Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

Ths kinh te chinh tri dịch vụ việc làm trên địa bàn thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (370.09 KB, 88 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phát triển nguồn nhân lực và giải quyết việc làm là mối quan tâm hàng
đầu của nhiều quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam, việc làm và giải quyết việc
làm là một trong những vấn đề kinh tế - xã hội, chính trị được Đảng và Nhà
nước đặc biệt quan tâm.
Trước những yêu cầu bức xúc về giải quyết việc làm. Năm 1992, Nhà
nước đặt ra “chương trình đào tạo, đào tạo lại và dạy nghề gắn với dịch vụ
việc làm (DVVL) (giới thiệu, tư vấn, cung ứng lao động…) thông qua dự án
phát triển các Trung tâm dạy nghề và DVVL” và dần được luật pháp hoá về
hoạt động DVVL để hỗ trợ trực tiếp cho người lao động trên đường tìm việc.
DVVL ra đời vào cuối những năm 80 đáp ứng nhu cầu cấp thiết về giải
quyết việc làm do quá trình chuyển đổi nền kinh tế sang hoạt động theo cơ
chế thị trường đặt ra. Hệ thống DVVL ở nước ta nói chung và trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng nói riêng đã hình thành và phát triển nhanh chóng cả về
số lượng và nội dung hoạt động.
Thời gian qua, hệ thống DVVL trên địa bàn thành phố Đà Nẵng đã có
những đóng góp nhất định về tổ chức tư vấn, giới thiệu, cung ứng, chắp nối
việc làm, góp phần phân bổ và sử dụng lao động trên địa bàn thành phố.
Từ năm 2006 đến nay, tình hình kinh tế thế giới và khu vực có nhiều
chuyển biến, xu thế hội nhập đem đến cho nước ta khơng ít cơ hội và thách
thức. Do đó, địi hỏi phải tiếp tục phát triển hệ thống DVVL ngày càng cao để
tư vấn, thu thập; cung cấp thông tin thị trường lao động, giới thiệu; cung ứng
kết nối cung - cầu lao động góp phần phát triển thị trường lao động. Nó trở
thành bức xúc của cả nước nói chung và thành phố Đà Nẵng nói riêng.
Trong khi đó, hệ thống DVVL trên địa bàn thành phố Đà Nẵng khả năng
thu thập, cung cấp thông tin thị trường lao động và hoạt động cung cấp dịch vụ


2


hỗ trợ người lao động còn hạn chế, thể hiện: Hệ thống DVVL chưa được quy
hoạch làm cơ sở cho việc phát triển lâu dài. Tổ chức tư vấn, giới thiệu việc làm
thiếu đồng bộ và quy trình vận hành chưa hình thành. Thu thập, xử lý, cung cấp
thơng tin chưa có tính hệ thống. Đầu tư cho hoạt động DVVL cịn ở mức thấp.
Bên cạnh đó, cịn có đơn vị hoạt động tiêu cực ảnh hưởng đến chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước cũng như quyền lợi của người lao động.
Xuất phát từ lý do trên, tác giả chọn đề tài nghiên cứu “Dịch vụ việc
làm trên địa bàn thành phố Đà Nẵng” làm đề tài luận văn thạc sĩ kinh tế
chính trị.
Tên gọi tổ chức DVVL có nhiều thay đổi trong q trình hình thành và
phát triển. Theo Nghị quyết 120/HĐBT ngày 11 tháng 4 năm 1992 của Hội
đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) thì tên gọi là Trung tâm Xúc tiến việc làm.
Khi Bộ luật lao động được Quốc hội khố IX thơng qua ngày 23 tháng 6 năm
1994, theo Nghị định 72/NĐ-CP ngày 31 tháng 10 năm 1995 thì tên gọi là
Trung tâm dịch vụ việc làm. Khi luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật
lao động ngày 02 tháng 4 năm 2002, theo Nghị định 19/2005/NĐ-CP ngày 28
tháng 02 năm 2005 thì tên gọi là Trung tâm giới thiệu việc làm và doanh
nghiệp hoạt động giới thiệu việc làm, nhưng để phù hợp với tên gọi của Tổ
chức Lao động quốc tế (ILO) và thống nhất với chức năng, nhiệm vụ đang
hoạt động, tác giả xin được gọi là “Dịch vụ việc làm”.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong quá trình hình thành và phát triển các tổ chức DVVL nói chung
và DVVL công ở nước ta cũng như trên địa bàn thành phố Đà Nẵng các cơng
trình nghiên cứu về DVVL chưa nhiều.
- Về sách có các cuốn đề cập đến nhận thức cơ bản về dịch vụ việc làm,
các hoạt động của tổ chức DVVL như:
+ Tập bài giảng dịch vụ việc làm chủ biên TS Lê Thanh Hà, Trường Cao
đẳng Lao động -Xã hội, Nhà xuất bản Lao động-Xã hội, Hà Nội năm 2000.



3
+ Cẩm nang dịch vụ việc làm, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội
Việt Nam- Bộ Lao động Hoa Kỳ, tập I, II, III, Nhà xuất bản Lao động-Xã hội,
Hà Nội năm 2004.
Ngồi ra, có một số cuốn sách viết về thị trường lao động, trong đó
hoạt động DVVL được đề cập đến như một cơng cụ của chính sách phát triển
thị trường lao động.
+ Thị trường lao động Việt Nam định hướng và phát triển Nguyễn Thị
Lan Hương chủ biên, Nhà xuất bản Lao động-Xã hội, Hà Nội năm 2002.
+ Một số vấn đề về phát triển thị trường lao động ở Việt Nam của Viện
Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ
thuật, Hà Nội năm 2003.
+ Thị trường lao động việc làm của lao động qua đào tạo nghề của
Tổng cục dạy nghề, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội năm 2008.
+ Định hướng nghề nghiệp và việc làm của Tổng cục dạy nghề, Nhà
xuất bản Lao động-Xã hội, Hà nội năm 2004.
- Các Báo cáo Hội thảo nhằm đề xuất phương hướng đổi mới hoạt động
DVVL cũng như đề xuất các nội dung sửa đổi, bổ sung Bộ luật Lao động liên
quan đến hoạt động DVVL.
+ Hội thảo: Tổng kết 15 năm hoạt động giới thiệu việc làm và đề ra
phương hướng đổi mới hoạt động giới thiệu việc làm trong thời gian tới, Bộ
Lao động-Thương binh và Xã hội, tháng 10 năm 2006.
+ Báo cáo: Thực trạng hoạt động của hệ thống Trung tâm giới thiệu
việc làm và hệ thống thông tin thị trường lao động tại Việt Nam, phương
hướng, nhiệm vụ và giải pháp phát triển trong thời gian tới của Vụ Lao độngviệc làm (nay Cục việc làm) Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, tháng 9
năm 2007.
+ Hội thảo: Tổng kết, đánh giá hoạt động dịch vụ việc làm, đề xuất các
nội dung sửa đổi, bổ sung Bộ luật Lao động liên quan đến hoạt động dịch vụ
việc làm, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, tháng 3 năm 2008.



