1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhân lực là một nguồn lực quan trọng, quyết định quá trình sản xuất,
tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội. Garry Bechker - người Mỹ được
giải thưởng Nobel kinh tế năm 1992, khẳng định “khơng có đầu tư nào mang lại
nguồn lợi lớn như đầu tư vào nguồn nhân lực, đặc biệt là đầu tư cho giáo dục”
[39, tr.25]. Thế giới đang có xu hướng chuyển từ nền kinh tế dựa vào sự giàu có
của các nguồn tài nguyên sang kinh tế tri thức. Trong bối cảnh như vậy, nhân lực
càng trở thành động lực chủ yếu của sự phát triển nhanh và bền vững.
Đội ngũ công chức quản lý kinh tế là một bộ phận đặc thù, giữ vai trò
đặc biệt quan trọng trong nguồn nhân lực của quốc gia - đây là nhân tố quyết
định sự thành công hay thất bại trong công tác quản lý nhà nước về kinh tế.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Mọi việc thành công
hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém” và “Cán bộ là cái gốc của mọi cơng
việc”. Vận dụng tư tưởng đó của Người, trải qua các thời kỳ cách mạng, Đảng
và Nhà nước ta luôn đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng, phát triển đội ngũ
cán bộ, công chức nước nhà, trong đó có đội ngũ cơng chức quản lý kinh tế.
Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam đã hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế
giới và đang đẩy mạnh thực hiện cơng nghiệp hố, hiện đại hố gắn với phát
triển kinh tế tri thức, đòi hỏi chất lượng đội ngũ công chức quản lý kinh tế của
nước ta phải khơng ngừng tăng lên mới có thể đáp ứng yêu cầu phát triển kinh
tế - xã hội.
Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) tiến
hành tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khoá VIII) về
Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước
đã đánh giá:
Sau hơn 10 năm thực hiện Nghị quyết, đội ngũ cán bộ nước ta có
bước trưởng thành và tiến bộ về nhiều mặt, đã tích luỹ được nhiều
2
kinh nghiệm trong thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; là lực lượng nịng cốt cùng
tồn Đảng, tồn dân, toàn quân làm nên những thành tựu to lớn trong
công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Số đơng cán bộ giữ
vững được bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống lành mạnh,
gắn bó với nhân dân [1].
Bên cạnh những mặt đạt được, Hội nghị cũng chỉ ra những mặt hạn
chế của đội ngũ cán bộ và cơng tác cán bộ, đó là:
Chất lượng đội ngũ cán bộ còn những mặt yếu; cơ cấu đội ngũ cán
bộ vẫn mất cân đối, thiếu đồng bộ, chưa hợp lý; thiếu cán bộ lãnh
đạo, quản lý giỏi, cán bộ đầu ngành, cán bộ có trình độ cao, có khả
năng dự báo, xử lý tốt những vấn đề phức tạp nảy sinh... Thời gian
qua, việc thực hiện Chiến lược cán bộ mới tập trung nhiều vào đối
tượng cán bộ lãnh đạo, quản lý, chưa chú ý đúng mức, toàn diện đến
các đối tượng cán bộ khác [1].
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI (tháng 01/2011) đã đánh giá trong
nhiệm kỳ Đại hội X (2006 - 2010) chất lượng nguồn nhân lực vẫn là một điểm
yếu cản trở sự phát triển; năng lực, phẩm chất của một bộ phận cán bộ, đảng
viên, cơng chức, viên chức cịn hạn chế. Trên cơ sở đó, Đại hội đề ra mục
tiêu, nhiệm vụ của nhiệm kỳ 2011 - 2015 là:
Xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức trong sạch, có năng lực đáp
ứng yêu cầu của tình hình mới... Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức cả về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực lãnh
đạo, chỉ đạo, điều hành, quản lý nhà nước. Có chính sách đãi ngộ,
động viên, khuyến khích cán bộ, cơng chức hồn thành nhiệm vụ và
có cơ chế loại bỏ, bãi miễn những người khơng hồn thành nhiệm vụ,
vi phạm kỷ luật, mất uy tín với nhân dân [28].
Như vậy, việc xây dựng đội ngũ cơng chức nói chung và cơng chức
quản lý kinh tế nói riêng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ đẩy mạnh
3
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức là vấn đề
được Đảng, Nhà nước cũng như từng địa phương hết sức quan tâm.
Nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, tỉnh Bắc Ninh có nhiều lợi
thế về vị trí địa lý, đất đai, khí hậu, con người và các tiềm năng phát triển khác.
Từ khi tái lập tỉnh (01/01/1997) đến nay, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm
(GDP) hàng năm của tỉnh luôn đạt hai con số, giai đoạn 2006 - 2010 tăng bình
quân 15,1%/năm (riêng năm 2010 đạt 17,86%); cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo
hướng tích cực - nếu năm 2006 cơ cấu nông nghiệp là 21,31%, công nghiệp xây
dựng 49,51%, dịch vụ 29,18% thì đến năm 2010 cơ cấu là 10,45% - 59,68% 29,87%; tỉnh đã tự cân đối được thu chi ngân sách và tham gia vào nhóm các
tỉnh, thành phố nộp ngân sách về Trung ương. Mục tiêu mà Đại hội Đảng bộ tỉnh
Bắc Ninh lần thứ XVIII, nhiệm kỳ 2010 - 2015, đã đặt ra là “Phấn đấu đến năm
2015 Bắc Ninh cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại và là
thành phố trực thuộc Trung ương vào năm 2020” [29]. Để thực hiện được mục
tiêu to lớn đó, địi hỏi chất lượng đội ngũ công chức quản lý kinh tế của tỉnh phải
được nâng cao hơn rất nhiều, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quản lý nhà nước về
kinh tế của một tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại. Tuy nhiên, thực tế tại tỉnh
Bắc Ninh, tình trạng đội ngũ cơng chức quản lý kinh tế vừa thừa, vừa thiếu, một
bộ phận chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ; việc quy hoạch, đào tạo, sử dụng
còn một số bất cập. Để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh trong
những năm tới, thì vấn đề xây dựng đội ngũ công chức quản lý kinh tế là yêu
cầu cần thiết. Trên cơ sở đó, vấn đề “Xây dựng đội ngũ công chức quản lý
kinh tế của tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn hiện nay” được chọn làm đề tài
luận văn cao học kinh tế, chuyên ngành kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nói chung và cơng chức
quản lý kinh tế nói riêng là công tác cực kỳ quan trọng của Đảng và Nhà nước
ta. Để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, có rất nhiều nhà khoa học, nhà quản lý
thực hiện việc nghiên cứu cơng tác này. Có thể nói tới các cơng trình như:
4
- Cơng trình “Đánh giá, quy hoạch, ln chuyển cán bộ lãnh đạo, quản
lý trong thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hố” do PGS.TS. Trần Đình Hoan
chủ biên. Tác phẩm đã nêu lên và phân tích những vấn đề lý luận về đánh giá,
quy hoạch, luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý trong sự nghiệp cơng nghiệp
hố, hiện đại hố đất nước. Tác phẩm tiếp tục phân tích, đánh giá q trình
thực hiện cơng tác đánh giá, quy hoạch, luân chuyển cán bộ trong lịch sử
Đảng ta và thực trạng cơng tác này trong tình hình hiện nay. Cuối cùng, tác
phẩm đưa ra quan điểm, giải pháp đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả
công tác đánh giá, quy hoạch, luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ
cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
- Luận văn thạc sĩ Kinh tế chính trị “Đào tạo, bồi dưỡng công chức
trong nền kinh tế thị trường ở nước ta (qua thực tiễn ở thành phố Hà Nội)”
của Tạ Quang Ngải, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2006.
