1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất nước ta qua hơn 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới, phát triển
kinh tế thị trường định hướng XHCN, đã giành được những thành tựu hết sức
to lớn, khắc phục được khủng hoảng kinh tế và đưa đất nước đi vào thời kỳ
phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và
hội nhập kinh tế quốc tế. Sự phát triển bền vững, mở rộng thị trường, phát huy
nội lực tranh thủ ngoại lực, vận dụng được các quy luật của nền kinh tế thị
trường vào điều kiện của nước ta để xây dựng đất nước thành nước công
nghiệp hiện đại. Những thành tựu kinh tế - xã hội đạt được là đáng tự hào,
song chúng ta không thể, không thừa nhận những mặt trái của kinh tế thị
trường đã và đang tác động đến tình hình xã hội và ANTT.
Tình hình ANTT trong những năm qua tiếp tục được giữ vững, nhưng
vẫn diễn biến phức tạp trên nhiều lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội, tội phạm
vẫn có xu hướng tăng và mang tính nguy hiểm, gây nhiều hậu quả đặc biệt
nghiêm trọng. Trong đó có tình hình tội phạm kinh tế, nhất là tham nhũng,
buôn lậu và gian lận thương mại, lừa đảo, tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng,
tài chính, đất đai, đầu tư nước ngồi... đang có xu hướng tăng và ảnh hưởng
nghiêm trọng đến sự phát triển bền vững của đất nước, làm xói mịn các giá
trị văn hố truyền thống, nền tảng đạo đức gia đình, xã hội. Đây là mối đe doạ
đối với ANTT của đất nước.
Đứng trước tình hình hoạt động tội phạm ngày càng gia tăng và diễn
biến phức tạp, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương biện pháp đấu
tranh quyết liệt với các loại tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật. Thực
hiện các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng và Chính phủ, đặc biệt là thực hiện
NQ09/CP của Chính phủ về Tăng cường cơng tác phịng chống tội phạm
trong tình hình mới và Quyết định 138 về Chương trình quốc gia phịng chống
tội phạm, đã mang lại những kết quả quan trọng. Tuy nhiên, hoạt động của tội
2
phạm nói chung và tội phạm kinh tế nói riêng vẫn diễn ra nghiêm trọng, tính
chất xuyên quốc gia, quốc tế ngày càng đậm nét, vấn đề phòng ngừa, đấu
tranh chống tội phạm, nhất là tội phạm tham nhũng, buôn lậu đòi hỏi phải
phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị, tồn Đảng, tồn qn và tồn dân,
nhất là các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhấn
mạnh quan điểm kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế với quốc phòng, an ninh:
“Kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh theo phương châm phát triển
kinh tế - xã hội là nền tảng để bảo vệ tổ quốc; ổn định chính trị, củng cố quốc
phòng, an ninh vững mạnh là điều kiện phát triển kinh tế - xã hội” và “Sự kết
hợp phát triển kinh tế - xã hội với củng cố, quốc phòng, an ninh phải được thực
hiện ngay trên từng địa bàn lãnh thổ, từ công tác quy hoạch, xây dựng kế hoạch
và hình thành các dự án đầu tư phát triển” [26, tr 227-228].
Như vậy, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, Đảng đã đề ra mục tiêu
phải giữ vững sự ổn định ANTT. Nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và đảm
bảo ANTT có quan hệ chặt chẽ với nhau. Giữ vững ANTT là nhiệm vụ cực kỳ
quan trọng, là điều kiện tiên quyết cho việc thực hiện thắng lợi những mục
tiêu kinh tế- xã hội. Phát triển kinh tế là nền tảng vật chất để giữ vững ANTT.
Đảm bảo ANTT còn là điều kiện để phát triển kinh tế - xã hội, để bảo vệ vững
chắc và xây dựng thành công CNXH. Gắn nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội
với đảm bảo quốc phòng, an ninh là một quan điểm xuyên suốt của Đảng và
Nhà nước, không chỉ ở phạm vi quốc gia mà còn ở phạm vi các cơ sở, từng
vùng, từng ngành.
Quán triệt nội dung trên, trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội phải
thường xuyên tăng cường, củng cố và đảm bảo ANTT. Phải kết hợp chặt chẽ
giữa phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường ANTT trong q trình phát
triển. Mơi trường chính trị ổn định, xã hội được giữ vững là yếu tố cực kỳ
quan trọng cho tăng trưởng và phát triển kinh tế.
3
Thành phố Hồ Chí Minh nằm trong khu vực kinh tế trọng điểm phía
Nam, là điểm tiếp giáp giữa khu vực miền Đông Nam bộ và khu vực Đồng
bằng sông Cửu Long. Với vị trí là trung tâm kinh tế, thương mại và dịch vụ
của toàn vùng nên sự phát triển kinh tế của thành phố Hồ Chí Minh có vai trò
quan trọng đối với việc tăng trưởng kinh tế của cả nước.
Thành phố Hồ Chí Minh ln là địa phương dẫn đầu cả nước về tăng
trưởng và phát triển kinh tế. Tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm ln cao
hơn tốc độ tăng trưởng bình qn chung của cả nước. Tốc độ tăng GDP giai
đoạn 2001 - 2005 đạt bình quân 11,0%/năm và giai đoạn 2006 - 2010 đạt bình
quân 13%/năm, bình quân cả thời kỳ 2001 - 2010 đạt 12%/năm [7].
Tiếp tục khẳng định vị trí, vai trị của thành phố Hồ Chí Minh trong thời
kỳ đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước giai đoạn
2010 - 2015, chính quyền và Đảng bộ nhân dân thành phố đã đề ra mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội đến 2015: “Duy trì tốc độ tăng trưởng của thành phố
cao hơn tốc độ tăng trưởng bình quân chung của cả nước và phát triển một
cách toàn diện, cân đối và bền vững về kinh tế, văn hóa, xã hội, đảm bảo vững
chắc an ninh, quốc phòng” [7].
Trong những năm qua, bên cạnh sự tăng trưởng và phát triển kinh tế
mạnh mẽ, thành phố Hồ Chí Minh đã và đang xuất hiện thêm nhiều vấn đề về
ANTT mà lực lượng Công an cần phải quan tâm như tệ nạn tham nhũng, hối
lộ, buôn lậu, làm hàng giả, trốn thuế, gian lận thương mại, tình trạng gây ô
nhiễm môi trường. tệ nạn xã hội gia tăng như nạn nghiện hút, tiêm chích ma
túy, cùng với sự xuất hiện nhiều loại tội phạm hình sự khác đã tác động đáng
kể đến sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của Thành phố. Trước thực trạng
đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng, lực lượng Công an thành phố Hồ Chí Minh đã
có nhiều biện pháp tích cực để đảm bảo ANTT, góp phần quan trọng tạo ra
mơi trường thuận lợi cho việc tăng trưởng và phát triển kinh tế. Song, bên
cạnh những mặt tích cực đã đạt được, cũng xuất hiện nhiều yếu tố khá phức
4
tạp làm cho cơng tác đảm bảo ANTT cịn có những hạn chế nhất định ảnh
hưởng đến phát triển kinh tế.
