1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Huyện là đơn vị hành chính thuộc tỉnh, thành phố (trực thuộc Trung
ương). Chức năng nhiệm vụ cơ quan nhà nước cấp huyện gắn liền với mục
tiêu phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh trên địa bàn.
Để thực hiện được những chức năng, nhiệm vụ theo qui định, chính
quyền cấp huyện phải có nguồn ngân sách được hình thành từ các nguồn thu
để đảm bảo kinh phí hoạt động của bộ máy Nhà nước theo những nguyên tắc
ổn định, bền vững. Hoạt động thu trên địa bàn cấp huyện sẽ góp phần thực
hiện những mục tiêu phát triển KT-XH do Đảng và Nhà nước đề ra.
Ngân sách cấp huyện là một bộ phận cấu thành của NSNN, thơng qua
thu ngân sách, chính quyền cấp huyện vừa thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm
soát các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ, chống các hành vi hoạt động
kinh tế phi pháp, trốn lậu thuế và các nghĩa vụ đóng góp khác, vừa thực hiện
việc điều tiết các hoạt động kinh tế trên địa bàn theo những mục tiêu chung.
Thu ngân sách còn là nguồn chủ yếu để đáp ứng các nhu cầu thiết yếu ở địa
phương, bao gồm chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển.
Đà Nẵng là thành phố đô thị loại I, trực thuộc trung ương, huyện
Hoà Vang là huyện duy nhất của thành phố, nguồn ngân sách trên địa bàn
đóng vai trị quan trọng trong quá trình phát triển địa phương. Trong những
năm thực hiện công cuộc đổi mới, thu ngân sách trên địa bàn thành phố tăng
nhanh về lượng và rất đa dạng về nguồn thu. Trong tổng thu NSNN trên địa
bàn thì nguồn thu ở cấp huyện chiếm tỷ trọng khơng lớn, chủ yếu nhận bổ
sung từ ngân sách cấp trên để thực hiện các mục tiêu về kinh tế, chính trị, văn
hoá, xã hội ở địa phương.
Từ khi luật ngân sách sửa đổi (2002) tạo ra sự chủ động cho các cấp
trong thực hiện nhiệm vụ thu, ổn định số thu và tỷ lệ điều tiết các nguồn thu.
Công tác thu ngân sách ở địa phương đạt được những kết quả nhất định, số
2
thu tương đối tập trung, đã cơ bản thu đúng, thu đủ và thu kịp thời các nguồn
thu vào NSNN; số thu tăng trưởng qua các năm về cơ bản đáp ứng một phần
các nhiệm vụ chi ngân sách của huyện.
Tuy vậy, trong những năm qua, hoạt động thu ngân sách trên địa
bàn huyện nhìn chung vẫn cịn thất thốt nhiều, một số nguồn thu chưa tập
trung đầy đủ vào NSNN, đồng thời có một số nguồn thu huy động không đúng
quy định của Luật NSNN; số thu chưa tương xứng với tiềm năng kinh tế trên
địa bàn. Chính sách cơ chế phân cấp nguồn thu chưa thật sự tạo được động lực
khai thác tối đa nguồn thu.
Trong điều kiện nền kinh tế còn chậm phát triển, NSNN còn hạn
hẹp, việc tập trung đầy đủ và kịp thời các nguồn thu của ngân sách trên địa
bàn luôn là nhiệm vụ quan trọng nhằm góp phần tăng ngân sách, giảm trợ cấp
từ ngân sách cấp trên, dần bảo đảm cân đối thu, chi, phát huy vai trị tích cực
của ngân sách huyện trên địa bàn.
Từ những phân tích trên, vấn đề “Thu ngân sách nhà nước trên
địa bàn huyện Hoà Vang, Thành phố Đà Nẵng” được chọn làm đề tài luận
văn thạc sỹ kinh tế, với mong muốn góp phần vừa tăng thu, vừa ni dưỡng
nguồn thu cho NSNN huyện.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Kể từ khi Quốc hội khố IX thơng qua Luật NSNN (1996), Quốc
hội khố XI thơng qua Luật NSNN sửa đổi (tháng 12/2002) và chính thức có
hiệu lực vào tháng 5/2004, đã có một số cơng trình nghiên cứu cụ thể về ngân
sách nhà nước đã được cơng bố:
- Phạm Đức Hồng (2002), Hồn thiện cơ chế phân cấp ngân
sách của các cấp chính quyền địa phương ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế,
Trường đại học Tài chính - Kế tốn, Hà Nội.
- Nguyễn Duy Long (1999), Thất thu thuế và các giải pháp
chống thất thu thuế đối khu vực ngoài quốc doanh trên địa bàn tỉnh Phú Thọ,
Luận án thạc sĩ khoa học kinh tế, Hà Nội.
3
- Vũ Thị Phương Huy (2007), Nâng cao hiệu quả hoạt động của
ngành thuế trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Luận văn tốt
nghiệp cao cấp lý luận chính trị, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội.
- Vũ Thị Mai (2005), Hồn thiện quản lý thu thuế đối với doanh
nghiệp ở nước ta hiện nay, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Lê Kim Quyến (2007), Nâng cao vai trị của thuế - cơng cụ
phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hố ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Đại
học Kinh tế TP Hồ Chí Minh, TP Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Thế Tràm (1997), Nâng cao vai trò quản lý của Nhà
nước nhằm tiếp tục đổi mới việc sử dụng cộng cụ thuế ở nước ta hiện nay
(qua khảo sát ở các tỉnh Duyên Hải miền Trung), Luận án tiến sĩ kinh tế, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Tào Hữu Phùng (2006), “Về định hướng và giải pháp cơng tác
Tài chính ngân sách - Ngân sách nhà nước giai đoạn 2006 -2010”, Tạp chí
Cộng sản, (8), tr. 22 - 27.
- GS,TS Hồ Xuân Phương và PGS,TS Lê Văn Ái chủ biên
(2000): Quản lý tài chính Nhà nước, Nxb Tài chính, Hà Nội.
- Đặng Văn Thanh (2005), “Phát triển tài chính Việt Nam giai
đoạn 2001 - 2005 và định hướng giai đoạn 2006 - 2010”, Tạp chí Cộng sản,
(19), tr.18 - 22.
- Nguyễn Hữu Lực (2005), Thuế thu nhập cá nhân và hoàn thiện
thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội
- Lê Phú Hào (2007), Góp phần nâng cao vai trị của thuế ở Việt
Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, Luận án tiến sĩ kinh tế, Đại học
Kinh tế TP Hồ Chí Minh, TP Hồ Chí Minh…
4
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu đều tập trung đi sâu làm
rõ thực trạng, cách thức quản lý ngân sách ở các cấp ngân sách trên bình diện
một địa phương. Hiện chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ và
cụ thể về công tác thu ngân sách ở huyện Hồ Vang Thành phố Đà Nẵng từ
góc độ kinh tế chính trị học. Vì vậy, “Thu ngân sách nhà nước trên địa
bàn huyện Hoà Vang, Thành phố Đà Nẵng” vẫn còn là một đề tài cần
được tiếp tục nghiên cứu.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Đánh giá thực trạng tình hình thu ngân sách nhà nước trên địa bàn
huyện Hoà Vang, thành phố Đà Nẵng; đề xuất quan điểm, giải pháp nhằm đảm
bảo thực hiện tốt công tác thu ngân sách nhà nước trên địa bàn huyện Hồ
Vang, góp phần ổn định và phát triển KT-XH ở địa phương.