Luận văn cũng đã phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về đào tạo, bồi
dưỡng công chức trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. Tiếp đó, luận văn đi
khảo sát cụ thể cơng tác đào tạo, bồi dưỡng công chức ở thành phố Hà Nội từ
năm 1995 tới 2005, qua đó đánh giá những thành công và hạn chế của công
tác. Trên cơ sở lý luận và thực trạng công tác đào tạo bồi dưỡng công chức ở
thành phố Hà Nội, luận văn đã đưa ra những mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp
đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức ở thành phố Hà Nội nói
riêng và ở Việt Nam nói chung trong nền kinh tế thị trường.
- Luận văn thạc sĩ Kinh tế chính trị “Đội ngũ cơng chức trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội ở thành phố Hồ Chí Minh” của Lê Thị Thu Hà, Học
viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2010. Luận văn đã trình
bày một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công chức và đội ngũ cơng chức, cũng
như vai trị của đội ngũ cơng chức trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở
thành phố Hồ Chí Minh; Tiếp đó, luận văn đã khảo sát, phân tích, đánh giá vai trị
của đội ngũ cơng chức ở thành phố Hồ Chí Minh, những mặt thành công, hạn chế
và những vấn đề đặt ra trong những năm tới để phát triển kinh tế - xã hội, đẩy
5
mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố gắn với phát triển kinh tế tri thức. Trên cơ sở
đó, luận văn đưa ra các giải pháp đẩy mạnh công tác quy hoạch, đào tạo, bồi
dưỡng nhằm xây dựng đội ngũ công chức đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã
hội ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
Cũng đã có một số cơng trình nghiên cứu về vấn đề nguồn nhân lực có
liên quan đến tỉnh Bắc Ninh, như:
- Luận văn thạc sĩ Kinh tế chính trị “Nguồn nhân lực trong q trình
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nông thôn tỉnh Bắc Ninh” của
Nguyễn Ngọc Tú, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2006.
- Luận văn thạc sĩ Kinh tế chính trị “Nguồn nhân lực cho q trình cải
cách và hiện đại hóa ngành thuế tỉnh Bắc Ninh” của Nguyễn Thế Bắc, Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2007.
- Luận văn thạc sĩ Kinh tế phát triển “Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bắc
Ninh trong giai đoạn hiện nay” của Nguyễn Thị Lân, Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2010.
Ngồi ra cịn nhiều đề tài nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn như:
- Luận án tiến sĩ Kinh tế: "Quy hoạch, đào tạo và sử dụng đội ngũ cán
bộ, công chức quản lý nhà nước về kinh tế tỉnh Đồng Nai" của Vy Văn Vũ,
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2005.
- Luận văn thạc sĩ Kinh tế: "Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà
nước về kinh tế cấp tỉnh của Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay" của Nguyễn
Anh Ngọc, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2008.
- Luận văn thạc sĩ Kinh tế: "Giải pháp xây dựng đội ngũ công chức quản lý
nhà nước về kinh tế cấp tỉnh ở Phú Thọ hiện nay" của Hồng Quang Trung,
Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2009.
Công tác xây dựng đội ngũ công chức là đề tài được các nhà khoa học
cũng như các nhà quản lý quan tâm nhiều, cả trên phạm vi Trung ương hay
phạm vi từng địa phương. Tuy nhiên, khơng có cơng trình nào trùng lắp với
đề tài “Xây dựng đội ngũ công chức quản lý kinh tế của tỉnh Bắc Ninh
trong giai đoạn hiện nay”.
6
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Luận văn tập trung hướng tới tìm ra những giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng đội ngũ công chức quản lý kinh tế đáp ứng yêu cầu phát triển kinh
tế - xã hội ở tỉnh Bắc Ninh đến năm 2015.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Một là: Trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng đội ngũ
công chức quản lý kinh tế trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của một
địa phương nước ta trong bối cảnh hiện nay.
Hai là: Khảo sát, phân tích, đánh giá q trình xây dựng đội ngũ công
chức quản lý kinh tế ở tỉnh Bắc Ninh thời gian qua.
Ba là: Trên cơ sở những chủ trương, định hướng đã được xác lập, luận
văn xây dựng một hệ thống giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác xây dựng đội
ngũ công chức quản lý kinh tế đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội ở
tỉnh Bắc Ninh đến năm 2015.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu công tác xây dựng đội ngũ công chức các cơ quan
quản lý nhà nước về kinh tế cấp tỉnh và cấp huyện thuộc tỉnh Bắc Ninh trong
quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu quá trình xây dựng đội ngũ công chức
quản lý kinh tế ở tỉnh Bắc Ninh từ năm 2006 đến nay, bên cạnh đó có tham
khảo kinh nghiệm của một số tỉnh, thành phố khác.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước ta về tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, cơng chức nói chung và cơng chức quản lý kinh tế nói riêng.