4
+ Thực trạng và một số giải pháp phát triển thị trường lao động ở
thành phố Đà Nẵng, Sở Lao động-Thương binh và Xã hội thành phố Đà
Nẵng, tháng 5 năm 2006.
- Một số đề tài nghiên cứu, báo cáo về DVVL nói trên cịn có các bài
viết về hoạt động DVVL. Các bài viết này ở dưới dạng các bài đăng trên tạp
chí cung cấp thơng tin và có tính chất nghiên cứu.
+ Một số giải pháp giải quyết việc làm cho người lao động trong thời
gian tới, của PGS. TS Nguyễn Tiệp, Tạp chí Lao động- Xã hội, số 326 tháng
01 năm 2008.
+ Một số giải pháp về lao động việc làm sau khi Việt Nam gia nhập
WTO của Lê Quang Trung, Phó cục trưởng Cục Việc làm, Bộ Lao độngThương binh và Xã hội, số 331 tháng 3 năm 2008.
+ Các chính sách về việc làm và thị trường lao động trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế, của TS. Nguyễn Bá Ngọc Phó hiệu trưởng Trường
Đại học Lao động - Xã hội, số 332, 333 tháng 4 năm 2008.
+ Vai trò Trung tâm giới thiệu việc làm đối với chính sách bảo hiểm
thất nghiệp, ThS. Trần Phương Trường Đại học Lao động-Xã hội, số 338
tháng 7 năm 2008.
+ Đánh giá giữa kỳ tình hình thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc
gia về việc làm, của Nguyễn Đai Đại Đồng Cục trưởng Cục Việc làm Bộ Lao
động-Thương binh và Xã hội, số 350 tháng 01 năm 2009.
Như vậy, các đề tài nghiên cứu về DVVL ở Việt Nam cịn ít, nghiên
cứu về DVVL ở thành phố Đà Nẵng hầu như chưa có.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Hệ thống hố vấn đề lý luận về DVVL, trên cơ sở đó phân tích thực
trạng và đề xuất phương hướng, giải pháp phát triển hệ thống DVVL trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng.



5
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hoá và làm rõ vấn đề lý luận về DVVL, kinh nghiệm một số
nước hoạt động DVVL phát triển.
- Phân tích thực trạng các loại hình DVVL hoạt động trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng thời gian qua.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm phát triển hệ thống DVVL
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong những năm tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Phân tích hoạt động, phát triển của các loại
hình DVVL trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
- Phạm vi nghiên cứu: Tập trung đề cập từ năm 2006-2010.
5. Cơ sở và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
- Dựa vào cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và những chủ trương của Đảng, Nhà nước về DVVL.
- Thừa kế những cơng trình nghiên cứu và kinh nghiệm phát triển hệ
thống DVVL liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử và kinh tế chính trị Mác - Lênin. Ngồi ra sử dụng các phương pháp
phân tích, so sánh, tổng hợp …
6. Những đóng góp mới của luận văn
Trên cơ sở lý luận khoa học, quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về
DVVL, những nội dung nghiên cứu của đề tài góp phần làm rõ vị trí, vai trị
của DVVL. Góp phần phát triển thị trường lao động trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng theo hướng tích cực.



6
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và mục lục,
luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về dịch vụ việc làm.
Chương 2: Thực trạng dịch vụ việc làm trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
Chương 3: Phương hướng, giải pháp phát triển dịch vụ việc làm trên
địa bàn thành phố Đà Nẵng.


7
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ DỊCH VỤ VIỆC LÀM
1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ DỊCH VỤ VIỆC LÀM

1.1.1. Dịch vụ việc làm - nội dung hoạt động dịch vụ việc làm
1.1.1.1. Khái niệm dịch vụ việc làm
- Việc làm:
Việc làm là một phạm trù tổng hợp liên kết tất yếu quá trình tự nhiên,
kinh tế, xã hội và thực thể từng con người trong sự ổn định, hoàn thiện mỗi cá
nhân con người, xã hội và tự nhiên.
Khái niệm việc làm được định nghĩa tại Điều 13 Bộ Luật lao động như
sau: “Mọi hoạt động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được
thừa nhận là việc làm” (Quốc hội khoá IV ngày 23 tháng 6 năm 1993). Song
trong quá trình phát triển của mỗi cá nhân không phải đến tuổi lao động, có
sức lao động đều tìm được việc làm. Mặt khác dưới sự tác động của nền kinh
tế thị trường thì sự chuyển hoá, biến đổi của nền kinh tế dẫn đến việc làm
ln thay đổi thì sự thiếu ổn định và thay đổi việc làm của người lao động
cũng diễn ra. Vì vậy, DVVL ra đời nhằm hỗ trợ người lao động tiếp cận việc

làm để tìm việc làm phù hợp, ổn định là một nhu cầu tất yếu, khách quan, từ
đó từ thực tiễn và cơ sở lý luận DVVL ra đời.
- Dịch vụ việc làm:
Khi dịch vụ việc làm mới ra đời, người ta thường hiểu dịch vụ việc làm
là hoạt động môi giới việc làm giữa người sử dụng lao động và người lao
động, nhằm chắp nối cung - cầu về lao động trên thị trường lao động.
+ Từ năm 1933 đến năm 1970, Hội nghị toàn thể của Tổ chức Lao động
quốc tế (ILO) nhận thức về dịch vụ việc làm được phát triển dần. Dịch vụ
việc làm ngồi việc mơi giới về việc làm cịn bao gồm nhiều nhiệm vụ khác


8
như thông tin thị trường lao động, cộng tác trong việc thực hiện chính sách
bảo hiểm thất nghiệp, tham gia soạn thảo các kế hoạch nhằm tác động thuận
lợi đến tình hình việc làm...
Nhiệm vụ chủ yếu của cơ quan dịch vụ việc làm là phải bảo đảm
trong sự hợp tác, nếu cần, với các cơ quan công cộng và tư nhân
hữu quan khác, việc tổ chức chu đáo thị trường việc làm như một
bộ phận khăng khít của một chương trình quốc gia, nhằm thực hiện
và duy trì tình trạng mọi người đều có việc làm, và nhằm phát triển
và sử dụng các tài nguyên sản xuất [7].
Dịch vụ việc làm đã phát triển từ lâu trên thế giới, Ở nhiều nước hoạt
động dịch vụ việc làm được tổ chức thành hệ thống, được trang bị các phương
tiện hiện đại nhằm thu thập, phân tích và cung cấp thơng tin thị trường lao
động cho người sử dụng lao động, người lao động cũng như các cơ quan chức
năng liên quan. Người lao động có thể tiếp cận thơng tin bằng nhiều hình thức
để tìm kiếm cơ hội việc làm được thuận lợi và nhanh chóng.
+ Ở Việt Nam năm 1992, theo Nghị quyết 120/HĐBT ngày 11 tháng 4
năm 1992 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về chủ trương, phương
hướng và giải pháp giải quyết việc làm trong thời gian tới, Nhà nước phát triển

