơn so với các công việc khác. Như vậy, những
hoạt động lao động của con người mang lại nguồn thu nhập chính cho bản
thân và gia đình họ thì đó là việc làm chính. Hiện nay, các hoạt động lao động


17
được coi là việc làm chính, ví dụ những người lao động làm việc trong các
doanh nghiệp, các cơ quan đơn vị bởi vì thời gian và nguồn thu nhập của họ
lại chiếm cao hơn so với các công việc làm thêm ngoài giờ của họ. Mặc dù
hiện nay, vấn đề làm thêm giờ hoặc làm ở nhà do có cửa hàng của gia đình
nhưng số thời gian mà họ làm việc trong một ngày vẫn chiếm tỉ lệ cao hơn tại
các doanh nghiệp cơ quan.
Mặt khác, những hộ gia đình có cơ sở sản xuất kinh doanh dựa vào
nguồn sẵn có của mình để mở một cửa hiệu mà nguồn thu nhập lại phụ thuộc
rất lớn vào cửa hiệu thì khi đó, cơng việc mà họ làm tại cửa hàng đó cũng
được coi là việc làm chính.
- Việc làm phụ: là việc làm thêm theo nhu cầu hoặc mong muốn của
người lao động để kiếm thêm thu nhập ở một cơng sở khác hoặc là ngay tại
chính nơi mình đang làm việc. Việc làm phụ được xếp vào nhóm những công
việc kiêm nhiệm cả ở những công sở khác và cả ở nơi đang làm việc những
công việc dịch vụ vào những lúc nhàn rỗi; buôn bán lặt vặt ... Trong số nhiều
hình thức việc làm khác nhau thì việc làm phụ chiếm một vị trí đặc biệt. Nó
gắn với đặc thù bản chất việc làm và cả với tác động mà nó ảnh hưởng tới
hoạt động của thị trường lao động. Việc làm phụ là hình thức sử dụng lực
lượng lao động bổ sung vào hoạt động lao động, hay nói cụ thể là việc làm có
thu nhập thêm ở doanh nghiệp (công sở) khác hoặc là ngay tại nơi đang làm
việc, mà đang được sử dụng rộng rãi trên thế giới, trong đó có Việt Nam.

Việc làm thêm là nhu cầu chính đáng của người lao động để tăng thu
nhập trong điều kiện mức sống còn thấp như ở Việt Nam, đồng thời còn là
mong muốn thể hiện khả năng cạnh tranh của chính bản thân người lao động
trên thị trường lao động và cũng là một “cầu nối đặc biệt” đảm bảo thay thế
chỗ làm việc mới trong tương lai mà không phải trải qua thời kỳ thất nghiệp.
Hiện nay, việc làm thêm phổ biến ở một số ngành (như giáo dục, y tế…) và
hiện cũng đang có sự khác biệt quá lớn giữa tiền lương và thu nhập của một


18
bộ phận công chức dưới danh nghĩa thu nhập từ việc làm thêm, sự khác biệt
này đang có những ảnh hưởng rất tiêu cực đến tình hình kinh tế - xã hội nói
chung và sự phát triển đồng bộ thị trường lao động nói riêng.
Cùng với chính sách mới cho người lao động được tự do lựa chọn công
việc và nghề nghệp thì việc làm phụ là một biểu hiện hợp lý. Tuy nhiên, ở
Việt Nam, đang xuất hiện tiêu cực như: việc làm không đầy đủ, thu nhập của
người lao động thấp, tăng trưởng kinh tế chưa bền vững. Xét từ góc độ này thì
phát triển việc làm phụ rộng rãi chỉ là biểu hiện tạm thời và nó sẽ giảm khi
nền kinh tế - xã hội của đất nước phát triển ổn định.
- Việc làm không trọn ngày hay việc làm dở dang có đặc điểm cơng
việc trong chế độ thời gian làm việc không trọn ngày làm việc hoặc tuần làm
việc không đầy đủ, nghỉ phép bắt buộc không hưởng lương theo chủ động của
lãnh đạo công sở (doanh nghiệp) có thể được ấn định từ phía cơng ty, người th
lao động và thậm chí có thể từ sự thỏa thuận đồng ý của người lao động, đó là
việc làm khơng trọn ngày tự nguyện. Thời gian gần đây, cả chế độ này hay chế
độ kia đều được sử dụng rộng rãi ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển.
Đối với người lao động, việc làm khơng trọn ngày hồn tồn có thể
chấp nhận được trong hàng loạt các trường hợp: phụ nữ có con nhỏ, những
người lao động lớn tuổi, những người tàn tật, thanh niên vừa đi học, vừa đi
làm đều có lợi thế với loại hình việc làm này.

