1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực tiễn phát triển ở các nước trên thế giới cho thấy nguồn nhân lực
có vai trị hết sức quan trọng đối với quá trình tăng trưởng và phát triển kinh
tế. Trước đây các yếu tố sản xuất truyền thống như: đất đai, vốn, sức lao động
được coi là quan trọng nhất. Ngày nay do sự phát triển mạnh mẽ của cuộc
cách mạng khoa học - công nghệ đã làm thay đổi thứ tự ưu tiên, trong đó,
nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố cơ bản nhất của mọi quá trình, yếu tố
đóng vai trị quyết định đến sự biến đổi về chất dẫn tới sự ra đời của nền kinh
tế tri thức. Để có được tốc độ phát triển cao, các quốc gia trên thế giới đều
quan tâm đến việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Sản phẩm, hàng hố
của các doang nghiệp có sức cạnh tranh cao trên thị trường đều phụ thuộc chủ
yếu vào tỷ lệ hàm lượng giá trị gia tăng được kết tinh trong sản phẩm đó. Do
vậy, việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đang trở thành vấn đề cấp bách
đối với các quốc gia trên thế giới, vấn đề mang tính chiến lược, sống cịn
trong điều kiện tồn cầu hố kinh tế với trình độ khoa học - cơng nghệ ngày
càng phát triển.
Việt Nam đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hố, hiện đại hố
đất nước, chúng ta cịn thiếu nhiều điều kiện cho phát triển như: vốn, công
nghệ, kinh nghiệm quản lý… nhưng để tiếp cận và sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực ấy thì cần phải có chiến lược và giải pháp nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực của mình. Trong mục tiêu, phương hướng phát triển đất nước
5 năm 2006- 2010, Báo cáo Chính trị tại Đại hội lần thứ X của Đảng Cộng
sản Việt Nam đã nhấn mạnh: “Đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao”. Điều đó cho thấy việc đào tạo và sử
dụng có hiệu quả nguồn nhân lực chất lượng cao trở thành một trong các yếu
tố then chốt thúc đẩy kinh tế- xã hội phát triển.
Vĩnh phúc là một tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ. Là tỉnh có
những tiềm năng phát triển công nghiệp. Những năm gần đây, Vĩnh Phúc
2
đang đẩy mạnh q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố thơng qua việc tập
trung quy hoạch phát triển các khu công nghiệp theo hướng công nghệ cao,
nhằm tạo ra bước đột phá để đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp. Với mục tiêu phấn đấu đến
năm 2015 có đủ các yếu tố cơ bản của một tỉnh công nghiệp theo hướng hiện
đại. Đến năm 2020 trở thành tỉnh công nghiệp và trở thành thành phố Vĩnh
Phúc vào những năm 20 của thế kỷ XXI, như mục tiêu của đại hội Đảng bộ
tỉnh lần thứ 15 nhiệm kỳ 2010-2015 đã đề ra.
Đến nay, các khu công nghiệp của tỉnh Vĩnh phúc đang trong giai đoạn
quy hoạch và đầu tư phát triển, tuy vậy đã có những đóng góp quan trọng vào
phát triển kinh tế- xã hội của địa phương.Hàng năm đã tạo ra một lượng giá trị
sản xuất cơng nghiệp lớn với tốc độ tăng bình qn cao nhất các tỉnh phía
Bắc. Thu ngân sách từ cơng nghiệp hàng năm chiếm trên 80% so với tổng số
thu của tỉnh, góp phần đưa Vĩnh phúc vào nhóm những tỉnh có nguồn thu cao
của cả nước. Đặc biệt đã giải quyết việc làm cho hàng vạn lao động tại địa
phương, góp phần quan trọng vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao
động của tỉnh Vĩnh phúc.
Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động của các khu công nghiệp trên địa bàn
tỉnh Vĩnh phúc những năm qua đang bộc lộ nhiều khó khăn bất cập như: hạ
tầng kỹ thuật trong và ngồi hàng rào khu cơng nghiệp cịn chưa đồng bộ,
chưa đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp; Vấn đề mơi trường trong
các khu cơng nghiệp cịn nhiều bức xúc… Đặc biệt là số lượng và chất lượng
lao động trong các khu cơng nghiệp cịn thiếu và hạn chế, nhất là nguồn nhân
lực chất lượng cao. Trong xu hướng phát triển các khu công nghiệp theo
hướng bền vững và ưu tiên công nghệ cao, công nghệ hiện đại, đặc biệt là
cơng nghệ sạch thì u cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao càng đặt ra cấp
thiết cả về số lượng cũng như chất lượng và cơ cấu. Thực tế hiện nay tại các
khu công nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc, nguồn nhân lực sẵn có khơng phù hợp với
u cầu phát triển. Tỷ lệ người lao động qua đào tạo còn thấp chủ yếu là lao
3
động phổ thông. Một bộ phận lao động đã qua đào tạo nhưng còn hạn chế về
kỹ năng lao động, hiểu biết pháp luật, ý thức ,tác phong nghề nghiệp… Bên
cạnh đó đội ngũ cán bộ quản lý, chuyên gia giỏi, công nhân lành nghề cho các
doanh nghiệp , nhất là cho các doanh nghiệp FDI, các doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực điện tử, công nghệ cao ngày càng khó tuyển dụng …
Từ thực tế đó, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV, nhiệm kỳ
2010- 2015 xác định: “Tập trung phát triển nguồn nhân lực, coi đây là nhiệm
vụ vừa cấp bách vừa có tính chiến lược lâu dài, gắn kết chặt chẽ với chiến
lược phát triển kinh tế- xã hội, trong đó lấy nâng cao chất lượng giáo dục phổ
thông làm nền tảng, lấy đào tạo nghề, đào tạo lao động chất lượng cao làm
khâu đột phá…”.
Vì vậy, việc nghiên cứu lý luận và phân tích thực trạng nguồn nhân lực
chất lượng cao ở các khu cơng nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc để có những giải pháp
nhằm tạo ra sự chuyển biến về chất, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
đáp ứng cho phát triển kinh tế- xã hội nói chung và cho các khu cơng nghiệp
trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng là rất cần thiết.
Với ý nghĩa đó, tác giả chọn đề tài “Nguồn nhân lực chất lượng cao ở
các khu công nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay” làm luận văn thạc sĩ kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây đã có nhiều đề tài nghiên cứu về nguồn nhân
lực, về lao động, về khu cơng nghiệp,... Trong đó có các đề tài như:
- TS Mai Quốc Chính (1999), "Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước”, Nxb chính trị Quốc gia, Hà nội.
- Luận án tiến sỹ kinh tế của Nguyễn Văn Phúc (2008), “Thị trường
hàng hoá sức lao động trình độ cao ở Việt Nam hiện nay”, Học viện Chính
trị- Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
- Đề tài khoa học cấp bộ: Tiến sỹ Nguyễn Minh Quang (2008),“Thị
trường hàng hoá sức lao động chất lượng cao: Những vấn đề lý luận và thực
tiễn ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”
4
- Luận văn thạc sĩ kinh tế của Lê Quang Hùng (2006) "Nguồn nhân lực
chất lượng cao cho phát triển kinh tế- xã hội ở thành phố Đà Nẵng”,Học viện
chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Luận văn thạc sĩ của Hoàng Thị Thu Hải (2008) "Giải pháp hỗ trợ
nâng cao chất lượng nhân lực trong các khu công nghiệp tỉnh Bắc Ninh”,
Học viện Chính trị- Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
- Luận văn thạc sỹ của Lê Thị Hường(2008) "Lý luận hang hóa sức lao
động của C.Mác với phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Nghệ An”
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
- Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Thu Hiền (2008) “Phát triển nguồn
nhân lực đáp ứng yêu cầu của các khu công nghiệp qua thực tiễn một số khu
cơng nghiệp ở đồng bằng Sơng Hồng”,Học viện chính trị- Hành chính quốc
gia Hồ Chí Minh.