3.2. Nhiệm vụ
Luận văn có những nhiệm vụ cụ thể sau:
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về thu NSNN cấp
huyện;
- Đánh giá thực trạng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn huyện
Hoà Vang trong giai đoạn từ năm 2007- 2010;
- Đề xuất quan điểm, giải pháp nhằm vừa tăng thu, vừa ni dưỡng
nguồn thu ngân sách của huyện Hồ Vang trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng
Luận văn nghiên cứu chủ yếu về thực hiện các khoản thu NSNN ở
huyện Hoà Vang theo phân cấp đối với ngân sách cấp quận, huyện Thành phố
Đà Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
5
Tập trung nghiên cứu thực hiện nhiệm vụ thu ngân sách theo phân cấp
của Hội đồng nhân dân nhành phố, thời kỳ ổn định ngân sách 2007- 2010, kể
từ khi luật ngân sách sửa đổi, đây là thời kỳ ổn định ngân sách lần thứ hai
trong phạm vi Thành phố.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Sử dụng phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử, phương pháp trừu tượng hoá khoa học
- Luận văn dựa trên các quan điểm đường lối của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước trong thời kỳ đổi mới.
- Đồng thời luận văn cũng sử dụng các phương pháp khảo sát
thực tế thống kê, phân tích so sánh và kế thừa một cách có chọn lọc kết quả
của các cơng trình nghiên cứu có liên quan đã được cơng bố trước đây.
6. Những đóng góp chính của luận văn
- Đánh giá đúng thực chất vai trị của thu ngân sách huyện Hồ
Vang - Thành phố Đà Nẵng.
- Đề xuất những giải pháp, kiến nghị có tính khả thi nhằm đảm
bảo tăng thu ngân sách trên địa bàn, giảm dần số bổ sung từ ngân sách cấp
trên. Thực hiện nhiệm vụ chi đáp ứng yêu cầu phát triển địa phương trong thời
gian đến.
7. Ý nghĩa của luận văn
Với những nghiên cứu của luận văn mong muốn góp phần làm tài
liệu tham khảo cho việc xây dựng dự toán thu ngân sách huyện trong giai
đoạn 2011-2015, xây dựng định hướng phát triển địa phương trên cơ sở huy
động các nguồn lực cũng như sử dụng hiệu quả các nguồn lực. Đồng thời là
tài liệu tham khảo các cơ quan thuộc ngành tài chính, thuế, kho bạc nhà nước
cấp thành phố cũng như cấp quận, huyện trong việc tham mưu xây dựng chế
độ cũng như quản lý đối với cấp ngân sách địa phương.
8. Kết cấu của luận văn
6
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo và
phụ lục, luận văn được kết cấu thành 3 chương, 8 tiết.
7
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆ
1.1. KHÁI NIỆM VÀ NỘI DUNG THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1.1.1. Khái niệm ngân sách nhà nước và thu ngân sách nhà nước
1.1.1.1. Khái niệm ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước là phạm trù kinh tế và là phạm trù lịch sử. Sự hình
thành và phát triển của ngân sách nhà nước gắn liền với sự xuất hiện và phát
triển của kinh tế hàng hoá - tiền tệ trong các phương thức sản xuất của các
cộng đồng và Nhà nước của từng cộng đồng. Nói cách khác, sự ra đời của
Nhà nước, sự tồn tại của kinh tế hàng hoá - tiền tệ là những tiền đề cho sự
phát sinh, tồn tại và phát triển của ngân sách nhà nước.
NSNN luôn gắn liền với Nhà nước, nó được dùng để chỉ các khoản
thu nhập và các khoản chi tiêu của Nhà nước được thể chế hoá bằng pháp luật.
Quốc hội thực hiện quyền lập pháp về NSNN, còn quyền hành pháp giao cho
Chính phủ thực hiện. Cho đến nay, các Nhà nước khác nhau đều tạo lập và sử
dụng NSNN. Thế nhưng người ta vẫn chưa có sự nhất trí về NSNN là gì? Có
nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm NSNN mà phổ biến là:
Thứ nhất: NSNN là bản dự tốn thu - chi tài chính của Nhà nước
trong một khoảng thời gian nhất định, thường là một năm.
Thứ hai: NSNN là quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước, là kế
hoạch tài chính cơ bản của Nhà nước.
Thứ ba: NSNN là những quan hệ kinh tế phát sinh trong quá
trình Nhà nước huy động và sử dụng các nguồn tài chính khác nhau.
Các ý kiến trên xuất phát từ cách tiếp cận vấn đề khác nhau và có nhân
tố hợp lý của chúng song chưa đầy đủ. Khái niệm NSNN là một khái niệm
trừu tượng, nhưng NSNN là một hoạt động tài chính cụ thể của Nhà nước.
Khái niệm NSNN phải thể hiện được nội dung kinh tế - xã hội của NSNN,
8
phải được xem xét trên các mặt hình thức, thực thể và quan hệ kinh tế chứa
đựng trong NSNN.
Sự hình thành và phát triển của ngân sách nhà nước gắn liền với
sự xuất hiện và phát triển của kinh tế hàng hoá - tiền tệ trong các phương thức
sản xuất của cộng đồng và Nhà nước của từng cộng đồng. Nói cách khác, sự
ra đời của Nhà nước, sự tồn tại của kinh tế hàng hoá - tiền tệ là những tiền đề
cho sự phát sinh, tồn tại và phát triển của ngân sách nhà nước.
Ở Việt Nam, Luật Ngân sách nhà nước của Việt Nam đã được
Quốc hội Việt Nam thông qua ngày 16/12/2002 định nghĩa: Ngân sách nhà
nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực
hiện các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước.
Ngân sách nhà nước bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách
địa phương. Ngân sách trung ương là ngân sách của các bộ, cơ quan ngang bộ,
cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan khác ở trung ương. Ngân sách địa
phương bao gồm ngân sách của đơn vị hành chính các cấp có Hội đồng Nhân
dân và Uỷ ban Nhân dân.
Thu và chi quỹ NSNN có quan hệ ràng buộc với nhau gọi là cân
đối. Cân đối thu, chi NSNN là một cân đối lớn trong nền kinh tế thị trường và
được Nhà nước quan tâm đặc biệt. Vì lẽ đó, việc đảm bảo nguồn thu NSNN là
mối quan tâm thường xuyên của mọi Nhà nước.
