1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau 25 năm thực hiện đường lối đổi mới, Việt Nam đã có những bước
phát triển vượt bậc trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, an ninh quốc
phịng. Kinh tế phát triển, đời sống tinh thần vật chất của nhân dân được nâng
lên, vị thế Việt Nam trên trường quốc tế khơng ngừng được nâng cao…
Góp một phần nhỏ vào thành quả chung của công cuộc đổi mới đất
nước, Ứng Hịa cũng đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ, tăng trưởng
kinh tế luôn ở mức cao, với tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn
2006-2010 đạt 10,5%/năm, thu nhập bình quân đầu người đạt 9,5 triệu
đồng/người/năm, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực: tỷ trọng
nông nghiệp giảm dần, công nghiệp- xây dựng và dịch vụ tăng lên... Bên cạnh
những thành tựu đạt được Ứng Hịa cịn là huyện có truyền thống lịch sử, văn
hóa, có tiềm năng về đất đai và lao động. Đặc biệt, việc điều chỉnh, mở rộng
địa giới hành chính Thủ đô Hà Nội mở ra triển vọng lớn để Ứng Hịa phát
triển nhanh, tồn diện và hiệu quả hơn.
Tuy nhiên nếu phân tích, đánh giá một cách khách quan thì những
thành tựu mà Ứng Hịa đạt được vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, thế
mạnh hiện có của huyện. Về cơ bản Ứng Hòa vẫn là một huyện nghèo kinh tế
kém phát triển, chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm. Kinh tế của huyện chủ yếu
là sản xuất nông nghiệp, thu ngân sách còn ở mức thấp, kết cấu hạ tầng cịn
thấp kém, thu nhập bình qn đầu người thấp, chỉ đạt 9,5 triệu đồng/
người/năm, thấp hơn mức thu nhập bình quân của cả nước. Đời sống vật chất,
tinh thần của người dân cịn gặp nhiều khó khăn…
Ngun nhân của thực trạng trên thì có nhiều như xuất phát điểm của
kinh tế huyện thấp kém, công tác quản lý, điều hành kinh tế còn nhiều hạn
chế, chưa khai thác được tiềm năng, thế mạnh cũng như những cơ hội. Song
2
hạn chế về nguồn nhân lực được coi là một trong những nguyên nhân chủ
yếu, bởi nhân tố con người nói chung, nguồn nhân lực nói riêng ln là nhân
tố quan trọng hàng đầu đối với mọi quá trình phát triển.
Trong điều kiện Việt Nam phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH
đất nước, đặc biệt Ứng Hịa là địa bàn thuộc Thủ đơ Hà Nội nhất thiết Ứng
Hịa cần phải có những giải pháp mang tính đột phá nhằm thực hiện tốt mục
tiêu phát triển của huyện cũng như mục tiêu chung của TP Hà Nội và đất
nước, một trong những giải pháp vừa mang tính cấp bách, cơ bản và lâu dài là
phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Xuất phát từ những nhận thức trên đề tài “Nguồn nhân lực cho phát
triển kinh tế - xã hội ở huyện Ứng Hòa thành phố Hà Nội” được chọn làm
luận văn Thạc sĩ kinh tế với mong muốn được góp phần hệ thống hóa lý luận
và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội của
huyện, đồng thời góp phần cùng Hà Nội thực hiện thắng lợi mục tiêu là trung
tâm chính trị - kinh tế của cả nước.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nguồn nhân lực là một chủ đề không mới. Một mặt, do nhân lực là
nhân tố quan trọng của mọi quá trình phát triển, mặt khác, nguồn nhân lực là
nhân tố quyết định chất lượng, hiệu quả của mọi hoạt động, vì thế nguồn nhân
lực trở thành đối tượng nghiên cứu của rất nhiều nhà khoa học, là vấn đề dành
được sự quan tâm đặc biệt của các nhà lãnh đạo quản lý ở hầu khắp các bộ,
ban, ngành chức năng và địa phương.
Do vậy, ở những phạm vi và mức độ khác nhau, đã có nhiều cơng trình
nghiên cứu trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập đến nguồn nhân lực, chất lượng
nguồn nhân lực, hay nâng cao chất lượng nguồn nhân lực dưới nhiều dạng
thức khác nhau, chẳng hạn như:
3
Về sách tham khảo có:
+ Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ X, Đảng CSVN (2006):
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
+ GS.VS Phạm Minh Hạc (2001): Về phát triển toàn diện con người
thời kỳ CNH, HĐH, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
+ Mai Quốc Chính (1999): Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp
ứng yêu cầu CNH-HĐH đất nước, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.
+ Báo cáo phát triển Việt Nam 2007 của Ngân hàng thế giới “Hướng
tới tầm cao mới”.
Về luận văn, luận án có:
+ Thạc sỹ Lê Văn Hùng (2006): Nguồn nhân lực chất lượng cao cho
phát triển kinh tế xã hội ở thành phố Đà Nẵng, (Học viện chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh).
+ Thạc sỹ Trương Tuấn Dũng (2009): Nguồn nhân lực cho phát triển
kinh tế ở tỉnh Hịa Bình, (Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh).
+ Lê Huy: Để khơng lãng phí nguồn nhân lực chất lượng cao, in trên
Báo Nhân dân 09/7/2006.
Ngồi ra, cịn có những cơng trình, bài viết trên các báo, tạp chí chun
ngành, nhưng nhìn chung các cơng trình nghiên cứu về chủ đề này đã được
công bố chủ yếu tập trung vào giải quyết vấn đề nguồn nhân lực hoặc chất
lượng nguồn nhân lực cho một ngành hoặc một lĩnh vực cụ thể nào đó hoặc
nghiên cứu nhân lực, chất lượng nguồn nhân lực phục vụ cơng cuộc cơng
nghiệp hố, hiện đại hố nói chung, hoặc tiếp cận vấn đề theo từng khía cạnh
riêng biệt và theo thời gian, khơng gian nhất định.
Trên địa bàn huyện Ứng Hòa cho đến nay chưa có cơng trình nào đề
cập đến nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội ở Ứng Hòa một cách
đầy đủ, tồn diện. Vì vậy, đề tài nghiên cứu khơng bị trùng lắp với các cơng
trình đã cơng bố.
4
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích luận văn: Vận dụng lý luận về nguồn nhân lực vào phân
tích, đánh giá nguồn nhân lực ở huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội nhằm đề
xuất phương hướng, quan điểm và các giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương
trong giai đoạn tới.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Khái quát những vấn đề lý luận chung về nguồn nhân lực, chất lượng
nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế xã hội.
- Nghiên cứu kinh nghiệm một số địa phương trong nước về phát triển
nguồn nhân lực và rút ra bài học cho huyện Ứng Hịa, thành phố Hà Nội.
- Phân tích, đánh giá thực trạng nguồn nhân lực của Ứng Hòa từ năm
2005 đến nay, chỉ ra được những thành tựu, những mặt tồn tại, yếu kém và
nguyên nhân.