- Luận văn thạc sĩ của Hoàng Văn Nhiệm (2009), “Giải pháp phát triển
nguồn nhân lực đáp ứng u cầu cơng nghiệp hố, hiện đại hố ở tỉnh Vĩnh
Phúc”, Học viện Chính trị- Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
Kết quả các cơng trình nghiên cứu trên đã góp phần làm rõ hơn về mặt
lý luận và thực tiễn về nguồn nhân lực, về hàng hố sức lao động chất lượng
cao. Các cơng trình nghiên cứu đã đưa ra những giải pháp cụ thể nhằm nâng
cao, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho phát triển kinh tế- xã hội ở
một số địa phương và cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.Tuy nhiên, mỗi đề
tài trên có một cách tiếp cận riêng, ở các góc độ khác nhau về nguồn nhân lực
chất lượng cao. Các giải pháp đưa ra của một số đề tài chỉ phù hợp với địa
phương mà đề tài nghiên cứu, mặt khác các giải pháp đưa ra trước đây có thể
đã lạc hậu đối với thực tiễn có nhiều biến đổi do sự phát triển của cách mạng
khoa học- công nghệ và tồn cầu hố.Cho đến nay chưa có cơng trình nào
nghiên cứu về nguồn nhân lực chất lượng cao ở các khu cơng nghiệp tỉnh
Vĩnh Phúc. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài "Nguồn nhân lực chất lượng cao ở
các khu công nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay” là khơng trùng lặp và được
tiếp cận nghiên cứu dưới góc độ kinh tế chính trị.
5
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về nguồn nhân lực chất lượng
cao, tạo cơ sở khoa học cho phân tích thực trạng nguồn nhân lực chất lượng
cao ở các khu công nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc.
- Đề xuất các giải pháp phù hợp nhằm phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao đáp ứng nhu cầu ở các khu công nghiệp tỉnh Vĩnh phúc đến năm 2020.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Làm rõ những vấn đề lý luận về nguồn nhân lực chất lượng cao trong
điều kiện hiện nay.
- Luận giải một cách khoa học nguồn nhân lực chất lượng cao là động
lực cho q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, tiếp cận kinh tế tri thức ở
Việt Nam.
- Khảo sát, nghiên cứu thực trạng chất lượng nguồn nhân lực và nguồn
nhân lực chất lượng cao ở các khu công nghiệp của tỉnh, về những điểm mạnh,
điểm yếu và nguyên nhân. Từ đó, đề xuất một số phương hướng, giải pháp phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở các khu công nghiệp của tỉnh Vĩnh phúc
thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố và hội nhập kinh tế quốc tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận nguồn nhân lực chất lượng
cao ở các khu cơng nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng. Chủ yếu tập trung nghiên
cứu làm rõ thực trạng số lượng, chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực chất lượng
cao ở các khu công nghiệp của tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay. Từ đó, đề ra các phương
hướng và giải pháp cơ bản để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở các
khu công nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển.
4.2. Giới hạn nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề nguồn nhân lực chất lượng cao ở
các khu công nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2000- 2010. Đề xuất các giải
6
pháp cơ bản phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở các khu công nghiệp
ở tỉnh Vĩnh phúc giai đoạn 2010 -2015và tầm nhìn đến năm 2020.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được trình bày dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời, sử dụng các phương pháp nghiên cứu của
kinh tế chính trị làm cơ sở, kết hợp sử dụng các phương pháp tiếp cận hệ
thống, tiếp cận lịch sử và các phương pháp điều tra khảo sát, thống kê, so
sánh, minh họa để thực hiện đề tài.
Trong đó, Chương 1 chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích và tổng
hợp, lịch sử, lơgíc và so sánh để hệ thống hoá, làm rõ những vấn đề về nguồn
nhân lực chất lượng cao và những bài học kinh nghiệm phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao ở các khu công nghiệp.
Chương 2 chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích, thống kê, so sánh.
Có kết hợp trình bày một số sơ đồ, biểu đồ, đồ thị minh họa nhằm làm rõ thực
trạng nguồn nhân lực chất lượng cao ở các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh
Vĩnh Phúc những năm qua.
Chương 3 khái quát hoá những vấn đề, nội dung đã trình bày và phân
tích ở chương 1 và chương 2 để đưa ra quan điểm, mục tiêu, phương hướng
và giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở các khu công nghiệp
của tỉnh hiện tại và tương lai.
6. Đóng góp về mặt khoa học của luận văn
- Góp phần hệ thống hố và luận giải những vấn đề lý luận cơ bản về
nguồn nhân lực chất lượng cao ở các khu công nghiệp, đáp ứng yêu cầu hội
nhập và phát triển.
- Phân tích, đánh giá khoa học, khách quan thực trạng phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao ở các khu công nghiệp của tỉnh trong những năm qua.
- Đề xuất phương hướng và các giải pháp thiết thực, khả thi nhằm phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở các khu công nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc
đến năm 2015 và tầm nhìn 2020.
7
- Bằng việc xây dựng một hệ thống lý luận chặt chẽ và bằng minh
chứng các số liệu cụ thể, đầy đủ, luận văn khẳng định nguồn nhân lực chất
lượng cao là nguồn lực quan trọng nhất cho sự phát triển của mọi q trình
kinh tế xã hội. Do đó, để phát triển mạnh các khu công nghiệp của tỉnh theo
hướng hiện đại, góp phần đẩy nhanh sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
tỉnh Vĩnh Phúc thì phải phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 7 tiết.