- Việc làm độc lập: là công việc độc lập theo chủ động cá nhân không
thu nhận lao động làm thuê khi sản xuất những hàng hóa tiêu dùng và các
dịch vụ khác nhau. Đồng thời, người lao động làm chủ những phương tiện sản
xuất nhất định và tự tổ chức công việc cho mình. Trong giới hạn nhất định
việc làm độc lập và tình thế phải chọn phương thức làm việc này khơng hồn
tồn thể hiện vai trị tích cực chủ động của loại công việc này.
- Việc làm tổng thể: là việc làm trong tất cả các lĩnh vực hoạt động lao
động, cả trong nền kinh tế của đất nước, cả trong các hệ thống giáo dục và


19
đào tạo chuyên nghiệp, trong dịch vụ quốc phòng, kinh tế gia đình, trong các
cơng sở, tơn giáo và trong cả các dạng khác hoạt động cơng ích xã hội.
- Việc làm linh hoạt (thời gian linh hoạt): là việc làm tồn tại dưới nhiều
dạng, hình thức phổ biến là khi người lao động thỏa thuận với người sử dụng
lao động có thể tự lựa chọn thời gian bắt đầu và kết thúc công việc, đồng thời
bắt buộc người lao động phải tuân theo chế độ ngày làm việc hoặc quỹ thời
gian theo tuần (tháng) đã qui định.
- Việc làm tạm thời: là những công việc theo hợp đồng hoặc là cơng
việc khốn. Các cơng ty quan tâm tới loại hình cơng việc này vì họ có thể tự
do thay đổi số lượng lao động làm thuê, giảm chi phí cho nhân viên bằng cách
trả lương tạm thời thấp hơn cho người đang làm việc, thay thế linh hoạt
những người thường xun vắng mặt vì lý do nào đó, tăng nhanh chóng số
người làm việc. Việc làm tạm thời được sử dụng rộng rãi trong các ngành
thương mại, dịch vụ và xây dựng.
- Việc làm theo thời vụ: là loại hình việc làm gắn với những cơng việc
theo thời vụ trong nông nghiệp, xây dựng, khai thác rừng, ở các khu nghỉ mát,
trong các ngành mía đường, đánh bắt hải sản và nhiều ngành khác với công
việc không đều trong năm. Với loại hình này phần thời gian cịn lại đáng kể
trong năm người lao động khơng có việc làm. Về bản chất nó là biến thể của

việc làm tạm thời, nhưng có điểm khác ở chỗ là việc làm thời vụ có thể lặp lại
hàng năm ở chỗ này hay chỗ khác.
- Việc làm khơng tiêu chuẩn hóa: là loại việc làm bao gồm rất nhiều
hình thức, một trong số đó là làm việc tại nhà, khi người lao động nhận
ngun vật liệu, máy móc, cơng cụ từ cơng ty rồi thường kỳ trao trả thành
phẩm hoặc bán thành phẩm. Khơng ít người quan tâm tới loại hình cơng việc
này, bởi vì chính họ tự xây dựng được thời gian, khối lượng cơng việc và có
thể kết hợp với việc khác như: chăm sóc con cái, vừa làm, vừa học thêm, làm
các việc lặt vặt trong gia đình. Mặt khác, cơng ty lại giảm được diện tích sản


20
xuất, tiết kiệm chi phí lương mà những người làm ở nhà thường được nhận ít
hơn những người làm chính.
Hình thức quan trọng của việc làm khơng tiêu chuẩn hóa là những công
việc xã hội, được tổ chức bởi các dịch vụ việc làm và chính quyền địa phương
dành riêng cho những người thất nghiệp. Đó là những cơng việc tạm thời ít cần
đến chun mơn như: thu dọn địa hạt, tham gia vào xây dựng đường giao thông ...
Như vậy, việc làm là một phạm trù kinh tế - xã hội, việc làm chịu sự chi
phối của nhiều mối quan hệ. Quan niệm đúng về việc làm là cơ sở khoa học
cho giải quyết việc làm.
1.1.1.2. Giải quyết việc làm, định hướng giải quyết việc làm cho
thanh niên hiện nay
- Quan niệm về giải quyết việc làm
Nghiên cứu việc làm có quan hệ chặt chẽ với vấn đề giải quyết việc
làm. Giải quyết việc làm có nhiều quan niệm khác nhau; có người cho rằng:
việc làm được tự do lựa chọn là sự đáp ứng tối ưu nhất nhu cầu về việc làm
cho người lao động, nó khơng những đưa lại thu nhập cao cho người lao động
mà còn đưa lại năng suất lao động cao cho xã hội. Việc làm được tự do lựa
chọn là sự kết hợp tối ưu sức lao động với các yếu tố khác của sản xuất.