- Trên cơ sở lý luận và phân tích thực trạng, luận văn đề xuất một số
phương hướng, quan điểm, giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho
phát triển kinh tế - xã hội ở Ứng Hòa thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là
nguồn nhân lực trên các phương diện: khái niệm, số lượng, chất lượng, cơ cấu
của nguồn nhân lực, vai trị của nó đối với phát triển kinh tế, các nhân tố ảnh
hưởng đến sự vận động và phát triển của nguồn nhân lực.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Trong khuôn khổ luận văn, tác giả chỉ tập
trung nghiên cứu nguồn nhân lực trên địa bàn huyện Ứng Hòa từ năm 2005
đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn: Luận văn được nghiên cứu
theo các phương pháp sau:
- Phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
5
- Luận văn sử dụng chủ yếu các phương pháp nghiên cứu của kinh tế,
đồng thời kết hợp với sử dụng các phương pháp phân tích, khảo sát thực tế,
thống kê, hệ thống hóa, so sánh, minh hoạ…
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Hệ thống hóa và góp phần hồn thiện một số vấn đề lý luận về nguồn
nhân lực.
- Làm rõ thêm vai trò của nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế - xã hội
của một địa phương nói riêng và của cả nước nói chung.
- Khảo sát, phân tích, đánh giá nguồn nhân lực trên địa bàn huyện Ứng
Hòa thời gian qua, rút ra được những thành tựu cũng như những hạn chế và
nguyên nhân.
- Đề xuất một số phương hướng, quan điểm và giải pháp chủ yếu, thiết
thực vừa phù hợp với quan điểm, đường lối, chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước, vừa đảm bảo với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, vừa đảm
bảo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của huyện đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội của Ứng Hịa trong thời gian tới.
7. Kết cấu luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
Luận văn gồm 3 chương, 9 tiết.
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về nguồn nhân lực cho phát triển
kinh tế xã hội.
Chương 2: Thực trạng nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế xã hội ở
Ứng Hòa giai đoạn 2005-2010.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội của Ứng Hòa thời gian tới.
6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NGUÔN NHÂN LỰC
CHO PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
1.1. KHÁI NIỆM NGUỒN NHÂN LỰC
1.1.1. Quan niệm về nguồn nhân lực
Trong những thập kỷ gần đây cách mạng khoa học kỹ thuật đã phát
triển nhanh chưa từng thấy. Diện mạo của tồn xã hội, đất nước, con người
trên quy mơ tồn cầu đang có nhiều biến đổi một cách sâu sắc. Thực tế
cũng đang chỉ ra rằng dù có những biến đổi sâu sắc đến đâu thì con người
vẫn là vấn đề trung tâm của mọi quá trình phát triển. Trong thời kỳ này
thuật ngữ nguồn nhân lực cũng đã xuất hiện và phổ biến rộng rãi. Ở Việt
Nam thời gian gần đây, thuật ngữ nguồn nhân lực xuất hiện khá phổ biến,
tuy nhiên cho đến nay vẫn cịn có nhiều quan điểm khác nhau về nguồn
nhân lực, tuỳ thuộc vào phương diện của nguồn nhân lực được nhấn mạnh
trong khi định nghĩa.
Trong lý thuyết phát triển, nguồn nhân lực được hiểu như nguồn lực
con người của một quốc gia, của vùng lãnh thổ, một ngành và là nguồn lực
của các bộ phận, có khả năng huy động để tham gia vào quá trình kinh tế và
xã hội như các nguồn lực vật chất, tài chính.
Dưới góc độ quản trị học, nguồn nhân lực được hiểu là nguồn nhân sự
và các vấn đề nhân sự trong một tổ chức cụ thể, nghĩa là tồn thể đội ngũ cán
bộ cơng nhân viên của tổ chức với tư cách là khách thể trung tâm của nhà
quản trị vừa là chủ thể của hoạt động và là động lực phát triển của các doanh
nghiệp nói riêng và tổ chức nói chung.
Như vậy, cách tiếp cận theo lý thuyết phát triển thì nội hàm của nguồn
nhân lực rộng hơn, còn cách tiếp cận theo quản trị học thì nội hàm của nguồn
nhân lực được đề cập hẹp hơn và cụ thể hơn.
7
Theo quan niệm của Liên Hợp quốc thì: “nguồn nhân lực là tất cả
những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con
người có quan hệ tới sự phát triển của mỗi cá nhân và của đất nước”.
Theo quan điểm của Ngân hàng thế giới thì: “nguồn nhân lực là tồn bộ
vốn của con người bao gồm thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp… của mỗi
cá nhân”…
Ở Việt Nam cũng có nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra khái niệm nguồn
nhân lực. Theo tập thể tác giả của Chương trình khoa học cơng nghệ cấp Nhà
nước “Con người Việt Nam mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế, xã
hội” mã số KX-07 thì: “nguồn nhân lực được sở hữu là số dân và chất lượng
con người gồm cả thể chất, tinh thần, sức khoẻ và trí tuệ, năng lực phẩm chất,
thái độ và phong cách làm việc”. Khái niệm này đề cập khá đầy đủ về nguồn
nhân lực nó vừa mang tính tổng thể, nhưng cũng rất cụ thể và đặc biệt đề cập
được về mặt số lượng cũng như chất lượng của nguồn nhân lực.
Trong cuốn sách “Nguồn lực và động lực của sự phát triển trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” do GS.TSKH Lê
Du Phong làm chủ biên thì nguồn lực con người là: “tổng hoà trong tổng thể
thống nhất hữu cơ giữa năng lực xã hội của con người, nó bao gồm thể lực, trí lực,
nhân cách và tính năng động của con người. Tính thống nhất và tính đặc thù đó
được biểu hiện trong q trình biến nguồn lực con người thành vốn con người.
Ngoài các khái niệm về nguồn lực được nêu trên cịn có nhiều khái
niệm khác về nguồn nhân lực như nguồn nhân lực là một hệ thống các yếu tố
cả vật chất và tinh thần đã và đang có khả năng tạo ra sức mạnh cho sự phát
triển trong những điều kiện thích hợp…
Có thể thấy rằng, mặc dù có những tiếp cận khác nhau trong việc đưa ra
khái niệm nguồn nhân lực, song nhìn chung những khái niệm trên có sự thống
nhất với nhau, đó là nguồn nhân lực là nguồn lực con người. Nguồn nhân lực
là nguồn lực của mọi nguồn lực, là nội lực phát triển của tất cả các quốc gia. Đó
8
là nguồn lực có trí tuệ, có khả năng phục hồi, tự tái sinh và tự phát triển, đồng
thời vừa là chủ thể vừa là khách thể của quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Trên cơ sở các khái niệm nêu trên, có thể hiểu: “nguồn nhân lực là
toàn bộ lực lượng lao động của một quốc gia, một địa phương
hay một lĩnh vực hoạt động, với những năng lực hoạt động thể
chất, tinh thần, trình độ nghề nghiệp, kỹ năng, kinh nghiệm và
phong cách phẩm chất nhất định đang và sẽ tham gia vào quá
trình sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội”.