1.1.1.2. Khái niệm thu ngân sách nhà nước
Khi Nhà nước ra đời, để có tiền chi tiêu cho sự tồn tại và hoạt động của
mình, Nhà nước phải huy động một phần thu nhập của xã hội dưới hình thức
thuế khố bắt buộc dân cư phải nộp, hình thành nên quỹ tiền tệ tập trung của
Nhà nước là NSNN. Các khoản huy động đó gọi là thu NSNN.
Như vậy, thực chất, thu ngân sách nhà nước là việc Nhà nước
dùng quyền lực của mình để tập trung một phần nguồn tài chính quốc gia hình
thành quỹ ngân sách nhà nước nhằm thoả mãn các nhu cầu của Nhà nước.
9
Nguồn tài chính được tập trung vào NSNN là những khoản thu
nhập của Nhà nước được hình thành trong quá trình Nhà nước tham gia phân
phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị. Thu NSNN phản ánh các quan hệ
kinh tế nảy sinh trong quá trình phân chia các nguồn tài chính quốc gia giữa
Nhà nước và các chủ thể trong xã hội. Sự phân chia đó là một tất yếu khách
quan, xuất phát từ các chức năng kinh tế - xã hội của Nhà nước. Đối tượng
phân chia là nguồn tài chính quốc gia là kết quả do lao động sản xuất trong
nước tạo ra thể hiện dưới hình thức tiền tệ.
Về mặt nội dung, thu NSNN chứa đựng các quan hệ phân phối
dưới hình thức giá trị nảy sinh trong quá trình Nhà nước dùng quyền lực tập
trung một phần nguồn tài chính quốc gia hình thành quỹ tiền tệ tập trung
của Nhà nước.
Một đặc điểm nữa của thu NSNN là gắn chặt với thực trạng kinh tế và
sự vận động của các phạm trù giá trị như giá cả, lãi suất, thu nhập … Sự vận
động của các phạm trù đó vừa tác động đến sự tăng giảm mức thu, vừa đặt ra
yêu cầu nâng cao tác dụng điều tiết của các công cụ thu NSNN.
Ở Việt Nam, đứng về phương diện pháp lý, thu NSNN bao gồm những
khoản tiền Nhà nước huy động vào ngân sách để thoả mãn nhu cầu chi tiêu
của Nhà nước. Về mặt bản chất, thu NSNN là hệ thống những quan hệ kinh tế
giữa Nhà nước và xã hội phát sinh trong quá trình Nhà nước huy động các
nguồn tài chính để hình thành nên quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước nhằm
thoả mãn các nhu cầu chi tiêu của mình. Thu NSNN chỉ bao gồm những
khoản tiền Nhà nước huy động vào ngân sách mà không bị ràng buộc bởi
trách nhiệm hoàn trả trực tiếp cho đối tượng nộp.
1.1.2. Nội dung thu ngân sách nhà nước
Theo Luật NSNN hiện hành, thu ngân sách nhà nước bao gồm các
khoản thu từ thuế, phí, lệ phí; các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước;
các khoản đóng góp của các tổ chức và cá nhân; các khoản viện trợ; các khoản
thu khác theo quy định của pháp luật.
10
1.1.2.1. Thuế - nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước
Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng minh rằng, thuế ra đời
là một tất yếu khách quan, gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà
nước. Để duy trì sự tồn tại của mình, Nhà nước cần có những nguồn tài chính
để chi tiêu, trước hết là chi cho việc duy trì và củng cố bộ máy cai trị từ trung
ương đến địa phương, thuộc phạm vi lãnh thổ mà Nhà nước đó đang cai quản;
chi cho các cơng việc ban đầu thuộc chức năng của Nhà nước như: quốc
phòng, an ninh, chi cho xây dựng và phát triển các cơ sở hạ tầng; chi cho các
vấn đề về phúc lợi công cộng, về sự nghiệp, về xã hội trước mắt và lâu dài.
Để có nguồn tài chính đáp ứng nhu cầu chi tiêu chung, Nhà nước
thường sử dụng ba hình thức động viên đó là: quyên góp của dân, vay của dân
và dùng quyền lực Nhà nước bắt buộc dân phải đóng góp. Trong đó, hình thức
qun góp tiền và tài sản của dân và hình thức vay của dân là những hình thức
tự nguyện, khơng mang tính ổn định và lâu dài, thường được Nhà nước sử
dụng có giới hạn trong một số trường hợp đặc biệt, để bổ sung cho những
nhiệm vụ chi đột xuất hoặc cấp bách. Để đáp ứng nhu cầu chi tiêu thường
xuyên, Nhà nước dùng quyền lực buộc dân phải đóng góp một phần thu nhập
của mình cho ngân sách nhà nước. Đây là hình thức cơ bản nhất để huy động
tập trung nguồn tài chính cho đất nước.
Hình thức Nhà nước dùng quyền lực buộc dân đóng góp để đáp ứng
nhu cầu chi tiêu của mình - chính là thuế.
Thuế ln gắn chặt với sự hình thành và tồn tại của hệ thống Nhà nước,
đồng thời thuế cũng phát triển cùng với sự phát triển của hệ thống Nhà nước.
Thuế luôn luôn gắn chặt với sự ra đời và phát triển của Nhà nước. Bản
chất của Nhà nước quy định bản chất của thuế. Về mặt lý luận, bản chất của
Nhà nước vốn mang tính giai cấp. Khơng có một Nhà nước phi giai cấp mà
chỉ có Nhà nước của giai cấp nào mà thơi. Vì vậy, suy cho cùng bản chất thuế
cũng mang tính giai cấp.
11
Mặc dù, thuế được coi là công cụ chủ yếu để huy động tập trung nguồn
lực tài chính cho Nhà nước, nhưng khơng có nghĩa là Nhà nước có thể quy
định mức động viên thuế cao để tăng thu về thuế bằng mọi giá, mà mức độ
động viên thuế chỉ có một giới hạn nhất định. Nếu Nhà nước dùng quyền lực
để tập trung quá mức phần thu nhập từ tổng sản phẩm quốc nội (GDP) vào
cho ngân sách nhà nước, thì phần GDP cịn lại dành cho các doanh nghiệp và
cá nhân sẽ giảm xuống. Đến một lúc nào đó, nếu họ nhận thấy rằng cơng sức
bỏ vào kinh doanh, vào làm việc được bù đắp không thoả đáng thì họ sẽ nghỉ
khơng kinh doanh hoặc chuyển sang kinh doanh ngầm và tìm mọi cách để trốn
thuế. Như vậy, có thể thấy rằng, khả năng thu thuế tối đa cho ngân sách nhà
nước là khoản thu nhập mà các doanh nghiệp và người dân sẵn sàng giành ra
để trả thuế mà không làm thay đổi mọi hoạt động vốn có của họ. Đứng trên
giác độ nền kinh tế quốc dân, khả năng thu thuế của một quốc gia được phản
ánh thông qua tỷ lệ phần trăm của GDP được động viên vào ngân sách nhà
nước được gọi là hệ số huy động thuế hay hệ số gánh nặng thuế.