các Trung tâm dạy nghề và dịch vụ việc làm. Tuy về tên gọi được thay đổi từ
Trung tâm dạy nghề và dịch vụ việc làm, Trung tâm xúc tiến việc làm (1993),
Trung tâm dịch vụ việc làm (1995), Trung tâm giới thiệu việc làm (2005), các
lần sữa đổi tên đều có kèm theo một vài điều chỉnh nhiệm vụ Trung tâm, song
nội dung hoạt động của nó khơng thay đổi. Và DVVL được hiểu: “DVVL là hoạt
động nhằm hỗ trợ cho người lao động dễ dàng tìm được việc làm” [27].
Từ năm 2005, cùng với việc xã hội hoá các lĩnh vực, về dịch vụ việc
làm Nhà nước mở rộng cho các doanh nghiệp tham gia, gọi là doanh
nghiệp hoạt động giới thiệu việc làm. Hoạt động các đơn vị giới thiệu việc
làm gồm:


9
Hoạt động tư vấn về các lĩnh vực học nghề cho người lao động; việc
làm cho người lao động.
Hoạt động giới thiệu việc làm cho người lao động; cung ứng và
tuyển dụng lao động theo yêu cầu của người sử dụng lao động.
Hoạt động thu thập, phân tích và cung ứng thông tin thị trường lao
động. Tổ chức dạy nghề theo quy định của pháp luật.
Các Trung tâm giới thiệu việc làm từ năm 2010, được giao thêm
nhiệm vụ tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp.
Trên cơ sở đó, có thể khái quát: dịch vụ việc làm là toàn bộ các hoạt
động nhằm hỗ trợ người lao động dễ dàng tìm việc làm, thơng qua q trình
tư vấn, cung cấp thông tin về thị trường lao động và chắp nối việc làm cho
người lao động.
Như vậy, chức năng quan trọng nhất dịch vụ việc làm đó là cung cấp
thơng tin thị trường lao động, tìm kiếm, chắp nối, giới thiệu việc làm phù hợp
cho người lao động và đáp ứng yêu cầu của người sử dụng lao động.
1.1.1.2. Nội dung hoạt động dịch vụ việc làm
- Tư vấn

Theo Từ điển tiếng Việt của Trung tâm Từ điển học, Nhà xuất bản Đà
Nẵng (2009), “Tư vấn là đóng góp ý kiến về các vấn đề được hỏi đến, nhưng
khơng có quyền quyết định”.
Mục tiêu tư vấn là phương pháp quan trọng mà các cơ sở DVVL sử
dụng để cung cấp thơng tin hữu ích và tư vấn cho người tìm việc, người sử
dụng lao động và các tổ chức khác trong thị trường lao động, nhằm giúp họ
tìm ra quyết định về nghề nghiệp, việc làm, tự tạo việc làm, di chuyển lao
động, đào tạo và tuyển dụng.
Người sử dụng dịch vụ tư vấn các cơ sở DVVL gồm nhiều loại khác
nhau, mỗi đối tượng có nhu cầu được tư vấn các vấn đề khác nhau, vì vậy cần
phân loại và định hướng nội dung dịch vụ cần tư vấn và thường có các nhóm:


10
người lao động trên đường tìm việc; người lao động thất nghiệp; sinh viên học
sinh mới ra trường; cơ sở dạy nghề; người lao động muốn chuyển nghề, người
lao động muốn học nghề; người sử dụng lao động và tương ứng từng nhóm có
nhưng vấn đề đặt ra khác nhau.
Các nội dung tư vấn như: các cơ hội việc làm trên địa bàn, trong nước,
ở nước ngồi; các chương trình tự tạo việc làm và chính sách hỗ trợ của Nhà
nước; các vấn đề chung về tìm kiếm việc làm, phương thức tuyển chọn, cách
tham gia thi tuyển, chuẩn bị hồ sơ, quyền lợi của người lao động; lựa chọn
nghề nghiệp để học; việc làm thêm; các vấn đề liên quan quan hệ lao động;
tình trạng nghề trên thị trường đang có nhu cầu…
Tư vấn thường được tổ chức dưới các hình thức: Nói chuyện hướng
nghiệp; hội nghị nghề nghiệp; nói chuyện tại các cơ sở DVVL; trao đổi giữa
các cá nhân; nói chuyện thơng qua các phương tiện thơng tin…
Dịch vụ tư vấn có thể cung cấp cho từng cá nhân hoặc cho tập thể. Đối
với cá nhân thường phù hợp và có hiệu quả nhằm thoả mãn nhu cầu cá nhân
trong quá trình tiếp cận việc làm. Quá trình diễn ra trực tiếp giữa cán bộ

DVVL và cá nhân, đòi hỏi cán bộ phải thường xuyên cập nhật thơng tin và có
hiểu biết lĩnh vực mình phụ trách. Tuy nhiên, tư vấn cá nhân thường mất
nhiều thời gian hạn chế số lượng người được tìm hiểu thơng tin. Đối với tư
vấn tập thể trước hết đòi hỏi lựa chọn đối tượng có cùng đặc điểm nhu cầu tìm
kiếm thông tin cơ bản giống nhau mới phù hợp nội dung tư vấn.
Như vậy, trong quá trình hỗ trợ người lao động trên đường tìm việc, các
cơ sở DVVL thường hỗ trợ bằng cách đóng góp ý kiến cho người lao động về
học nghề, về việc làm, về kỹ năng thi tuyển, về tự tạo việc làm, về chính sách,
pháp luật lao động. Hỗ trợ người sử dụng lao động về tuyển dụng, về quản trị
và phát triển nguồn nhân lực, về sử dụng và phát triển việc làm, về chính
sách, pháp luật lao động.