Nội hàm của khái niệm này đề cập đến nhiều khía cạnh:
Một là, nó đề cập đến số lượng nguồn nhân lực. Nó bao gồm tồn bộ
dân cư có cơ thể phát triển bình thường, có khả năng lao động. Nó bao gồm
những người có việc làm và những người thất nghiệp. Nó là nguồn lực cung
cấp sức lao động cho xã hội. Những người không nằm trong lực lượng lao
động bao gồm: những người đang đi học, về hưu, q ốm đau khơng làm việc
được hoặc khơng đi tìm việc nữa.
Hai là, nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng quyết định đến sự phát triển
kinh tế - xã hội, là khả năng lao động của xã hội. Nó cũng là đối tượng của
phát triển kinh tế- xã hội.
Ba là, nguồn nhân lực được đề cập nó bao gồm tổng hợp các cá nhân cụ
thể, mỗi quan hệ giữa các cá nhân trong quá trình lao động, là tổng thể các
yếu tố về vật chất và tinh thần của các cá nhân được huy động vào quá trình
phát triển kinh tế- xã hội.
Bốn là, nguồn nhân lực có sự khác biệt với các nguồn lực vật chất khác,
nó là tổng thể các yếu tố tạo nên sức mạnh của con người và cộng đồng xã
hội, nó bao gồm số lượng, chất lượng và cơ cấu dân số có thể huy động vào
quá trình sản xuất kinh doanh.
1.1.2. Các chỉ tiêu đánh giá về nguồn nhân lực
9
Theo cách hiểu chung nhất, nguồn nhân lực được cấu thành bởi hai yếu
tố cơ bản là số lượng và chất lượng nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực được
xem xét đánh giá trên hai bình diện: số lượng, chất lượng con người, bao gồm
cả về thể chất lẫn tinh thần, sức khoẻ, năng lực, phẩm chất. Số lượng và chất
lượng quan hệ chặt chẽ với nhau tạo nên sức mạnh phát triển của nguồn nhân
lực. Một trong hai yếu tố đó mà khơng hợp lý, chất lượng con người khơng
cao thì vai trị của nguồn nhân lực sẽ bị hạn chế, ảnh hưởng không tốt tới sự
phát triển kinh tế- xã hội, số lượng không đủ đáp ứng yêu cầu thì cũng gây
cản trở cho phát triển kinh tế- xã hội.
Xây dựng phát triển nguồn nhân lực nói chung, nguồn nhân lực cho
phát triển kinh tế- xã hội nói riêng cần phải chú ý toàn diện đến các yếu tố đó,
cần phải phát triển nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng để có thể đáp
ứng nhu cầu phát triển kinh tế- xã hội. Cụ thể là:
- Về số lượng nguồn nhân lực:
Số lượng nguồn nhân lực như trên đã được đề cập, là bộ phận dân số
trong độ tuổi lao động theo quy định của Luật Lao động và có khả năng
tham gia lao động. Số lượng là yếu tố quan trọng đầu tiên của nguồn nhân
lực, nếu một quốc gia khơng có số lượng đủ mức cần thiết thì khơng thể
phát huy sức mạnh của nguồn nhân lực, không thể đảm bảo cho nhu cầu
phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, trong chiến lược phát triển nguồn nhân
lực nhất thiết phải quan tâm đến xây dựng và phát triển về số lượng nguồn
nhân lực, lực lượng lao động cho đất nước, phục vụ cho nhu cầu phát triển
của xã hội.
Số lượng nguồn nhân lực không phải được xác định một cách tuỳ tiện,
theo hướng càng nhiều càng tốt, và phát triển một cách tự phát mà phải dựa
trên quy mô dân số, cơ cấu độ tuổi, giới tính và sự phân bố dân cư theo khu
vực, vùng lãnh thổ và định hướng phát triển kinh tế- xã hội. Phát triển nguồn
nhân lực phải đảm bảo là tạo ra nguồn nhân lực với số lượng và chất lượng
10
đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước, đồng thời đảm bảo
cho sự phát triển toàn diện của mỗi cá nhân.
Ở nước ta, số lượng nguồn nhân lực được xác định bao gồm tổng số
người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động. Nó bao gồm những người
có việc và những người thất nghiệp nhưng trong độ tuổi lao động. Số lượng
nguồn nhân lực đóng vai trị vơ cùng quan trọng đối với sự phát triển kinh tế
xã hội.
Theo số liệu thống kê của Bộ Lao động thương binh và xã hội thì tính
đến hết năm 2010 dân số của cả nước là 87 triệu người, trong đó dân số trong
độ tuổi lao động là 57,2 triệu người, nhìn chung dân số và số người trong độ
tuổi lao động tăng trong giai đoạn 2006-2010. Tuy nhiên, tốc độ tăng dân số
có xu hướng giảm dần qua các năm, xu thế giảm sinh tiếp tục được duy trì và
đã đạt được mức sinh thay thế, bảng 1.1.
Bảng 1.1: Dân số và lao động của Việt Nam giai đoạn 2006-2010
STT
Chỉ tiêu
ĐVT
2006
2007
2008
2009
2010
Dân số trung bình
Triệu người
83,31
84,22
85,12
86,02
87,00
Trong đó: Dân số nơng thơn
Triệu người
60,27
60,47
60,45
60,56
61,0
Tỷ lệ dân số nơng thôn (%)
%
72,3
71,8
71,0
70,4
70,1
- Mức giảm tỷ lệ
%
1,24
0,43
0,25
-0,93
0,20
- Tốc độ tăng dân số
%
1,12
1,09
1,07
1,06
1,14
Triệu người
52,20
53,20
54,20
55,20
57,17
Trong đó: Số lao động làm việc Triệu người
trong nền kinh tế quốc dân
44,0
45,2
46,50
47,70
46,53
DÂN SỐ:
LAO ĐỘNG:
1
Dân số trong độ tuổi lao động
Cơ cấu lao động
2
- Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
%
55,4
53,9
52,6
51,9
50,0
- Công nghiệp và xây dựng
%
19,2
20,0
20,9
21,5
23,0
- Dịch vụ
%
25,4
26,10
26,5
26,5
27,0
Tỷ lệ lao động thất nghiệp ở
%
4,82
4,64
4,65
4,60
4,6
11
thành thị
3
Xuất khẩu lao động
Nghìn người
75,85
85
85
73
85
Nguồn: Bộ Lao động, thương binh và xã hội.
Như vậy, các chỉ tiêu về số lượng có quan hệ mật thiết với các chỉ tiêu
về quy mô dân số, cơ cấu dân số và tốc độ tăng dân số, chỉ tiêu về việc làm
của đất nước nói chung, của từng vùng từng địa phương nói riêng.
Hiện nay nước ta đang có "Cơ cấu dân số vàng" được thể hiện hai
người trong độ tuổi lao động mới phải nuôi một người, cơ cấu dân số này vẫn
được duy trì trong vài thập kỷ tới nếu chúng ta có chính sách cơ cấu dân số
hợp lý. Đây là cơ cấu rất thuận lợi cho việc phát triển nguồn nhân lực cả chất
lượng và số lượng nguồn nhân lực. Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay vấn đề việc
làm lại là một trong những vấn đề còn nhiều phức tạp và không dễ giải quyết,
đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế tồn cầu nói chung và của Việt Nam nói
riêng đang gặp những bất lợi.