Để góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế với đảm bảo
ANTT, việc nghiên cứu vấn đề “Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với đảm
bảo an ninh, trật tự trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh” có ý nghĩa rất quan
trọng, làm cơ sở và phục vụ yêu cầu đấu tranh chống tội phạm của lực lượng
Cơng an Thành phố, góp phần đảm bảo ANTT. Tạo mơi trường chính trị, xã
hội ổn định, là một trong những cơ sở thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh
tế của thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và cả nước nói chung.
Chính vì lẽ đó, tác giả chọn đề tài: “Mối quan hệ giữa phát triển kinh
tế với đảm bảo an ninh, trật tự trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh” làm
đề tài luận văn Thạc sĩ Kinh tế, chuyên ngành Kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu
Giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và an ninh, trật tự là một
vấn đề quan trọng đã được nhiều người quan tâm nghiên cứu dưới nhiều góc
độ khác nhau. Cho đến nay đã có các đề tài khoa học được cơng bố như:
- GS,TS Nguyễn Xuân Yêm (2003), Tội phạm kinh tế thời mở cửa, Nxb.
Công an nhân dân, Hà Nội.
- Đại tá, Phan Hồng Tam (2000), Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt
động giữ gìn trật tự an tồn xã hội tại các khu cơng nghiệp tập trung Biên
Hịa - Đồng Nai, Đề tài khoa học cấp Bộ, năm 2000.
- Bùi Trung Thành (2001), Đầu tư nước ngồi và cơng tác an ninh, Luận
án Tiến sĩ, năm 2001.
- TS. Nguyễn Văn Ngừng (2009), Tác động của kinh tế thị trường và hội
nhập kinh tế quốc tế đối với quốc phòng an ninh ở Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội.
- PGS,TS Nguyễn Quốc Nhật - TS. Nguyễn Văn Ngừng (2001), Hội nhập
kinh tế với vấn đề giữ gìn an ninh quốc gia ở Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội.
- Tạ Đức Dũng (2006), “Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với
an sinh xã hội”, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Hà Nội.
5
Các cơng trình khoa học trên chủ yếu đề cập đến cơng tác đảm bảo
ANTT mang tính chất chung, hoặc chỉ tập trung vào hoạt động giữ gìn ANTT
ở một số địa bàn nhất định... chưa có một cơng trình nào đề cập một cách cụ
thể đến vấn đề “Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với đảm bảo an ninh,
trật tự trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh”. Chính vì vậy, đề tài khơng
trùng lặp với các cơng trình khoa học đã cơng bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ thực trạng mối quan hệ và tác động qua lại giữa phát
triển kinh tế với việc đảm bảo ANTT, luận văn đề xuất một số giải pháp vừa
góp phần đảm bảo phát triển kinh tế, vừa đảm bảo ANTT trên địa bàn thành
phố Hồ Chí Minh.
Những kết quả nghiên cứu sẽ góp phần tạo điều kiện, mơi trường thúc
đẩy phát triển kinh tế với bảo đảm tình hình ANTT trên địa bàn thành phố Hồ
Chí Minh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để làm rõ mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ cơ bản sau:
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và
đảm bảo ANTT, những vấn đề phức tạp về ANTT tác động đến sự phát triển
kinh tế và tác động của phát triển kinh tế ảnh hưởng đến ANTT.
- Phân tích, đánh giá thực trạng mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với
đảm bảo ANTT trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
- Trên cơ sở đó, luận văn đề xuất các giải pháp khắc phục những vấn đề
phức tạp nhằm đảm bảo ổn định chính trị, bảo vệ vững chắc ANTT, tạo môi
trường ANTT ổn định cho sự phát triển kinh tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là giải quyết mối quan hệ giữa phát triển
kinh tế với bảo đảm ANTT trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
6
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Đề tài nghiên cứu mối quan hệ giữa phát triển kinh tế
với đảm bảo ANTT trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
- Về thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu từ năm 2006 - 2010.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận kinh tế chính trị của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam, chính sách, pháp luật của Nhà nước Cộng hịa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam và kết quả tổng kết một số vấn đề lý luận, thực tiễn của đất nước
qua hơn 20 năm đổi mới; đồng thời, kế thừa có chọn lọc các cơng trình nghiên
cứu khoa học đã được cơng bố có nội dung liên quan đến đề tài nghiên cứu.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận:
Luận văn vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mác - Lênin, các phương pháp của kinh tế chính trị học, kết hợp với
phương pháp logic, lịch sử, gắn lý luận với thực tiễn và khảo sát thực tế.
- Phương pháp nghiên cứu cụ thể:
Sử dụng phương pháp tổng kết kinh nghiệm, phương pháp lịch sử và
lơgíc, phương pháp thống kê, phân tích và tổng hợp.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Đánh giá thực trạng giữa phát triển kinh tế với bảo đảm ANTT trên địa
bàn thành phố Hồ Chí Minh.
- Đề xuất những giải pháp nhằm phát huy mối quan hệ giữa phát triển kinh tế
với đảm bảo ANTT trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới. Kết
quả nghiên cứu có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác đấu tranh
phịng chống tội phạm của lực lượng Cơng an thành phố Hồ Chí Minh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn được kết cấu thành 3 chương, 8 tiết.
7
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁT TRIỂN
KINH TẾ VỚI BẢO ĐẢM AN NINH, TRẬT TỰ
1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
1.1.1. Khái niệm phát triển kinh tế
Theo Đại từ điển tiếng Việt: “Kinh tế là khái niệm để chỉ tổng hợp những
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của một hình thái kinh tế - xã
hội, là hoạt động để tạo ra cơ sở vật chất cho con người và xã hội” [26, tr.948].
Hoạt động kinh tế là việc sử dụng các nguồn lực hữu hạn một cách tối ưu
để sản xuất ra của cải đáp ứng tốt nhất các nhu cầu xã hội. C. Mác tiếp cận
vấn đề này từ góc độ quan hệ xã hội của con người hình thành trong quá trình
sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng - Quan hệ sản xuất. Đó là sự vận động
của đời sống kinh tế. Kinh tế còn được xem xét dưới bình diện tính chất và
loại hình của nó trong những hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Đó là tồn
bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội.
“Phát triển là sự vận động, tiến triển theo chiều hướng tăng lên” [26, tr.1321].
Để hiểu rõ phát triển kinh tế, trước hết phải hiểu khái niệm tăng trưởng kinh
tế. Tăng trưởng kinh tế, là sự tăng thêm về qui mô, sản lượng sản phẩm hàng
hóa và dịch vụ trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm). Để biểu thị
sự tăng trưởng kinh tế người ta thường dùng mức tăng thêm Tổng sản phẩm
trong nước hay Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domeestic Product, viết tắt là
GDP) và Tổng sản phẩm quốc dân hay Tổng sản phẩm quốc gia (Gross
National Product, viết tắt là GNP).
Chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế là mức gia tăng GDP hay GNP năm sau so
với năm trước, được tính như sau:
GDP1 - GDP0
Mức tăng trưởng GDP = ----------------- x 100 %
GDP0
8
Trong đó:
GDP1: Tổng sản phẩm quốc nội hiện hành.
GDP0: Tổng sản phẩm quốc nội thời kỳ gốc.
GNP1 - GNP0
Mức tăng trưởng GNP = ----------------- x 100 %
GNP0
Trong đó:
GNP1: Tổng sản phẩm quốc dân hiện hành.
GNP0: Tổng sản phẩm quốc dân thời ký gốc.
Tăng trưởng kinh tế là đặc trưng của tái sản xuất mở rộng, của sự tiến
bộ kinh tế - xã hội. Nó có vai trị vơ cùng quan trọng với mỗi quốc gia và là
điều kiện để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, xóa đói giảm nghèo, phát
triển văn hóa, giáo dục, y tế, nâng cao tuổi thọ cho người dân...
Song, không phải sự tăng trưởng nào cũng mang lại hiệu quả kinh tế xã hội mong muốn. Tăng trưởng kinh tế quá mức có thể dẫn nền kinh tế đến
“trạng thái quá nóng”, lúc đó lạm phát sẽ xảy ra. Nếu tăng trưởng kinh tế quá
thấp cũng sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống chính trị - xã hội của đất nước.
Bởi vậy, sự tăng trưởng kinh tế phải hợp lý, nghĩa là phù hợp với khả năng
của đất nước trong mỗi thời kỳ lịch sử nhất định.
Sự tăng trưởng kinh tế hợp lý nhất thể hiện ở tăng trưởng kinh tế bền
vững, tức là tăng trưởng kinh tế đạt mức tương đối cao và ổn định trong thời
gian tương đối dài (từ 20 đến 30 năm). Tăng trưởng kinh tế bền vững bao hàm
ý nghĩa bảo vệ môi trường và tiến bộ xã hội.
- Có nhiều nhân tố tác động đến sự tăng trưởng kinh tế, trong đó có thể
đề cặp đến các nhân tố cơ bản sau:
Thứ nhất là vốn, đó là toàn bộ của cải vật chất do con người tạo ra được
tích lũy lại và những của cải tự nhiên như đất đai, khoáng sản đã được cải tạo
hoặc chế biến...
Tăng trưởng phụ thuộc vào lượng vốn đầu tư và hiệu suất sử dụng vốn.
Mối liên hệ giữa tăng GDP với tăng vốn đầu tư, được gọi là hiệu suất sử dụng
9
vốn sản phẩm gia tăng (Incremental Capital Output Ration, viết tắt là ICOR).
Đó là tỷ lệ tăng đầu tư chia cho tỷ lệ tăng của GDP (ICOR =3/1 tức tăng đầu
tư 3% thì GDP tăng 1%).
Thứ hai là con người, đây là nhân tố cơ bản cuả tăng trưởng kinh tế bền
vững, vì tài năng và trí tuệ của con người là bền vững, vơ tận, cịn vốn và tài
ngun thì hữu hạn; con người sáng tạo kỹ thuật cơng nghệ và sử dụng chúng.
Vì vậy cần coi trọng nhân tố con nguời, cần đầu tư phát triển giáo dục, đào
tạo, y tế... Chính phủ phải đóng vai trị chủ đạo trong đào tạo, sử dụng, tuyển
chọn nhân tài.
Thứ ba là khoa học và công nghệ, là nhân tố quyết định chất lượng của
sự tăng trưởng, năng suất lao động và lượng lao động thặng dư, từ đó quyết
định vấn đề tích lũy đầu tư.
Thứ tư là cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, cơ cấu kinh tế gồm cơ cấu
ngành nghề, cơ cấu vùng, cơ cấu thành phần kinh tế... thể hiện ở những tỷ lệ
thích hợp giữa các yếu tố, các bộ phận cả về số lượng và chất lượng. Cơ cấu kinh
tế hợp lý thể hiện xác định và phát huy được thế mạnh của mỗi yếu tố, tạo sức
mạnh tổng hợp để sản xuất và hiệp tác trong và ngồi nước có hiệu quả.
Thứ năm là thể chế chính trị, thể chế chính trị tiến bộ có khả năng hướng
sự tăng trưởng kinh tế vào con đường đúng, tránh được khuyết tật của những
con đường tăng trưởng trước đây như tăng trưởng gây ô nhiễm mơi trường,
tăng trưởng đi đối với phân hóa giàu - nghèo...
Ngồi ra, hệ thống chính trị mà thiết chế quan trọng nhất là nhà nước có
thể đề ra được các chính sách đúng đắn, khuyến khích tích lũy, tiết kiệm, làm
tăng cầu xã hội, kích thích tăng trưởng nhanh... Sự tăng trưởng kinh tế đi kèm
với sự hoàn chỉnh cơ cấu, thể chế kinh tế và chất lượng cuộc sống.
- Phát triển kinh tế đòi hỏi phải thực hiện ba nội dung cơ bản sau đây:
Sự tăng trưởng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tổng sản phẩm quốc
dân (GNP) và GDP hay GNP theo đầu người phản ánh mức độ tăng trưởng
sản xuất.
10
Sự biến đổi cơ cấu kinh tế, quan trọng nhất là tỷ trọng của các ngành
dịch vụ và công nghiệp ngày một tăng, cịn tỷ trọng nơng nghiệp ngày một
giảm xuống. Nội dung này phản ánh chất lượng tăng trưởng kinh tế, trình độ
kỹ thuật của nền sản xuất.
Sự tăng lên của thu nhập thực tế của mỗi người dân phản ánh tính xã hội
của sự tăng trưởng kinh tế.
- Phát triển kinh tế phải đáp ứng được các tiêu chí sau:
Mức tăng trưởng kinh tế phải lớn hơn mức tăng dân số (nếu tăng trưởng
dân số 1%, thì tăng trưởng kinh tế phải bằng 4% mới đảm bảo mức sống năm
sau bằng năm trước).
Sự tăng trưởng kinh tế phải đi liền với sự thay đổi cơ cấu kinh tế - xã
hội. Nhờ cơ cấu mới mà có tăng trưởng bền vững.
Tăng trưởng kinh tế đi đôi với tăng thu nhập thực tế của đại bộ phận dân
cư nhờ phân phối hợp lý kết quả tăng trưởng, nhờ ổn định được lạm phát,
ngăn ngừa khủng hoảng...
Ngày nay, phát triển kinh tế còn được bổ sung thêm tiêu chuẩn về chất
lượng sản phẩm cao, bảo vệ môi trường và bảo đảm công bằng xã hội.
- Những yếu tố ảnh hưởng tới phát triển kinh tế:
Những yếu tố thuộc về LLSX, gồm điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên
nhiên, con người, công nghệ... ảnh hưởng trực tiếp tới phát triển kinh tế. Do
vậy phải tập trung phát triển LLSX. Khoa học và công nghệ đã trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp. Ta cần có chính sách thích hợp để phát triển và ứng
dụng khoa học, công nghệ. Con người là chủ thể của phát triển kinh tế, xã hội.