Hệ số huy động thuế do còn gọi là độ lớn của gánh nặng thuế đánh vào
cộng đồng, vì vậy mặt nào đó thể hiện sức chịu đựng của nhân dân trong việc
huy động thuế của Nhà nước. Hệ số huy động thuế của một quốc gia tăng,
chứng tỏ tốc độ tăng tiết kiệm của khu vực dân cư sẽ giảm và tất yếu phần đầu
tư trong khu vực tư nhân sẽ khó có khả năng gia tăng. Trong trường hợp hệ số
huy động tăng, nhưng chi tiêu Chính phủ hợp lý, đầu tư của Chính phủ hiệu
quả, thì sự tăng trưởng của nền kinh tế vẫn bình ổn. Tuy nhiên, theo đánh giá
thông thường, đầu tư trong khu vực Nhà nước thường kém hiệu quả hơn trong
đầu tư của lĩnh vực tư nhân, vì vậy việc tăng mức huy động thuế quá cao sẽ
làm cho nền kinh tế giảm bớt nhịp độ phát triển.
Thông thường việc huy động tiền thuế là do cơ quan thuế đảm nhận.
Mức huy động cao sẽ gây khó khăn cho việc hành thu và dưới con mắt người
dân, cơ quan thuế sẽ khó được thơng cảm. Tuy nhiên, việc huy động thuế có
12
thực sự trở thành gánh nặng hay khơng, cịn tuỳ thuộc vào việc sử dụng tiền
thuế của Nhà nước đó. Việc sử dụng tiền thuế của các Nhà nước trong các thời
kỳ tập trung vào các nội dung chủ yếu sau:
Có thể nói bản chất của một Nhà nước khơng thể hiện ra trong các tơn
chỉ Nhà nước đó đưa ra, mà nó thể hiện rất cụ thể qua việc sử dụng tiền thuế
của Nhà nước đó trong việc điều hành đất nước. Việc đánh giá một Nhà nước
có thật sự do dân, vì dân hay khơng, chỉ có thể đốn chắc trong việc nhận định
và đánh giá mục đích và hiệu quả của việc sử dụng tiền thuế mà người dân
đóng góp.
Thuế là một hình thức huy động nguồn tài chính cho Nhà nước đã có từ
lâu đời. Khi Nhà nước ra đời, thuế trở thành công cụ để Nhà nước có được
nguồn thu nhằm trang trải các chi tiêu của Nhà nước. Trải qua quá trình phát
triển lâu dài và cho đến nay, các Nhà nước đều sử dụng thuế để phân phối các
khoản thu nhập và huy động nguồn thu cho Nhà nước. Nhà nước dùng quyền
lực của mình ban hành các luật thuế để bắt buộc dân cư và các tổ chức kinh tế
đóng góp cho Nhà nước. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã khẳng định,
một trong những quyền lực công của Nhà nước là thu thuế.
Từ sự phân tích khái qt đó có thể cho thấy, thuế là hình thức đóng
góp nghĩa vụ theo luật định của các pháp nhân và thể nhân cho Nhà nước
nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu cho Nhà nước.
Khái niệm đó cho thấy: nộp thuế vào NSNN là nghĩa vụ là sự đóng góp
cưỡng bức của các chủ thể nộp thuế (các doanh nghiệp và dân cư). Nguồn của
thuế là một phần thu nhập do lao động, do kinh doanh, do đầu tư tài chính, do
chuyển dịch tài sản mang lại.
Thuế mang sẵn trong đó nó có đặc điểm cơ bản sau đây:
Thuế mang hình thức động viên mang tính bắt buộc trên nguyên tắc luật
định. Đóng thuế là nghĩa vụ bắt buộc khơng được từ chối. Phân tích các khoản
thu nhập qua thuế gắn với quyền lực, sức mạnh của Nhà nước. Nhà nước dựa
13
vào quyền lực to lớn của mình để ấn định các thứ thuế, bắt buộc người nộp
thuế phải thực hiện để Nhà nước có nguồn thu ổn định, thường xuyên, đảm
bảo các khoản chi trong hoạt động hàng ngày của Nhà nước mà vẫn ổn định
được NSNN.
Thuế là khoản đóng góp khơng hồn trả trực tiếp cho người nộp. Nó
vận động một chiều, không phải là khoản thù lao mà người nộp thuế phải trả
cho Nhà nước do được hưởng các dịch vụ do Nhà nước cung cấp.
Thuế là hình thức đóng góp được quy định trước. Dĩ nhiên thuế mang
tính giai cấp của Nhà nước đã ban hành ra nó. Mỗi Nhà nước lại mang tính
giai cấp khác nhau nên khi vận dụng các đặc điểm vốn có của thuế đều phải
tìm cách bảo vệ lợi ích của giai cấp mà Nhà nước đại diện
Là một công cụ của chính sách quản lý kinh tế, chính sách thuế phải
hướng vào thực hiện các mục tiêu tổng thể của chính sách kinh tế mà Đại hội
Đảng lần thứ IX của VN đề ra: “Đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát
triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng
để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ
tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của
nước ta trên trường quốc tế được nâng cao”.
Tuy nhiên, với tư cách là một cơng cụ trọng tâm của chính sách tài
chính quốc gia, liên quan đến việc huy động và phân bổ các nguồn lực tài
chính của xã hội, nên vấn đề xuyên suốt của chính sách thuế là phải thực hiện
các mục tiêu có tính đặc thù, đó là:
Giữ kỷ luật tài chính tổng thể để lành mạnh hố nền tài chính quốc gia,
ổn định kinh tế vĩ mơ. Nguồn thu từ thuế phải có khả năng tài trợ các nhu cầu
chi tiêu cần thiết ngày càng tăng của Chính phủ mà khơng phải viện đến sự
vay mượn q mức của khu vực cơng. Theo tính tốn của Bộ tài chính được
14
xác định trong chiến lược phát triển tài chính đến năm 2010, thì tỷ lệ thu
NSNN phải ở mức bình qn năm vào khoảng 20-21% GDP, trong đó thuế,
phí và lệ phí đạt 18-19% GDP.
- Chính sách động viên của thuế cần tơn trọng kỷ luật tài chính tổng thể.
Nguồn lực tài chính của nền kinh tế là giới hạn, do vậy mức huy động của
thuế cũng phải có sự giới hạn. Với thực trạng là một quốc gia đang phát triển,
nhu cầu chi tiêu của ngân sách rất lớn và áp lực cân đối ngân sách là không
nhỏ, nhưng không phải thế là tận thu để bao chi. Làm như vậy sẽ phá vỡ tính
kỷ luật tài chính tổng thể, gây kìm hãm, khơng kích thích đầu tư, tiết kiệm của
khu vực doanh nghiệp và dân cư. Thuế không vì mục tiêu cân đối ngân sách
trước mắt, mà quan trọng phải hướng vào mục tiêu cao hơn và xa hơn đó là
thúc đẩy đầu tư, vực dậy nền kinh tế, thốt khỏi tình trạng yếu kém và đuổi
kịp các nước trong khu vực.