- Về chất lượng nguồn nhân lực:
Chất lượng nguồn nhân lực là một trong những phạm trù có nội dung
rộng lớn, nói lên trình độ tồn diện của nguồn nhân lực. Chất lượng nguồn
nhân lực là nói lên năng lực thể chất và năng lực tinh thần, trình độ chun
mơn của các thành viên cấu thành nguồn nhân lực của xã hội, đất nước và của
địa phương.
Theo Viện Chiến lược phát triển- Bộ Kế hoạch và đầu tư trong Báo cáo
nghiên cứu đề tài khoa học cấp Bộ (2006) về: Nguồn nhân lực chất lượng
cao- Hiện trạng phát triển, sử dụng và các giải pháp tăng cường thì chất lượng
nguồn nhân lực là tổng thể năng lực về trí lực, thể lực và khí chất (khí lực)
của một tập hợp nhóm nhiều người trong mối tương quan với khả năng đáp
ứng yêu cầu phát triển bản thân con người và phát triển kinh tế- xã hội.
Những khả năng này được hình thành và phát triển thông qua giáo dục, đào
tạo nghề nghiệp, chăm sóc sức khoẻ và q trình lao động.
12
Như vậy, có thể thấy rằng chất lượng nguồn nhân lực được thể hiện
thông qua một số nội dung chủ yếu như: thể lực, trí lực, văn hố, vật chất,
trình độ chun mơn, phẩm chất năng lực. Do đó xem xét chất lượng nguồn
nhân lực không thể không xem xét đến những điều kiện phát triển con người
như: Đảm bảo dinh dưỡng, chăm sóc sức khoẻ, giáo dục và đào tạo, lao động
và việc làm gắn với tiến bộ kỹ thuật, trả công lao động và các mối quan hệ xã
hội khác.
Thời gian gần dây, ở Việt Nam còn xuất hiện thuật ngữ nguồn nhân
lực chất lượng cao, nó thường được hiểu là nguồn nhân lực được đào tạo
một cách căn bản có hệ thống, có khả năng tiếp thu, ứng dụng và sáng tạo,
phát minh ra những tri thức khoa học mới, đáp ứng tốt, đảm nhiệm xuất sắc
yêu cầu nhiệm vụ đặt ra trên các lĩnh vực. Về mặt hình thức nếu xét về
bằng cấp thì nguồn nhân lực chất lượng cao bao gồm những người được
đào tạo một cách bài bản, có hệ thống và có bằng cấp. Tuy nhiên trên thực
tế không phải tất cả những người có bằng cấp cao đều được coi là lao động
chất lượng cao.
Chất lượng nguồn nhân lực thường được đề cập dưới các khía cạnh sau:
Một là, thể lực hay năng lực thể chất của nguồn nhân lực.
Đây là tiêu chí quan trọng đầu tiên về chất lượng nguồn nhân lực.
Tiêu chí về thể lực là tiêu chí phản ánh về tình trạng sức khoẻ của con
người, của dân cư, đó là trạng thái thoải mái về thể chất lẫn tinh thần và xã
hội của con người. Tiêu chí về tình trạng sức khoẻ của con người, của dân cư
là vấn đề rất quan trọng trong chất lượng nguồn nhân lực.
Các tiêu chí cơ bản phản ánh sức khoẻ gồm: Thể lực, chiều cao, cân
nặng, bệnh tật, tuổi thọ. Sức khoẻ là nhân tố tác động trực tiếp đến cả số
lượng và chất lượng nguồn nhân lực. Người lao động có sức khoẻ tốt có thể
mang lại lợi ích kinh tế xã hội nhiều hơn nhờ việc huy động sức mạnh, sự bên
13
bỉ dẻo dai và tập trung trí tuệ cao trong khi thực hiện công việc. Nếu sức khoẻ
không tốt không đáp ứng u cầu thì đó là chất lượng nguồn nhân lực thấp,
khơng đáp ứng u cầu của q trình phát triển kinh tế xã hội. Yếu tố thể lực
được hình thành và phát triển bằng con đường di truyền (giống nịi), ni
dưỡng và luyện tập, rèn luyện thân thể (thể dục, thể thao và các hoạt động lao
động sản xuất).
Trong những năm qua, mặc dù Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chính
sách nhằm cải thiện tình trạng sức khoẻ của người dân như chính sách tăng
trưởng kinh tế, y tế, dân số, thể thao... song nhìn chung chất lượng dân số, các
yếu tố về thể lực con người rất thấp, đặc biệt cho đến nay vẫn có tới 6,3% dân
số bị tàn tật với các mức độ khác nhau, có 1,5% dân số bị thiểu năng về trí
tuệ, khơng đủ khả năng tự sinh hoạt và ni sống bản thân. Vị thành niên
không chỉ thấp bé, nhẹ cân mà yếu cả về sức mạnh và cơ bắp... Đây là những
vấn đề hết sức hạn chế của nguồn nhân lực nước ta.
Chỉ số phát triển con người cũng là một tiêu chí quan trọng để đánh gía
chất lượng nguồn nhân lực. Chỉ số tổng hợp nhất là chỉ số phát triển con người.
(Human Development Index -HDI), được xác định từ 3 chỉ tiêu: tuổi thọ (tính từ
khi sinh ra), trình độ giáo dục (tính tổng hợp theo tỷ lệ biết chữ của người lớn và
cả tỷ lệ đi học tiểu học,trung học, đại học), mức sống (đo bằng giá trị GDP tính
bình qn đầu người thực tế theo sức mua tương đương).
Ở Việt Nam Chỉ số phát triển con người tăng đều đặn và liên tục suốt
mấy thập kỷ qua: từ 0,561 năm 1985 lần lượt tăng lên 0,599 năm 1990, 0,647
năm 1995, 0,690 năm 2000, 0,715 năm 2005 và 0,725 năm 2007. Nếu so với
thứ bậc sếp hạng GDP bình quân đầu người thì xếp hạng HDI của Việt Nam
năm 2007 vượt lên 13 bậc: GDP bình quân đầu người xếp thứ 129 trên tổng
thể 182 nước được thống kê, cịn HDI thì xếp thứ 116/182. Điều đó cho thấy
chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam đã có sự thay đổi và sự phát triển
14
kinh tế- xã hội ở nước ta có xu hướng phục vụ sự phát triển con người, thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội khá hơn một số nước đang phát triển có GDP
bình qn đầu người cao hơn Việt Nam (bảng 1.2).