8
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NGUỒN NHÂN LỰC
CHẤT LƯỢNG CAO Ở CÁC KHU CÔNG NGHIỆP
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT
LƯỢNG CAO Ở CÁC KHU CÔNG NGHIỆP
1.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực (Human resource-HR)
Trong những thời kỳ mà nền kinh tế tự nhiên cịn phổ biến, thì sự phát
triển của các nền kinh tế quốc gia trên thế giới chủ yếu dựa vào nguồn tài
nguyên thiên nhiên và lao động thủ cơng, do đó nước nào giàu tài ngun
hoặc có nhiều lao động, thì nước đó có lợi thế trong phát triển kinh tế - xã hội
và ngược lại. Trong thời đại bùng nổ của cách mạng KH - CN, tình hình đã
thay đổi: nước giàu tài nguyên thiên nhiên và nguồn lao động dồi dào chưa
hẳn đã có lợi thế trong phát triển hơn các nước nghèo tài nguyên hoặc khan
hiếm lao động giản đơn. Trên thực tế, chẳng hạn Singapo với dân số chỉ có
trên 3 triệu người, tài ngun khơng có gì đặc biệt, đã nổi lên như một nền
kinh tế có mức độ cạnh tranh cao nhất thế giới (qua nhiều cuộc bình chọn
trong những năm gần đây). Để có được kết quả như vậy, một trong những
hướng đi của họ là đào tạo nguồn nhân lực tốt. Ngay từ cuối năm 1998, Uỷ
ban cạnh tranh của họ (CSC) đã công bố chiến lược phát triển nguồn nhân lực
trong thập kỷ với mục tiêu là “tri thức hóa” lực lượng lao động. Nhật Bản,
Hồng Kơng, Singapo, Hàn Quốc…là những nước nghèo về tài nguyên, nhưng
họ lại là những nước đạt tốc độ phát triển kinh tế cao liên tục trong nhiều thập
kỷ, nên chỉ trong một thời gian ngắn đã biến đất nước họ trở thành các quốc
gia có nền kinh tế phát triển. Yếu tố đóng vai trị quyết định cho sự thành
cơng trong phát triển kinh tế của các quốc gia đó chính là nguồn nhân lực có
chất lượng cao. Ở các nước phát triển người ta đã tính tốn được rằng trong
giá trị của những sản phẩm cao cấp thì hàm lượng chất xám chiếm 70%, năng
lượng 10%, nguyên liệu 10%, thao tác vật chất chỉ chiếm 5,6%. Trong thời
9
đại ngày nay, những quan niệm về vai trò, vị trí của các nguồn nhân lực trong
phát triển liên tục thay đổi. Nếu như trước đây, người ta nhìn nhận vai trò của
nguồn nhân lực chỉ đơn thuần là phương tiện, là một nguồn lực cho phát triển
giống như mọi nguồn lực phát triển khác, thì ngày nay, sự nhận thức trên hồn
tồn khác. Con người, nguồn nhân lực khơng chỉ là động lực chủ yếu mà còn
là mục tiêu cho sự phát triển, với phương châm phát triển vì con người. Trí
tuệ con người ngày càng được đề cao, vì nó là nguồn lực to lớn và mạnh mẽ
nhất cho tiến bộ và phát triển xã hội. Theo Alvin Toffler, mọi nguồn lực tự
nhiên đều có thể bị khai thác cạn kiệt, chỉ riêng có trí tuệ là vơ tận, bởi “tri
thức có tính chất lấy khơng bao giờ hết”. Trái lại, NNL, đặc biệt NNL chất
lượng cao, nếu biết khai thác và bồi dưỡng hợp lý thì càng phát triển và có
khả năng tái sinh nhanh. Chính vì lẽ đó, NNL đã trở thành đối tượng nghiên
cứu của nhiều ngành khoa học và nhiều lĩnh vực kinh tế khác nhau, và từ đó
người ta cũng tìm ra các phương cách khác nhau để có thể nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội.
Có quan điểm cho rằng: Thơng thường những nguồn lực làm cơ sở cho
chiến lược phát triển của một nước có thể là nguồn lực tự nhiên như tài
ngun thiên nhiên, vị trí địa lý, có thể là cơ sở vật chất kỹ thuật đã được tạo
ra trong các giai đoạn trước đó, có thể là nguồn lực ngồi như vốn, cơng nghệ,
kinh nghiệm quản lý, thị trường, cũng có thể là nguồn nhân lực,… Lịch sử
cho thấy, NNL là nguồn lực lâu bền nhất trong sự phát triển của mọi quốc gia
từ trước đến nay, cho dù có những nguồn lực khác mà khơng có những con
người tương xứng, đủ khả năng khai thác những nguồn lực đó, đủ trình độ
nắm bắt và làm chủ kỹ thuật cơng nghệ hiện đại và nếu khơng có một mơi
trường kinh tế, chính trị, xã hội thuận lợi cho con người hoạt động, thì khó có
thể đạt được sự phát triển như mong muốn.
Theo giáo trình kinh tế lao động, thì: nguồn nhân lực được hiểu là
nguồn lực con người, là một trong những nguồn lực quan trọng nhất của sự
phát triển kinh tế xã hội. Nguồn nhân lực khác với các nguồn lực khác (nguồn
10
lực tài chính, nguồn lực vật chất, nguồn lực cơng nghệ…) là ở chỗ: trong quá
trình vận động, NNL chịu tác động của các yếu tố tự nhiên (sinh, chết…) và
yếu tố xã hội (việc làm, thất nghiệp…). Chính vì vậy, NNL là một khái niệm
khá phức tạp, được nghiên cứu dưới nhiều giác độ khác nhau. Nguồn nhân lực
còn được hiểu là nơi sinh sản, nuôi dưỡng và cung cấp nguồn lực con người
cho sự phát triển. Cách hiểu này muốn chỉ rõ nguồn gốc tạo ra nguồn lực con
người, nghiêng về sự biến động tự nhiên của dân số và ảnh hưởng của nó tới
sự biến động NNL. Nguồn nhân lực còn được hiểu như một yếu tố tham gia
trực tiếp vào quá trình phát triển kinh tế xã hội, là tổng thể những con người
cụ thể tham gia vào quá trình lao động. Cách hiểu này cụ thể hơn và có thể
lượng hóa được, đó là năng lực lao động của xã hội, bao gồm những người có
khả năng lao động, tức là bộ phận chủ yếu và quan trọng nhất trong NNL.
Trong lý luận về lực lượng sản xuất, con người được coi là lực lượng
sản xuất hàng đầu, là yếu tố quan trọng nhất, quyết định sự vận động và phát
triển của lực lượng sản xuất, quyết định q trình sản xuất và do đó quyết
định năng suất lao động và tiến bộ xã hội. Ở đây, con người được xem xét từ
góc độ là lực lượng lao động cơ bản của xã hội.
Theo Thuyết lao động xã hội thì nguồn nhân lực được hiểu theo hai
nghĩa.Theo nghĩa rộng, NNL là nguồn cung cấp sức lao động cho sản xuất xã
hội, cung cấp nguồn lực con người cho sự phát triển. Do đó, NNL bao gồm
tồn bộ dân cư có cơ thể phát triển bình thường (trừ những người có dị tật
bẩm sinh). Theo nghĩa hẹp, NNL là khả năng lao động của xã hội, là nguồn
lực cho sự phát triển kinh tế xã hội, bao gồm các nhóm dân cư trong độ tuổi
lao động, có tham gia vào nền sản xuất xã hội tức là toàn bộ các cá nhân cụ
thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể lực, trí lực
của họ được huy động vào quá trình lao động.
Trong lý thuyết về tăng trưởng kinh tế, NNL chính là nguồn lực chủ
yếu tạo động lực cho sự phát triển. Vì vậy việc cung ứng đầy đủ và kịp thời
NNL theo yêu cầu của nền kinh tế là yếu tố đóng vai trị quyết định đảm bảo
11
tốc độ tăng trưởng kinh tế - xã hội. Do đó, bất cứ hiện tượng thiếu hoặc thừa
sức lao động đều gây ra những khó khăn cho sản xuất xã hội và ảnh hưởng
trực tiếp tới tốc độ tăng trưởng kinh tế. Đây là đối tượng của môn Kinh tế
phát triển.
Theo thuyết về vốn con người (Human resource), thì yếu tố con người
được coi là yếu tố quan trọng nhất của quá trình sản xuất, là phương tiện để
phát triển kinh tế- xã hội. NNL được coi như mọi nguồn lực khác (như vốn,
công nghệ, tài nguyên thiên nhiên, đất đai…), cho nên cần phải đầu tư cho
con người. Trên thực tế, việc đầu tư cho con người có tỷ lệ thu hồi vốn khá
cao và mang lại nguồn lợi lớn hơn so với đầu tư vật chất.