11
Cán bộ phụ trách cơng tác tư vấn địi hỏi phải nắm và hiểu các vấn đề
được hỏi nêu trên để đóng góp ý kiến cho người lao động, người sử dụng lao
động quyết định về việc chọn nghề, học nghề, về việc làm, chọn lựa việc làm
và tuyển dụng, tổ chức thực hiện các chính sách, chế độ trong quá trình quan
hệ lao động.
- Giới thiệu việc làm
Giới thiệu việc làm là giúp người lao động đang trên đường tìm việc và
người sử dụng lao động gặp nhau trao đổi, thoả thuận về việc làm và các điều
kiện liên quan trong quan hệ lao động.
Giới thiệu người lao động để chắp nối việc làm còn trống được diễn ra
các bước: tiếp nhận người lao động đăng ký tìm việc làm của người lao động,
tiếp nhận đăng ký là quá trình phỏng vấn thu thập thơng tin người lao động về
trình độ được đào tạo, nghề nghiệp, kinh nghiệm và các vấn đề liên quan, lưu
giữ thơng tin người tìm việc. Đồng thời DVVL khai thác hoặc tiếp nhận đăng
ký chỗ việc làm trống có nhu cầu tuyển dụng cũng là q trình phỏng vấn thu
thập thơng tin về chỗ việc trống và các điều kiện liên quan về điều kiện làm

việc, môi trường làm việc, các chế độ liên quan… trên cơ sở đó giới thiệu
người lao động đến chỗ việc làm trống phù hợp.
Như vậy, giới thiệu việc làm là q trình trong đó cơ sở DVVL có
những thông tin về chỗ việc làm trống và giới thiệu cho người tìm việc đến
địa chỉ của người sử dụng lao động để tìm hiểu và có thể đi đến thoả thuận về
việc làm; hoặc cơ sở DVVL có thơng tin về người tìm việc và giới thiệu cho
người sử dụng lao động để tiếp xúc và có thể đi đến những thoả thuận tuyển
dụng [40, tr.452].
Trong giới thiệu việc làm còn quan tâm đến kết quả là hai bên thoả
thuận chấp nhận xác lập quan hệ lao động.
Tuy nhiên, khi giới thiệu người lao động đang trên đường tìm việc đến
với người sử dụng lao động phù hợp là một quá trình mà cán bộ DVVL phải


12
am hiểu ngành nghề, nhu cầu về đặc điểm của việc làm trống mới đảm bảo
chất lượng, nâng cao kết quả chắp nối thành công trong giới thiệu việc làm.
- Cung ứng lao động
Cung ứng lao động thường xảy ra khi người sử dụng có kế hoạch tuyển
dụng lao động số lượng nhiều, hầu hết các chỗ việc trống công việc được mô
tả cụ thể và người sử dụng lao động đã tìm hiểu và tin chắc cơ sở DVVL có
năng lực thực hiện giúp họ tuyển chọn lao động có trình độ, kỹ năng phù hợp.
Cung ứng lao động là một loại dịch vụ mà các cơ sở DVVL có thể
cung cấp cho người sử dụng lao động. Cung ứng lao động được
dùng để chỉ việc cơ sở dịch vụ việc làm và người sử dụng lao động
ký kết hợp đồng cung ứng lao động, trong đó cơ sở DVVL chịu
trách nhiệm tuyển chọn và cung cấp đủ số lượng lao động đáp ứng
các yêu cầu về kỹ năng, tay nghề và các đòi hỏi khác của người sử
dụng lao động [40, tr.452].
- Thông tin thị trường lao động

+ Thị trường lao động:
Thị trường lao động khác với thị trường hàng hố ở chỗ, nó thể hiện
phần lớn những biểu hiện kinh tế - xã hội của cả xã hội và có rất nhiều nhân
tố ảnh hưởng đến sự phát triển của nó. Có nhiều khái niệm về thị trường lao
động nhấn mạnh khía cạnh này hay khía cạnh khác.
Một định nghĩa đơn giản về thị trường lao động là: Thị trường lao động
là nơi diễn ra sự trao đổi giữa kỹ năng lao động và tiền lương [3, tr.28].
Thị trường lao động có các yếu tố chính sau:
Cung lao động: Là những người có khả năng lao động, đang tích cực đi
tìm việc hoặc đang làm việc [3, tr.29].
Cung lao động là tổng nguồn sức lao động của những người tự nguyện
tham gia vào thị trường lao động. Bao gồm những người trong độ tuổi lao
động và cả những người ngoài độ tuổi lao động (trừ lao động trẻ em bị luật


13
pháp nghiêm cấm sử dụng). Cung lao động thông thường được phân chia
thành hai loại:
Cung thực tế: bao gồm tất cả những người đủ tuổi lao động, ở Việt
Nam quy định người đủ 15 tuổi trở lên đang làm việc và cả những người thất
nghiệp có nguyện vọng tìm việc làm.
Cung tiềm năng: bao gồm những người đủ 15 tuổi trở lên đang làm
việc và những người thất nghiệp; cả những người trong độ tuổi lao động có
khả năng lao động nhưng đang đi học, đang làm công việc nội trợ hoặc khơng
có nhu cầu làm việc.
Cầu lao động: Chỗ việc làm trống hiện có và tổng mức việc làm [3].
Cầu lao động là nhu cầu sử dụng lao động của một quốc gia, một địa
phương, một ngành hay một doanh nghiệp trong một khoảng thời gian xác
định. Nhu cầu này thể hiện qua khả năng thuê mướn lao động trên thị trường
lao động.

Xét về số lượng lao động, trong điều kiện năng suất lao động không
đổi, cầu lao động xã hội tỷ lệ thuận với quy mô và tốc độ phát triển sản xuất,
kinh doanh. Nếu quy mô sản xuất, kinh doanh không đổi, cầu lao động tỷ lệ
nghịch với năng suất lao động.
Xét về chất lượng lao động, việc đổi mới công nghệ, nâng cao năng
suất lao động đòi hỏi doanh nghiệp phải bổ sung lực lượng lao động có chất
lượng cao, đó là lao động có trình độ tay nghề giỏi, thông thạo nghiệp vụ
chuyên môn, chịu áp lực cơng việc, có ý thức, tác phong cơng nghiệp, chấp
hành kỷ luật lao động tốt.
Các trung gian thị trường lao động: Cơ chế và các tổ chức hỗ trợ việc
kết nối giữa người lao động và chỗ việc làm trống (người sử dụng lao động).
+ Thông tin thị trường lao động:
Thị trường lao động lại khá phức tạp và để hiểu rõ hơn, chúng ta còn
hiểu thêm các đặc điểm của lực lượng lao động, điều kiện làm việc các loại
cơng việc hiện có và địa điểm phân bổ chúng.