Bảng 1.2: So sánh HDI của Việt Nam và một số nước khác
trên thế giới năm 2007
Chỉ tiêu về lĩnh vực
Tỷ lệ nhập GDP bình Xếp hạng
Chỉ số
HDI
Tỷ lệ biết học gộp quân đâù
phát triển Tuổi thọ
Tên nước
trong số
chữ ở
các bậc
người
con người
trung
182 nước
người lớn tiểu học,
theo
(HDI)
bình 2007
2007
2007
đại học PPP/USD
2007
2007
Việt Nam
0,725
74,3
90,3
62,3
2.600
116
xếp hạng
GDP/
người
(USD
PPP)trừ đi
xếp hạng
HDI 2007
13
Ghinê xích
đạo
0,719
49,9
87,0
62,0
30.627
118
-90
Ai cập
0,703
69,9
66,4
76,4
5.349
123
-20
Nam phi
0,683
51,5
88,0
76,8
9.757
129
- 51
Ấn độ
0,612
63,4
66,0
61,0
2.753
134
-6
Nguồn: Bộ Kế hoạch và đầu tư.
Hai là, trí lực, được biểu hiện ở trình độ học vấn, trình độ chun mơn
kỹ thuật, kỹ năng nghề nghiệp.
Tiêu chí về trí lực biểu hiện ở trình độ học vấn, trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, chuyên môn kỹ thuật của người lao động là tiêu chí rất quan trọng
đánh giá về chất lượng nguồn nhân lực.
Như vậy yếu tố trí lực được hình thành và phát triển thơng qua con
đường giáo dục, đào tạo, kinh nghiệm và thực tế lao động sản xuất. Các
tiêu chí cụ thể biểu hiện trình độ học vấn của người lao động là tiêu chí
quan trọng phản ánh chất lượng nguồn nhân lực. Đó là sự hiểu biết của
người lao động đối với những kiến thức về tự nhiên, xã hội, trình độ học
vấn được thể hiện bằng sự biết chữ, trình độ học vấn theo nhóm tuổi, theo
các cấp trong giáo dục phổ thơng, giáo dục nghề nghiệp của từng quốc gia
và của từng địa phương. Trình độ chun mơn kỹ thuật là sự hiểu biết các
15
kỹ năng thực hành về chuyên môn kỹ thuật và nghiệp vụ nào đó của người
lao động, đó là năng lực nắm bắt và vận dụng khoa học- kỹ thuật trong hoạt
động sản xuất, kinh doanh.
Trong đề án nghiên cứu cụ thể về giáo dục đào tạo và phân tích nguồn
nhân lực Việt Nam do UNESCO, UNDP và Bộ giáo dục đào tạo thực hiện đã
phân loại trình độ chuyên môn kỹ thuật như sau: Trên đại học, đại học và cao
đẳng, trung học chuyên nghiệp, công nhân kỹ thuật có bằng, cơng nhân kỹ
thuật khơng có bằng. Sự phân chia này góp phần cho thấy chất lượng cụ thể
của nguồn nhân lực, cho chúng ta dễ dàng nhận diện được thực trạng nguồn
nhân lực. Đó là sự phân loại trình độ chun mơn kỹ thuật của người lao động
phù hợp với thực tiễn phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam.
Cịn theo tác giả Nguyễn Hữu Dũng thì phân chia trình độ đào tạo nhân
lực của một quốc gia thành 7 nhóm:
Nhóm 1: nhân lực được đào tạo ở cấp trình độ sau đại học.
Nhóm 2: nhân lực cán bộ cơng chức quản lý hành chính nhà nước
Nhóm 3: nhân lực khoa học- công nghệ và đội ngũ giảng viên
Nhóm 4: nhân lực doanh nhân và các chuyên gia quản trị doanh nghiệp.
Nhóm 5: nhân lực tốt nghiệp cao đẳng, đại học trở lên.
Nhóm 6: nhân lực tốt nghiệp trung cấp chun nghiệp.
Nhóm 7: lực lượng cơng nhân kỹ thuật.
Nếu xét về trình độ làm việc có thể chia nguồn nhân lực thành 3 bậc:
Thứ nhất, nhân lực làm việc ở mức độ bậc cao trong các ngành nghề
như lao động quản lý, chuyên gia, nhà nghiên cứu.
Thứ hai, nhân lực làm việc ở mức độ lao động bậc trung trong các
ngành nghề như lao động kỹ thuật, lao động làm cơng việc vận hành máy
móc, thiết bị, sửa chữa.
Thứ ba, nhân lực làm việc ở mức độ lao động bậc thấp trong các ngành
nghề như nhân viên tạp vụ, phục vụ...
16
Thời gian qua, nhờ chủ trương, đường lối, chính sách đúng đắn của
Đảng và Nhà nước nên trí lực của người dân Việt Nam được nâng lên đáng
kể. Tính đến hết năm 2010, có 63/63 tỉnh, thành phố được cơng nhận đạt
chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Bình quân tuyển mới khối cao đẳng
và đại học giai đoạn 2006-2010 tăng 16,3%/năm. Công tác giáo dục chuyên
nghiệp và đào tạo nghề phát triển mạnh mẽ, số lượng tuyển mới tiếp tục tăng,
bình quân tuyển mới khối trung cấp chuyên nghiệp giai đoạn này tăng
13,6%/năm, trong 5 năm tuyển mới và dạy nghề khoảng 7,7 triệu người. Chất
lượng học sinh tốt nghiệp trường dạy nghề từng bước đáp ứng với yêu cầu
của thị trường lao động, khoảng 80% học sinh tìm được việc làm đúng ngành
nghề đào tạo sau khi ra trường. Tỷ lệ lao động đang làm việc qua đào tạo tăng
khá, năm 2010 có tới 40% lao động qua đào tạo.
Tuy nhiên, công tác giáo dục, đào tạo của Việt Nam còn nhiều hạn chế
như tỷ trọng đào tạo sơ cấp và ngắn hạn chiếm trên 80%. Cơ cấu lực lượng
lao động được đào tạo còn bất hợp lý. Điều này thấy rõ, nếu đem so sánh cơ
cấu đào tạo của Việt Nam với cơ cấu đào tạo (được coi là hợp lý) của một số
nước khác thì có sự khác biệt rất lớn. Chẳng hạn ngành nông nghiệp chiếm tới
60% tổng số lực lượng lao động nhưng chỉ chiếm gần 5% số người được đào
tạo. Công tác giáo dục, đào tạo chưa gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo và sử dụng
lao động. Nhìn chung tỷ lệ lao động được đào tạo của Việt Nam còn thấp hơn
so với một số nước trong khu vực như Singapo, Malaixia, Thái Lan... Trầm
trọng hơn, trình độ chun mơn kỹ thuật giữa khu vực thành thị và khu vực
nông thơn có sự chênh lệch rất lớn. Đặc biệt ở các tỉnh miền núi, các nơng lâm trường, trình độ văn hố, trình độ kỹ thuật của cơng nhân thấp hơn nhiều
so với các nơi khác.
Ba là, phẩm chất đạo đức, phong cách, truyền thống văn hoá của
nguồn nhân lực và những kỹ nằng mềm của nguồn nhân lực.
17
Tiêu chí này bao gồm: Tập qn, thói quen, phong cách, đạo đức, lối
sống, truyền thống, văn hoá dân tộc, nó có ảnh hưởng lớn đến tác phong lao
động, ý thức chấp hành kỷ luật lao động, tinh thần thái độ trong cơng việc, nó
có thể hàm chứa cả ý thức dân tộc.
