Tải bản đầy đủ (.doc) (128 trang)

Th s kinh te vận dụng lý luận địa tô của c mác vào giải quyết quan hệ đất đai trong qúa trình đô thị hóa trên địa bàn quận gò vấp, thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.58 MB, 128 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Đất đai là tài nguyên vô giá của tự nhiên, là tài sản rất quý giá của con
người, quốc gia, dân tộc. Nó cũng là nguồn lực đầy tiềm năng nhưng hữu hạn, là
tư liệu sản xuất, hàng hóa đặt biệt giữ vai trị quan trọng, có mối quan hệ hữu cơ
và ảnh hưởng lớn trong hầu hết hoạt động kinh tế, đời sống xã hội, xét cả về góc
độ Nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân. Do vậy, vấn đề nghiên cứu lý luận khoa học
và vận dụng vào chính sách đất đai một cách phù hợp của Đảng ta không chỉ hệ
trọng đối với mỗi nhà, mỗi người dân, mà còn có ý nghĩa sâu sắc, là chiến lược
lâu dài về quốc kế, dân sinh của đất nước và của toàn dân tộc.
Nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước, các cấp, các ngành, nhà khoa học đã
có nhiều cố gắng trong nghiên cứu, vận dụng lý luận Mác – Lênin vào thực tiễn
chính sách đất đai ở nước ta và đạt được nhiều thành tựu to lớn. Nhìn chung,
chính sách và pháp luật về đất đai, q trình phát triển đơ thị, mở rộng các vùng
kinh tế trọng điểm là đúng đắn, đem lại hiệu quả, đột phá trên nhiều lĩnh vực,
làm chuyển dịch nhanh chóng cơ cấu kinh tế - xã hội, đời sống nhân dân ngày
càng nâng cao, được nhân dân đồng tình, ủng hộ. Mặc dù vậy, quá trình vận
dụng lý luận của Mác – Lênin về địa tơ, ruộng đất vào thực hiện chính sách,
nhiệm vụ liên quan đến đất đai là một vấn đề lớn, còn nhiều khó khăn, thách
thức trên phạm vi cả nước, cũng như ở các địa phương.
Quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh đang trong q trình đơ thị hố.
Những năm qua, Quận đã có nhiều cố gắng, đạt được nhiều thành tựu quan trọng
trên các lĩnh vực, trong đó, quản lý nhà nước về đất đai, đơ thị có nhiều kết quả
1


tích cực. Nguồn tài nguyên đất đai từng bước được quy hoạch, khai thác, sử
dụng ngày càng hiệu quả, vấn đề giải quyết quan hệ đất đai liên quan đến người
dân ngày càng được quan tâm. Bên cạnh đó, cơng tác quản lý nhà nước trên lĩnh
vực đất đai còn nhiều khó khăn, phức tạp, làm ảnh hưởng nhất định đến quản lý,
khai thác, sử dụng nguồn lực, tài nguyên đất đai. Vì vậy, vấn đề nghiên cứu, vận


dụng lý luận khoa học vào giải quyết quan hệ đất đai, đề ra các giải pháp quản
lý, sử dụng có hiệu quả nguồn lực, tài nguyên đất đai tại địa phương là rất cần
thiết trong điều kiện hiện nay. Xuất phát từ thực tiễn và tình cảm đó, đề tài: “Vận
dụng lý luận địa tô của C.Mác vào giải quyết quan hệ đất đai trong q trình đơ
thị hố trên địa bàn quận Gị Vấp, Tp. Hồ Chí Minh” đã được lựa chọn làm luận
văn thạc sĩ kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu của các cơng trình đã có liên quan đến đề tài:
Tính đến nay, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu khoa học, bài viết nghiên
cứu lý luận, sách đã xuất bản viết về vấn đề đất đai và đề xuất các giải pháp vận
dụng lý luận trong thực tiễn. Một số sách, cơng trình đã nghiên cứu, bài viết về
đề tài đất đai, lý luận địa tô, quan hệ đất đai của C.Mác gồm:
- Một số vấn đề lý luận của C.Mác và Lênin về địa tơ, ruộng đất, của
PGS.TS Nguyễn Đình Kháng - TS Vũ Văn Phúc; Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2000;
- Cơ sở lý luận và thực tiễn tiếp tục hoàn thiện chính sách đất đai ở Việt
Nam, của PGS.TS. Nguyễn Đình Kháng, Nxb Lao động, Hà Nội, 2008;
- Đề tài khoa học cấp Bộ: Lý luận Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh về
quan hệ ruộng đất và sự vận dụng vào hoàn thiện luật đất đai ở Việt Nam, do
PGS.TS. Nguyễn Đình Kháng làm chủ nhiệm đề tài, Hà Nội, năm 2008;
Trong các cơng trình nêu trên, các tác giả đã đề cập tới những luận
điểm cơ bản về lý luận địa tô của C.Mác một cách khái quát, đề cập tới
2


những luận điểm cơ bản lý luận về ruộng đất của Lênin, phân tích một cách
hệ thống tình hình quản lý, sử dụng đất ở nước ta từ khi thực hiện Luật đất
đai năm 1987 cho đến gần đây. Đây là những cơng trình nghiên cứu cơng
phu, có tính khái quát lý luận của C.Mác và Lênin về địa tô, đất đai và đề
xuất một số phương hướng vận dụng lý luận, đổi mới chính sách, pháp luật
về đất đai ở Việt Nam.