Trong thời đại kinh tế tri thức, vai trò con người ngày càng nổi trội. Cần có
chính sách phát triển giáo dục đào tạo và các chính sách khác để phát huy
nhân tố con người.
Những yếu tố thuộc về quan hệ sản xuất, quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ của LLSX là động lực thúc đẩy LLSX phát triển và ngược lại.
11
Quan hệ sản xuất trực tiếp quy định hệ thống lợi ích kinh tế. Lợi ích kinh
tế là một động lực giữ vai trò quyết định trong các động lực, trong đó lợi ích
kinh tế của người lao động giữ vai trò động lực trực tiếp.
Cơ chế kinh tế thị trường với tác động của các quy luật kinh tế có tác
động mạnh mẽ tới hiệu quả sản xuất và tăng trưởng kinh tế. Nhưng, cơ chế đó
cũng có khuyết tật. Vì vậy, ở Việt Nam cơ chế thị trường có sự quản lý của
nhà nước theo định hướng XHCN tác động mạnh mẽ tới kinh tế, là cơ chế
thích hợp với sự phát triển định hướng theo CNXH ở Việt Nam.
Những yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng, bao gồm những quan điểm
chính trị, pháp quyền, đạo đức, tơn giáo, triết học, nghệ thuật... cùng các thiết
chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, các đoàn thể xã hội tác động
đến các quan hệ kinh tế và sự phát triển xã hội bằng những hình thức và cơ
chế khác nhau. Tác động của kiến trúc thượng tầng là tích cực khi nó tác động
cùng chiều với sự vận động của quy luật kinh tế khách quan. Trong sự tác
động đó, chính trị có ảnh hưởng sâu sắc nhất và ngày càng tăng đối với sự
phát triển kinh tế, vì chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế.
Tăng trưởng và phát triển, tất yếu phải huy động nhiều nguồn lực trong
và ngoài nước vào quá trình mở rộng quy mơ sản xuất. Sự tăng trưởng kinh tế
với tốc độ cao nhất định sẽ kéo theo q trình đơ thị hóa và hiện tượng di dân
tự do vào thành thị, làm cho đất đai đô thị khan hiếm, đắt đỏ, nhất là ở các đô
thị lớn. Xu hướng đó làm cho dân cư một số vùng đơ thị tăng lên nhanh
chóng; dẫn đến các nhu cầu về nhà ở, điện nước, đi lại trong đô thị tăng lên
không đáp ứng nổi, chất thải sinh hoạt và chất thải công nghiệp tăng lên
không được xử lý kịp thời gây nên ô nhiễm môi trường; về mặt xã hội cũng
khơng thể tránh khỏi phân hóa giàu nghèo trong dân cư.
Tăng trưởng kinh tế tất yếu phải khai thác sử dụng nhiều tài nguyên
thiên nhiên làm cạn kiệt dần nguồn tài ngun có hạn, gây ơ nhiễm mơi
trường sinh thái ảnh hưởng xấu đến điều kiện sống của các thế hệ mai sau. Đó
12
cũng chính là những yếu tố làm cho phát triển kinh tế không bền vững. Ngày
nay, sự phát triển kinh tế bền vững đang đặt ra đối với tất cả các quốc gia, sự
biến đổi khí hậu tồn cầu, thiên tai xảy ra ở nhiều vùng trên trái đất này đang
đặt ra cho việc phát triển kinh tế phải gắn với bảo vệ môi trường sinh thái, bảo
vệ tài nguyên thiên nhiên. Đó chính là sự phát triển bền vững.
Phát triển bền vững là một khái niệm tương đối rộng và có thể có nhiều
cách hiểu khác nhau. Tuy nhiên, một định nghĩa chung nhất đã được đưa ra
cho khái niệm phát triển bền vững trong Báo cáo Brundtland (UB Môi trường
và phát triển thế giới - WCED) như sau:“Phát triển bền vững là phát triển đáp
ứng được nhu cầu của hiện tại mà không làm ảnh hưởng đến khả năng đáp
ứng đầy đủ nhu cầu của thế hệ tương lai”.
Định nghĩa này mặc dù còn chung chung nhưng đã nhấn mạnh được hai
yếu tố quan trọng nhất của phát triển bền vững. Đó là vấn nạn mơi trường và
mối tương quan của nó với sự phát triển kinh tế; và nhu cầu của sự phát triển
đó đối với mục tiêu xóa đói giảm nghèo [3, tr 34].
Khái niệm phát triển bền vững, về cơ bản bao hàm ba phương diện: Môi
trường bền vững, kinh tế bền vững và xã hội bền vững. Như vậy, về cơ bản,
nói đến phát triển bền vững khơng đơn thuần chỉ là nói về riêng việc bảo vệ
mơi trường mà cịn bao hàm cả phương diện xã hội và kinh tế.
1.1.2. Lý luận về phát triển nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa
Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
khóa VI tháng 3/1989, lần đầu tiên đưa ra quan điểm phát triển nền kinh tế
hàng hóa có kế họach gồm nhiều thành phần đi lên CNXH, coi chính sách
kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược, lâu dài, có tính quy luật từ sản
xuất nhỏ đi lên CNXH.
Tiếp đó, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng cộng sản Việt
Nam trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH đã
khẳng định: “Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định
13
hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nuớc”
[11, tr 21].
Lý luận về xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta tiếp tục được hoàn thiện trong các văn kiện Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng ta nói “kinh tế thị
trường định hướng XHCN” có nghĩa là nền kinh tế nước ta không phải là kinh
tế bao cấp, quản lý theo kiểu tập trung quan liêu, bao cấp. Nhưng, đó cũng
khơng phải là nền kinh tế thị trường ở các nước TBCN và cũng chưa hoàn
toàn là nền kinh tế thị trường XHCN, bởi vì nước ta đang trong thời kỳ q độ
lên CNXH, cịn có sự đan xen và đấu tranh giữa cái cũ và cái mới vừa có, vừa
chưa có các yếu tố của CNXH.
Văn kiện Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: “Thực hiện
nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định
hướng XHCN đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN” [12, tr.16].
Phát triển kinh tế thị trường ở nước ta có ý nghĩa to lớn đối với sản xuất
và đời sống xã hội. Bởi vì phát triển kinh tế thị trường là một biện pháp rất
quan trọng để phát triển lực lượng sản xuất, phá vỡ tính tự cấp, tự túc của nền
kinh tế kém phát triển. Lịch sử đã chứng minh, nền kinh tế thị trường là bước
tiến cao hơn so với kinh tế tự cung, tự cấp, sự tác dụng của qui luật kinh tế
sản xuất hàng hoá và qui luật kinh tế thị trường đã thúc đẩy phân công lao
động xã hội, chun mơn hố, hợp tác hố sản xuất. Từ sản xuất nhỏ đi lên
CNXH, phân công lao động xã hội vừa là điều kiện phát triển sản xuất hàng
hoá vừa là kết quả của sự phát triển này.