Ở Việt Nam do đặc điểm của điều kiện tự nhiên, đặc điểm phát triển
sản xuất kinh doanh nên tác phong làm việc vẫn còn mang nặng lao động
nơng nghiệp, tác phong làm việc cơng nghiệp cịn nhiều hạn chế. Đại bộ phận
người lao động hiện nay của Việt Nam chưa được đào tạo về kỷ luật lao động
công nghiệp. Phần lớn trong số họ là lao động xuất thân từ nơng nghiệp hoặc
nơng thơn, cịn mang nặng tác phong sản xuất của một nền nông nghiệp tiểu
nông, tuỳ tiện về giờ giấc và hành vi. Người lao động chưa được trang bị các
kiến thức và kỹ năng làm việc theo nhóm, khơng có khả năng hợp tác và
gánh chịu rủi ro, ngại phát huy sáng kiến và chia sẻ kinh nghiệm làm việc.
Điều này có thể thấy rất rõ ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải
mất hàng tháng chỉ để đào tạo tác phong lao động cho công nhân mới được
tuyển. Nhiều vụ việc đình cơng hoặc mâu thuẫn chủ - thợ tại các xí nghiệp có
vốn đầu tư nước ngồi có nguồn gốc ban đầu từ những vụ vi phạm kỷ luật lao
động, từ ý thức kỷ luật lao động kém của bản thân người lao động...
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, công tác tuyên truyền, quản lý
lao động được tăng cường, đặc biệt là sức ép cạnh tranh của thị trường lao
động nên sự hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật của người lao động đã
được nâng lên. Thói quen làm việc tuân thủ nhưng quy định, có kỷ luật đã có
bước tiến bộ, đặc biệt trong các doanh nghiệp có quy mơ lớn. Trong những
năm qua, các cơ quan chức năng, các doanh nghiệp và cộng đồng xã hội đã
tăng cường đào tạo kỹ năng mềm cho người lao động. Có thể nói rằng, chất
lượng nguồn nhân lực của Việt Nam ngày càng được nâng cao, có thể thích
ứng tốt với u cầu cơng việc.
18
Tất cả những yếu tố này góp phần khơng nhỏ tạo nên hành vi, thái độ
của nguồn nhân lực trong hoạt động và điều đó tác động ảnh hưởng khơng
nhỏ đến nguồn nhân lực.
Trong các nhân tố cấu thành chất lượng nguồn nhân lực thì thể lực là
nền tảng, là cơ sở để phát triển trí tuệ, là phương tiện để chuyển tải tri thức
của con người vào thực tiễn, trí tuệ, trình độ học vấn là yếu tố quan trọng nhất
quyết định đến chất lượng nguồn nhân lực vì nó khơng chỉ là cơ sở để đào tạo
chất lượng kỹ năng nghề nghiệp mà cịn là yếu tố hình thành nhân cách và lối
sống của mỗi người. Tất cả yếu tố đó tạo thành vốn con người, vốn nguồn
nhân lực, chất lượng nguồn nhân lực
Các tiêu chí về chất lượng và số lượng có quan hệ mật thiết với nhau
hợp nên tính chỉnh thể thống nhất của nguồn nhân lực. Các tiêu chí này tốt
sẽ đảm bảo sự phát triển hợp lý, hài hoà và tất nhiên sẽ tạo ra nguồn nhân
lực mạnh.
- Về cơ cấu nguồn nhân lực:
Cơ cấu nguồn nhân lực thể hiện như tỷ lệ nam/nữ trong tổng lực lượng
lao động, cơ cấu đào tạo, cơ cấu lao động trong các ngành nghề, lĩnh vực, cơ
cấu lứa tuổi trong tổng lực lượng lao động...
Cơ cấu lao động là yếu tố quyết định đến phát triển bền vững nguồn
nhân lực. Nếu một quốc gia có cơ cấu lao động hợp lý sẽ tạo điều kiện cho
phát triển nguồn nhân lực và có khả năng thực hiện được mục tiêu toàn dụng
lao động, nếu cơ cấu lao động bất hợp lý sẽ hạn chế phát triển nguồn nhân lực
và tất nhiên sẽ gây ra lãng phí nguồn nhân lực.
Mỗi thời kỳ khác nhau, mỗi lĩnh vực, mỗi địa phương khác nhau thì
u cầu về các tiêu chí của nguồn nhân lực cũng khác nhau. Trong quá trình
đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, cơng nghiệp hố, hiện địa hoá đất
nước, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, việc cụ thể hoá các nội dung số lượng, chất
lượng cho phù hợp là yêu cầu đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát
19
triển nguồn nhân lực của Việt Nam cũng như của mỗi ngành, mỗi lĩnh vực,
mỗi địa phương.
1.2. VAI TRÒ CỦA NGUỒN NHÂN LỰC TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ
Con người có vai trị quyết định đối với mọi q trình phát triển kinh tế
xã hội. Trong lĩnh vực kinh tế và sản xuất, V.I Lênin đã khẳng định: Lực
lượng sản xuất hàng đầu của nhân loại là công nhân, là người lao động.
Nghiên cứu các lĩnh vực hoạt động của con người, đặc biệt là hoạt động kinh
tế và tổ chức nhiều lý thuyết về quản lý đã rút ra kết luận: Quản lý cần hướng
về con người, chăm lo và phát triển nguồn tài nguyên quan trọng này để từ
đây tạo ra nội lực và ngoại lực phát triển mạnh mẽ thúc đẩy các tổ chức phát
triển nhanh và bền vững với hiệu suất cao. Tuy nhiên, cách thức tác động vào
con người, quản lý con người từ xưa đến nay vốn rất khác nhau. Điều này
không chỉ do bối cảnh của thời đại đòi hỏi mà còn xuất phát từ những nguyên
nhân quan trọng hơn, đó là quan điểm triết học và chính trị học của giai cấp
cầm quyền. Vì vậy muốn nhìn nhận đầy đủ và sâu sắc về nguồn nhân lực cần
phải xem xét một cách khách quan khoa học và cơ bản có liên quan đến nó.
Trước hết là quan niệm về bản chất con người. C. Mác đã khảng định: “trong
tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội.
Quan hệ xã hội tạo nên tính người, chi phối mọi chức năng hoạt động và hành
vi của con người, nó phân biệt con người với tất cả các loại động vật khác”.