Đối với một quốc gia, mức thu của thuế bao nhiêu là hợp lý. Thật ra cho
đến nay, lý thuyết thuế tối ưu cung cấp rất ít hướng dẫn thực tế để xác định
mức thuế hợp lý cho một quốc gia. Nhưng thay vào đó, bằng những phương
pháp thống kê, các nhà kinh tế tiến hành phân tích các dữ liệu và so sánh mức
thuế của một quốc gia cụ thể với gánh nặng thuế trung bình của một số nhóm
đại diện các quốc gia phát triển và đang phát triển, đồng thời quan tâm 2425% GDP, khống chế bội chi ngân sách nhà nước 4-5% GDP; bù đắp bội chi
ngân sách bằng nguồn vốn trong nước khoảng 3-5% GDP và vay nước ngoài
1-1,5% GDP [9, tr.15].
Nâng cao năng lực cạnh tranh và thu hút vốn đầu tư của nền kinh tế
trong bối cảnh hội nhập và cam kết quốc tế nhằm thúc đẩy nền kinh tế tăng
trưởng bền vững và thực hiện thành công chiến lược giảm nghèo.
Thuế phải là công cụ quản lý kinh tế vĩ mơ của Nhà nước có hiệu quả
và hiệu lực. Thuế đi vào trong đời sống kinh tế - xã hội trên cơ sở thực thi một
chính sách thuế minh bạch, cơng bằng, có tính luật pháp cao.
15
Quan điểm cải cách chính sách thuế:
Thực hiện đường lối đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh
đạo từ Đại hội VI (năm 1986) đến nay Nhà nước đã sửa đổi bổ sung nhiều lần
các chính sách thuế, đồng thời ban hành các luật, pháp lệnh về thuế mới để
thay thế cho phù hợp, đảm bảo tính pháp lý cao, có hiệu lực hơn trong quản lý
thu. Trải qua ba lần cải cách thuế đến nay hệ thống thuế nước ta gồm có: Thuế
giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất
nhập khẩu, thuế môn bài, thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế nhà đất, thuế thu
nhập cá nhân, thuế tài nguyên, phí lệ phí và các khoản thu khác như tiền thuê
đất, thu tiền sử dụng đất. Từ đó nguồn thu ngân sách ngày càng tăng, cơ bản
đã bao quát hết nguồn thu trên tất cả các lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh đó
là tiền đề cơ bản đảm bảo nguồn thu cho NSNN, là công cụ quan trọng để Nhà
nước quản lý vĩ mô nền kinh tế, thực hiện công bằng xã hội và hội nhập kinh
tế quốc tế. Bên cạnh đó bộ máy quản lý thu cũng được kiện toàn từ trung
ương đến địa phương theo xu hướng ngày càng hiện đại.
Sự nghiệp đổi mới của nước ta đạt được những thành tựu đáng khích lệ,
điều đó một lần nữa khẳng định tính đúng đắn đường lối đổi mới của Đảng và
Nhà nước ta. Công cuộc đổi mới đòi hỏi phải tăng cường sự quản lý của Nhà
nước đối với các quá trình kinh tế - xã hội, trong đó Thuế là cơng cụ hữu hiệu
và sắc bén để Nhà nước điều tiết nền kinh tế. Trong thời gian qua những thành
công bước đầu về đổi mới chính sách thuế đã tạo ra được một hệ thống thuế
thể hiện được vai trị của mình trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
và hội nhập kinh tế quốc tế.
Tuy nhiên đã trải qua 3 lần cải cách nhưng nhìn chung hệ thống thuế
của nước ta vẫn cịn nhiều hạn chế, bất cập. Tình trạng chồng chéo thuế,
trùng thuế, quy định chính sách, thủ tục cịn rườm rà phức tạp, thiếu chặt
chẽ, không bao quát hết thực tế, các chính sách chưa kịp đi vào đời sống đã
bị thay đổi bổ sung nhiều lần. Bên cạnh đó ý thức chấp hành pháp luật chưa
16
cao. Đội ngũ cán bộ còn yếu, nhận thức về đổi mới để theo kịp tình hình
thực tiễn cịn chậm...
Trong xu thế tồn cầu hố và q trình hội nhập kinh tế quốc tế, khi nước
ta đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới (WTO)
địi hỏi chúng ta phải thay đổi chính sách thuế phù hợp với các cam kết quốc
tế, đồng thời tạo điều kiện thu hút đầu tư nước ngoài. Đây cũng là đòi hỏi bức
xúc, buộc chúng ta phải tiếp tục cải cách chính sách thuế.
Một nguyên nhân khách quan nữa địi hỏi chúng ta phải cải cách chính
sách thuế đó là xu thế ngày càng dân chủ, vì thế tính dân chủ cơng khai minh
bạch trong chính sách thuế của chúng ta cũng phải được thể hiện một cách đầy
đủ hơn. Hiện nay ngành thuế đang tạo điều kiện cho người nộp thuế tự khai,
tự nộp, tự chịu trách nhiệm về thuế, xem người nộp thuế là “bạn đồng hành”
là khách hàng được ưu tiên phục vụ. Đây là quá trình sửa đổi lâu dài, cả từ
chính sách đến quy trình hoạt động thu thuế, cả về tư duy nhận thức nhằm
phát huy dân chủ thực sự trong công tác thuế.
Trước những yêu cầu khách quan đó, Nghị quyết đại hội khố X một lần
nữa khẳng định việc:
Hồn thiện hệ thống pháp luật về thuế theo nguyên tắc công
bằng, thống nhất và đồng bộ, bảo đảm môi trường thuận lợi, khuyến
khích phát triển sản xuất, kinh doanh. Điều chỉnh chính sách thuế
theo hướng giảm và ổn định thuế suất, mở rộng đối tượng thu, điều
tiết hợp lý thu nhập, không lồng ghép chính sách xã hội trong chính
sách thuế. Từng bước thực hiện phương pháp tính thuế, quản lý thu
thuế, xử lý các vi phạm về thuế theo thông lệ quốc tế [13, tr.106].
1.1.2.2. Các khoản thu từ phí và lệ phí thuộc ngân sách nhà nước
Phí là khoản thu nhằm thu hồi chi phí đầu tư cung cấp các dịch vụ công
cộng không thuần tuý theo quy định của pháp luật và là khoản tiền mà các tổ
chức, các nhân phải trả khi sử dụng dịch vụ công cộng đó.
17
Lệ phí là khoản thu gắn liền với việc cung cấp trực tiếp các dịch vụ
hành chính pháp lý của Nhà nước cho các thể nhân, pháp nhân nhằm phục vụ
cho công việc quản lý nhà nước theo quy định của pháp luật.