14
Tổ chức Lao động quốc tế đưa ra định nghĩa thông tin thị trường lao
động: Bất kỳ thông tin nào liên quan đến quy mô và cấu phần của thị trường
lao động; định hướng hay chức năng của thị trường lao động, các vấn đề của
thị trường lao động, các cơ hội và các dự định liên quan đến việc làm hay
nguyện vọng của những người tham gia thị trường lao động [3, tr.28].
Như vậy, thông tin thị trường lao động gồm các thông tin liên quan mà
người sử dụng lao động, người lao động so sánh các cơ hội hiện có mà họ
cần. Đối với các đơn vị dịch vụ việc làm, thông tin thị trường lao động thật sự
là loại thông tin mà cán bộ các cơ sở DVVL, người sử dụng lao động, người
lao động trên đường tìm việc có thể sử dụng để so sánh các cơ hội việc làm
hiện có. Đó có thể là các thông tin về sự lựa chọn nghề nghiệp, tiền công và
điều kiện làm việc, cầu lao động hiện tại, địa điểm phân bổ việc làm và các lợi

ích liên quan khác đến việc làm.
Thơng tin thị trường lao động có thể là định tính như: văn bản quy định
pháp luật, các báo cáo đánh giá, phân tích… và định lượng như các số liệu thống
kê lao động, các bảng biểu…gắn liền với điều kiện từng địa bàn và mỗi quốc
gia.
Thông tin thị tường lao động đóng vai trị quan trọng đối với các cơ sở
DVVL. Thông tin thị trường lao động giúp cơ sở DVVL nâng cao vai trị của
mình trên thị trường lao động bằng việc cung cấp thông tin có chất lượng về:
Việc làm và các thiếu hụt về kỹ năng; các xu hướng và cơ hội việc làm; các
khu vực kinh tế, ngành nghề đang và có xu hướng phát triển. Đồng thời giúp
các cơ sở DVVL tiếp cận đầy đủ các thông tin để xây dựng chiến lược, kế
hoạch hoạt động.
1.1.2. Các loại hình dịch vụ việc làm và đặc trưng của nó
1.1.2.1. Các loại hình dịch vụ việc làm
Hiện nay, theo quy định của pháp luật lao động, tổ chức giới thiệu
việc làm có thể chia thành hai loại hình. Trung tâm giới thiệu việc làm là cơ


15
sở dịch vụ việc làm dược hiểu là DVVL công và doanh nghiệp hoạt động
giới thiệu việc làm là cơ sở dịch vụ việc làm được hiểu là DVVL tư.
Nhiệm vụ các Trung tâm giới thiệu việc làm và các hoạt động giới thiệu
việc làm doanh nghiệp đã được sửa đổi, bổ sung, theo Thông tư số 27/TTBLĐTBXH ngày 20 tháng 11 năm 2008 của Bộ Lao động - Thương binh và
Xã hội, được thực hiện như sau:
Hoạt động tư vấn bao gồm:
Tư vấn học nghề cho người lao động về lựa chọn nghề, trình độ đào
tạo, nơi học phù hợp với khả năng nguyện vọng;
Tư vấn việc làm cho người lao động về lựa chọn công việc phù hợp
với khả năng nguyện vọng; về kỹ năng thi tuyển; về tự tạo việc làm, tìm việc
làm trong và ngồi nước;

Tư vấn người sử dụng lao động về tuyển dụng lao động; về quản trị và
phát triển nguồn nhân lực; về sử dụng lao động và phát triển việc làm;
Tư vấn về các chính sách, pháp luật lao động cho người lao động,
người sử dụng lao động.
Hoạt động giới thiệu việc làm cho người lao động, cung ứng và
tuyển lao động theo yêu cầu của người sử dụng lao động bao gồm:
Giới thiệu cho người lao động cần tìm việc làm với doanh nghiệp, cơ
quan, tổ chức, các nhân cần tuyển lao động;
Cung ứng lao động đã được lựa chọn thông qua hồ sơ tuyển dụng phù
hợp với yêu cầu của người sử dụng lao động;
Tuyển lao động thông qua thi tuyển để chọn lựa những người đủ điều
kiện, đáp ứng yêu cầu của người sử dụng lao động.
Hoạt động thu thập, phân tích và cung ứng thơng tin thị trường lao
động, bao gồm:
Nhu cầu tuyển lao động, nhu cầu tìm việc làm;


16
Tiêu chuẩn lao động, tiền lương, tiền công trên địa bàn hoạt động, của
vùng và cả nước.
Riêng đối với các Trung tâm giới thiệu việc làm thuộc ngành Lao độngThương binh và Xã hội, từ năm 2010 thêm nhiệm vụ thực hiện chính sách bảo
hiểm thất nghiệp theo pháp luật lao động.
- Cơ sở dịch vụ việc làm công (TTGTVL)
Trước khi Tổ chức Lao động quốc tế công nhận dịch vụ việc làm tư,
năm 1949 đã thông qua Công ước 96 hướng tới sự độc quyền dịch vụ việc
làm công và kêu gọi bãi bỏ dịch vụ việc làm tư. Xuất phát từ việc dịch vụ việc
làm công không thu phí sẽ đáp ứng thoả đáng các nhu cầu của người tìm việc
cũng như người sử dụng lao động. Đến năm 1994, Mặc dù trên thực tế vẫn
thực hiện nhưng dần khơng cịn phù hợp. Đến năm 1997 một Cơng ước mới
được Tổ chức Lao động quốc tế đưa ra, Cơng ước 181 và đề xuất 188 đã hợp

pháp hố các dịch vụ việc làm tư.
Ở Việt Nam, dịch vụ việc làm ra đời muộn, đồng thời với việc từng
bước chuyển đổi nền kinh tế. Dịch vụ việc làm công ngay từ khi hình thành
phát triển theo hướng trước hết là dịch vụ việc làm công.
Dịch vụ việc làm công (TTGTVL): Theo quy định hiện hành là đơn vị
sự nghiệp có thứ tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động thường xuyên; là tổ
chức thuộc lĩnh vực hoạt động xã hội do cơ quan nhà nước, tổ chức chính trịxã hội thành lập.
Dịch vụ việc làm công (TTGTVL) do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các
tỉnh, thành phố. Thủ trưởng cơ quan Trung ương các tổ chức chính trị- xã hội,
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính
phủ quyết định thành lập Trung tâm thuộc quyền quản lý của mình. Các Trung
tâm giới thiệu việc làm hoạt động vì mục tiêu xã hội, hoạt động phi lợi nhuận.
Chi phí hoạt động các Trung tâm tự đảm bảo một phần và được ngân sách đài
thọ.


17
Các Trung tâm được thu phí của người sử dụng lao động về tư vấn, giới
thiệu việc làm, cung ứng lao động và tuyển dụng lao động theo yêu cầu của
người sử dụng lao động, khơng thu phí của người lao động khi sử dụng dịch
vụ của trung tâm. Từ khi chính sách bảo hiểm thất nghiệp có hiệu lực việc tổ
chức thực hiện chính sách Bảo hiểm thất nghiệp đối với người thất nghiệp khi
tham gia Bảo hiểm thất nghiệp được Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp đài thọ cho
hoạt động này.
Hệ thống DVVL công ở nước ta đã được hình thành và ngày càng phát
triển cả về số lượng và chất lượng hoạt động. Khơng chỉ được hình thành và
phát triển các đơn vị thuộc địa phương mà còn phát triển ở cả các tổ chức
chính trị - xã hội. Hoạt động các Trung tâm giới thiệu việc làm cơ bản đáp
ứng được yêu cầu của thị trường lao động; từng bước phù hợp với quy định
quốc tế về hoạt động của tổ chức dịch vụ việc làm.