Con người vừa là chủ thể của lịch sử, chủ thể của những biến đổi về
kinh tế, xã hội vừa là khách thể của nhiều bộ mơn khoa học khác nhau. Xét từ
góc độ hiệu quả hoạt động thì con người có liên quan tới các khía cạnh cụ thể
như: cá nhân, nhân lực, nguồn nhân lực, hiệu xuất lao động xã hội. Với những
đặc điểm của con người nói chung và nguồn nhân lực nói riêng như vậy, có
thể khái qt vai trị của nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế - xã hội ở
một quốc gia như sau:
1.2.1. Nguồn nhân lực là nhân tố quyết định đến năng lực cạnh
tranh của quốc gia
20
Thực tiễn và lý luận đã chứng minh rằng, sự giàu có hay khả năng cạnh
tranh của một quốc gia ngày nay khơng cịn đơn thuần phụ thuộc vào sự sẵn
có của các nguồn tài nguyên thiên nhiên mà phần lớn phụ thuộc vào nguồn
nhân lực. Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) đã coi nguồn nhân lực chất lượng
cao là một trong tám nhân tố quan trọng xác định năng lực cạnh tranh tổng thể
của nền kinh tế. Hơn thế nữa nguồn nhân lực còn được WEF coi là một nhân
tố có trọng số lớn nhất, nghĩa là nhân tố quan trọng nhất trong tổng số các
nhân tố quy định năng lực cạnh tranh của một quốc gia.
Nguồn nhân lực không chỉ đơn thuần là một trong những nguồn lực sản
xuất mà cịn là nguồn lực có khả năng quyết định việc tổ chức, sử dụng các
nguồn lực khác, là chủ thể quyết định của tất cả các hoạt động sản xuất kinh
doanh. Các nguồn lực tự nhiên chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng nếu khơng có
con người khai thác trong quá trình lao động thì sẽ trở thành vơ dụng. Chỉ có
con người mới có khả năng nhận biết được các quy luật của tự nhiên, quy luật
kinh tế, quy luật sản xuất, kinh doanh, quy luật phát triển kinh tế- xã hội...
Quan trọng hơn, nguồn nhân lực biết vận dụng một cách sáng tạo các quy luật
này trong hoạt động kinh tế, xã hội để sử dụng một cách có hiệu qủa các
nguồn lực khác.
1.2.2. Nguồn nhân lực đóng vai trị quyết định đến tăng trưởng
kinh tế
Trong 3 nhân tố chủ yếu của tăng trưởng là lao động, vốn, tài nguyên
thì yếu tố lao động với tri thức cơng nghệ cao đóng vai trị quyết định nhất
đến tăng trưởng kinh tế. Vốn là yếu tố vật chất đầu vào quan trọng, có tác
động trực tiếp tới tăng trưởng kinh tế. Vốn sản xuất có liên quan trực tiếp tới
tăng trưởng kinh tế là vốn vật chất, nó là tồn bộ tư liệu vật chất được tích trữ
lại của nền kinh tế, bao gồm: nhà máy, thiết bị, máy móc, nhà xưởng và các
trang thiết bị được sử dụng như yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất. Vai trò
của vốn đối với tăng trưởng kinh tế được các nhà kinh tế đánh giá khá cao.
Tuy nhiên nó chủ yếu thể hiện tính chất tăng trưởng theo chiều rộng.
21
Lao động là yếu tố đầu vào không thể thiếu của quá trình sản xuất, là
yếu tố đặc biệt quan trọng. Trước đây, người ta chỉ quan niệm lao động là yếu
tố đầu vào giống như vốn, được xác định bằng số lao động của mỗi quốc gia
và được tính bằng đầu người hay thời gian lao động. Nhưng trong mơ hình
tăng trưởng hiện đại gần đây đã nhấn mạnh đến khía cạnh phi vật chất của lao
động gọi là vốn con người, đó là lao động có kỹ năng sản xuất, lao động có
thể vận hành máy móc phức tạp, lao động có sáng kiến và phương pháp mới
trong hoạt động kinh tế (bảng 1.3).
Bảng 1.3: Tỷ trọng đóng góp các nhân tố đầu vào đối với tăng trưởng
GDP: vốn, lao động, tài nguyên, nhân tố tổng hợp
Đơn vị: %
Đóng góp của vốn
Đóng góp của lao động
Đóng góp của tài nguyên, nhân
tố tổng hợp
Giai đoạn
1991 – 1997
65.43
19.16
Giai đoạn
1998 – 2003
Giai đoạn
2001 – 2007
55.13
23.58
56.7
18.52
15.41
21.29
24.78
Nguồn: Tổng cục Thống kê.
Tiến bộ công nghệ là yếu tố tác động ngày càng mạnh đến tăng trưởng
kinh tế. Yếu tố công nghệ được thể hiện dưới dạng những thành tựu kiến thức,
tức là nắm bắt kiến thức khoa học, nghiên cứu đưa ra các nguyên lý, thử
nghiệm về cải tiến sản phẩm, quy trình cơng nghệ hay thiết bị kỹ thuật, sự áp
dụng phổ biến các kết quả nghiên cứu, thử nghiệm vào thực tế nhằm nâng cao
trình độ phát triển chung của sản xuất. Vai trị của cơng nghệ đã được đánh
giá rất cao đối với tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, khoa học công nghệ cũng
do con người tạo ra.
Tài nguyên cũng là nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Trước
kia các nhà kinh tế đã đánh giá rất cao vai trò của yếu tố đầu vào này. Tuy
nhiên, hiện nay các mơ hình tăng trưởng kinh tế hiện đại khơng nói đến nhân
22
tố tài nguyên với tư cách là một biến số của hàm tăng trưởng. Mặc dù vậy, tài
nguyên vẫn là nhân tố không thể thiếu được trong tăng trưởng kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế còn phải chịu ảnh hưởng của các nhân tố khác như
sự ổn định chính trị- xã hội, sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật, chất lượng
kết cấu hạ tầng...
Nói tóm lại, trong các nhân tố làm tăng trưởng kinh tế thì nguồn nhân
lực là yếu tố quan trọng, quyết định nhất .
Thực tế cho thấy nhiều quốc gia rất nghèo về tài nguyên nhưng đất
nước lại rất phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc trong khi nhiều quốc gia khác
có nguồn tài nguyên dồi rào như I-Rắc, Cô-oét và các nước Châu Phi nhưng
kinh tế, xã hội lại phát triển rất chậm. Sở dĩ các quốc gia có sự phát triển rất
ngoạn mục vì họ có nguồn nhân lực chất lượng cao. Qua đó cho thấy, nguồn
nhân lực với tư cách là một trong những nguồn lực sản xuất, có vai trị quan
trọng nhất trong tất cả các nguồn lực.
1.2.3. Thúc đẩy phát triển nền kinh tế thị trường
Trên phương diện toàn xã hội, với tư cách là một bộ phận của dân số,
nguồn nhân lực là đối tượng tham gia tiêu dùng các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ
đầu ra của q trình sản xuất. Nó là đối tượng của sản xuất, kinh doanh, tất cả
quá trình sản xuất, kinh doanh đều hướng vào con người, nó là một trong những
động lực kích thích, thúc đẩy sản xuất phát triển, là một thị trường tiêu thụ cho
hoạt động sản xuất kinh doanh. Con người nói chung và nguồn nhân lực nói
riêng tham gia đầy đủ và quyết định đến chuỗi sản xuất- trao đổi- tiêu dùng. Ở
cung đoạn nào của quá trình sản xuất – tiêu dùng đều do con người đảm nhiệm.