7
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận mác xít, luận văn sử dụng các phương
pháp nghiên cứu chủ yếu của khoa học kinh tế chính trị như:
- Phương pháp trừu tượng hoá khoa học,
- Phương pháp phân tích - tổng hợp,
- Phương pháp lơgíc kết hợp với lịch sử.
Ngoài ra luận văn cũng sử dụng một số phương pháp của Xã hội học,
Thống kê.
6. Đóng góp về mặt khoa học của luận văn
- Góp phần hệ thống hóa và làm rõ thêm cơ sở lý luận, thực tiễn của
công tác xây dựng đội ngũ công chức quản lý kinh tế ở nước ta hiện nay;
- Phân tích, đánh giá thực trạng công tác xây dựng đội ngũ công chức
quản lý kinh tế ở tỉnh Bắc Ninh;
- Đề xuất những giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác xây dựng đội ngũ
công chức quản lý kinh tế trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bắc
Ninh đến năm 2015.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 3 chương, 10 tiết.
8
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ
CÔNG CHỨC QUẢN LÝ KINH TẾ Ở ĐỊA PHƯƠNG
1.1. KHÁI QUÁT VỀ CÔNG CHỨC QUẢN LÝ KINH TẾ Ở ĐỊA PHƯƠNG
1.1.1. Khái niệm công chức quản lý kinh tế ở địa phương
1.1.1.1. Quan niệm về công chức
Công chức là thuật ngữ chỉ những người được các cơ quan nhà nước
tuyển dụng, bổ nhiệm vào làm việc thường xuyên trong các cơ quan công
quyền và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Tất cả các nhà nước trên thế
giới đều xây dựng đội ngũ cơng chức của mình có khả năng và điều kiện để
đảm nhiệm các công việc của nhà nước đó [31]. Cơng chức là một trong
những bộ phận quan trọng của bộ máy nhà nước, là nhân tố bảo đảm cho việc
thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Trên thế giới
chế độ công chức đã ra đời từ hàng trăm năm nay. Tuy nhiên, do điều kiện
kinh tế, văn hoá, lịch sử, xã hội của mỗi quốc gia, lãnh thổ khác nhau nên
quan niệm về công chức cũng không giống nhau.
Tại Canada người ta quan niệm công chức là những người được tuyển
dụng, để thực thi công vụ trong bộ máy hành chính nhà nước, khơng bao hàm
những viên chức làm việc trong các đơn vị sự nghiệp, tổ chức dịch vụ cơng.
Cịn ở Pháp họ lại quan niệm cơng chức là những người được tuyển
dụng bổ nhiệm vào làm việc tại các cơng sở, cơ quan hành chính và các tổ
chức dịch vụ công do nhà nước thành lập từ trung ương tới địa phương, được
gọi là công chức theo chức nghiệp.
Ở Nhật Bản, công chức được chia thành hai loại, loại thứ nhất là những
người làm việc tại trung ương, bao gồm trong các cơ quan chính phủ, cơ quan
tư pháp, cơ quan quốc hội, quân đội được hưởng lương từ ngân sách trung
ương. Loại thứ hai là công chức làm việc trong các cơ quan địa phương được
hưởng lương từ ngân sách địa phương.
9
Tuy những quan niệm về công chức của các quốc gia trên có những
điểm khác nhau, nhưng nhìn chung chúng thống nhất với nhau mấy điểm:
- Công chức là người được tuyển dụng hay bổ nhiệm;
- Công chức được giao, giữ một công việc thường xuyên;
- Công chức được xếp vào một ngạch, bậc nhất định trong hệ thống
thang ngạch, bậc công chức;
- Công chức được hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Ở Việt Nam, từ sau Cách mạng tháng Tám đến nay, quan niệm về công
chức ở từng giai đoạn cũng khác nhau. Ngày 20/05/1950, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã ban hành Sắc lệnh 76/SL về thực hiện quy chế công chức. Điều đầu
tiên của Sắc lệnh chỉ rõ: cơng chức là “những cơng dân Việt Nam được chính
quyền nhân dân tuyển để giữ một chức vụ thường xuyên trong cơ quan Chính
phủ. Ở trong hay ngồi nước đều là công chức theo quy chế này, trừ trường
hợp riêng biệt do Chính phủ quy định” [11].
Sau năm 1954, miền Bắc được giải phóng, thực hiện cơng cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục tiến hành công cuộc cách mạng
giải phóng dân tộc thống nhất đất nước. Thời kỳ này tuy khơng có văn bản
nào bãi bỏ Sắc lệnh SL/76 mà Hồ Chủ tịch đã ký trước đó về Quy chế cơng
chức Việt Nam, nhưng lúc này, thuật ngữ công chức lại được thay thế bằng thuật
ngữ cán bộ, công nhân, viên chức. Cán bộ ở đây được hiểu là những người được
Nhà nước tuyển dụng trong biên chế có bậc lương từ cán sự 1 trở lên thực hiện
các công việc do Nhà nước giao, hưởng lương từ ngân sách Nhà nước và làm
việc trong các cơ quan Nhà nước, cơ quan Đảng, đồn thể chính trị - xã hội,
qn đội, cơng an, chính quyền cơ sở, các doanh nghiệp Nhà nước.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (1991), trong chiến lược phát triển
và ổn định kinh tế - xã hội đã chỉ rõ: “Đổi mới căn bản công tác cán bộ phù
hợp với cơ chế mới. Phân định rõ cán bộ dân cử hoạt động theo nhiệm kỳ với
công chức, viên chức chuyên nghiệp và cán bộ công nhân, nhân viên các đơn
vị sản xuất kinh doanh” [25]. Trên cơ sở quan điểm đó, ngày 25/05/1991, Hội
10
đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Nghị định 169/HĐBT, quy
định về công chức Nhà nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam là “cơng
dân Việt Nam được tuyển dụng và bổ nhiệm giữ một công vụ thường xuyên
trong một công sở Nhà nước ở trung ương, địa phương, ở trong nước hay
ngoài nước đã được xếp vào một ngạch, hưởng lương do ngân sách Nhà nước
cấp gọi là công chức” [12].