- Nông nghiệp, Nông dân, Nông thôn trong q trình đẩy mạnh Cơng
nghiệp hố, Hiện đại hố nước ta, của GS.TS. Hồng Ngọc Hồ, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2008;
- Kinh tế tài nguyên đất, của Ngô Đức Cát, Nxb nông nghiệp, Hà Nội,
2000;
- Thị trường quyền sử dụng đất ở Việt Nam, của Ths. Bùi Thị Tuyết Mai,
Nxb Lao động – Xã hội, Hà Nội, 2005;
- Đề tài luận văn Thạc sĩ của Phan Văn Ninh: Vận dụng lý luận Mác –
Lênin về giá cả ruộng đất vào định giá đất xây dựng ở Việt Nam.
- Đề tài luận văn Thạc sĩ của Vũ Huy Hùng: Vận dụng lý luận địa tô của
C.Mác vào khảo sát chính sách đất xây dựng đơ thị trên địa bàn Hà Nội hiện
nay.
- Đề tài luận văn Thạc sĩ của Hồ Văn Mười: Vận dụng lý luận địa tô chênh
lệch II của C.Mác vào việc thâm canh cây trồng ở Phú Yên.
- Đề tài luận văn Thạc sĩ của Phạm Thị Huệ: Lý luận địa tô chênh lệch II
của C.Mác với thâm canh trong nông nghiệp ở Tuyên Quang…
Các công trình, đề tài nghiên cứu nêu trên đã đề cập đến vấn đề đất đai;
nghiên cứu lý luận về địa tô của Mác và vận dụng vào việc định giá đất xây dựng
ở nước ta, thâm canh cây trồng trong nông nghiệp ở các địa phương.

3


Đất đai là một vấn đề lớn và có tính thời sự, chính sách về đất đai của Nhà
nước ta cịn đang trong q trình hồn thiện. Trong đề tài này, tác giả nghiên cứu
lý luận về địa tô của Mác để vận dụng vào giải quyết quan hệ đất đai ở một địa
phương đang đơ thị hố, do đó khơng trùng lặp với bất cứ cơng trình, đề tài nào
đã được cơng bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn:
3.1. Mục đích nghiên cứu:

Nghiên cứu một số nội dung cơ bản trong lý luận về địa tô của C.Mác, quá
trình vận dụng và phát triển lý luận về địa tô của Đảng ta, nghiên cứu một số vấn
đề về quan hệ đất đai và giải quyết quan hệ đất đai, từ đó đề xuất một số giải
pháp vận dụng lý luận địa tô của Mác vào giải quyết quan hệ đất đai, góp thúc
đẩy phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Một là: Trình bày khái qt lý luận địa tơ của Mác, sự phát triển lý luận
địa tô của Lênin, sự vận dụng lý luận địa tô vào thực tiễn cách mạng Việt Nam
của Đảng ta.
- Hai là: Nghiên cứu mối quan hệ giữa lý luận địa tô của Mác với một số
lý luận về quan hệ đất đai và giải quyết quan hệ đất đai, sự cần thiết vận dụng lý
luận địa tô của Mác vào giải quyết quan hệ đất đai tại địa phương trong q trình
đơ thị hóa.
- Ba là: Nghiên cứu q trình giải quyết quan hệ đất đai tại quận Gị Vấp,
Tp. Hồ Chí Minh dưới góc nhìn lý luận địa tơ của Mác. Từ đó đề xuất một số
quan điểm và giải pháp vận dụng lý luận địa tô của Mác vào giải quyết quan hệ
đất đai trên địa bàn quận.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn:
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
4


Nghiên cứu một số vấn đề trong lý luận địa tô của Mác (nhất là về địa tô
chênh lệch, địa tô đất xây dựng, giá cả ruộng đất), vấn đề quan hệ đất đai, giải
quyết quan hệ đất đai và việc vận dụng lý luận địa tô của Mác vào giải quyết
quan hệ đất đai tại địa phương trong quá trình đơ thị hố.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Thời gian: nghiên cứu từ năm 2002 đến nay.
- Địa bàn nghiên cứu: quận Gị Vấp, thành phố Hồ Chí Minh.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn.

Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin,
Tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng ta về vấn đề đất đai và quan hệ
đất đai; kiến thức của ngành học Kinh tế chính trị, chủ yếu là phần lý luận về địa
tô tư bản chủ nghĩa của C.Mác trong Tác phẩm Bộ Tư bản; kiến thức về lĩnh vực
quản lý đô thị.
Phương pháp nghiên cứu của đề tài gồm phương pháp chung của kinh tế
chính trị học Mácxít như phương pháp trừu tượng hóa khoa học, phương pháp
duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp so sánh, phương
pháp phân tích tổng hợp. Ngồi ra cịn có phương pháp riêng để nghiên cứu về
lĩnh vực pháp luật, quản lý đất đai, đơ thị….
6. Dự kiến đóng góp mới về khoa học của luận văn
6.1. Đóng góp:
- Làm rõ những luận điểm cơ bản trong lý luận địa tô của Mác gắn với
quan hệ đất đai và giải quyết quan hệ đất đai.
- Làm rõ khả năng kết nối, vận dụng lý luận địa tô của Mác vào thực tiễn
giải quyết quan hệ đất đai tại địa phương trong q trình đơ thị hóa.

5


- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu có tính phương pháp
luận để phổ biến, tun truyền và đưa lý luận địa tô của Mác vào vận dụng sát
với thực tiễn hơn nữa ở cấp độ địa phương.
6.2. Ý nghĩa lý luận:
Luận văn có thể tham khảo cho việc làm tài liệu nghiên cứu, giảng dạy
những vấn đề cơ bản về lý luận địa tô của C.Mác; cho việc nghiên cứu mối quan
hệ giữa lý luận địa tô với thực tiễn giải quyết quan hệ đất đai; làm cơ sở tham
khảo cho việc bổ sung các chủ trương, kế hoạch, giải pháp về lĩnh vực quản lý
đất đai, góp phần phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương quận Gò Vấp.
7. Kết cấu luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của
Luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỊA TÔ CỦA C.MÁC
VÀ SỰ CẦN THIẾT VẬN DỤNG VÀO GIẢI QUYẾT QUAN HỆ
ĐẤT ĐAI TẠI ĐỊA PHƯƠNG TRONG QUÁ TRÌNH ĐƠ THỊ HỐ

6


1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỊA TÔ CỦA C.MÁC VÀ Ý NGHĨA CỦA
VIỆC NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ NÀY

1.1.1. Một số vấn đề lý luận về địa tô của C.Mác
1.1.1.1. Một số lý luận của về địa tô của C.Mác
Địa tô là phần sản phẩm thặng dư do những người sản xuất trong nông
nghiệp tạo ra và nộp cho người chủ sở hữu ruộng đất. Địa tô gắn liền với sự ra
đời và tồn tại của chế độ tư hữu về ruộng đất, đã từng tồn tại trong các chế độ
chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cả trong thời kỳ đầu của chủ
nghĩa xã hội.
Địa tô tư bản chủ nghĩa là phần giá trị thặng dư thừa ra ngồi lợi nhuận
bình qn và do nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp trả cho địa chủ. Nguồn gốc
của địa tô tư bản chủ nghĩa vẫn là do lao động thặng dư của công nhân nông
nghiệp làm thuê tạo ra. Địa tô tư bản chủ nghĩa phản ánh quan hệ giữa ba giai
cấp: địa chủ, tư bản kinh doanh nông nghiệp và công nhân nông nghiệp làm thuê.
Trong chủ nghĩa tư bản, có các loại địa tô: địa tô chênh lệch, địa tô tuyệt đối và
địa tô độc quyền.
* Lý luận của Mác về địa tơ chênh lệch nói chung
Địa tơ chênh lệch là phần lợi nhuận siêu ngạch ngồi lợi nhuận bình qn

thu được trên những ruộng đất có điều kiện sản xuất thuận lợi hơn như ruộng đất
có độ màu mỡ cao hơn, có vị trí gần thị trường tiêu thụ hơn, hoặc tư bản đầu tư
thêm có hiệu suất cao hơn. Nó là số chênh lệch giữa giá cả sản xuất chung được
quyết định bởi điều kiện sản xuất trên ruộng đất xấu nhất và giá cả sản xuất cá
biệt trên những ruộng đất tốt và trung bình. Nguồn gốc của địa tô chênh lệch là
một phần giá trị thặng dư do cơng nhân nơng nghiệp làm th tạo ra.
Có hai loại địa tô chênh lệch: địa tô chênh lệch I, địa tơ chênh lệch II. Đặc
điểm chung có thể dễ nhận biết của địa tơ đó là lợi nhuận siêu ngạch. Lợi nhuận
siêu ngạch này cũng giống như bất cứ lợi nhuận siêu ngạch nào. Đây không phải
7