Ngân hàng thế giới (WB) cho rằng: NNL là toàn bộ vốn con người
bao gồm thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp,…mà mỗi cá nhân sở hữu. Như
vậy, ở đây nguồn lực con người được coi như một nguồn vốn bên cạnh các
loại vốn vật chất khác: vốn tiền, công nghệ, tài nguyên thiên nhiên,… Do đó,
đầu tư cho con người là đầu tư quan trọng nhất trong các loại đầu tư và được
coi là cơ sở vững chắc cho sự phát triển bền vững. Theo cách tính tốn của
WB thì đầu tư cho giáo dục tiểu học tỷ lệ thu hồi vốn là 24% so với vốn đầu
tư, cho trung học là 17%, và cao đẳng đại học là 14%, trong khi đó đầu tư vào
các ngành sản xuất vật chất tỷ lệ thu hồi chỉ đạt 13% tổng vốn đầu tư.
Liên hợp quốc cũng có cách tiếp cận tương tự và cho rằng: Nguồn nhân
lực là tất cả những kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo
của con người có quan hệ tới sự phát triển của mỗi cá nhân và của đất nước.”
[44, tr.8]. Quan niệm này xem xét nguồn lực con người chủ yếu ở phương
diện chất lượng con người và vai trò, sức mạnh của nó đối với sự phát triển
của xã hội. Chính vì vậy, Liên hợp quốc đã kêu gọi các quốc gia đã quan tâm
hơn nữa tới nguồn nhân lực, vì:
đầu tư vào vốn con người trước hết có tỷ lệ thu hồi vốn cao hơn so
với đầu tư cho các nguồn lực khác… tiết kiệm được việc sử dụng và
khai thác các nguồn lực khác, lợi ích thu được từ đầu tư này có tính
12
lan tỏa đồng đều hơn so với đầu tư vào các nguồn lực khác. Do vậy,
việc tập trung phát triển con người sẽ đem lại tốc độ phát triển cao
hơn, ổn định hơn và công bằng hơn trong phân phối lợi ích của sự
phát triển [44].
Theo UNDP, nguồn nhân lực là tổng thể những năng lực (cơ năng và trí
năng) của con người được huy động vào quá trình sản xuất, nguồn năng lực nội lực đó của con người cũng chính là nội lực xã hội của một quốc gia. Đối
với những nước đang phát triển như Việt Nam, với dân số đông, NNL dồi dào
đang trở thành một trong những nguồn nội lực quan trọng nhất và nếu biết
khai thác nguồn nội lực đó một cách hiệu quả sẽ tạo ra một động lực to lớn
cho phát triển kinh tế - xã hội.
Ở Việt Nam, theo ý kiến của các nhà khoa học tham gia chương trình
khoa học-cơng nghệ cấp Nhà nước, mã số KX - 07: “Con người Việt Nam mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội” do giáo sư, tiến sỹ
khoa học Phạm Minh Hạc làm chủ nhiệm, cho rằng: "nguồn lực con người
được hiểu là số dân và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh
thần, sức khỏe và trí tuệ, năng lực và phẩm chất” [17]. Còn trong dịp gặp gỡ
các doanh nghiệp, các nhà khoa học-cơng nghệ các tỉnh, thành phố phía Bắc
khi đề cập đến vấn đề tăng cường hợp tác giữa các doanh nghiệp với các nhà
khoa học-công nghệ và các cơ quan cơ quan Chính phủ, để nâng cao hiệu quả
và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Trong lời phát biểu của mình, nguyên Thủ
tướng Phan Văn Khải đã khẳng định: “Nguồn lực con người bao gồm cả sức
lao động, trí tuệ và tinh thần gắn với truyền thống của dân tộc ta” [21].
Giáo sư, tiến sỹ Hồng Chí Bảo cho rằng: “Nguồn lực con người là sự
kết hợp thể lực và trí lực, cho thấy khả năng sáng tạo, chất lượng -hiệu quả
hoạt động và triển vọng mới phát triển của con người” [3, tr.14]. Tức là kết
cấu bên trong của nguồn nhân lực bao gồm sức mạnh thể lực, trí tuệ và sự kết
hợp hai yếu tố đó tạo thành năng lực sáng tạo của con người trong quá trình
cải tạo tự nhiên.
13
Theo quan điểm của tác giả Lê Thị Ngân, trong luận án tiến sỹ thì
nguồn nhân lực được quan niệm là tổng thể sức lao động của xã hội đang và
sẽ được vận dụng cho quá trình sản xuất xã hội hay nói một cách rõ hơn:
“NNL là tổng thể những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong tổng số
lực lượng lao động của xã hội và được họ đang và sẽ đem ra vận dụng để sản
xuất ra hàng hóa tiêu dùng cho xã hội” [28].
Do khi nghiên cứu NNL xuất phát từ nhiều cách tiếp cận khác nhau như
vậy, nên có những khái niệm khác nhau về NNL, nhưng nhìn chung các khái
niệm đó đều thống nhất về nội dung cơ bản là: NNL là nguồn cung cấp sức
lao động cho xã hội, là yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, giữ vai trò quyết
định sự phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia.
Như vậy, khi nói đến nguồn nhân lực trước hết phải hiểu đó là tồn bộ
những người lao động đang có khả năng tham gia vào các quá trình phát triển
kinh tế - xã hội và các thế hệ những người lao động tiếp tục tham gia vào các
quá trình phát triển kinh tế - xã hội, con người đóng vai trị là chủ thể sáng tạo
và chi phối tồn bộ q trình đó, hướng nó tới mục tiêu đã được chọn. Cho
nên NNL nó cịn bao gồm một tổng thể các yếu tố thể lực, trí lực, kỹ năng lao
động, thái độ và phong cách làm việc- đó chính là những yếu tố thuộc về chất
lượng nguồn nhân lực. Ngồi ra khi nói tới nguồn nhân lực phải nói tới cơ cấu
của lao động, bao gồm cả cơ cấu đào tạo và cơ cấu ngành nghề. Khi nói nguồn
nhân lực cần nhấn mạnh phát triển trí tuệ, thể lực và trình độ chun mơn nghiệp
vụ của con người, bởi vì trí lực là yếu tố ngày càng đóng vai trị quyết định sự
phát triển NNL. Ngồi ra khi nói đến NNL cũng cần phải nói tới kinh nghiệm
sống, năng lực hiểu biết thực tiễn, đạo đức và nhân cách của con người.
Do đó, NNL tiếp cận dưới giác độ phổ quát là: Tổng hòa thể lực và trí
lực tồn tại trong tồn bộ lực lượng lao động xã hội của một quốc gia, trong
đó kết tinh truyền thống và kinh nghiệm lao động sáng tạo của một dân tộc
trong lịch sử, được vận dụng để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần,
phục vụ cho nhu cầu hiện tại và tương lai của đất nước.
14
1.1.2. Nguồn nhân lực chất lượng cao (các quan niệm)
Khi luận giải một vấn đề kinh tế- xã hội nào đó người ta thường hay sử
dụng thước đo số lượng và chất lượng để phản ánh định lượng và định tính.
Trong đó, chất lượng là khái niệm, thước đo có tính tương đối. Những quan
niệm về chất lượng thường căn cứ theo đối tượng nghiên cứu, xem xét để chỉ
ra, căn cứ vào mục đích, yêu cầu sử dụng để so sánh đánh giá. Chẳng hạn chất
lượng: cao, trung bình hay thấp, hoặc chất lượng xuất sắc, giỏi, khá, trung
bình, yếu: hay đạt yêu cầu và không đạt yêu cầu v. v.. Trên thực tế sử dụng
thuật ngữ "chất lượng” cịn mang tính tương đối và tùy thuộc vào điều kiện
lịch sử cụ thể để xem xét đánh giá.