Các dịch vụ thu phi theo quy định của pháp luật có thể do Nhà nước
đầu tư cung cấp và cũng có thể do khu vực tư nhân đầu tư cung cấp. Phí thu từ
các dịch vụ do Nhà nước đầu tư là khoản thu thuộc NSNN. Phí thu từ các dịch
vụ không do Nhà nước đầu tư hoặc do Nhà nước đầu tư nhưng đã chuyển giao
cho tổ chức, cá nhân thực hiện theo nguyên tắc hạch tốn và tự chủ tài chính
là khoản thu khơng thuộc NSNN. Tiền thu phí khơng thuộc NSNN được xác
định là doanh thu của tổ chức cá nhân thu phí.
Các dịch vụ theo quy định của pháp luật được phép thu lệ phí thuộc các
dịch vụ gắn với cơng việc quản lý nhà nước, vì vậy chỉ có cơ quan Nhà nước
hoặc tổ chức được uỷ quyền phục vụ công việc quản lý nhà nước theo quy
định của pháp luật mới được thu phí và lệ phí theo quy định của pháp luật.
Phí thuộc NSNN và lệ phí là khoản thu bắt buộc và phát sinh thường
xuyên của NSNN. Song khác với thuế, phí thuộc NSNN và lệ phí mang tính
chất hoàn trả gắn với việc hưởng thụ các dịch vụ do Nhà nước đầu tư cung
cấp có thu phí hoặc lệ phí theo quy định của pháp luật.
Như chúng ta đã biết nhu cầu của con người về dịch vụ cơng cộng như
cơ sở hạ tầng kinh tế, văn hố, xã hội, y tế, giáo dục, môi trường pháp luật...
ngày càng tăng cùng với sự phát triển của đời sống kinh tế - xã hội. Do vậy,
Nhà nước thu phí và lệ phí đối với một số dịch vụ cơng cộng nhất định nhằm
góp phần tăng thêm nguồn thu cho NSNN để đầu tư cung cấp dịch vụ công
cộng đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của xã hội.
Đầu tư của Nhà nước để cung cấp các dịch vụ công cộng trên những địa
bàn vùng lãnh thổ với các điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau là khác nhau.
Khả năng, điều kiện và nhu cầu khai thác, sử dụng các dịch vụ công cộng của
các chủ thể trong xã hội cũng khác nhau. Vì vậy Nhà nước thu phí và lệ phí
18
cịn nhằm đảm bảo cơng bằng giữa các thể nhân và pháp nhân trong việc khai
thác hưởng thụ những lợi ích từ một số dịch vụ công cộng do Nhà nước đầu tư
cung cấp.
Ngồi ra, thu phí và lệ phí cịn có vai trị quan trọng trong việc phục vụ
cơng việc quản lý nhà nước đối với các hoạt động kinh tế - xã hội và nâng cao
ý thức trách nhiệm của người dân đối với các giá trị vật chất, tinh thần của
cộng đồng xã hội, trách tình trạng lạm sử dụng dịch vụ công cộng.
Thẩm quyền quy định về phí và lệ phí là thẩm quyền quy định mức thu,
chế độ thu nộp, quản lý và sử dụng tiền phí và lệ phí. Phân cấp thẩm quyền
quy định phí và lệ phí được thực hiện dựa vào tính chất và phạm vi ảnh hưởng
của từng loại phí, lệ phí.
Việc phân cấp thẩm quyền quy định về phí như sau:
- Chính phủ quy định đối với một số phí quan trọng, có số thu lớn, liên
quan đến nhiều chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước;
- Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quy định đối
với một số loại phí gắn với một số loại phí gắn với quản lý đất đai, tài nguyên
thiên nhiên, thuộc chức năng quản lý hành chính Nhà nước của chính quyền
địa phương;
- Bộ Tài chính quy định đối với các loại phí cịn lại áp dụng thống nhất
trong cả nước.
Việc phân cấp theo thẩm quyền quy định về lệ phí như sau:
- Chính phủ quy định đội với một số lệ phí quan trọng, có số thu lớn, có
ý nghĩa pháp lý quốc tế;
- Bộ Tài chính quy định đối với những lệ phí cịn lại.
1.1.2.3. Các khoản thu khác của ngân sách nhà nước
Để quản lý và điều tiết các hoạt động kinh tế - xã hội, chính phủ các
quốc gia đều tham gia trực tiếp vào các hoạt động kinh tế - xã hội ở mức độ
nhất định như đầu tư, tài trợ, góp vốn... Việc Nhà nước tham gia vào các hoạt
19
động kinh tế nhất định đã tạo ra các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà
nước như thu từ lợi tức góp vốn cổ phần của Nhà nước, thu hồi vốn của Nhà
nước đầu tư vào các cơ sở kinh tế.
Tài nguyên công sản quốc gia như đất đai, tài nguyên rừng, tài nguyên
trong lòng đất, nguồn nước, nguồn lợi vùng biển, thềm lục địa, vùng trời và
vốn, tài sản của Nhà nước đầu tư vào các doanh nghiệp, các ngành các lĩnh
vực kinh tế - xã hội là tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước. Tài ngun cơng
sản quốc gia là nguồn lưc tài chính của đất nước. Tuỳ thuộc vào thực trạng và
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ cụ thể, Nhà
nước có thể bán hoặc cho thuê những tài nguyên công sản nhất định cho các
chủ thể ở trong nước hoặc ngoài nước. Tiền bán hoặc cho thuê tài nguyên
công sản quốc gia như tiền bán nhà thuộc sở hữu của Nhà nước, tiền bán tài
nguyên...là khoản thu của NSNN.
Ngoài các khoản thu trên, thu NSNN cịn bao gồm các khoản đóng góp
tự nguyện của các cá nhân, tổ chức ở trong nước và ngoài nước; các khoản
viện trợ khơng hồn lại bằng tiền, hiện vật của chính phủ các nước; các tổ
chức cá nhân ở nước ngồi; các khoản đóng góp tự nguyện khác theo quy định
của pháp luật. Các khoản thu này phát sinh khơng thường xun và khơng lớn,
nhưng có tính chất khơng hồn trả, nên chúng có tác dụng quan trọng bổ sung
tăng cường thêm nguồn tài chính cho NSNN.
Các khoản thu phạt trên các lĩnh vực tài nguyên, môi trường, phạt vi
phạm hành chính…
Các khoản thu khác của NSNN nói trên trong thời gian qua về chính
sách huy động điều tiết đối với nội dung thu này còn những hạn chế bất cập,
cụ thể như mức huy động quá thấp trên một số lĩnh vực, chính sách cịn chưa
nhất qn chưa gắn giữa việc điều tiết trên lĩnh vực này với mức huy động
vào ngân sách, địa phương chưa quan tâm đúng mức trong khai thác nguồn
thu gắn với bảo vệ tài nguyên thiện nhiên trên địa bàn.