Như vậy, Nghị định 169/HĐBT đã xác định công chức là:
- Những người làm việc trong cơ quan hành chính Nhà nước ở Trung
ương, tỉnh huyện và cấp tương đương;
- Những người được tuyển dụng và bổ nhiệm giữ một công vụ thường
xuyên trong Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chủ tịch nước và Văn phòng
Hội đồng nhân dân các cấp;
- Những người được tuyển dụng và bổ nhiệm giữ một công vụ thường
xuyên trong cơ quan toà án, viện kiểm sát;
- Những người làm việc tại Đại sứ quán, Tổng lãnh sự quán Việt Nam ở
nước ngoài;
- Những người làm việc trong trường học, bệnh viện, cơ quan nghiên
cứu khoa học, cơ quan báo chí, phát thanh, truyền hình của Nhà nước và nhận
lương từ ngân sách nhà nước;
- Nhân viên dân sự làm việc trong cơ quan Bộ Quốc phịng, Bộ Cơng an.
Trên tinh thần của Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII và sự chỉ đạo
của Bộ Chính trị, ngày 26/02/1998, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ban hành
Pháp lệnh Cán bộ, công chức. Theo Điều 1 của Pháp lệnh, cán bộ, công chức
được xác định là công dân Việt Nam, trong biên chế, hưởng lương từ ngân
sách Nhà nước, bao gồm:
1. Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ
trong cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội.
2. Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm
vụ thường xuyên làm việc trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội.
11
3. Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao giữ
một công vụ thường xuyên, được phân loại theo trình độ đào tạo,
ngành chun mơn, được xếp vào ngạch hành chính, sự nghiệp trong
cơ quan nhà nước, mỗi ngạch thể hiện chức vụ và cấp, về chuyên
môn nghiệp vụ có chức danh tiêu chuẩn riêng.
4. Thẩm phán Tồ án nhân dân, kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân.
5. Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm
vụ thường xuyên làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc quân đội
nhân dân mà không phải là sĩ quan, qn nhân chun nghiệp, cơng
nhân quốc phịng; làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc công an
nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp[43].
Cụ thể hố Pháp lệnh cán bộ, cơng chức, Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 95/1998/NĐ-CP. Xác định công chức là:
1. Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm, hoặc giao giữ một
công vụ, nhiệm vụ thường xuyên được phân loại theo trình độ đào
tạo, ngành chun mơn, được xếp vào một ngạch hành chính, sự
nghiệp làm việc trong các cơ quan sau đây:
a- Văn phòng Chủ tịch nước;
b- Văn phịng Quốc hội;
c- Cơ quan hành chính nhà nước ở Trung ương, ở tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương, huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh;
d- Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân các cấp;
đ- Cơ quan đại diện nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở
nước ngoài;
e- Trường học, bệnh viện, cơ quan nghiên cứu khoa học của nhà nước;
g- Cơ quan phát hành báo chí truyền hình của nhà nước;
h- Thư viện, bảo tàng, nhà văn hoá của nhà nước;
i- Các tổ chức sự nghiệp khác của nhà nước.
2. Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm
vụ thường xuyên làm việc trong các cơ quan thuộc đơn vị quân đội
12
nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chun nghiệp, cơng
nhân quốc phịng; làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc công an
nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp [13].
Đến năm 2003, theo yêu cầu cải cách bộ máy và cán bộ, công chức cho
phù hợp với điều kiện mới, ngày 29/4/2003 Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã
ban hành Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Cán bộ, cơng
chức năm 1998. Trong đó, quy định: cán bộ, công chức là những công dân
Việt Nam trong biên chế, bao gồm:
a) Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ
trong cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội
ở Trung ương; ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi
chung là cấp tỉnh); ở quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau
đây gọi chung là cấp huyện);
b) Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm
vụ thường xuyên làm việc trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện;
c) Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch công
chức hoặc giao giữ một công vụ thường xuyên trong các cơ quan
nhà nước ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện;
d) Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch viên
chức hoặc giao giữ một nhiệm vụ thường xuyên trong đơn vị sự
nghiệp của Nhà nước, tổ chức chính trị và tổ chức chính trị - xã hội;
đ) Thẩm phán Tồ án nhân dân, Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân;
e) Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm
vụ thường xuyên làm việc trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội
nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chun nghiệp, cơng
nhân quốc phịng; làm việc trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an
nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sỹ quan chuyên nghiệp;
g) Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ
trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân; Bí thư,
13
phó bí thư Đảng uỷ; người đứng đầu tổ chức chính trị- xã hội xã,
phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã);
h) Những người được tuyển dụng, giao giữ một chức danh chuyên
môn nghiệp vụ thuộc Uỷ ban nhân dân cấp xã [44].
Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 2003 đã phân biệt công chức với
viên chức. Cụ thể hóa Pháp lệnh, ngày 10/10/2003 Chính phủ ban hành Nghị
định số 117/2003/NĐ-CP quy định về tuyển dụng, sử dụng, quản lý cán bộ,
công chức trong các cơ quan nhà nước. Theo đó, cơng chức là cơng dân Việt
Nam, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước, làm việc trong
các cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội sau đây:
• Văn phịng Quốc hội;
• Văn phịng Chủ tịch nước;
• Các cơ quan hành chính nhà nước ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp
huyện;
• Tịa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân các cấp;
• Cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở
nước ngồi;
• Đơn vị thuộc Qn đội Nhân dân và Cơng an Nhân dân;
• Bộ máy giúp việc thuộc tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã
hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện [15].
Năm 2008, Quốc hội nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam chính
thức ban hành Luật Cán bộ, cơng chức (có hiệu lực thi hành kể từ ngày
01/01/2010). Tại Điều 4 Luật Cán bộ, công chức năm 2008 quy định:
1. Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm
giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung
ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là
cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi
14
chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách
nhà nước.
2. Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào
ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp
huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không
phải là sỹ quan, quân nhân chun nghiệp, cơng nhân quốc phịng:
trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sỹ
quan, hạ sỹ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý
của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự
nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà
nước: đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị
sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị
sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.
3. Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công
dân Việt Nam, được bầu cữ giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong
Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí
thư Đảng uỷ, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội; công chức
cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh
chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Uỷ ban nhân dân cấp xã, trong biên
chế và hưởng lương ngân sách nhà nước [34].