Cho đến nay chưa có một cơng trình nghiên cứu nào đưa ra định nghĩa
về nguồn nhân lực chất lượng cao. Tuy nhiên bàn về nguồn nhân lực chất
lượng cao và hàng hóa sức lao động trình độ cao đã được đặt vấn đề từ xa
xưa. Có thể luận giải như sau:
Từ thế kỷ XVII,William Petty (1623 - 1687) nhà kinh tế chính trị Tư
sản cổ điển khi nghiên cứu về nguồn nhân lực và lý luận về giá trị lao động
trong tác phẩm "Giải phẫu học chính trị ở Ireland” đã đặt vấn đề lao động
phức tạp và lao động giản đơn, khi đề cập phạm trù con người có đào tạo,
nhưng chưa có những kết luận khái qt.
Đến Addam S.mít (1723 - 1790) đã chú ý tới việc xác định lượng giá
trị hàng hóa và cho rằng lao động là tiêu chuẩn để đo lường giá trị và ông
đã đề cập tới lao động giản đơn và lao động phức tạp có ảnh hưởng khác
nhau đến lượng giá trị hàng hóa. Trong tác phẩm "Nghiên cứu thiên nhiên
và những nguyên nhân giàu có của các dân tộc”, ơng đã chú ý đến đào tạo
nguồn nhân lực và đã thấy lao động qua đào tạo có năng suất cao hơn lao
động thơng thường.
Đavít Ricardo (1772 - 1823) khi nói về các bộ phận cấu thành giá trị
hàng hóa, ơng đã nhận xét giá trị được quyết định không chỉ bởi chi phí lao
động sống mà cịn được quy định bởi lao động quá khứ. Ông đã chú ý tới việc
15
phân chia lao động phức tạp và lao động giản đơn nhưng mới ở mức sơ khai,
chưa nói tới sự quy đổi lao động phức tạp thành lao động giản đơn.
C.Mác (1818 - 1883) khi bàn về tính hai mặt của lao động biểu hiện
trong sản xuất hàng hóa đã chỉ ra:
Lao động đó là một sự tiêu phí sức lao động giản đơn trung bình thì
bất kỳ một con người bình thường nào, một con người khơng có sự
phát triển đặc biệt nào cũng đều có trong cơ thể của họ. Mặc dầu
bản thân lao động giản đơn trung bình cũng thay đổi tính chất của
nó trong các nước khác nhau và trong những thời kỳ văn minh khác
nhau, nhưng trong một xã hội nhất định thì nó vẫn là một cái gì đã
được xác định. Lao động phức tạp chỉ là lao động giản đơn được
nâng lên lũy thừa, hay cho đúng hơn, lao động giản đơn được nhân
lên, thành thử một lượng lao động phức tạp nhỏ hơn thì tương đồng
với một lượng lao động giản đơn lớn hơn [27].
Như vậy, ngay ở chương 1, Quyển I bộ “Tư bản”, C.Mác đã chia lao
động thành hai loại: lao động giản đơn và lao động phức tạp. Lao động giản
đơn là lao động thông thường mà bất kỳ người bình thường nào có sức lao
động đều có thể làm được, còn lao động phức tạp là lao động phải qua đào
tạo, rèn luyện, tích lũy kinh nghiệm chuyên môn. Do vậy, cùng một đơn vị
thời gian,lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao động giản đơn.
Các nhà kinh tế học hiện đại cũng có nhiều cách tiếp cận khác nhau khi
nói về hàng hóa sức lao động chất lượng cao. Họ tập trung chủ yếu vào việc
phân mảng thị trường để chỉ ra mức độ cao thấp của thị trường sức lao động.
Ở Đức từ thập kỷ 70 khi diễn giải về thị trường sức lao động, các tác
giả Lur và Sengenberger đã dựa vào cơ sở lý thuyết "Cách tiếp cận mới về
vốn con người” đã chia thị trường thành ba mảng trên cơ sở phân tích bản
chất của việc làm gồm: thị trường lao động không chuyên - Unspecipic Sub
market, thị trường lao động thủ công - Caraft Sub market và thị trường
chuyên dụng cho các hãng - Firm - Specipic Sub market. Với cách tiếp cận
16
như trên, các nhà kinh tế học Đức đã căn cứ vào tính chất chun mơn sâu để
tiếp cận đối với hàng hóa sức lao động và chỉ ra cơ chế điều tiết của từng
phân mảng thị trường sức lao động, chú ý đến sức lao động phục vụ cho các
hãng lớn yêu cầu cao, chất lượng cao.
Ở Anh, chủ yếu các tác giả tiếp cận phân loại thị trường sức lao động
thông qua phân chia các ngành sản xuất trong nền kinh tế. Từ đó, hình thành
các nhóm ngành và chỉ ra lực lượng lao động cần thiết phục vụ cho từng
nhóm ngành địi hỏi về trình độ, kỹ năng, kinh nghiệm, cấu trúc v.v..Theo đó
ảnh hưởng trực tiếp đến tiền công, đồng thời cũng chỉ ra những yếu tố chi
phối đến lực lượng lao động trong ngành phụ thuộc vào thị trường sản phẩm
và cơ cấu tổ chức lao động và công nghệ sản xuất của ngành.
Ở Việt Nam, từ năm 2000 đến nay, trước yêu cầu phát triển nhanh của
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc
tế cũng có rất nhiều cơng trình nghiên cứu, bài viết bàn về vấn đề nguồn lao
động chất lượng cao.
Theo tác giả Nguyễn Hữu Dũng- Bộ lao động thương binh và xã hội,
cho rằng: Sức lao động trình độ cao là bộ phận lao động phức tạp, khác với
lao động giản đơn, người có sức lao động trình độ cao phải trải qua một q
trình đào tạo, rèn luyện cơng phu. Đồng thời phân chia trình độ đào tạo nhân
lực của một quốc gia thành 7 nhóm:
- Nhóm 1: Nhân lực được đào tạo ở cấp trình độ sau đại học.
- Nhóm 2: Nhân lực cán bộ công chức quản lý hành chính nhà nước.
- Nhóm 3: Nhân lực khoa học - cơng nghệ và đội ngũ giảng viên.
- Nhóm 4: Nhân lực doanh nhân và các chuyên gia quản trị DN.
- Nhóm 5: Nhân lực tốt nghiệp cao đẳng, đại học trở lên.
- Nhóm 6: Nhân lực tốt nghiệp trung cấp chun nghiệp.
- Nhóm 7: Lực lượng cơng nhân kỹ thuật.
Từ cách phân chia trên, tác giả Nguyễn Hữu Dũng cho rằng, xét theo
trình độ đào tạo thì sức lao động chất lượng cao phải ở 5 nhóm nhân lực đầu
tiên theo thứ tự ưu tiên.
17
Về mặt hình thức, nếu xét về bằng cấp thì sức lao động chất lượng cao
bao gồm những người được đào tạo một cách có hệ thống và có bằng cấp. Tuy
nhiên, trên thực tế không phải tất cả những người có bằng cấp cao đều được
coi là có sức lao động chất lượng cao. Sức lao động có chất lượng cao không
chỉ biểu hiện ở bằng cấp cao mà quan trọng hơn sức lao động đó được vận
dụng vào thực tế sản xuất, quản lý…phải “đem lại một hiệu quả cao nhất
định”. Thông qua những công việc cụ thể, biểu hiện hành vi, phương pháp tư
duy vượt quá mức độ kỹ năng trở thành kỹ sảo, điêu luyện và thuần thục.