Do đặc điểm của nền kinh tế nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH, đó
là một nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ
đạo, cùng với sự điều tiết vĩ mơ của nhà nước bảo đảm định hướng XHCN của
nền kinh tế, để hạn chế những tác động tự phát, tiêu cực của cơ chế thị trường.
14
Phát triển sản xuất và trao đổi hàng hoá là điều kiện cần thiết để tăng
cường những khả năng ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, đẩy mạnh sự phát
triển kinh tế theo cả chiều rộng và chiều sâu. Chỉ có trên cơ sở trao đổi ngang
giá, chấp nhận cạnh tranh mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế mới thủ tiêu được
độc quyền, kích thích mạnh mẽ các đơn vị sản xuất cải tiến, từng bước nâng
cao trình độ kỹ thuật, trình độ cơng nghệ và trình độ tổ chức quản lý trong
hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Phát triển kinh tế thị trường, thực hiện đầy đủ quyền tự chủ bình đẳng
trong kinh doanh theo pháp luật của các tổ chức kinh tế trong mọi thành phần
kinh tế, là cơ sở quan trọng nhất để đảm bảo dân chủ, bình đẳng thật sự trong
lĩnh vực kinh tế, góp phần khắc phục ảnh hưởng của cơ chế quan liêu bao cấp
còn tồn tại. Dân chủ về kinh tế là cơ sở quan trọng để xây dựng dân chủ xã
hội trong quá trình xây dựng xã hội mới.
Trong bối cảnh kinh tế quốc tế ngày nay, xu hướng quốc tế hoá đời sống
kinh tế, một tất yếu đối với quốc gia là phải hội nhập kinh tế. Để chủ động hội
nhập và hội nhập có hiệu quả thì khơng có con đường phát triển nào khác đó
là phát triển kinh tế thị trường.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là mơ hình tổ
chức kinh tế vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị
trường, vừa dựa trên nguyên tắc và bản chất của CNXH, vì vậy nó vừa mang
đặc trưng chung của nền kinh tế thị trường, vừa mang những đặc trưng riêng.
Những đặc trưng chung của nền kinh tế thị trường như các chủ thể kinh
tế có tính độc lập tương đối trong hoạt động kinh tế (tự chủ trong sản xuất,
kinh doanh theo luật pháp; giữa họ vừa có sự hợp tác, vừa có sự cạnh tranh
nhau trên thị trường). Trên thị trường giá cả do thị trường qui định, giá cả có
tác động đến việc phân bổ các nguồn lực của nền kinh tế vào thị trường là căn
cứ, là đối tượng của kế hoạch sản xuất, kinh doanh. Nền kinh tế chịu sự tác
động của các quy luật thị trường như quy luật giá trị; quy luật cung, cầu; quy
15
luật cạnh tranh... Và sự điều tiết của Nhà nước thơng qua hệ thống luật pháp,
hệ thống chính sách và các công cụ kinh tế.
Những đặc thù riêng thể hiện tính định hướng XHCN của nền kinh tế, đó là:
+ Về mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN: Giải phóng
sức sản xuất, huy động mọi nguồn lực ở trong và ngồi nước để thực hiện
cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH,
nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội từng bước cải thiện đời sống nhân dân, phát
triển lực lượng sản xuất hiện đại với xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp trên cả
ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối. Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu quả
xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng XHCN là thúc đẩy việc phát triển
lực lượng sản xuất cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội.
+ Về sở hữu và thành phần kinh tế: Nền kinh tế thị trường ở nước ta đa
dạng hố hình thức sở hữu, nhưng chế độ cơng hữu XHCN là chủ yếu, đó là
sở hữu tồn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân (sở hữu cá thể, tiểu chủ, tư
bản tư nhân); chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất chủ yếu từng bước
được xác lập và sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối khi xã hội chủ nghĩa được xây dựng
về cơ bản. Trong nền kinh tế có 5 thành phần kinh tế, gồm kinh tế nhà nước,
kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân)
kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi. Các thành phần
kinh tế đó ln tồn tại khách quan tạo thành cơ cấu thành phần kinh tế của
thời kỳ quá độ. Trong cơ cấu đó, thành phần kinh tế nhà nước đóng vai trị
chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể trở thành nền tảng nền kinh tế quốc dân.
+ Về chế độ quản lý: Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ln có
sự quản lý của Nhà nước XHCN. Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường là
để phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, đảm bảo
cho nền kinh tế phát triển theo định hướng XHCN.
Nhà nước của ta là nhà nước của dân, do dân, vì dân nên sự quản lý của
nhà nước trong nền kinh tế thị trường là phải bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân
16
dân lao động. Vì vậy, sự quản lý của nhà nước về mặt kinh tế theo nguyên tắc
kết hợp tính định hướng và cân đối kế hoạch phát triển nền kinh tế (để từng
bước xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH; cải thiện nâng cao đời sống của
nhân dân) với tính năng động và nhạy cảm của thị trường.
+ Về chế độ phân phối: Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thực
hiện phân phối theo lao động là chủ yếu, đồng thời kết hợp với phân phối theo
vốn hay tài sản đóng góp vào sản xuất kinh doanh. Phân phối vừa để khuyến
khích lao động, vừa đảm bảo đảm phúc lợi công cộng (thông qua quỹ phúc lợi
tập thể, phúc lợi xã hội).
+ Về chính sách xã hội: Phát triển kinh tế thị trường có sự kết hợp giải
quyết mối quan hệ tăng trưởng kinh tế gắn liền với đảm bảo tiến bộ và công
bằng xã hội, cải thiện đời sống nhân dân trong từng bước phát triển. Tăng
trưởng kinh tế đi đơi với phát triển văn hố và giáo dục, xây dựng nền văn
hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Khuyến khích làm giàu hợp
pháp, nhưng có chính sách xã hội để xố đói, giảm nghèo.
1.2. LÝ LUẬN CHUNG VỀ AN NINH, TRẬT TỰ
1.2.1. Khái niệm an ninh, trật tự
Theo Từ điển bách khoa Công an nhân dân năm 2005: An ninh, trật tự
(ANTT), là cụm từ viết tắt của An ninh quốc gia (ANQG) và Trật tự an toàn
xã hội (TTATXH). Để hiểu rõ ANTT chúng ta cần tìm hiểu khái niệm về
ANQG [23, tr.23] và TTATXH [23, tr.1182].
An ninh quốc gia, là một vấn đề quan trọng của bất cứ một quốc gia, dân
tộc nào. Mặc dù ở mỗi quốc gia khác nhau khái niệm ANQG cũng có nội
dung khác nhau, nhất là các nước có chế độ chính trị khác nhau, nhưng nội
dung cơ bản nhất về ANQG mà hầu như quốc gia nào cũng đề cập tới đó là sự
ổn định về chế độ chính trị, kinh tế gắn liền với bản chất của chế độ và quyền
lợi của giai cấp thống trị. Ở các nước tư bản, ANQG là khẳng định sự tồn tại
17
của chủ nghĩa tư bản, sự thống trị của giai cấp tư sản và duy trì trật tự tư bản
về mọi mặt chính trị, tư tưởng, pháp quyền, đạo đức, lối sống.