20
Xét về các quan hệ kinh tế chứa đựng trong NSNN, các khoản thu luồng thu nhập quỹ NSNN, các khoản chi - xuất quỹ NSNN đều phản ánh
những quan hệ kinh tế nhất định giữa Nhà nước và người nộp, giữa Nhà nước
với cơ quan, đơn vị thụ hưởng quỹ. Hoạt động thu chi NSNN là hoạt động tạo
lập - sử dụng quỹ NSNN làm cho vốn tiền tệ, nguồn tài chính vận động giữa
một bên là Nhà nước với một bên là các chủ thể phân phối và ngược lại trong
q trình phân phối các nguồn tài chính. Hoạt động đó đa dạng, phong phú
được tiến hành trên mọi lĩnh vực và có tác động đến mọi chủ thể kinh tế - xã
hội. Những quan hệ thu nộp và cấp phát qua quỹ NSNN là những quan hệ
được xác định trước, được định lượng và Nhà nước sử dụng chúng để điều
chỉnh vĩ mô nền kinh tế - xã hội.
Từ sự phân tích trên, ta có thể xác định: NSNN phản ánh các quan hệ
kinh tế phát sinh gắn liền với quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ
tập trung của Nhà nước khi Nhà nước tham gia phân phối các nguồn tài chính
quốc gia nhằm thực hiện các chức năng của Nhà nước trên cơ sở luật định.
Ngân sách nhà nước là mắt khâu quan trọng nhất giữ vai trò chủ đạo
trong Tài chính cơng. Thu của ngân sách nhà nước được lấy từ mọi lĩnh vực
kinh tế - xã hội khác nhau, trong đó thuế là hình thức thu phổ biến dựa trên
tính cưỡng chế là chủ yếu. Chi tiêu của ngân sách nhà nước duy trì sự tồn tại
hoạt động của bộ máy Nhà nước và phục vụ thực hiện các chức năng của Nhà
nước. Ngân sách nhà nước là một hệ thống bao gồm các cấp ngân sách phù
hợp với hệ thống chính quyền Nhà nước các cấp. Tương ứng các cấp ngân
sách của hệ thống ngân sách nhà nước, quỹ ngân sách nhà nước được chia
thành: quỹ ngân sách của chính phủ trung ương, quỹ ngân sách của chính
quyền cấp tỉnh và tương đương, quỹ ngân sách của chính quyền cấp huyện và
tương đương, quỹ chính quyền cấp xã và tương đương. Phục vụ thực hiện các
chức năng, nhiệm vụ của chính quyền Nhà nước các cấp, quỹ ngân sách nhà
nước lại được chia thành nhiều phần nhỏ để sử dụng cho các lĩnh vực khác
21
nhau như: văn hoá, giáo dục, y tế, phần dùng cho các biện pháp xã hội, an
ninh, quốc phòng….
Đặc trưng cơ bản của các quan hệ trong tạo lập và sử dụng ngân sách
nhà nước là mạng tính pháp lý cao gắn liền với quyền lực chính trị của Nhà
nước và khơng mang tính hồn trả trực tiếp là chủ yếu.
1.1.3. Những nhân tố ảnh hưởng đế thu ngân sách nhà nước
Một vấn đề hết sức quan trọng trong thu NSNN là việc xác định mức
động viên và lĩnh vực động viên một cách đúng đắn và hợp lý. Điều đó khơng
chỉ ảnh hưởng đến số thu NSNN mà cịn tác động mạnh mẽ đến quá trình phát
triển kinh tế xã hội. Mức động viên và lĩnh vực động viên lại chịu tác động
của nhiều nhân tố kinh tế, chính trị, xã hội của quốc gia. Các nhân tố ảnh
hưởng đến thu NSNN cần phải kể đến là:
Thu nhập GDP bình quân đầu người
Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế của một
quốc gia, phản ánh khả năng tiết kiệm, tiêu dùng và đầu tư của một nước. Thu
nhập GDP bình quân đầu người là nhân tố quyết định mức động viên của
NSNN. Nếu khơng tính đến chỉ tiêu này khi xác định mức động viên của
NSNN sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến các vấn đề tiết kiệm, tiêu dùng và đầu tư
của các tổ chức kinh tế, của các tầng lớp dân cư.
Tỷ suất doanh lợi trong nền kinh tế
Tỷ suất doanh lợi trong nền kinh tế phản ánh hiệu quả của đầu tư phát
triển kinh tế. Tỷ suất doanh lợi càng lớn, nguồn tài chính càng lớn. Đây là
nhân tố quyết định đến việc nâng cao tỷ suất thu NSNN.
Dựa vào tỷ suất doanh lợi trong nền kinh tế để xác định tỷ suất thu
NSNN sẽ tránh được việc động viên vào NSNN gây khó khăn về tài chính cho
hoạt động kinh tế. Hiện nay, tỷ suất lợi nhuận trong nền kinh tế nước ta đạt
thấp, trong khi chi phí tiền lương ngày càng tăng, nên tỷ suất thu NSNN
không thể cao được.
22
Tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên trên địa bàn
Đối với các địa phương có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú thì
nhân tố này ảnh hưởng lớn đến thu NSNN. Nguồn tài nguyên thiên nhiên trên
địa bàn sẽ là nguồn ngun liệu cung cấp cho các cơng trình, nhà máy, là
nguồn năng lượng cho các cơng trình thuỷ điện. Địa phương nơi chứa đựng
nguồn tài nguyên sẽ là nơi ưu tiên được đầu tư các nhà máy khai thác, chế
biến sử dụng nguồn tài nguyên tạo công ăn việc làm cho nhân dân địa phương,
kinh tế tại địa phương phát triển, thuế tài nguyên là nguồn thu cho địa phương
để đầu tư trở lại hiện trường nơi khai thác cũng như về môi trường, hiện trạng
phải đảm bảo để phát triển bền vững. Đó là nhân tố quan trọng ảnh hưởng lớn
đến việc nâng cao tỷ suất thu NSNN.
Mức độ trang trải các khoản chi phí của Nhà nước, Nhân tố này phụ
thuộc vào:
Quy mô tổ chức của bộ máy Nhà nước và hiệu quả hoạt động của nó.
Bộ máy Nhà nước cấp huyện có chức năng quan trọng về quản lý kinh
tế, xã hội địa phương phát triển ổn định, đảm bảo về quốc phòng- an ninh trên
địa bàn. Để đảm bảo duy trì hoạt động thực hiện tốt các nhiệm vụ cần có
nguồn ngân sách. Trong điều kiện hình thành chính quyền cấp huyện thì chi
phí cho hoạt động của bộ máy do ngân sách cấp huyện đảm nhiệm, có trách
nhiệm cung cấp các phương tiện vật chất cho sự tồn tại và hoạt động của bộ
máy Nhà nước cơ sở.