Các Trung tâm giới thiệu việc làm đã được các cơ quan chủ quản và
Chương tình mục tiêu quốc gia về việc làm hỗ trợ đầu tư nâng cao năng lực
các trung tâm. Từng bước nâng cao hiệu quả hoạt động, thu hút được người
sử dụng lao động và người lao động sử dụng dịch vụ của các trung tâm
ngày một tăng, góp phần tích cực hỗ trợ giải quyết việc làm cho người lao
động, đóng vai trị quan trọng trong sự phát triển thị trường lao động .
- Cơ sở dịch vụ việc làm tư (DNHGTVL)
Nề kinh tế thế giới nhiều quốc gia có chính sách kinh tế phù hợp mang
lại sự tăng trưởng mạnh mẽ. Tồn cầu hố và sự phát triển về công nghệ thông
tin đã và đang giữ vai trò quan trọng. Tốc độ phát triển và thay đổi đa đang và sẽ
tiếp tục diễn ra nhanh chóng. Khoảng cách thiếu hụt về kỹ năng lao động trong
các thị trường lao động đang gặp phải những thách thức. Để nhanh chóng và đáp
ứng thực tế phát triển và nhu cầu thị trường luôn thay đổi. Các nước đã có cuộc
cải cách thiên về quan điểm làm cho thị trường lao động có hiệu quả hơn, thích
ứng thực tiễn và đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế. Một trong những cải cách đó


18
là giải quyết vai trò dịch vụ việc làm và dịch vụ việc làm tư được Tổ chức
Lao động quốc tế hợp pháp hoá tư năm 1997.
Ở Việt Nam cùng với sự chuyển đổi nền kinh tế, việc chấp nhận dịch
vụ việc làm tư cũng hoạt động cùng dịch vụ việc làm công nhằm đáp ứng nhu
cầu đa dạng thị trường lao động, năm 2005 chính thức được cơng nhận hợp
pháp. Tuy nhiên, dịch vụ việc làm tư hoạt động phải đặt dưới sự giám sát, có
điều kiện được cấp phép hoạt động và Nhà nước quy định chỉ cho thu những
khoản phí và mức thu nhất định nhằm đảm bảo rằng có tác động tích cực cho
sự phát triển hệ thống dịch vụ việc làm.
Dịch vụ việc làm tư: Doanh nghiệp hoạt động giới thiệu việc làm là
Doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo quy định của Luật Doanh nghiệp
năm 2005. Có thể nói doanh nghiệp hoạt động giới thiệu việc làm hoạt động

gắn liền với lợi ích kinh tế.
Sự phát triển của thị trường lao động, nhu cầu đa dạng của người sử
dụng lao động và người lao động tăng. Dịch vụ việc làm công chưa đủ
nguồn lực đáp ứng, đồng thời DVVL công ưu tiên khai thác hỗ trợ giải
quyết việc làm cho lao động yếu thế. Các việc làm đặc thù có thu nhập cao
khai thác tốn thời gian và chủ yếu hỗ trợ người lao động đã có điều kiện
tham gia thị trường lao động, nhằm hướng đến thu nhập cao chưa được
quan tâm. Thực hiện chủ trương xã hội hoá các lĩnh vực…, Nhà nước đầu
tư củng cố và phát triển dịch vụ việc làm công, đồng thời Nhà nước mở
rộng dịch vụ việc làm cho doanh nghiệp tham gia, tạo thuận lợi hơn nữa
cho mọi người lao động, có thể chọn lựa đơn vị cung cấp dịch vụ phù hợp
nhu cầu cá nhân, .
Doanh nghiệp hoạt động giới thiệu việc làm được thu phí tư vấn, giới
thiệu việc làm của người lao động, người sử dụng lao động. Thu phí cung ứng
và tuyển dụng lao động của người lao động, người sử dụng lao động.


19
Từ năm 2005 đến nay, các doanh nghiệp hoạt động giới thiệu việc làm
đã tham gia cung cấp dịch vụ việc làm cho người lao động và người sử dụng
lao động, đặc biệt việc làm có thu nhập cao, kịp thời lấp đầy chỗ việc làm
trống ngày càng tăng. Các cơng ty với hình thức săn đầu người đi đầu trong
việc tìm kiếm, đào tạo, chắp nối việc làm đặc thù có thu nhập cáo cho người
lao động.
Các doanh nghiệp hoạt động hợp pháp đã đầu tư xây dựng lực lượng
nhân sự và điều kiện làm việc, tạo điều kiện người sử dụng dịch vụ tiếp cận
trực tuyến trên hệ thống mạng, góp phần nâng cao cơ hội tìm kiếm việc làm
cho các đối tượng.
Dịch vụ việc làm công và doanh nghiệp hiện nay chưa phải là kênh duy
nhất cung cấp dịch vụ hỗ trợ người lao động về việc làm, người sử dụng lao

động về tuyển dụng. Họ không hoàn toàn dựa vào các cơ sở dịch vụ việc làm
để tìm việc mà thơng qua nhiều kênh khác như các phương tiện thông tin đại
chúng, các đơn vị hướng nghiệp… Tỷ lệ lao động được chắp nối qua kênh các
cơ sở DVVL ở thành phố Đà Nẵng nói riêng đạt trên 40%, trên phạm vi toàn
quốc đạt 25%.
1.1.2.2. Các đặc trưng của dịch vụ việc làm
Dịch vụ việc làm công và doanh nghiệp đều cung cấp dịch vụ việc làm
trên thị trường lao động. Tuy nhiên, do chủ thể thành lập, quản lý và tổ chức
hoạt động khác nhau nên có những đặc trưng chung và đặc trưng riêng từng
loại hình dịch vụ việc làm.
- Đặc trưng chung của dịch vụ việc làm
Một là: Dịch vụ việc làm công và doanh nghiệp là một trong những
chức năng trung thị trường lao động. Làm nhiệm vụ sắp xếp người lao động
vào các chỗ việc làm trống và phục vụ như là đối tác của người tìm việc và
người sử dụng lao động. Người lao động và người sử dụng lao động giao kết
hợp đồng lao động với nhau trên cơ sở môi giới, kết nối của các cơ sở DVVL.