Như vậy, theo Khoản 2, Điều 4 của Luật Cán bộ, công chức năm 2008,
khái niệm công chức lại được phân biệt với khái niệm cán bộ. Công chức ở
đây bao gồm: Công chức trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, tổ
chức chính trị - xã hội; cơng chức trong cơ quan nhà nước; công chức trong
bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập; công chức trong cơ
quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sỹ quan, quân nhân
chuyên nghiệp, công nhân quốc phịng; cơng chức trong cơ quan, đơn vị
thuộc Cơng an nhân dân mà không phải là sỹ quan, hạ sỹ quan chuyên nghiệp.
15
Thi hành Luật Cán bộ, cơng chức, ngày 25/01/2010 Chính phủ ban
hành Nghị định số 06/2010/NĐ-CP quy định những người là cơng chức. Theo
đó, cơng chức là cơng dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch,
chức vụ, chức danh, trong biên chế, hưởng lương từ ngân sách nhà nước hoặc
được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của
pháp luật, làm việc trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị sau đây:
Công chức trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam:
1. Ở Trung ương:
a) Người giữ chức vụ, chức danh cấp phó, trợ lý, thư ký của người
đứng đầu và người làm việc trong văn phòng, cục, vụ, cơ quan thường trực tại
thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Đà Nẵng của Văn phòng Trung ương
Đảng, cơ quan Ủy ban Kiểm tra Trung ương và các Ban Đảng ở Trung ương;
b) Người giữ chức vụ, chức danh người đứng đầu, cấp phó của người
đứng đầu và người làm việc trong văn phòng, cơ quan ủy ban kiểm tra, các
ban của Đảng ủy khối và Đảng ủy ngoài nước trực thuộc Ban Chấp hành
Trung ương Đảng;
c) Người làm việc trong bộ phận giúp việc của cơ quan, tổ chức do Bộ
Chính trị, Ban Bí thư, cơ quan do Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết
định thành lập.
2. Ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương:
a) Người giữ chức vụ, chức danh người đứng đầu, cấp phó của người
đứng đầu và người làm việc trong văn phòng, cơ quan ủy ban kiểm tra, các
ban của tỉnh ủy, thành ủy;
b) Người giữ chức vụ, chức danh người đứng đầu, cấp phó của người
đứng đầu và người làm việc trong văn phòng, cơ quan ủy ban kiểm tra, các
ban của Đảng ủy khối trực thuộc tỉnh ủy, thành ủy;
c) Người làm việc chuyên trách trong văn phòng, ban tổ chức, ban
tuyên giáo, cơ quan ủy ban kiểm tra của Đảng ủy cơ sở được giao quyền cấp
trên cơ sở trực thuộc tỉnh ủy, thành ủy.
16
3. Ở quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh:
Người giữ chức vụ, chức danh người đứng đầu, cấp phó của người
đứng đầu và người làm việc trong văn phòng, cơ quan ủy ban kiểm tra, các
ban của huyện ủy, quận ủy, thị ủy, thành ủy thuộc tỉnh.
Công chức trong Văn phịng Chủ tịch nước, Văn phịng Quốc hội, Kiểm
tốn Nhà nước:
Phó Chủ nhiệm Văn phịng Chủ tịch nước, Phó Chủ nhiệm Văn phịng Quốc
hội, Phó Tổng kiểm tốn Nhà nước; người giữ chức vụ cấp trưởng, cấp phó và
người làm việc trong các tổ chức không phải là đơn vị sự nghiệp công lập.
Công chức trong Bộ, cơ quan ngang Bộ và các tổ chức khác do Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ thành lập:
1. Thứ trưởng và người giữ chức danh, chức vụ tương đương; người
giữ chức vụ cấp trưởng, cấp phó và người làm việc trong văn phịng, vụ,
thanh tra và tổ chức khác không phải là đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Bộ,
cơ quan ngang Bộ.
2. Tổng cục trưởng và tương đương, Phó Tổng cục trưởng và tương
đương, người giữ chức vụ cấp trưởng, cấp phó và người làm việc trong văn
phòng, vụ, thanh tra thuộc Tổng cục và tương đương.
3. Cục trưởng, Phó Cục trưởng, người giữ chức vụ cấp trưởng, cấp phó
và người làm việc trong văn phòng, phòng, thanh tra, chi cục thuộc Cục.
4. Người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu và người làm việc
trong các tổ chức do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ thành lập mà khơng
phải là đơn vị sự nghiệp công lập.
Công chức trong cơ quan hành chính ở cấp tỉnh, cấp huyện:
1. Ở cấp tỉnh:
a) Chánh văn phịng, Phó Chánh văn phịng, người giữ chức vụ cấp
trưởng, cấp phó và người làm việc trong cơ cấu tổ chức của Văn phịng Đồn
đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân, Văn phòng Ủy ban nhân dân;
b) Người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan chuyên môn
thuộc Ủy ban nhân dân; người giữ chức vụ cấp trưởng, cấp phó và người làm
17
việc trong các tổ chức không phải là đơn vị sự nghiệp công lập thuộc cơ cấu
tổ chức của cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân;
c) Trưởng ban, Phó Trưởng ban, người giữ chức vụ cấp trưởng, cấp phó
và người làm việc trong các tổ chức khơng phải là đơn vị sự nghiệp công lập
thuộc cơ cấu tổ chức của Ban Quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu
kinh tế thuộc Ủy ban nhân dân.
2. Ở cấp huyện:
a) Chánh văn phịng, Phó Chánh văn phịng và người làm việc trong
Văn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân;
b) Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận, huyện, Chánh văn
phịng, Phó Chánh văn phịng và người làm việc trong văn phòng Ủy ban
nhân dân quận, huyện nơi thí điểm khơng tổ chức Hội đồng nhân dân;
c) Người giữ chức vụ cấp trưởng, cấp phó và người làm việc trong cơ
quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân.
Cơng chức trong hệ thống Tịa án nhân dân:
1. Phó Chánh án Tịa án nhân dân tối cao; Chánh án, Phó Chánh án các
tịa và tịa chun trách; Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; thư ký tòa án;
người làm việc trong văn phòng, vụ, ban và các tòa, tòa chuyên trách thuộc
Tòa án nhân dân tối cao;
2. Chánh án, Phó Chánh án Tịa án nhân dân cấp tỉnh; Chánh án, Phó
Chánh án các tịa chun trách; Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh; thư ký
tòa án; người làm việc trong văn phòng, phòng, ban và Tòa chuyên trách
thuộc Tòa án nhân dân cấp tỉnh;
3. Chánh án, Phó Chánh án Tịa án nhân dân cấp huyện; Thẩm phán tòa
án nhân dân cấp huyện; thư ký tòa án; người làm việc trong tịa án nhân dân
cấp huyện.