Ở góc độ doanh nghiệp, để sản xuất kinh doanh các nhà quản trị cần
phải sử dụng đến nguồn nhân lực, để bán được hàng họ cũng cần đến sự có
mặt của lực lượng khách hàng. Để hoạch định chiến lược phát triển của doanh
nghiệp nói riêng hay tổ chức nói chung người ta không thể không xuất phát từ
hai yếu tổ ảnh hưởng này. Hay nói cách khác, dân số nói chung và nguồn
23
nhân lực nói riêng là những lực lượng có ảnh hưởng rất lớn đến tất cả về mọi
hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2.4. Quyết định thực hiện thành cơng mục tiêu cơng nghiệp hố,
hiện đại hố và hội nhập kinh tế quốc tế
Ngày nay, thách thức lớn nhất có tính cơ bản và lâu dài của q trình
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải đương đầu là cuộc cạnh tranh
quyết liệt về phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt về năng lực trí tuệ của con
người và của toàn xã hội nhằm giải quyết thành công những vấn đề đặt ra.
Việt Nam đang trong giai đoạn đẩy nhanh q trình cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Một trong những yếu tố không thể thiếu để
đạt được mục tiêu này là phải có nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt
trong thời đại ngày nay khi nền kinh tế tri thức đã hình thành và phát triển
tương đối nhanh chóng. Con người nói chung và nguồn nhân lực nói riêng
ln là trung tâm của mọi q trình phát triển.
Nghị quyết Ban chấp hành Trung ương 7 khố VII khẳng định: “cơng
nghiệp hố, hiện đại hố là một q trình chuyển đổi cơ bản và tồn diện các
hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng
lao động thủ công là chủ yếu sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động
cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên
sự phát triển của công nghệ và tiến bộ khoa học - công nghệ tạo ra năng suất
lao động xã hội cao”. Nhận thức được tầm quan trọng của nguồn nhân lực,
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành trung ương khóa VIII đã chỉ rõ:
“Phát triển mạnh giáo dục, đào tạo, phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ
bản của sự phát triển nhanh và bền vững”. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX
quan điểm này vẫn được Đảng ta nhấn mạnh: “trong đó nguồn lực con người
vẫn được coi là yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh
và bền vững”. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI tiếp tục khẳng định quan
24
điểm đó và vì vậy nguồn nhân lực cần được chú ý bồi dưỡng, đào tạo và phát
triển, đáp ứng nhu cầu mới của sự phát triển.
Mục tiêu vào năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại có đạt được hay khơng phụ thuộc vào sự phát triển
nguồn nhân lực. Vì chỉ có con người mới có đủ khả năng trình độ sáng tạo
ra được những công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại.
Chỉ có con người có đủ sức lực và trình độ làm cho các cơng cụ, phương
tiện, công nghệ tiên tiến, hiện đại phát huy hết khả năng tạo ra năng suất
lao động cao trong quá trình mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế, tiếp nhận
những công nghệ, phương tiện tiến tiến, hiện đại và chỉ có nguồn nhân lực
chất lượng cao mới đáp ứng được yêu cầu phát triển sản xuất cả về số
lượng và chất lượng. Đó là những con người có ý thức tổ chức, kỷ luật và
trình độ chun mơn cao, trong đó chất xám trở thành nguồn vốn quan
trọng nhất, quý giá nhất, là nhân tố quyết định đến sự thành cơng của mục
tiêu cơng nghiệp hố, hiện đại hố.
Kinh nghiệm của các quốc gia và vùng lãnh thổ đã thực hiện cơng
nghiệp hố cho thấy, khơng một nền kinh tế phát triển nào bắt đầu tăng trưởng
kinh tế nhanh mà trình độ phát triển nguồn nhân lực thấp kém lại có thể duy
trì tốc độ tăng trưởng cao vì phát triển nguồn nhân lực là một nhân tố chiến lược
quyết định tốc độ tăng trưởng nhanh, đồng thời là khâu quyết định triển vọng
của tiến trình cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước, nhất là trong trung hạn và
dài hạn.
1.2.5. Quyết định sự thành công phát triển nền kinh tế tri thức
Xu thế phát triển ngày nay là phát triển nền kinh tế tri thức, đó là nền
kinh tế phát triển dựa vào tri thức, trong đó sự sản sinh, truyền bá và sử dụng
tri thức là động lực chủ yếu nhất của sự tăng trưởng, tạo ra nhu cầu, tạo việc
làm trong tất cả các ngành kinh tế và là nền kinh tế mở ra khả năng phát triển
bền vững, nâng cao chất lượng cuộc sống...
25
Trong nền kinh tế tri thức, tri thức là yếu tố sản xuất quan trọng nhất
quyết định việc tạo ra của cải, chất lượng cuộc sống hơn cả đất đai, công cụ
và hơn cả lao động phổ thông. Đặc trưng của nền kinh tế tri thức là không
ngừng gia tăng sử dụng các loại tri thức và sự sáng tạo mới nhất của con
người, có tốc độ đổi mới sản phẩm và cơng nghệ nhanh, tiêu hao ít tài
ngun, năng lượng, mơi trường được đảm bảo bền vững.
Để có thể thực hiện được nền kinh tế tri thức cần phải có nguồn nhân
lực chất lượng cao. Hay nói cách khác nguồn nhân lực chất lượng cao có vai
trị thúc đẩy phát triển kinh tế tri thức.
Nguồn nhân lực đã tạo ra sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ
thuật và cơng nghệ. Con người trong q trình lao động sản xuất và nghiên
cứu đã tìm ra các phát minh khoa học, đồng thời chính họ cũng áp dụng các
thành tựu khoa học đó vào sản xuất, kinh doanh, kết quả là làm thay đổi hệ
thống sản xuất lạc hậu, làm tăng năng suất lao động và hiệu quả sản xuất ngày
càng cao. Có thể nói, con người vừa là động lực vừa là điều kiện quan trọng
thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Kinh tế tri thức làm thay đổi tính chất và nội dung lao động của người
lao động, đó là việc sử dụng tri thức, những công cụ, phương tiện hiện đại. Sự
phát triển khoa học và công nghệ đã làm xuất hiện những ngành nghề mới mà
chỉ có tri thức mới đảm bảo phát triển được.
Xuất phát từ những yêu cầu của nền kinh tế tri thức, Nghị quyết Trung
ương 7 khoá X xác định: “phát triển một nền giáo dục lành mạnh, một môi
trường học tập suốt đời để tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao có năng lực hấp
thụ và sáng tạo tri thức phục vụ phát triển bền vững. Đào tạo những con người
có năng lực thể chất, tinh thần, trí tuệ, nhân cách, tức là phát triển những năng
lực bản chất nhất nhưng đang ở dưới dạng tiềm năng của con người nhằm làm
phong phú thêm và ngày một nâng cao hơn chất lượng cuộc sống của con người,
cũng như cả cộng đồng, đồng thời qua đó tạo động lực bền vững cho phát triển kinh
tế - xã hội. Tăng cường đầu tư cho đội ngũ tri thức là trực tiếp đầu tư cho phát triển