Những nhiệm vụ kinh tế - xã hội mà Nhà nước đảm nhận trong từng thời
kỳ: Mục đích nền sản xuất xã hội chủ nghĩa là đảm bảo cho mọi thành viên
trong xã hội có đời sống vật chất và văn hố ngày càng phong phú. Chính
quyền cấp huyện phải quan tâm, chăm lo đến việc phát triển về cơ sở kết cấu hạ
tầng, kinh tế xã hội, nâng cao thu nhập mức sống nhân dân trên địa bàn, thực
hiện chuyển tải, giám sát thực hiện các chương trình về kinh tế, xã hội của
thành phố cho người dân trên địa bàn thơng qua chính quyền cấp xã. Đồng thời
23
thực hiện tốt các chính sách đền ơn đáp nghĩa, an sinh xã hội…Qua thực tiễn
thực hiện nhiệm vụ chính quyền cấp huyện theo phân cấp, cho thấy chính
quyền cấp huyện cần có một thực lực kinh tế đủ mạnh, chủ động trong nguồn
lực ngân sách để hoàn thành các nội dung, kế hoạch đã đề ra. Ngược lại, nêu
trong nguồn lực ngân sách bị động mỗi chương trình hoạt động phải trông chờ
vào ngân sách cấp trên sẽ là trở ngại lớn trong q trình thực thi nhiệm vụ
khơng đạt được những mục tiêu mong muốn.
Chính sách sử dụng kinh phí của Nhà nước: thực hiện vai trị của Nhà
nước trên lĩnh vực chi tiêu công tạo cơ sở vật chất về kết cấu hạ tầng, phát
triển trên các lĩnh vực kinh tế văn hoá xã hội, đảm bảo về an ninh quốc phịng
của địa phương, q trình chi tiêu ngân sách đồng thời là quá trình đầu tư xây
dựng phát triển, xã hội phát triển làm nền tảng cho sản xuất phát triển tạo
nguồn thu cho ngân sách. Trong điều kiện các nguồn tài trợ khác cho chi phí
Nhà nước khơng có khả năng tăng lên, việc tăng mức độ chi phí của Nhà nước
sẽ dẫn đến tỷ suất thu của NSNN tăng lên.
1.2. NỘI DUNG VÀ ĐẶC ĐIỂM THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TRÊN ĐỊA
BÀN HUYỆN
1.2.1. Nội dung thu ngân sách nhà nước trên địa bàn huyện
Ngân sách nhà nước huyện là một bộ phận của NSNN do uỷ ban nhân
dân huyện xây dựng, quản lý và HĐND huyện quyết định, giám sát thực hiện.
Đó là quỹ tiền tệ tập trung của chính quyền cấp huyện để đảm bảo cho các
hoạt động quản lý nhà nước và góp phần thực hiện mục tiêu phát triển KT-XH
tại địa bàn; hoạt động của quỹ này thể hiện trên hai phương diện: nguồn thu
vào quỹ và phân phối sử dụng các khoản vốn quỹ đó.
Theo Điều 25 Luật NSNN năm 2002 về nhiệm vụ, quyền hạn của
chính quyền các cấp, chính quyền địa phương, căn cứ vào nhiệm vụ thu, chi
ngân sách được cấp trên giao và tình hình thực tế tại địa phương được quyết
định:
24
a) Dự toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn, bao gồm thu nội địa,
thu từ hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu, thu viện trợ khơng hồn lại;
b) Dự toán thu ngân sách địa phương, bao gồm các khoản thu ngân sách
địa phương hưởng 100%, phần ngân sách địa phương được hưởng từ các khoản
thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm (%), thu bổ sung từ ngân sách cấp trên;
Từ định nghĩa trên, cho thấy:
Về mặt bản chất, ngân sách huyện là hệ thống những mối quan hệ kinh
tế phát sinh trong quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ của chính
quyền cấp huyện nhằm phục vụ cho việc thực hiện các chức năng của Nhà
nước ở cấp trung gian trong khuôn khổ đã được phân công, phân cấp quản lý,
như: xây dựng và thực hiện các kế hoạch thuộc phạm vi huyện như sự nghiệp
kinh tế; sự nghiệp văn hố thơng tin, thể dục - thể thao, y tế; quản lý lao động
và tổ chức thực hiện sự phân bố lao động; quản lý và thi hành chính sách tài
chính, thuế, thu nợ cho Nhà nước, xây dựng và quản lý thu chi ngân sách
huyện theo luật NSNN; thực hiện công tác quản lý trên địa bàn, giữ gìn an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, thực hiện chế độ và kế hoạch nghĩa vụ
quân sự theo pháp luật; chăm lo cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho
nhân dân; phát hiện và thu giữ, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật theo phạm
vi quyền hạn được phân công.
Về mặt định lượng, ngân sách huyện là tổng số thu, tổng số chi trong dự
toán đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định, phục vụ cho phần
lớn các lĩnh vực hoạt động Kinh tế - xã hội, quốc phòng -an ninh trên địa bàn
huyện, được hình thành trên cơ sở phân chia nguồn thu, đảm nhận nhiệm vụ
chi và tổ chức thực hiện trong thời gian một năm. NS huyện cung cấp các
phương tiện vật chất cho sự tồn tại và hoạt động của bộ máy Nhà nước ở cơ sở
và đó chính là một cơng cụ đặc biệt quan trọng để chính quyền cấp huyện thực
hiện quản lý toàn diện các hoạt động kinh tế - xã hội tại địa phương.
25
Về nguồn gốc của NS huyện: Ngày nay, Nhà nước ngày càng có vai trị
quan trọng trong việc huy động và phân phối thu nhập quốc dân qua NSNN,
chính sự tồn tại và phát triển của Nhà nước đã tạo ra những điều kiện cần và
đủ cho NSNN nói chung, trong đó có ngân sách cấp huyện tồn tại. Chừng nào
Nhà nước cịn tồn tại thì chừng đó ngân sách các cấp còn tồn tại; nhất là khi
mọi quốc gia đều có sự phân cơng, phân cấp quản lý KT-XH cho mỗi cấp
quản lý hành chính nên hệ thống NSNN bao giờ cũng bao gồm các cấp khác
nhau, vì vậy, ngân sách huyện ra đời là tất yếu khách quan trong quá trình
quản lý nhà nước.
Nội dung thu ngân sách địa phương bao gồm:
Các khoản thu ngân sách địa phương hưởng 100%:
- Thuế nhà, đất;
- Thuế tài nguyên, không kể thuế tài nguyên thu từ hoạt động dầu, khí.
- Thuế chuyển quyền sử dụng đất;
- Thuế sử dụng đất nông nghiệp
- Tiền sử dụng đất
- Thuế, lệ phí, phí do các tổ chức và cá nhân nộp theo quy định của
pháp luật.
- Thu từ quỹ đất cơng ích và thu hoa lợi công sản khác.
- Thu từ hoạt động sự nghiệp của các đơn vị do địa phương quản lý
- Huy động đóng góp từ các tổ chức, cá nhân theo qui định của Nhà nước
- Thu từ đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.
- Thu khác: như thu từ phạt, tịch thu, tịch biên tài sản …
- Thu huy động các khoản đóng góp đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng.
Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm (%) giữa các cấp ngân sách:
- Thuế thu nhập doanh nghiệp (không kể thuế thu nhập doanh nghiệp
của các đơn vị hạch tốn tồn ngành).
- Thuế giá trị gia tăng (khơng kể thuế giá trị gia tăng hàng hoá nhập khẩu).