Cơng chức trong hệ thống Viện Kiểm sát nhân dân:
1. Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; kiểm sát viên, điều
tra viên; người làm việc trong văn phòng, vụ, cục, ban và Viện nghiệp vụ
thuộc Viện Kiểm sát nhân dân tối cao;
18
2. Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân cấp tỉnh; kiểm
sát viên, điều tra viên; người làm việc trong văn phòng, phòng thuộc Viện
Kiểm sát nhân dân cấp tỉnh;
3. Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện;
kiểm sát viên, điều tra viên và người làm việc trong Viện Kiểm sát nhân dân
cấp huyện.
Công chức trong cơ quan của tổ chức chính trị - xã hội:
1. Ở Trung ương:
a) Chánh văn phịng, Phó Chánh văn phịng, Trưởng ban, Phó Trưởng
ban và người làm việc trong văn phòng, ban thuộc cơ cấu tổ chức ở Trung
ương của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng Liên đồn Lao động Việt Nam,
Hội Nơng dân Việt Nam, Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên
hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam (sau đây gọi là tổ chức
chính trị - xã hội);
b) Người làm việc trong bộ phận giúp việc của Ủy ban thuộc tổ chức
chính trị - xã hội.
2. Ở cấp tỉnh
Chánh văn phịng, Phó Chánh văn phịng, Trưởng ban, Phó Trưởng ban
và người làm việc trong văn phòng, ban thuộc cơ cấu tổ chức của tổ chức
chính trị - xã hội và tổ chức tương đương.
3. Ở cấp huyện
Người làm việc trong cơ quan của các tổ chức chính trị - xã hội và tổ
chức tương đương.
4. Công chức quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này không bao gồm
người đang hưởng lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng theo quy
định của Luật Bảo hiểm xã hội.
Công chức trong cơ quan, đơn vị của Quân đội nhân dân và Công an
nhân dân:
Người làm việc trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà
không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng;
19
trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ
quan chuyên nghiệp.
Công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý đơn vị sự nghiệp công lập:
1. Đơn vị sự nghiệp công lập nói tại Nghị định này là các tổ chức được
cơ quan có thẩm quyền của Đảng, cơ quan Nhà nước và tổ chức chính trị - xã
hội thành lập và quản lý theo quy định của pháp luật, có tư cách pháp nhân,
con dấu, tài khoản, hoạt động trong các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, y tế, nghiên
cứu khoa học, văn hóa, thể dục thể thao, du lịch, lao động - thương binh và xã hội,
thông tin truyền thông và các lĩnh vực sự nghiệp khác được pháp luật quy định.
2. Người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu; người giữ chức vụ
cấp trưởng, cấp phó tổ chức của đơn vị sự nghiệp cơng lập thuộc Bộ Chính
trị, Ban Bí thư, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ.
3. Người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công
lập được ngân sách nhà nước cấp kinh phí hoạt động thuộc các Ban và cơ
quan tương đương của Trung ương Đảng, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn
phịng Quốc hội, Kiểm tốn Nhà nước, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa
án nhân dân tối cao, cơ quan Trung ương các tổ chức chính trị - xã hội, Bộ, cơ
quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
4. Người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập được ngân sách nhà nước
cấp kinh phí hoạt động thuộc Tổng cục, Cục và tương đương trực thuộc Bộ, cơ
quan ngang Bộ; tỉnh ủy, thành ủy; Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; tổ chức chính trị xã hội cấp tỉnh; huyện ủy, quận ủy, thị ủy, thành ủy thuộc tỉnh ủy; cơ quan
chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban
nhân dân cấp huyện.
5. Người giữ các vị trí việc làm gắn với nhiệm vụ quản lý nhà nước
trong đơn vị sự nghiệp công lập được giao thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà
nước [18].
Như vậy có thể thấy, khái niệm cơng chức là một khái niệm có nhiều
cách hiểu giữa các quốc gia và ngay ở nước ta nó cũng được hiểu khơng
20
giống nhau qua các thời kỳ. Tuy nhiên, trong phạm vi luận văn này, tác giả sử
dụng khái niệm công chức mà Luật Cán bộ, công chức năm 2008 của Việt
Nam quy định làm đối tượng nghiên cứu. Tuy nhiên, có những chỗ, tác giả
vẫn sử dụng cả hai khái niệm cán bộ và công chức để diễn đạt, do lịch sử vấn
đề thời điểm đó diễn đạt như vậy hay do một số vấn đề phải dùng cả khái
niệm cán bộ để diễn đạt mới dễ hiểu và hợp lý (như công tác cán bộ chứ
không diễn đạt là công tác công chức).
1.1.1.2. Công chức quản lý kinh tế
Quản lý nhà nước về kinh tế là sự tác động của các cơ quan quản lý nhà
nước có chức năng, thẩm quyền nhất định đối với các quá trình kinh tế, các
đơn vị kinh tế cơ sở, các ngành, địa phương, vùng kinh tế cũng như toàn bộ
nền kinh tế quốc dân thơng qua pháp luật, chính sách, cơng cụ, lực lượng vật
chất và tài chính, ở tất cả các lĩnh vực, các thành phần kinh tế nhằm đạt mục
tiêu định trước. Trong xu thế mới hiện nay, vai trò quản lý của nhà nước ngày
càng quan trọng. Song, vai trị đó có được phát huy hay khơng lại tùy thuộc
vào đội ngũ công chức trong các cơ quan Quản lý kinh tế.
Như vậy có thể hiểu: Cơng chức quản lý kinh tế là công chức làm việc
trong bộ máy Quản lý kinh tế thực hiện một hoặc một số chức năng nhất định.
Đó chính là một bộ phận của đội ngũ công chức quản lý nhà nước ở lĩnh vực
công tác là Quản lý kinh tế.
1.1.1.3. Công chức quản lý kinh tế ở địa phương
Công chức quản lý kinh tế ở địa phương bao gồm công chức trong các
cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế ở cấp tỉnh và cấp huyện.