20
Hai là: Dịch vụ việc làm công và doanh nghiệp, khách hàng sử dụng dịch
vụ của đơn vị là người sử dụng lao động và người lao động. Trong đó, cơ sở
DVVL khơng bố trí việc làm trực tiếp mà cung cấp dịch vụ cho người sử dụng lao
động và người lao động, đem lại lợi ích cho cả hai bên.
Ba là: Dịch vụ việc làm công và doanh nghiệp là nơi cung cấp thơng
tin về các điều kiện có liên quan đến việc làm và ảnh hưởng trực tiếp hoặc
gián tiếp đối với kết nối cung và cầu lao động. Trực tiếp là tạo ra sự gặp gỡ
giữa cơ sở DVVL, người lao động, người sử dụng lao động, kết quả sắp xếp
được việc làm thông qua môi giới chắp nối. Gián tiếp là thông qua cung cấp
thông tin và tư vấn cho người tìm việc tự tìm việc hoặc người sử dụng lao
động tìm lao động phù hợp mà khơng có sự trợ giúp trong q trình đó từ cơ

sở DVVL.
- Đặc trưng từng loại hình dịch vụ việc làm
+ Dịch vụ việc làm công:
Được các cơ quan Nhà nước, các tổ chức chính trị- xã hội thành lập và
đầu tư, hoạt động thuộc lĩnh vực xã hội, khơng vì mục tiêu lợi nhuận.
Người lao động sử dụng dịch vụ khơng phải mất phí, người lao động
sử dụng dịch vụ phần lớn là những đối tượng yếu thế trên thị trường lao động.
Người sử dụng lao động tuỳ theo điều kiện từng địa phương, từng nội dung sử
dụng dịch vụ có đóng phí hoặc miễn phí.
Tổ chức thực hiện chính sách đối với người tham gia bảo hiểm thất
nghiệp. Nhiệm vụ này, được Nhà nước giao các cơ sở DVVL thuộc Sở Lao
động-Thương binh và Xã hội tổ chức thực hiện từ cuối năm 2010 (Các
nước có thực hiện chế độ bảo hiểm thất nghiệp nói chung đều giao cơ quan
DVVL công tổ chức thực hiện với mục đích sớm đưa người lao động trở lại
nơi làm việc).
+ Dịch vụ việc làm tư:


21
Dịch vụ việc làm doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo
luật doanh nghiệp, hoạt động gắn liền trực tiếp hay gián tiếp với mục tiêu
lợi ích kinh tế.
Hoạt động cung ứng và giới thiệu việc làm có thu phí dịch vụ. Các đối
tượng sử dụng dịch vụ đều phải mất phí và phần lớn lao động sử dụng dịch vụ
là lao động có điều kiện tham gia thị trường lao động, tìm kiếm chỗ việc làm
có thu nhập cao, việc làm theo sở thích và lao động chưa có điều kiện tiếp cận
DVVL cơng.
1.1.3. Vai trị của dịch vụ việc làm đối với sự phát triển thị trường
lao động
Thị trường lao động cũng như các loại thị trường khác, để thị trường

lao động phát triển cần có những cơ chế, chính sách và các hoạt động tác
động. Trong đó, hoạt động dịch việc làm là một trong những hoạt động tác
động đến sự phát triển của thị trường lao động, thể hiện ở các khía cạnh sau:
- DVVL là nơi giao dịch góp phần phân bổ và sử dụng lao động phù
hợp. Việc đáp ứng đầy đủ nhu cầu lao động trên thị trường, cơ cấu lao động
hợp lý là mục tiêu hướng tới của thị trường lao động hiện đại. Vì vậy, phát
triển DVVL thoả mãn nhu cầu về nguồn nhân lực, việc làm cho người lao
động một cách nhanh chóng là yếu tố quan trọng để tạo động lực thúc đẩy thị
trường lao động phát triển theo hướng tích cực.
- DVVL thực hiện chức năng trung gian thị trường lao động là đưa
cung và cầu đến với nhau, thông qua việc cung cấp thông tin thị trường lao
động, giúp các cá nhân đưa ra quyết định lựa chọn. Nhiệm vụ cơ bản của
trung gian của thị trường lao động là giúp mọi người lao động chuyển đổi từ
công việc này sang công việc khác, từ học sang làm, từ thất nghiệp sang có
việc làm. Một trong những chuyển đổi này là cung cấp thông tin liên quan đến
chỗ việc làm trống, các ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đối với việc kết nối
cung và cầu lao động trên thị trường lao động.


22
DVVL nâng cao chất lượng chức năng trung gian nhanh chóng kết nối
người tìm việc (sức lao động) với chỗ việc làm trống (người sử dụng lao động),
sớm lấp đầy chỗ việc làm trống trong sự biến đổi của thị trường lao động.
- DVVL Là điểm quan sát, thu thập và cung ứng thông tin liên quan đến
hoạt động và phát triển của thị trường lao động cho các đối tượng có nhu cầu.
Hệ thống thơng tin được xây dựng hoàn thiện và đi vào vận hành, cơ sở
DVVL sẽ đóng vai trị quan trọng là trạm quan sát thơng tin, trên cơ sở đó kết
nối với hệ thống, tổng hợp, cung cấp thông tin thị trường lao động được
thường xuyên và đầy đủ.
Từ thông tin thu thập được DVVL hỗ trợ tích cực trong tư vấn nghề

cho người lao động và công tác dạy nghề. Các cơ sở dạy nghề tổ chức dạy
nghề phù hợp thị trường, các cơ sở DVVL tổ chức dạy nghề ngắn hạn gắn với
việc làm đáp ứng nhu cầu doanh nghiệp.
- DVVL đã góp phần tăng số lượng và chất lượng giao dịch việc làm,
giảm nhu cầu thiếu hụt về nhân lực và kịp thời giải quyết việc làm, giảm thất
nghiệp, góp phần ổn định xã hội.
Đặc biệt, các đơn vị dịch vụ việc làm công Nhà nước giao nhiệm vụ tổ
nhằm phát huy vai trò của dịch vụ việc làm nhằm hỗ trợ phát triển thị trường lao
động theo hướng tích cực. Trong đó, hệ thống dịch vụ việc làm cơng thuộc ngành
Lao động-Thương binh và Xã hội phải triển khai thực hiện hầu hết các lĩnh.
DVVL cơng trước hết làm tăng tính hiệu quả hoạt động, tăng tính minh
bạch thơng tin thị trường lao động. Thơng tin dễ bị bóp méo nếu các cơ sở
DVVL thiếu trung thực, không cung cấp một cách đầy đủ và đúng thực tế có
thể dẫn đến người sử dụng dịch vụ có những quyết định sai hoặc thậm chí bị
lừa đảo nếu cơ sở DVVL vì mục tiêu lợi ích kinh tế.
DVVL cơng được tổ chức vì mục tiêu xã hội, hỗ trợ phần lớn cho lao
động yếu thế trên thị trường, lao động đăng ký thất nghiệp. Cơ quan quản lý Nhà