Một lao động được coi là cao hơn, phức tạp hơn so với lao động xã
hội trung bình, là biểu hiện của một sức lao động đòi hỏi những chi
phí đào tạo cao hơn, người ta phải tốn nhiều thời gian lao động để
tạo ra nó và vì vậy nó có một giá trị cao hơn so với sức lao động
giản đơn. Nếu giá trị của sức lao động đó cao hơn thì giá trị đó
cũng biểu hiện ra một lao động cao hơn và vì vậy, trong những
khoảng thời gian bằng nhau, nó sẽ được vật hố trong các giá trị
tương đối lớn hơn [6].
Nếu xét về trình độ làm việc có thể chia nguồn nhân lực ra thành 3 bậc:
Thứ nhất, nhân lực làm việc ở mức độ bậc cao trong các ngành nghề
như lao động quản lý, chuyên gia, nhà nghiên cứu.
Thứ hai, nhân lực làm việc ở mức độ bậc trung trong các ngành nghề
như lao động kỹ thuật, lao động làm công việc vận hành máy móc, thiết bị,
sửa chữa.
Thứ ba, nhân lực làm việc ở mức độ lao động bậc thấp trong các ngành
nghề như nhân viên tạp vụ, phục vụ…
Lao động có chất lượng cao xem xét dưới góc độ việc làm phải là
những cơng việc có tính chất nghề bậc cao và được phân bổ ở mọi khu vực
của nền kinh tế.
Theo viện chiến lược phát triển - Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong báo cáo
nghiên cứu đề tài khoa học cấp Bộ (2006) về: “Nguồn nhân lực chất lượng
18
cao: Hiện trạng phát triển, sử dụng và các giải pháp tăng cường” cho rằng:
chất lượng nguồn nhân lực là tổng thể năng lực về trí lực, thể lực và khí chất
của một tập hợp nhóm nhiều người, trong mối tương quan với khả năng đáp
ứng yêu cầu phát triển bản thân con người và phát triển kinh tế - xã hội,
những năng lực này được hình thành và phát triển thơng qua giáo dục đào tạo
nghề nghiệp, chăm sóc sức khỏe và q trình lao động. Đồng thời, thơng qua
phân tích các yếu tố cơ bản để đánh giá nguồn nhân lực như: thể chất (gồm
thể lực và thể trạng), tri thức, trí tuệ; khí chất (tinh thần, ý thức xã hội); lao
động qua đào tạo các loại bằng cấp, chứng chỉ, cấp đào tạo, lao động chuyên
môn…đề tài đã khái quát: nguồn nhân lực chất lượng cao là một khái niệm
rộng được đánh giá thông qua các yếu tố tạo thành chất lượng nguồn nhân lực
(thể lực, trí lực, khí chất) trong mối tương quan so sánh với những chuẩn mực
nhất định. Những yếu tố tạo thành chất lượng nguồn nhân lực (thể lực, trình
độ kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp cùng với khí chất của người lao động)
được hình thành và phát triển qua hai con đường chủ yếu là giáo dục đào tạo
và thực hành làm việc trong lĩnh vực sản xuất. Trong đó, yếu tố thể lực được
hình thành và phát triển bằng con đường di truyền (giống nịi) ni dưỡng và
luyện tập, rèn luyện thân thể (thể dục thể thao và các hoạt động lao động sản
xuất) đánh giá bằng chỉ số HDI. Yếu tố trí lực được hình thành và phát triển
thơng qua con đường giáo dục đào tạo, kinh nghiệm và thực tế lao động sản
xuất. Căn cứ vào hai tiêu chí trên có thể khái qt: nếu các yếu tố về thể lực
ngang nhau thì sức lao động chất lượng cao là những người lao động đã trải
qua thời gian đào tạo dài và có cấp bậc đào tạo cao và có trình độ chun
mơn sâu.
Tổng hợp các quan niệm dưới góc độ lịch sử và các quan niệm khác
nhau của cả trong và ngồi nước như đã phân tích trên đây, có thể khái quát:
Sức lao động chất lượng cao là một bộ phận sức lao động có trình độ
chun mơn, tay nghề cao của xã hội có thể thực hiện tốt các hoạt động lao
động phức tạp và đem lại hiệu quả kinh tế- xã hội cao.
19
Với cách hiểu như trên, có thể luận giải nội dung phạm trù sức lao động
chất lượng cao bao gồm:
Thứ nhất, sự tích luỹ những kỹ năng tri thức, năng lực dưới dạng dự trữ
đang tồn tại trong cơ thể người lao động.
Thứ hai, sự dự trữ đó được con người sử dụng có mục đích ở lĩnh vực
này hay lĩnh vực khác của sản xuất xã hội.
Thứ ba, đó là sự sử dụng năng lực cao để tạo ra một hoạt động sản xuất
có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao và đem lại thu nhập cao.
Thứ tư, sự gia tăng của thu nhập trở thành nhân tố kích thích đầu tư của
người lao động vào sức khoẻ, tri thức. Từ đó, tích luỹ dự trữ mới về kỹ năng, tri
thức và động cơ để tiếp tục ứng dụng một cách có hiệu quả trong điều kiện mới.
Do đó, chất lượng sức lao động ngày nay là tổng thể các thuộc tính của
con người được thể hiện trong quá trình lao động và bao gồm tổng thể những
năng lực chun mơn cùng tính tích cực của người lao động. Trong điều kiện
phát triển kinh tế thị trường, chủ thể của sức lao động chất lượng cao có thể tự
sử dụng sức lao động của mình hoặc đi làm thuê thơng qua thị trường đặc thùthị trường hàng hố sức lao động chất lượng cao.
Vậy, nhân lực chất lượng cao là khái niệm để chỉ một con người, một
người lao động cụ thể có trình độ lành nghề (về chun môn, kỹ thuật) ứng
với một ngành nghề cụ thể theo tiêu thức phân loại lao động về chuyên môn
kĩ thuật nhất định (lao động kỹ thuật lành nghề, trên đại học…). Giữa chất
lượng NNL và NNL chất lượng cao có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nói
đến chất lượng nguồn nhân lực là muốn nói đến tổng thể NNL của một quốc
gia, trong đó NNL chất lượng cao là một bộ phận cấu thành đặc biệt quan
trọng, là nhóm tinh túy nhất, có chất lượng nhất, cho nên khi nói về NNL chất
lượng cao khơng thể khơng đặt nó trong tổng thể vấn đề chất lượng NNL nói
chung của đất nước [12].
Nguồn nhân lực chất lượng cao là NNL phải đáp ứng được yêu cầu của
thị trường, đó là: có kiến thức: chun mơn, kinh tế, tin học; có kỹ năng: kỹ
20
thuật, tìm và tự tạo việc làm, làm việc an tồn, làm việc hợp tác; có thái độ,
tác phong làm việc tốt, trách nhiệm với công việc [24].
Các lý thuyết về tăng trưởng kinh tế gần đây chỉ ra rằng, một nền kinh
tế muốn tăng trưởng nhanh và ở mức cao phải dựa trên ít nhất 3 trụ cột cơ
bản: áp dụng công nghệ mới, phát triển cơ sở hạ tầng hiện đại và nâng cao
chất lượng NNL.Trong đó, động lực quan trọng nhất của sự tăng trưởng kinh
tế bền vững chính là con người, đặc biệt là NNL chất lượng cao, tức là con người
được đầu tư phát triển, tạo lập kỹ năng, kiến thức, tay nghề, kinh nghiệm, năng
lực sáng tạo để trở thành "nguồn vốn-vốn con người, vốn nhân lực”.
Đánh giá năm 2005 của diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) về chất lượng
lao động của Việt Nam chỉ đạt 3,79 điểm, trên thang điểm 10 điểm, so với
Trung Quốc là 5,73 và Malaysia là 5,59 [4]. Theo đánh giá của các chuyên gia
nước ngoài chất lượng NNL Việt Nam còn thấp trong so sánh quốc tế [10].