Ở cấp tỉnh gồm công chức làm việc trong các các cơ quan: Văn phòng
UBND tỉnh, Sở Tài chính, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Cơng Thương, Sở
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Xây dựng, Sở Giao thông vận tải,
Ban Quản lý các khu công nghiệp, Thanh tra tỉnh.
Ở cấp huyện gồm công chức làm việc trong các cơ quan: Văn phòng
HĐND và UBND cấp huyện, Phịng Tài chính-Kế hoạch, Phịng Cơng
21
Thương (ở huyện) hoặc Phịng Quản lý đơ thị (ở thị xã, thành phố thuộc tỉnh),
Phịng Nơng nghiệp và Phát triển nơng thơn (ở huyện) hoặc Phịng Kinh tế (ở
thị xã, thành phố thuộc tỉnh), Thanh tra huyện.
1.1.2. Phân loại công chức quản lý kinh tế
Đội ngũ công chức quản lý kinh tế có thể phân loại theo những tiêu chí
khác nhau tuỳ thuộc vào căn cứ, đặc điểm và mục đích nghiên cứu:
Theo Luật Cán bộ, cơng chức năm 2008, công chức được phân loại
theo ngạch được bổ nhiệm và theo vị trí cơng tác:
Căn cứ vào ngạch được bổ nhiệm, công chức được phân loại như sau:
a) Loại A gồm những người được bổ nhiệm vào ngạch chuyên viên
cao cấp hoặc tương đương;
b) Loại B gồm những người được bổ nhiệm vào ngạch chuyên viên
chính hoặc tương đương;
c) Loại C gồm những người được bổ nhiệm vào ngạch chuyên viên
hoặc tương đương;
d) Loại D gồm những người được bổ nhiệm vào ngạch cán sự hoặc
tương đương và ngạch nhân viên [34].
Căn cứ vào vị trí cơng tác, cơng chức được phân loại như sau:
a) Công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý;
b) Công chức không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý [34].
Dựa vào vị trí, tầm quan trọng của đội ngũ công chức quản lý kinh tế,
người ta chia đội ngũ này thành 3 nhóm:
- Nhóm các nhà hoạch định chính sách kinh tế, là những người quyết
định chính sách, biện pháp lớn về kinh tế, trực tiếp sử dụng những công cụ
quản lý, điều tiết sự vận động của nền kinh tế.
- Nhóm những chuyên gia phân tích kinh tế chuyên sâu trên từng lĩnh
vực cụ thể, có khả năng đưa đến những phương án hoặc từng mảng cho các
quyết định về chính sách.
- Nhóm các nhân viên nghiệp vụ, giúp việc về mặt kỹ thuật quản lý
như: kỹ thuật viên máy tính, thư ký, quản trị văn phòng,…Đây là những
22
người trực tiếp chuẩn bị các tài liệu, thông tin phục vụ cho các chuyên gia và
các nhà quyết định chính sách.
Dựa vào việc phân cấp quản lý, đội ngũ này được chia thành 4 loại:
- Công chức quản lý kinh tế cấp trung ương…
- Công chức quản lý kinh tế cấp tỉnh…
- Công chức quản lý kinh tế cấp huyện…
- Công chức quản lý kinh tế cấp xã…
Theo cấp bậc quản lý của hệ thống, đội ngũ này bao gồm:
- Nhóm cấp cao: Những người chịu trách nhiệm điều hành và phối hợp
hoạt động của các bộ phận trong tổ chức và đại diện cho tổ chức trong mối
liên hệ với mơi trường bên ngồi tổ chức.
- Nhóm cấp trung: Những người khâu nối giữa cấp cao và cấp cơ sở.
Triển khai quyết định của cấp cao tới cấp cơ sở và giúp cấp cao theo dõi quá
trình thực hiện quyết định ở cấp cơ sở.
- Nhóm cấp cơ sở: Những người đối diện với người lao động trực tiếp.
Là những người cuối cùng thực hiện các quyết định quản lý.
Dựa vào lĩnh vực, ngành nghề
Đội ngũ này bao gồm công chức quản lý kinh tế ngành nông nghiệp,
công nghiệp, thương mại, dịch vụ, tài chính,…
Thực chất, các cách phân loại trên đây chỉ mang tính tương đối vì trong
thực tế, nhất là ở cấp trung gian và cấp cơ sở, đội ngũ công chức này thường
kiêm nhiệm nhiều công việc khác không thuần tuý chỉ là công việc quản lý
nhà nước về kinh tế.
1.1.3. Vai trò của đội ngũ công chức quản lý kinh tế trong phát
triển kinh tế - xã hội ở địa phương
1.1.3.1. Là một bộ phận quan trọng của lực lượng lao động quốc gia
“Lực lượng lao động là số người trong độ tuổi lao động đang có việc
hoặc chưa có việc làm nhưng đang tìm kiếm việc làm” [8, tr.164]. Ở nước ta,
theo số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê, năm 2009, số lao động (từ 15
tuổi trở lên, đang làm việc tại thời điểm 1/7 hàng năm) của Việt Nam là
23
47.743.600 người [38, tr.19]. Trong đó, có một bộ phận giữ vai trò quan trọng
đối với phát triển kinh tế - xã hội là đội ngũ công chức Nhà nước, trong đó có
đội ngũ cơng chức quản lý kinh tế. Lực lượng lao động nước ta tuy rất đơng
và có tỷ lệ cao so với dân số, tuy nhiên, trình độ lao động chung của chúng ta
lại khá thấp. Theo Báo cáo về kết quả cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở
01/04/2009 do Tổng cục Thống kê công bố ngày 21/07/2010:
có 8,6 triệu người đã được đào tạo, chiếm 13,3% tổng
dân số từ 15 tuổi trở lên; trong đó 2,6% đã tốt nghiệp
sơ cấp, 4,7% trung cấp, 1,6% cao đẳng, 4,2% đại học
và 0,2% trên đại học. Số người 15 tuổi trở lên chưa
được đào tạo chuyên môn kỹ thuật của cả nước vẫn
chiếm tỷ lệ cao (86,7%), thấp nhất là vùng Đồng bằng
sông Hồng (80,6%) và cao nhất là Đồng bằng sơng
Cửu Long (93,4%) [2, tr.8].