Ở nước ta hiện nay, cũng cịn có những cách hiểu khác nhau về ANQG.
Có quan điểm cho rằng, ANQG là bao gồm an ninh trên tất cả các lĩnh vực an
ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh xã hội và các loại hình an ninh khác,
trong đó an ninh xã hội tức là trật tự xã hội. Tuy nhiên, có ý kiến khác lại cho
rằng, ANQG chỉ là an ninh chính trị, trong đó chính trị được hiểu như là sự
thống trị, quyền lực nhà nước, là đảm bảo sự lãnh đạo trên thực tế của chính
đảng cầm quyền. Sự khác nhau đó là do quan điểm tiếp cận khác nhau, cho
nên nhận thức về ANQG cũng cịn có những cách hiểu khác nhau về nội
dung, phạm vi cũng như cách diễn đạt về từ ngữ.
Thuật ngữ ANQG chính thức được sử dụng năm 1985 trong Bộ Luật
hình sự của nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Những hành vi xâm
phạm đến độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia,
xâm phạm đến sự ổn định của chế độ XHCN, xâm phạm đến an ninh trên các
lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa - tư tưởng... được xác định là hành vi xâm
phạm ANQG. Hiện nay, căn cứ vào nội dung nhiệm vụ bảo vệ ANQG và
TTATXH đã được đề cập trong các Nghị quyết của Đảng. Trong Pháp lệnh An
ninh nhân dân và Pháp lệnh Cảnh sát nhân dân thì ANQG trước hết đó là độc
lập chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ, đồng thời đó cịn là sự ổn định về mọi mặt
chính trị, kinh tế, văn hóa… của Nhà nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
Từ những vấn đề đã trình bày trên đây, ANQG được hiểu là:
Sự ổn định và phát triển vững mạnh về mọi mặt của một chế độ
xã hội và độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của quốc
gia. ANQG bao gồm an ninh trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, tư
tưởng - văn hóa, xã hội, quốc phịng, đối ngoại… trong đó an ninh
chính trị là cốt lõi, xuyên suốt [23, tr 23].
18
Về khái niệm trật tự an toàn xã hội, trong một xã hội, hệ thống các mối
quan hệ của con người được hình thành và được thể hiện chủ yếu ở những nơi
sinh hoạt tập thể, sinh hoạt công cộng và trong mỗi gia đình. Những mối quan
hệ đó được xây dựng, củng cố vững chắc khi nó trở thành ý thức tự giác trong
quan niệm đạo đức, thái độ phong cách và nếp sống của con người đối với xã
hội, đối với mọi người xung quanh nhằm xây dựng một nền trật tự kiểu mới
làm cho mọi người sống, lao động và học tập, vui chơi giải trí trong phạm vi
pháp luật, trật tự.
Một xã hội mà trong đó mọi quy định của pháp luật cũng như quy tắc
của đạo đức, lối sống đều được mọi người tự giác tôn trọng, mọi hành vi vi
phạm đều bị xử lý nghiêm minh và bị phê phán tạo nên một cuộc sống văn
minh, lành mạnh trong cộng đồng, sự yên ổn trong xã hội là mục tiêu mà công
tác đấu tranh bảo vệ trật tự an toàn xã hội hướng tới. Đó chính là sự thể hiện
bản chất, nội dung của một nền trật tự an toàn xã hội. Từ những vấn đề đã
trình bày trên, trật tự an tồn xã hội được hiểu như sau:
Trật tự an toàn xã hội
là trạng thái các quan hệ xã hội được hình thành và điều chỉnh
bởi hệ thống qui phạm pháp luật của nhà nước, qui phạm chính trị,
qui phạm đạo đức, thuần phong mỹ tục trong đời sống cộng đồng
của một dân tộc, một nhà nước; là tình trạng xã hội ổn định, ở đó
mọi cơng dân sống và lao động có tổ chức, có kỷ cương mọi lợi ích
chính đáng được đảm bảo không bị xâm hại [23, tr.1697].
1.2.2. Nội dung đảm bảo an ninh, trật tự
1.2.2.1. Đảm bảo An ninh quốc gia
Đảm bảo ANQG là những hoạt động phòng ngừa, phát hiện ngăn chặn,
đấu tranh chống lại mọi âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch và những
hoạt động khác xâm phạm ANQG nhằm bảo vệ tổ quốc, chế độ XHCN, giữ
vững ổn định cho đất nước phát triển và ngăn chặn, loại trừ các nguy cơ đe
19
dọa ANQG. Bảo vệ an ninh quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu của các tổ chức
đảng, các cơ quan nhà nước, các đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội và
nhân dân, Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt, trực tiếp trong sự nghiệp
bảo vệ an ninh quốc gia.
Mục tiêu đảm bảo an ninh quốc gia, bao gồm:
- Mục tiêu tổng quát:
Bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng,
Nhà nước XHCN, bảo vệ nhân dân, tạo thế chủ động chiến lược, đẩy lùi, ngăn
chặn làm thất bại mọi âm mưu hoạt động “diễn biến hồ bình” của các thế lực
thù địch, giữ vững ổn định chính trị xã hội và mơi trường hồ bình điều kiện
thuận lợi phục vụ đắc lực chiến lược phát triển kinh tế xã hội đẩy mạnh cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Mục tiêu cụ thể:
+ Về chính trị: giữ vững, tăng cường bản chất cách mạng của Đảng và Nhà
nước, bảo vệ sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, hiệu lực quản lý của nhà
nước đối với xã hội, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, kiên định con đường
XHCN, tăng cường đại đoàn kết toàn dân, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của
các thế lực thù địch phá hoại nước ta, chia rẽ Đảng, Nhà nước với nhân dân.
+ Về kinh tế - xã hội: đảm bảo vững chắc sự ổn định và phát triển kinh tế
-xã hội đạt hiệu quả theo định hướng xã hội chủ nghĩa, làm thất bại mọi âm
mưu của các thế lực thù địch thơng qua kinh tế để chuyển hố chính trị, kết
hợp giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội thu hẹp dần
khoảng cách giàu, nghèo giải quyết tốt tình trạng thất nghiệp ở thành phố, tình
trạng nơng dân mất ruộng đất và thiếu việc làm ở nông thôn, hạn chế được
tiêu cực của kinh tế thị trường, đấu tranh có hiệu quả các tội phạm kinh tế.
+ Về tư tưởng - văn hoá: kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, kế thừa phát huy truyền thống và bản sắc văn hố dân tộc, tiếp thu
có chọn lọc tinh hoa văn hoá nhân loại, làm thất bại âm mưu hoạt động xuyên
20
tạc chủ nghĩa xã hội, phủ nhận lịch sử, tuyên truyền những giá trị tư sản về tự
do dân chủ, nhân quyền, đa nguyên, đa đảng của các thế lực chống CNXH,
đấu tranh bài trừ các nọc độc văn hoá phản động đồi trụy.