Tính theo chỉ số đánh giá tổng hợp về chất lượng giáo dục và NNL thì Việt
Nam chỉ đạt 3,2/10 điểm, thuộc vào nhóm yếu kém nhất (trong khi Singapore
dẫn đầu các quốc gia được khảo sát với 8,4/10 điểm), xếp thứ 11 trong số 12
quốc gia châu Á được so sánh, chỉ đứng trên Indonesia và kém xa so với
Philipin, Thái Lan và Malaysia.Về từng khía cạnh cụ thể:
- Chất lượng của Hệ thống giáo dục: VN được 3,25 điểm, đứng thứ
10/12 nước và vùng lãnh thổ (cao nhất là Hàn Quốc đạt 8,00 điểm ).
- Mức độ sẵn có về lao động sản xuất chất lượng cao: Việt Nam được
3,25 điểm, đứng thứ 11/12 nước và vùng lãnh thổ (cao nhất là Nhật Bản với
8,00 điểm ).
- Sự thành thạo của lao động trình độ cơng nghệ cao: Việt Nam được
2,50 điểm, đứng thứ 11/12 nước và vùng lãnh thổ, tương đương với Indonesia
(cao nhất là Singapo 7,83 điểm).
- Mức độ sẵn sàng về cán bộ quản lý kinh tế chất lượng cao: VN được
2,50 điểm, đứng thứ 10/12 nước và vùng lãnh thổ (cao nhất là Hàn Quốc đạt
7,50 điểm ).Theo đánh giá chung, các nền kinh tế có chất lượng lao động dưới
21
35 điểm đều có nguy cơ mất sức cạnh tranh trên thị trường toàn cầu (Việt
Nam đạt 32 điểm) [41].
1.1.3 Các tiêu thức xác định nguồn nhân lực chất lượng cao
Nhiều mục tiêu cụ thể về phát triển NNL cho 10 năm đầu của thể kỷ
XXI đã được đề ra trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 20012010. Những mục tiêu này phản ánh khá toàn diện các nội dung cơ bản nhất
của phát triển NNL Việt Nam đến năm 2010: về thể lực (nâng cao tầm vóc
trung bình của thanh niên, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em, giảm tỷ lệ mắc
bệnh, …), về trí lực (bao gồm trình độ học vấn, trình độ chun mơn - kỹ
thuật…) và về giữ gìn, phát huy những bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam để
đóng góp vào sự nghiệp phát triển chung của đất nước, và đó được xem là các
tiêu chí của NNL chất lượng cao ở Việt Nam. Để thấy rõ, cần phân tích từng
tiêu thức cụ thể sau:
1.1.3.1. Năng lực về thể chất (thể lực) của nguồn nhân lực
Nói đến thể lực là nói đến tình trạng sức khỏe của NNL, sức khỏe là sự
phát triển hài hòa của con người về cả thể chất lẫn tinh thần. Đó là sức khỏe
cơ thể và sức khỏe tinh thần. Trong hiến chương của Tổ chức y tế thế giới đã
nêu: “Sức khỏe là một trạng thái hoàn toàn thoả mái về thể chất, tâm thần và
xã hội, chứ không phải là không có bệnh hay thương tật”. Quan niệm về chất
lượng NNL mà đề tài phân tích là năng lực tinh thần và năng lực thể chất của
NNL, tức là nói tới sức mạnh và tính hiệu quả của những khả năng đó, trong
đó năng lực thể chất chiếm vị trí vơ cùng quan trọng. Nếu con người có thể
lực tốt thì mới phát huy được lợi thế của sức mạnh trí tuệ trong phát triển kinh
tế - xã hội và ngược lại. Sức khỏe là điều kiện tiên quyết để duy trì và phát
triển trí tuệ, là phương tiện để truyền tải tri thức vào thực tiễn, để biến tri thức
thành sức mạnh vật chất phát triển kinh tế- xã hội. Do đó, sức khỏe là yếu tố
quan trọng của NNL, nó trở thành một chỉ tiêu quan trọng trong việc phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao.Tình trạng sức khỏe được phản ánh bằng
một hệ thống các chỉ tiêu cơ bản về sức khỏe như: Chiều cao, cân nặng, tuổi
thọ, các chỉ tiêu về tình hình bệnh tật, các chỉ tiêu về cơ sở vật chất và các
22
điều kiện về bảo vệ và chăm sóc sức khỏe. Cho nên thể lực của NNL được
hình thành, duy trì và phát triển bởi chế độ nuôi dưỡng, chế độ chăm sóc sức
khỏe…Vì thế, thể chất của NNL phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã
hội, phân phối thu nhập, cũng như chính sách xã hội trước mắt và lâu dài của
mỗi quốc gia. Nếu các vấn đề liên quan đến sức khỏe, dinh dưỡng không
được giải quyết tốt sẽ có ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng nguồn nhân lực
về cả thể chất lẫn trí tuệ. Tình trạng thể lực chung của người Việt nam đã
được cải thiện đáng kể, tuy nhiên, tầm vóc và thể lực người Việt Nam hiện
còn nhiều hạn chế. Tỷ trọng người lớn có chỉ số cơ thể (BMI) bình thường chỉ
chiếm khoảng 48% trong tổng số. Còn lại khoảng 52% tổng số người lớn có
những biểu hiện khơng bình thường trong phát triển cơ thể như quá gầy hoặc
quá béo…Vì vậy, để có NNL chất lượng cao khơng thể khơng đề cập đến phát
triển y tế, chăm lo sức khỏe cho người lao động. Thể lực tốt thể hiện ở sự
nhanh nhẹn, tháo vát, bền bỉ dẻo dai của sức mạnh cơ bắp trong công
việc.Thể lực là điều kiện quan trọng để phát triển trí lực. Trình độ kinh tế - xã
hội càng phát triển càng đòi hỏi cao ở thể lực, bởi nếu khơng có thể lực và
tinh thần tốt khó có thể chịu được sức căng thẳng của công việc, nhịp độ cuộc
sống trong thế giới hiện đại, khơng thể tìm tịi, sáng tạo ra những tri thức mới
và vật hóa các tri thức đó thành sản phẩm có ích.Theo ngun Tổng bí thư Đỗ
Mười: "Trí tuệ là tài sản quý giá nhất trong mọi tài sản, nhưng chính sức khỏe
là một tiền đề cần thiết để làm ra cái tài sản đó.Cần cải thiện, phát triển nịi
giống, nâng cao thể lực tầm vóc và thể trạng nhằm phát triển cân đối, hài hịa
giữa thể lực và trí lực con người Việt Nam. Mục tiêu là nâng cao một cách
liên tục, bền vững tầm vóc của người Việt Nam bằng cách tăng chiều cao
trong thời kỳ trung hạn lên ngang bằng với các nước trong khu vực Đông Á
và lên ngang bằng với chuẩn quốc tế của WHO trong thời kỳ dài hạn”.
Nâng cao tuổi thọ trên cơ sở tăng cường thể lực cùng với cải thiện
nhanh về hình thể, trước hết là chiều cao và trọng lượng của người lao động.
23
Bảng 1.1: Chiều cao và cân nặng của người Việt Nam
so với tiêu chuẩn chung của WHO
Tuổi
Chiều cao (mét)
Việt Nam
Tiêu chuẩn
2001
WHO
Cân nặng (kg)
Việt Nam
Tiêu chuẩn
2001
WHO
Nam
10
15
1,328
1,607
1,322
1,698
27,38
46,66
31,3
56,7
Nữ
10
1,339
1,383
27,23
32,5
15
1,527
1,618
42,76
53,7
Nguồn: Viện Khoa học Thể dục thể thao.