Người lao động có thể lựa chọn cơng việc phù hợp với nhu cầu vật chất cũng
như năng lực sở trường để vừa đảm bảo thu nhập, vừa có điều kiện phát triển
phong phú đời sống tinh thần.
Có quan niệm lại cho rằng: Mục tiêu của giải quyết việc làm là phải tạo
ra việc làm đầy đủ cho người lao động và phải cao hơn; đó là tạo ra tự do
trong lựa chọn việc làm để triệt để giải phóng sức lao động và các nguồn lực
của xã hội.
Quan niệm khác lại cho rằng: Giải quyết việc làm là trách nhiệm của
toàn xã hội và người lao động nhằm cân bằng thị trường lao động, giúp người
lao động có việc làm, có thu nhập ổn định đáp ứng nhu cầu sinh tồn và phát


21
triển của người lao động, gia đình và xã hội. Quan niệm này cũng có sự đồng
nhất giữa quan điểm trên về vai trò, mục tiêu giải quyết việc làm, nhưng nó
chỉ rõ hơn chủ thể giải quyết việc làm và mục tiêu cụ thể của giải quyết việc
làm không chỉ là lợi ích của người lao động mà là lợi ích xã hội.
Văn kiện Đại hội X của Đảng đã nêu rõ “Giải quyết việc làm là yếu tố
quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm
lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của
nhân dân” [23]. Vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động là cần thiết,
không những mang tầm quốc gia mà vượt ra bên ngoài khu vực và thế giới.
Tùy thuộc vào các cách thức tiếp cận và mục đích nghiên cứu khác nhau mà
người ta đưa ra khái niệm về giải quyết việc làm:
Giải quyết việc làm là một q trình tạo ra mơi trường hình thành các
chỗ làm việc và sắp xếp người lao động phù hợp với chỗ làm việc để có các
việc làm chất lượng, đảm bảo nhu cầu của cả người lao động và người sử
dụng lao động, đồng thời đáp ứng được mục tiêu phát triển đất nước.
Với khái niệm trên, giải quyết việc làm không chỉ là nhiệm vụ chức
năng của nhà nước mà còn là trách nhiệm của xã hội, của các cơ quan doanh

nghiệp và ngay bản thân người lao động. Đồng thời, giải quyết việc làm là
nhằm tạo ra việc làm đầy đủ cho người lao động và cao hơn, đó là tạo ra sự tự
do trong lựa chọn việc làm để triệt để giải phóng sức lao động và các nguồn
lực của xã hội.
Như vậy, giải quyết việc làm thực chất là một q trình tác động có chủ
đích của chủ thể xã hội và người lao động nhằm giúp người lao động có việc
làm, việc làm đầy đủ, có thu nhập và phải hướng tới khơng ngừng nâng cao
chất lượng việc làm, thu nhập cao, ổn định để người lao động có cuộc sống
vật chất và tinh thần ngày càng cao.
Hiện nay, các chính sách của Nhà nước luôn quan tâm chú trọng đến
tạo công ăn việc làm cho người lao động thông qua các văn bản quy phạm