Điều đó cho thấy chúng ta có khoảng 57 triệu người trên 15 tuổi chưa
hề qua một lớp đào tạo nào. Con số này chứng minh, mặt bằng trình độ lao
động Việt Nam hiện là quá thấp. Trong khi đó, hầu hết công chức Nhà nước
của chúng ta đã qua đào tạo. Do đó, đội ngũ cơng chức Việt Nam nói chung
và đội ngũ công chức quản lý kinh tế hiện nay là bộ phận nòng cốt, giữ vai trò
quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Với ưu thế đã trải qua ít nhất một khố đào tạo về chuyên môn, nghiệp
vụ nhất định, nên đội ngũ lao động là cơng chức đều thể hiện được tính
chun nghiệp, tính tổ chức và kỷ luật của mình. Đây là những tác phong cần
thiết cho công việc trong thời đại ngày nay - thời đại tồn cầu hố và phát
triển kinh tế thị trường trên phạm vi toàn thế giới. Cơng việc của đội ngũ cơng
chức lại có ảnh hưởng rất lớn tới công việc của các ngành nghề, bộ phận khác
trong xã hội. Do đó, tác phong làm việc của công chức hiện đại, hiệu quả, phù
hợp với xu thế thời đại sẽ có tác động rất lớn tới hiệu quả kinh tế - xã hội của
đất nước.
24
Từ những điều kiện nêu trên có thể thấy, với năng suất và chất lượng
trong cơng việc của mình, cơng chức nói chung và cơng chức quản lý kinh tế
nói riêng đang nắm giữ một vai trò rất quan trọng của lực lượng lao động Việt
Nam, nó có tác động lớn tới yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của chúng ta
hiện nay. Điều này cũng cho thấy rằng, nếu chúng ta đào tạo, xây dựng một
đội ngũ cơng chức quản lý kinh tế có chất lượng, nó sẽ là một động lực không
nhỏ trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
1.1.3.2. Là một bộ phận quan trọng của kinh tế nhà nước
Việt Nam chúng ta đang thực hiện xây dựng chủ nghĩa xã hội với
đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. Kinh tế thị
trường là một tiến bộ trong tiến trình phát triển kinh tế của nhân loại, nền
kinh tế này đang tạo ra một sức sản xuất vô cùng lớn cho xã hội lồi người.
Tuy nó cũng có những mặt hạn chế, khuyết tật, song ích lợi của nó thì lớn
hơn nhiều. Chính điều đó mà hầu hết các quốc gia trên thế giới hiện nay
đều đi theo con đường phát triển kinh tế thị trường, với những đặc trưng
riêng của mỗi nước. Đối với Việt Nam, Đảng ta xác định, “phát triển kinh
tế thị trường định hướng XHCN”. Trong nền kinh tế nhiều thành phần của
chúng ta hiện nay thì yếu tố giữ vai trị định hướng XHCN cho nền kinh tế
chính là kinh tế Nhà nước.
Trên thực tế hiện nay, kinh tế Nhà nước vẫn khẳng định được vai trò
chủ đạo của mình trong nền kinh tế. Nó đã đóng góp cho GDP năm 2009 tới
582,7 nghìn tỷ đồng, chiếm 35,13% GDP cả nước [38, tr.43]. Kinh tế Nhà
nước cũng giải quyết việc làm cho 5.484.400 lao động, chiếm 11,5% tổng số
lao động cả nước năm 2009 [38, tr.19-20]. Vai trò của kinh tế Nhà nước
không chỉ thể hiện qua các con số trên, mà chúng ta thấy nó cịn giữ vai trị vơ
cùng quan trọng để đảm bảo cho xã hội phát triển cơng bằng, ổn định. Đó là
việc đầu tư trong những lĩnh vực cần nhiều vốn, thời gian thu hồi vốn chậm,
những ngành có lợi nhuận thấp, … nhưng lợi ích cho nhân dân thì lớn. Đây
25
chính là vai trị chủ đạo, vai trị định hướng của kinh tế Nhà nước trong quá trình
phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
Như vậy, kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội ở nước ta. Đến lượt nó, giữ vai trị lãnh đạo, quản lý, và
vận hành hoạt động của kinh tế Nhà nước lại chính là đội ngũ cơng chức quản
lý kinh tế. Chính vì thế, chất lượng của đội ngũ công chức quản lý kinh tế
quyết định đến chất lượng hoạt động của thành phần kinh tế này. Với những
người cơng chức có tinh thần u nước, có trình độ, chuyên môn cao, khả
năng làm việc sáng tạo sẽ tạo ra những hiệu quả kinh tế cao góp phần phát
triển kinh tế Nhà nước, giữ vững vị trí chủ đạo và định hướng XHCN của
mình đối với các thành phần kinh tế khác. Mặc dù hiện nay, có nhiều đơn vị
kinh tế Nhà nước đang làm ăn không mấy hiệu quả, có thể nói một phần
ngun nhân là do chính các cán bộ lãnh đạo, quản lý còn yếu kém. Do đó, để
thành phần kinh tế này hoạt động tốt hơn nữa, Đảng và Nhà nước phải có
những chương trình, kế hoạch đào tạo những người công chức lãnh đạo, quản
lý giỏi, năng động, sáng tạo, giao việc cho họ gắn liền với trách nhiệm và có
cơ chế kiểm tra, giám sát và xử lý chặt chẽ. Có như vậy thì kinh tế Nhà nước
mới tiếp tục giữ vững vai trị chủ đạo của mình, nó cũng góp phần hạn chế
những khuyết tật của kinh tế thị trường ở Việt Nam.
1.1.3.3. Là thành tố quan trọng của bộ máy nhà nước thực hiện quản
lý Nhà nước và quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, “chính trị là biểu hiện tập trung của kinh
tế”. “Xét đến cùng nhân tố kinh tế quyết định kiến trúc thượng tầng, kinh tế
quyết định chính trị. Nếu kiến trúc thượng tầng kìm hãm sự phát triển kinh tế
thì sớm hay muộn, bằng cách này hay cách khác, kiến trúc thượng tầng cũ sẽ
được thay thế bằng kiến trúc thượng tầng mới tiến bộ hơn để thúc đẩy kinh tế
tiếp tục phát triển” [9, tr.400-401]. Hồ Chủ tịch cũng đã từng nói, nhiệm vụ
của Chính phủ là làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có
học hành. Chính vì thế, việc phát triển kinh tế - xã hội đối với một đất nước là
nhiệm vụ vô cùng quan trọng của giai cấp lãnh đạo trong nhà nước đó.