Đồng thời với việc nâng cao tầm vóc là không ngừng cải thiện thể trạng
và đảm bảo sự phát triển hài hòa giữa chiều cao và trọng lượng cơ thể. Tăng
cường trạng thái sức khỏe chung, đặc biệt là sự phát triển hài hòa về tố chất thể
lực cần thiết (sức bền, sức mạnh, sức nhanh, mềm dẻo, khéo léo, …) cho người
lao động, học tập, sáng tạo và các hoạt động bình thường khác của mỗi người.
Bảng 1.2: Các mục tiêu cần đạt được vào năm 2020
Mục tiêu
Tuổi thọ
Tỷ lệ chết của trẻ em dưới 5 tuổi (0/00)
Chiều cao của thanh niên (m)
2000
2005
67,8
70
42
37
-
2010
71
32
1.6
2020
75
20
1.65
Nguồn: Chiến lược tăng trưởng toàn diện và xóa đói giảm nghèo; Nghị
quyết 37/CP của Chính phủ về định hướng chiến lược cơng tác chăm sóc và
sức khỏe nhân dân giai đoạn 1996-2000 và 2020.
1.1.3.2. Năng lực tinh thần (trí lực) của nguồn nhân lực
Chất lượng NNL được phản ánh chủ yếu thông qua sức mạnh trí tuệ,
đây là yếu tố quan trọng nhất quyết định chất lượng của nguồn nhân lực, đặc
biệt trong điều kiện trí tuệ hóa lao động hiện nay. Trí lực của NNL biểu hiện ở
năng lực sáng tạo, khả năng thích nghi và kỹ năng lao động nghề nghiệp của
người lao động thơng qua các chỉ số: trình độ văn hóa, dân trí, học vấn trung
bình của một người dân; số lao động đã qua đào tạo, trình độ và chất lượng
24
đào tạo; mức độ lành nghề (kỹ năng, kỹ xảo…) của lao động; trình độ tổ chức
quản lý sản xuất kinh doanh; năng suất, chất lượng hiệu quả của lao động.
- Trình độ học vấn: là chỉ tiêu đầu tiên biểu hiện trí lực của NNL, bởi lẽ
nó biểu hiện sự hiểu biết của người lao động về những kiến thức phổ thông về
tự nhiên và xã hội, là khả năng về tri thức và kỹ năng để có thể tiếp thu những
kiến thức cơ bản, thực hiện những việc đơn giản để duy trì cuộc sống.
- Trình độ chuyên môn kĩ thuật: Chất lượng của nguồn nhân lực không
chỉ thể hiện ở trình độ học vấn, quan trọng hơn là trình độ chun mơn kỹ
thuật, thơng qua số lượng và chất lượng của lao động đã qua đào tạo. Trình độ
chun mơn kỹ thuật là kiến thức và kỹ năng cần thiết để đảm đương các
chức vụ trong quản lý, kinh doanh và các hoạt động nghề nghiệp. Lao động
có chun mơn kỹ thuật bao gồm những cơng nhân từ bậc 3 trở lên (có bằng
hoặc khơng có bằng) cho tới những người có trình độ trên đại học.
Trình độ CMKT của NNL cịn được thể hiện ở khía cạnh khai thác và
sử dụng lực lượng này qua tỷ lệ lao động được đào tạo có việc làm và bị thất
nghiệp so với tổng số lao động được đào tạo. Các thơng số đó cho thấy hiệu
quả của việc khai thác và sử dụng NNL đã qua đào tạo.
Ngoài ra, trí lực của nguồn nhân lực cịn biểu hiện ở kỹ năng, kỹ xảo
nghề nghiệp của người lao động, chúng phụ thuộc trước hết vào khả năng của
mỗi người, sự say mê nghề nghiệp, ý thức rèn luyện kỹ năng. Mặt này thể
hiện qua thông số năng lực hoạt động chuyên môn của người lao động.
- Năng lực sáng tạo:
Tiếp tục phát triển và nâng cao trí lực và năng lực hoạt động thể hiện
bằng trình độ học vấn, trình độ chun mơn kỹ thuật, tầm hiểu biết, kỹ năng
quản lý, tính năng động, năng lực thích nghi và sáng tạo của nguồn nhân lực.
Trong thời đại ngày nay, việc trang bị những kiến thức học vấn phổ thông và
kỹ năng nghề nghiệp là chưa đủ, cần phải tạo lập cho mỗi con người Việt
Nam có tư duy năng động, sáng tạo, dám mạo hiểm, sẵn sàng thích ứng và
thích ứng cao trong một thế giới đầy biến động và cạnh tranh khốc liệt, nhất là
trong bối cảnh hội nhập quốc tế và khu vực. Cho nên trí lực còn được biểu
25
hiện ở óc sáng tạo, tính linh hoạt, nhanh nhẹn, sắc bén trong phát hiện thông
tin mới và khả năng thích ứng nhanh để học tập, áp dụng, làm chủ các phương
tiện khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại cũng như năng lực hoạch định
các giải pháp kinh tế và thực hiện phát triển kinh tế. Đây là chỉ tiêu quan
trọng để đánh giá năng lực trí tuệ trong quá trình CNH, HĐH rút ngắn, tiếp
cận kinh tế tri thức hiện nay.
1.1.3.3. Kinh nghiệm sống, năng lực hiểu biết thực tiễn, phẩm chất
đạo đức, thái độ và phong cách làm việc của người lao động
Tiến hành CNH, HĐH trong bối cảnh phát triển nền kinh tế thị trường,
nhiều nhà nghiên cứu lý luận nước ta cho rằng, khi nói tới NNL thì ngồi thể
lực và trí lực của con người cũng cần phải nói tới kinh nghiệm sống, năng lực
hiểu biết thực tiễn và nắm bắt nhu cầu thị trường của họ. Bởi vì, ngồi thể lực
và trí lực, cái làm nên nguồn lực con người là kinh nghiệm sống, đặc biệt là
kinh nghiệm nếm trải thực tiễn của con người.
Đồng thời, khi xem xét chất lượng NNL khơng thể khơng nói đến đạo
đức, nhân cách, thái độ và phong cách làm việc của con người. Đây là những
phẩm chất đạo đức, tinh thần có vai trị hết sức quan trọng, ảnh hưởng đến
chất lượng của con người, nó thúc đẩy tính tích cực và làm gia tăng hiệu quả
hoạt động của con người. Do vậy, phát triển NNL trong bối cảnh phát triển
nền kinh tế thị trường, địi hỏi người lao động phải có hàng loạt phẩm chất
cần thiết như: có ý thức tổ chức kỷ luật; tự giác trong lao động, có tinh thần
trách nhiệm trong cơng việc, tác phong làm việc nhanh nhẹn, chính xác, có
lương tâm nghề nghiệp… tất cả những phẩm chất đó nằm trong phạm trù đạo
đức của con người, tức là đào tạo con người "vừa hồng, vừa chuyên”. Trong
thực tế ở nước ta lực lượng lao động còn hạn chế về ý thức, tác phong cơng
nghiệp, thể lực và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; năng lực hành nghề chưa
đáp ứng tốt nhu cầu nhân lực của người sử dụng lao động, nên còn một tỷ lệ
đáng kể lao động khơng tìm kiếm được việc làm thích hợp hoặc làm khơng
đúng với trình độ và nghề được đào tạo.