22
pháp luật, các chương trình, chính sách hỗ trợ tới tận hộ gia đình, các cá nhân
sẵn sàng làm việc. Chính vì vậy, chính sách nhà nước đã và đang có những tác
động quan trọng đến giải quyết việc làm cho người lao động như khuyến
khích các doanh nghiệp mở rộng sản xuất như giảm thuế tiền sử dụng đất,
thuê nhà xưởng, văn phòng, hỗ trợ về kết cấu hạ tầng điện, đường, trường,
trạm nhằm phục vụ cho các công trình sản xuất... Chính sách nhà nước tác
động tồn diện đến vấn đề giải quyết việc làm. Bên cạnh đó, các chương
trình, chiến lược phát triển, các hoạt động cụ thể của các doanh nghiệp tác
động trực tiếp đến giải quyết việc làm cho người lao động như đào tạo nguồn
lao động, tuyển dụng, bố trí sắp xếp lao động phù hợp năng lực và yêu cầu...
Trong khái niệm trên, giải quyết việc làm cịn có một ý nghĩa là tạo
thêm được công ăn việc làm mới cho người lao động. Ở đây là tạo thêm công
ăn việc làm mới cho người lao động mang tính chất là người lao động đang
khơng có việc làm chứ khơng phải là người lao động đang đi làm có thêm
việc làm khác nữa. Với quan niệm như vậy, thì giải quyết việc làm là tạo thêm
việc làm mới từ các cơ chế chính sách của nhà nước cũng như việc tuyển

dụng thêm lao động của các cơ quan, doanh nghiệp thông qua việc hình thành
mơi trường cho sự kết hợp các yếu tố sức lao động và tư liệu sản xuất. Nghĩa
là, thông qua cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư, để các chủ thể trong nền
kinh tế, các doanh nghiệp mở rộng hoạt động đầu tư, sản xuất nhằm tạo thêm
nơi làm việc mà người lao động có thể vận dụng sức lao động của mình mà
sản xuất của cải cho xã hội.
- Quan niệm giải quyết việc làm cho thanh niên
Trong thực tiễn phát triển và cơ cấu phân bổ lao động, thanh niên luôn là
lực lượng lao động quan trọng góp phần tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Thanh
niên ln giữ vai trị và vị trí quan trọng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội,
mặt khác thanh niên cũng là đối tượng cần được quan tâm giải quyết việc làm để
tạo thu nhập cho bản thân và góp phần tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Giải


23
quyết việc làm cho thanh niên là tạo cơ hội cho thanh niên tìm kiếm việc làm
phù hợp với đặc điểm độ tuổi, về sức khỏe, về kiến thức tay nghề đáp ứng yêu cầu
việc làm. Từ khái niệm chung về giải quyết việc làm và những phân tích trên có thể
thấy giải quyết việc làm cho thanh niên có thể được tiếp cận ở góc độ như sau:
- Giải quyết việc làm cho thanh niên là một quá trình tạo ra mơi trường
hình thành các chỗ làm việc và sắp xếp để thanh niên tìm được việc làm phù
hợp, làm việc một cách có chất lượng.
- Giải quyết việc làm cho thanh niên là quá trình tạo ra việc làm phát
huy và khai thác được các yếu tố như sức khỏe, tri thức, tính sáng tạo, tính
xung kích của thanh niên trong lao động tạo ra của cải vật chất, ổn định cuộc
sống cho thanh niên, góp phần vào sự phát triển và ổn định xã hội.
- Giải quyết việc làm cho thanh niên cũng chính là góp phần bồi dưỡng
nguồn nhân lực có chất lượng cao để phục vụ công cuộc CNH, HĐH, đồng
thời đáp ứng được mục tiêu phát triển đất nước.
- Định hướng giải quyết việc làm cho thanh niên hiện nay

Hiện nay, giải quyết việc làm cho thanh niên là mối quan tâm không chỉ
của Đoàn thanh niên mà là mối quan tâm của toàn xã hội, bởi đây là lực lượng
lao động có nhiệt huyết, có khả năng tiếp cận sự phát triển năng động của thời
đại, là lực lượng nòng cốt trong các lĩnh vực góp phần thực hiện thành cơng
các mục tiêu, chiến lược phát triển ....Theo đó, giải quyết việc làm cho thanh
niên có thể thực hiện theo những định hướng sau:
+ Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế theo hướng cơng nghiệp hố, hiện
đại hố; mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại nhằm tận dụng tối đa lợi thế so
sánh và nguồn lực đầu tư cho các ngành kinh tế để gia tăng việc làm mới.
+ Mở rộng mạng lưới dạy nghề, dạy nghề tại chỗ cho thanh niên; tiếp
tục đổi mới dạy nghề nhằm tăng quy mô, tăng tỷ lệ lao động qua đào tạo; mở
rộng cơ cấu ngành nghề, cơ cấu trình độ đào, tạo chuyển biến cơ bản về dạy
nghề, gắn dạy nghề với giải quyết việc làm.