+ Về đối ngoại: đẩy mạnh đa phương hố, đa dạng hố quan hệ đối
ngoại tích cực hội nhập kinh tế khu vực và thế giới vì sự phát triển và bảo
đảm giữ vững độc lập, tự chủ, lợi ích dân tộc, tranh thủ điều kiện quốc tế
thuận lợi, phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
+ Về an ninh quốc phịng: xây dựng vững chắc nền an ninh nhân dân và
thế trận an ninh nhân dân gắn với nền quốc phịng tồn dân, xây dựng lực
lượng Công an nhân dân và lực lượng Quân đội nhân dân cách mạng chính
qui tinh nhuệ, từng bước hiện đại; chống âm mưu của các thế lực thù địch phi
chính trị hố và chia rẽ lực lượng vũ trang.
1.2.2.2. Đảm bảo trật tự an toàn xã hội
Trật tự an tồn xã hội, bao gồm về phịng chống tội phạm, phòng chống
tệ nạn xã hội, trật tự xã hội, trật tự an tồn giao thơng, trật tự đơ thị, trật tự
cơng cộng, phịng cháy chữa cháy, giáo dục cải tạo phạm nhân, được cấu
thành tổng thể nền trật tự an tồn xã hội.
Giữ gìn trật tự an toàn xã hội là nhiệm vụ quan trọng của nhà nước và là
nghĩa vụ của mọi công dân. Lực lượng Cơng an nhân dân là lực lượng nịng cốt
của nhà nước trên lĩnh vực này, nhằm bảo đảm hoạt động bình thường, yên ổn,
hợp pháp của các cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân.
Về phòng chống tội phạm: phòng chống tội phạm ngày nay đã và đang
được coi là nhiệm vụ trọng tâm cấp bách của các nhà nước và trên thế giới
gồm hai mặt phòng ngừa xã hội từ xa để ngăn chặn nguồn phát sinh tội phạm
21
và kiên quyết tấn công, trấn áp các tội phạm đã phát sinh. Phịng chống tội
phạm ln ln được đặt lên hàng đầu trong trật tự an toàn xã hội vì tội phạm
là nhân tố nguy hiểm gây mất ổn định xã hội. Sự nghiệp phòng chống tội
phạm là sự nghiệp của nhân dân, do dân, vì dân, là nhiệm vụ của toàn bộ các
ngành trong bộ máy nhà nước, trong đó Cơng an là vai trị chủ chốt.
Về phịng chống tệ nạn xã hội: Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều Chỉ
thị; Nghị quyết và Luật, Pháp lệnh về chống tệ nạn xã hội như ma túy, mại
dâm, cờ bạc và xác định phòng chống tệ nạn xã hội là nhiệm vụ của tồn xã
hội. Cơng tác phịng chống tệ nạn xã hội đã và đang đặt ra các chương trình
quốc gia với hai nhiệm vụ chính là tun truyền, giáo dục nhân dân phòng
ngừa tệ nạn xã hội; tấn công truy quét và chữa trị cải tạo các tệ nạn xã hội.
Về trật tự an toàn xã hội: bao gồm nhiều nội dung, như đăng ký quản lý
hộ khẩu, quản lý đặc doanh, quản lý người nước ngoài, quản lý vũ khí vật liệu
nổ, quản lý con dấu... nhằm mục đích phịng ngừa ngăn chặn các vi phạm
pháp luật, ngăn chặn tội phạm. Đây là các hoạt động quản lý hành chính cơng
khai được thực hiện hầu hết ở cơ sở sẽ góp phần quan trọng để quản lý xã hội.
Về trật tự an tồn giao thơng, trật tự đô thị, trật tự công cộng: hiện nay,
đây là lĩnh vực nóng bỏng phức tạp được Đảng, Nhà nước và toàn dân quan
tâm với nhiều nội dung: đảm bảo an tồn và phịng chống tai nạn giao thơng,
tuần tra kiểm sốt, xử lý vi phạm giao thơng, tổ chức chỉ huy điều khiển giao
thông, quản lý đô thị trên lĩnh vực giao thông đường bộ, đường thủy, đường
sắt, thiết lập trật tự an tồn giao thơng, trật tự đơ thị.
Về phịng cháy, chữa cháy: ngành Cơng an phối hợp với các ngành trong
bộ máy nhà nước, tiến hành tuyên truyền giáo dục phòng ngừa cháy nổ và
22
trực tiếp xử lý điều tra các vi phạm phòng cháy chữa cháy, tổ chức chữa cháy
ở những nơi có cháy, nổ.
Về giáo dục, cải tạo phạm nhân: đây là khâu quan trọng về trật tự an
toàn xã hội, bao gồm các nội dung: quản chế giam giữ phạm nhân, giáo dục
cải tạo phạm nhân, tổ chức sản xuất lao động cho phạm nhân.
1.3. MỐI QUAN HỆ TÁC ĐỘNG LẪN NHAU GIỮA PHÁT TRIỂN KINH TẾ
VÀ ĐẢM BẢO AN NINH, TRẬT TỰ
1.3.1. Phát triển kinh tế tác động đến đảm bảo an ninh, trật tự
Giữa phát triển kinh tế và ANTT ln có mối quan hệ tác động qua lại
với nhau, đó chính là mối quan hệ biện chứng. Quan điểm trong hệ thống tư
tưởng Hồ Chí Minh là: “Xây dựng xã hội đi liền với bảo vệ chế độ xã hội; và
bảo vệ vững chắc ANTT là tiền đề và là điều kiện để phát triển kinh tế xã hội
của đất nước” [24, tr.46]. Cụ thể:
- Phát triển kinh tế để bảo đảm ANTT được ổn định và giữ vững ANTT.
Đất nước đang chuyển sang một thời kỳ mới, cuộc đấu tranh bảo vệ
ANTT phải góp phần thúc đẩy sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa,
nhanh chóng đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu. Vấn đề đặt ra là
không thể để cho đất nước tụt hậu xa hơn về kinh tế dẫn đến những hậu
quả xấu về xã hội, làm giảm lòng tin của nhân dân dẫn đến mất ổn định
chính trị. Song, khơng thể để phát triển kinh tế với bất cứ giá nào, nhất là
đi chệch hướng XHCN và làm mất bản sắc dân tộc. Biện chứng của sự vật
là ổn định để phát triển nhưng khơng phải ổn định trì trệ, hoặc phát triển
bằng mọi giá mà cần ổn định trong sự phát triển và phát triển đúng định
hướng. Ổn định trì trệ là nguy hiểm, nhưng phát triển chệch hướng còn
nguy hiểm hơn.
23
Việc phát triển kinh tế, đặc biệt là phát triển kinh tế trong điều kiện hiện
nay luôn gắn liền với nhiệm vụ giữ vững an ninh, chủ quyền quốc gia. Quán
triệt sâu sắc hai nhiệm vụ trên, trong những năm qua cấp ủy, chính quyền các
địa phương trong cả nước đã chú trọng gắn phát triển kinh tế với nhiệm vụ
bảo đảm quốc phòng, an ninh. Tiềm lực và thế trận quốc phòng, an ninh được
tăng cường. Những kết quả đạt được về kinh tế, thể hiện sự vận dụng đúng
đắn, hợp lý chủ trương phát triển kinh tế gắn với bảo đảm quốc phòng, an
ninh của Đảng và Nhà nước vào tình hình cụ thể của địa phương. Theo đó,
việc phát triển kinh tế tạo tiền đề cho việc đảm bảo ANTT.