23
nước về lao động, các tổ chức thường xuyên kiểm tra, hướng dẫn, chỉ đạo và
đóng góp cho q trình hoạt động nhằm hướng đến sự lành mạnh của DVVL.
1.1.4. Điều kiện, xu hướng phát triển dịch vụ việc làm có hiệu quả
1.1.4.1. Điều kiện để dịch vụ việc làm phát triển có hiệu quả
Để dịch vụ việc làm hoạt động có hiệu quả, trước hết ở đó thị trường
lao động hình thành, tỉ lệ người làm cơng hưởng tiền lương tiền cơng ngày
càng tăng. Đồng thời cần có những điều kiện nhất định, đó là các điều kiện
liên quan đến môi trường, năng lực các cơ sở dịch vụ việc làm, đến điều kiện
chất lượng cung cấp các loại hình dịch vụ.
DVVL có hiệu quả thể hiện qua sự đánh giá của các đại diện cơ quan

Nhà nước, tổ chức đại diện người sử dụng lao động, tổ chức đại diện người
lao động và người lao động.
- Đối với cơ quan quản lý Nhà nước hoạt động dịch vụ việc làm có phát
huy được vai trị trung gian thị trường lao động, đáp ứng thoả đáng các nhu
cầu của người tìm việc cũng như người sử dụng lao động về các loại hình dịch
vụ do DVVL cung cấp, thể hiện:
+ Giảm thời gian tìm kiếm, kết nối giữa cung và cầu;
+ Cải cách và cung cấp thông tin về nhu cầu tuyển dụng;
+ Nhạy bén với sự thay đổi của thị trường lao động và khả năng đáp
ứng sự thay đổi đó;
+ Hỗ trợ thơng tin nhằm rút ngắn được khoảng cách giữa kỹ năng và
yêu cầu của công việc.
Đặc biệt đối với dịch vụ việc làm cơng có hoạt động có đúng hướng
nhằm tác động đến sự phát triển thị trường lao động theo hướng tích cực.
Đồng thời định hướng cho dịch vụ việc làm tư, kết hợp công- tư trong hoạt
động dịch vụ việc làm hay không.
- Đối với người sử dụng lao động việc đánh giá DVVL có hiệu quả là
có đáp ứng các dịch vụ mà người sử dụng lao động cần, đó là: đáp ứng


24
nhanh nhu cầu nhân lực, tỉ lệ chắp nối thành công giữa lao động do dịch vụ
việc làm cung cấp với chỗ việc làm trống. Các thông tin về nguồn nhân lực,
cơ cấu ngành nghề, đóng góp ý kiến về tổ chức thực hiện chính sách, chế
độ liên quan đến quan hệ lao động...
- Đối với người lao động đánh giá hiệu quả DVVL thông qua việc cung
cấp thông tin thi trường lao động; lượng chỗ việc làm trống để họ có cơ hội
tiếp cận, chọn lựa việc làm. Đóng góp ý kiến để người lao động bổ sung kỹ
năng cần thiết phù hợp chỗ việc làm trống, cung cấp thông tin về các cơ sở
đào tạo nghề và điều kiện tham gia các khoá đào tạo....

Đối với dịch vụ việc làm cơng có hỗ trợ lao động yếu thế trong thị
trường lao động hay không. Thái độ hỗ trợ có hướng đến đặc tính cá nhân,
nhằm tạo cơ hội họ nhanh chóng tìm được việc làm.
1.1.3.2. Xu hướng phát triển dịch vụ việc làm hiệu quả
- Sự cần thiết phát triển DVVL
+ Trong bối cảnh Việt Nam đang chuyển đổi nền kinh tế một cách thận
trọng và vững chắc sang nền kinh thế thị trường theo định hướng Xã hội chủ
nghĩa. Đồng thời, hướng đến phát triển đồng đều giữa các vùng, miền, đẩy
mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp và đáp ứng nhu cầu chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hố được coi
trọng. Trong đó, giảm lao động nơng nghiệp, tăng tỉ lệ lao động công
nghiệp và xây dựng, dịch vụ, nhất là các dịch vụ chất lượng cao gắn liền
với các hoạt động kinh tế. Bước chuyển dịch này địi hỏi phải thực hiện sự
phân cơng lại lao động xã hội, nâng cao chất lượng việc làm, năng suất lao
động và hiệu qua lao động.
+ Nền kinh tế dựa trên nền tảng sản xuất cơng nghiệp liên quan đến
tồn bộ quan hệ lao động, quan hệ xã hội theo nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó, thị trường lao động là một trong những thị
trường không thể thiếu được. Do vậy, tạo môi trường và điều kiện để phát


25
triển thị trường lao động thơng thống và thống nhất, khơng bị chia cắt về
hành chính, cạnh tranh mạnh, tạo được nhiều việc làm, đồng thời có sự quản
lý, kiểm soát và điều tiết của Nhà nước.
+ Thời gian dài, chúng ta đã gặp phải khó khăn vấn đề giải quyết việc
làm cho người lao động và thách thức về thất nghiệp cơ cấu trong quá trình
chuyển đổi. Vấn đề này đã tác động nghiêm trọng đến các đối tượng thanh
niên có trình độ học vấn thấp, khơng có nghề, kỹ năng nghề thấp và kinh
nghiệm làm việc hạn chế. Đây là vấn đề gây khó khăn trong việc giải quyết

việc làm cho người lao động trong nền kinh tế thị trường.
Do vậy, cùng với cải thiện các điều kiện thu hút đầu tư tạo ra nhiều
việc làm, phát triển lực lượng lao động được đào tạo và khả năng thích nghi
để có thể có được việc làm ổn định, bền vững. Đồng thời, hỗ trợ người chưa
có việc làm, người thất nghiệp có cơ hội nhanh chóng tìm được việc làm, hạn
chế tối đa thời gian tìm việc, thời gian thất nghiệp. Trong quá trình chuyển đổi
DVVL ngày càng phát triển để cải thiện tính minh bạch của thị trường lao động
và hỗ trợ lao động yếu thế khi tham gia thị trường lao động. Đặc biệt là DVVL
công. DVVL có thể coi là hoạt động quan trọng, cùng với các chương trình hỗ
trợ khác giúp người chưa có việc làm, người thất nghiệp hướng đến đáp ứng
nhu cầu thị trường.
+ DVVL ra đời từ cuối những năm 80 thế kỷ XX đến nay, Nhà nước đã
đưa ra các giải pháp khác nhau để tăng cường chất lượng, hiệu quả, khả năng
thu hút mọi người sử dụng dịch vụ, bên cạnh có chính sách hỗ trợ từng nhóm
đối tượng yếu thế gặp khó khăn trong tìm kiếm việc làm để họ có điều kiện
tiếp cận tìm việc làm phù hợp.
Trong một thị trường lao động từng bước hình thành và biến đổi, các
hình thức giao dịch trên thị trường lao động tiếp tục phát triển đa dạng, hoạt
động đang xen và sơi động. Những hình thức giao dịch chính thống trở thành
phổ biến và hiệu quả, như vậy DVVL sẽ tiếp tục phát triển, tạo điều kiện nâng


×