24
+ Trang bị nhận thức đúng đắn cho thanh niên về tầm quan trọng của
học nghề, việc làm; nâng cao tính tích cực, chủ động của thanh niên trong
việc nâng cao trình độ nghề nghiệp; xây dựng định hướng nghề nghiệp đúng
đắn cho thanh niên.
+ Thực hiện tốt các chương trình quốc gia về việc làm và giải quyết
việc làm cho thanh niên; trong đó cần chú trọng và tập trung cho công tác dạy
nghề, hướng nghiệp và hỗ trợ tư vấn thanh niên lập nghiệp...
+ Phát triển hệ thống dịch vụ việc làm, tư vấn nghề nghiệp, tự tạo việc
làm, đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài. Từng bước xây dựng và hoàn
thiện đồng bộ các loại thị trường nhằm đáp ứng nhu cầu lao động.
1.1.2. Sự cần thiết của việc giải quyết việc làm cho
thanh niên hiện nay
Việc làm và giải quyết việc làm luôn là vấn đề then chốt trong tiến trình
phát triển kinh tế xã hội. Với mỗi quốc gia trên thế giới không phân biệt chế

độ chính trị - xã hội, trình độ phát triển, giải quyết việc làm cho người lao
động nói chung, thanh niên nói riêng quyết định đến sự phát triển bền vững,
bởi, giải quyết việc làm hiệu quả luôn gắn liền với sự phát triển bền vững của
mọi quốc gia, dân tộc trên toàn thế giới. Với những quốc gia có lực lượng dân
số trẻ, trong đó có Việt Nam, thì giải quyết việc làm cho thanh niên càng trở
nên cần thiết, sự cần thiết đó có thể khái quát trên các phương diện sau.
1.1.2.1. Giải quyết việc làm cho thanh niên xuất phát từ vị trí, vai trị
xung kích của thanh niên trong q trình phát triển đất
nước nói chung và trong q trình đẩy nhanh cơng
nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước hiện nay
Thanh niên Việt Nam chiếm ¼ dân số của đất nước - là lực lượng hết
sức quan trọng chống kẻ thù, bảo vệ Tổ quốc. Họ là lực lượng khỏe mạnh, có
nhiệt huyết, ước mơ hồi bão lớn, dám xơng pha vào khó khăn, gian khổ; dám
hy sinh vì lý tưởng sống cao đẹp. Lịch sử đấu tranh của dân tộc đã chứng


25
minh vị trí, vai trị của thanh niên đối với đất nước. Nhiều nhà khoa học, nhà
hoạt động chính trị, những người có thành tích xuất sắc trong lao động sản
xuất….đều có điểm xuất phát sự nghiệp của mình và gặt hái thành công trong
cuộc đời tự độ tuổi thanh niên.
Ngay từ giai đoạn đầu của cách mạng, Đảng và Nhà nước ta đã chú
trọng công tác vận động, giáo dục thanh niên trở thành các nhà yêu nước, nhà
cách mạng. Các cuộc vận động được tiến hành từng bước từ giáo dục lý tưởng
đến phân công, giao nhiệm vụ và xây dựng phong trào. Những lúc khó khăn,
cam go nhất đều xuất hiện những tấm gương thanh niên tiên tiến góp phần
quan trọng vào thành cơng của sự nghiệp cách mạng. Ngày nay, thanh niên
được đánh giá là lực lượng chủ yếu để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nghị quyết 25-NQ/TW ngày 25/7/2008 “Về tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác thanh niên trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH” đã

xác định vai trò, vị trí của thanh niên: Thanh niên là rường cột của nước nhà,
chủ nhân tương lai của đất nước, là lực lượng xung kích trong xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước, hội nhập quốc tế và xây dựng CNXH. Thanh
niên được đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược bồi dưỡng, phát huy nhân tố
và nguồn lực con người. Chăm lo, phát triển thanh niên vừa là mục tiêu, vừa
là động lực bảo đảm cho sự ổn định và phát triển bền vững của đất nước;
chăm lo, bồi dưỡng, giáo dục thanh niên thành lớp người “vừa hồng, vừa
chuyên” theo tư tưởng Hồ Chí Minh là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị
dưới sự chỉ đạo của Đảng, vai trị của Đồn TNCS Hồ Chí Minh, gia đình,
nhà trường và xã hội.
1.1.2.2. Thực trạng giải quyết việc làm cho thanh niên trong thời
gian vừa qua, đang đặt ra những hạn chế tồn tại cần khắc phục để giải
quyết hiệu quả việc làm cho thanh niên


×