- Phát triển kinh tế tạo điều kiện cơ sở vật chất cho việc đảm bảo ANTT.
Để đảm bảo ANTT địi hỏi phải có các cơng cụ, phương tiện, nhân
lực… muốn vậy cần phải có nguồn tài chính nhất định. Kinh tế chính là để tạo
ra nguồn lực đó.
- Phát triển kinh tế đảm bảo cho sự tiến bộ xã hội, góp phần lành mạnh
hóa các quan hệ xã hội, đảm bảo ANTT.
Tiến bộ xã hội là sự phát triển xã hội từ trình độ thấp đến cao trong mỗi
một lĩnh vực của đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, tư tưởng,
khoa học kỹ thuật…), cả đời sống vật chất lẫn đời sống tinh thần, trên phạm
vi vùng, quốc gia, hoặc thế giới.
Học thuyết C.Mác cho rằng, tiến bộ xã hội là một quy luật phát triển
khách quan của lịch sử xã hội, là sự thay thế lẫn nhau của các chế độ lỗi thời
bằng các chế độ xã hội mới cao hơn mà xã hội hoàn hảo nhất là xã hội cộng
sản chủ nghĩa.
Tiến bộ xã hội cũng đồng thời là kết quả hoạt động của con người, thể
hiện sức mạnh của con người trước tự nhiên, giải phóng và nâng cao quyền
của con người. Tiến bộ xã hội bao gồm trong nó cả sự phát triển con người
một cách tồn diện, phát triển các quan hệ xã hội công bằng và dân chủ.
24
Các tiêu chí để đánh giá sự tiến bộ xã hội là sự công bằng xã hội, mức
sống và giảm khoảng cách giàu - nghèo, giảm nhẹ hay loại trừ thất nghiệp,
các loại phúc lợi xã hội, trình độ văn hóa và văn minh.
Tiến bộ xã hội thể hiện ở các mặt: Một là, sự tiến bộ về kinh tế, sự phát
triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, sự phát triển kinh tế bền
vững. Hai là, sự tiến bộ về chính trị - xã hội, chế độ chính trị tiến bộ, hiệu quả
thực tế của chính sách xã hội, phân phối thành quả của tiến bộ kinh tế một
cách công bằng, dân chủ. Ba là, đời sống văn hóa, tinh thần khơng ngừng
nâng lên.
Ngày nay, thế giới đã nêu những tiêu chí có ý nghĩa tham khảo về tiến bộ
xã hội. Theo tiêu chí đó, nhân tố trung tâm của tiến bộ xã hội là chất lượng
cuộc sống của con người xét cả về mặt nhu cầu, mức sống, tuổi thọ và trí tuệ.
Tăng trưởng và phát triển kinh tế là cơ sở vật chất cho tiến bộ xã hội và
ngược lại tiến bộ xã hội thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế.
“Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực
hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”[13, tr. 77]. Tăng trưởng
kinh tế tạo điều kiện vật chất để thực hiện tiến bộ, cơng bằng xã hội. Nhưng tăng
trưởng kinh tế tự nó không trực tiếp giải quyết các vấn đề xã hội. Cơng bằng và
tiến bộ xã hội địi hỏi phải có sự chủ động nhận thức, chỉ đạo, điều tiết, tổ chức
thực hiện ở tầm vĩ mô. Do vậy, “Tăng trưởng kinh tế phải gắn với đảm bảo tiến bộ
và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển” [14, tr.34].
Phát triển kinh tế tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh
doanh, chủ động tích cực hội nhập quốc tế để phát triển. Kinh tế phát triển,
các quan hệ kinh tế, trong đó có các quan hệ thị trường, cơ chế thị trường
ngày càng hoàn thiện sẽ khơng cịn kẽ hở cho phần tử xấu lợi dụng để kiếm
lợi, sẽ giảm đáng kể nạn tham nhũng đang tràn lan hiện nay.
Phát triển kinh tế, Việt Nam sẽ phát huy được nội lực, tham gia các quan
hệ quốc tế đang được đẩy nhanh hơn. Trong khuôn khổ của Tổ chức Thương
25
mại thế giới (WTO), vòng đàm phán Doha tiếp tục được thúc đẩy, Việt Nam
đã trở thành thành viên chính thức của WTO từ ngày 7/11/2006. Đã xuất hiện
thêm nhiều các cam kết thành lập khu vực mậu dịch tự do (FTA) song
phương, mở rộng hơn nữa thị trường cho nhau; đầu tư, lưu chuyển hàng hóa,
dịch vụ lao động và vốn ngày càng mở rộng…
Điều đó tạo ra những thuận lợi và thời cơ mới để ứng dụng khoa học kỹ
thuật, tranh thủ công nghệ mới như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học
để phát triển đi vào chiều sâu; gắn nhu cầu phát triển kinh tế với đảm bảo an
ninh quốc gia, mở ra triển vọng mới cho mỗi nước tham gia phân công và hợp
tác quốc tế trong phòng, chống tội phạm.
1.3.2. Đảm bảo an ninh, trật tự tác động đến sự phát triển kinh tế
Đảm bảo ANTT là tiền đề và là điều kiện để phát triển kinh tế. Trong sự
nghiệp bảo vệ ANTT, phòng ngừa tội phạm, các chính sách kinh tế - xã hội có
vị trí quan trọng. Đại hội IX của Đảng nêu rõ:
Sự ổn định và phát triển mọi mặt của đời sống xã hội là nền tảng
vững chắc của an ninh quốc gia và có an ninh quốc gia vững chắc
mới có điều kiện ổn định, phát triển đất nước về mọi mặt. Trật tự an
toàn xã hội, một mặt quan trọng của an ninh quốc gia, cũng chịu tác
động trực tiếp, thường xuyên của thực trạng kinh tế, xã hội [13, tr.124].
Đảm bảo sự ổn định về chính trị, kinh tế xã hội là điều kiện vô cùng cần
thiết để phát triển kinh tế. Đảng ta luôn chú ý đến phương thức xây dựng thế
trận quốc phòng an ninh được tổ chức chuẩn bị và triển khai tương đối tồn
diện cả về tiềm lực và thế trận. Vì vậy, thế trận quốc phịng tồn dân gắn với
thế trận an ninh nhân dân trên địa bàn các tỉnh (thành phố), đã được tổ chức, xây
dựng bằng sức mạnh tổng hợp của các cấp, các ngành, các địa phương, nên từng
bước đã tạo thế trận vững chắc trên từng hướng, từng khu vực phòng thủ.
Vai trò nòng cốt của Quân đội và Cơng an trong xây dựng thế trận quốc
phịng, an ninh trên các hướng (khu vực) trọng điểm chiến lược cần được phát