là do kết quả ngẫu nhiên trong lưu thông mà là một hiện tượng bình thường trong
nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Lợi nhuận siêu ngạch nói chung là nhờ giảm chi
phí cá biệt do ứng dụng khoa học, có năng suất lao động cá biệt cao hơn năng
suất trung bình, lợi nhuận siêu ngạch trong cơng nghiệp khơng ổn định ở một
đơn vị nào cả, nó chỉ tạm thời thôi. Riêng đối với lợi nhuận siêu ngạch trong
nông nghiệp thì khác, sức sản xuất của lực lượng tự nhiên được nâng cao không
phải là nguyên nhân bên trong của quá trình sản xuất, của tư bản, mà là do sử
dụng một lực tự nhiên có hạn và nó gắn liền với đất đai.
Đặc điểm của địa tô chênh lệch nói chung
- Thứ nhất, loại địa tơ này được gọi là địa tơ chênh lệch vì nó khơng gia
nhập với tư cách là một yếu tố quyết định vào giá cả sản xuất chung của hàng
hố mà nó lại lấy giá cả sản xuất chung ấy làm tiền đề. Nó bao giờ cũng là sự
chênh lệch giữa giá cả sản xuất chung với giá cả sản xuất cá biệt của tư bản sử
dụng lực lượng tự nhiên một cách độc quyền.
- Thứ hai, địa tô chênh lệch không phải là kết quả của năng suất tuyệt đối
của tư bản đã sử dụng, hoặc của lao động do tư bản ấy chiếm dụng mà là kết quả
của năng suất tương đối lớn hơn của những tư bản cá biệt đầu tư vào một khu
vực sản xuất nào đó có điều kiện tự nhiên đặc biệt thuận lợi.

- Thứ ba, với địa tô chênh lệch, lực lượng tự nhiên không phải là nguồn
gốc sinh ra lợi nhuận siêu ngạch (Psn) mà chỉ là cơ sở tự nhiên của Psn. Ở đây
chỉ là nhờ điều kiện tự nhiên đó khiến cho có thể nâng cao năng suất lao động
lên.
- Thứ tư, quyền sở hữu ruộng đất không phải là nguyên nhân sinh ra Psn
mà chỉ là nguyên nhân làm cho Psn chuyển hố thành địa tơ lọt vào tay địa chủ.
Điều này cũng có nghĩa là dù khơng tồn tại chế độ tư hữu ruộng đất, song nếu có
nơng nghiệp sản xuất hàng hố thì vẫn có hiện tượng tơ chênh lệch.
8


- Thứ năm, địa tô chênh lệch đề ra một phạm trù phát sinh, đó là giá cả
ruộng đất (giá cả thác nước).
“... Giá cả ấy của thác nước nói chung là một biểu hiện bất hợp lý, ẩn giấu đằng
sau lưng nó một quan hệ kinh tế hiện thực. Thác nước, cũng như đất đai nói chung,
cũng như mọi lực lượng tự nhiên, khơng có giá trị nào cả, vì khơng có một lao động
nào được vật hố ở trong đó, do đó, nó cũng khơng có giá cả, vì theo lẽ thường, giá cả
khơng phải là cái gì khác hơn là biểu hiện tiền tệ của giá trị... Giá cả đó chẳng qua là
địa tơ đã tư bản hố”[C.Mác và Ph.Ăngghen, Tồn tập, tập 25, phần 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Sự
thật, H., 1994, tr.208].

* Lý luận địa tô chênh lệch I (Rcl1)
Địa tô chênh lệch I là kết quả của năng suất khác nhau của những tư bản
bằng nhau, lao động bằng nhau, đầu tư cùng một lúc vào những khoảnh đất có
diện tích bằng nhau nhưng ở vị trí khác nhau, có độ phì khác nhau (với giả định
mảnh đất xấu nhất khơng có tơ). Nó là phần địa tơ siêu ngạch trên những mảnh
ruộng có điều kiện tự nhiên thuận lợi hơn (ruộng đất có độ màu mỡ tự nhiên
trung bình và tốt, có vị trí gần thị trường tiêu thụ). Địa tơ chênh lệch I gắn với
phương thức canh tác quảng canh. “Mỗi lần đầu tư mới đều có nghĩa là mở rộng
hơn nữa việc canh tác đất đai”[Sđd, tr.237].

Ngoài điều kiện chung là cần có tư bản ngang nhau, lao động ngang nhau
đầu tư vào cùng diện tích ngang nhau, thì điều kiện duy nhất của địa tô chênh
lệch I là sự khác nhau về độ phì của đất

[Sđd, tr.308], (ở

đây Mác đang trừu tượng

hố vấn đề vị trí).
Độ phì nhiêu của đất là dung lượng khác nhau về các chất dinh dưỡng cần
thiết cho sinh vật ở đất. Độ phì của đất bao gồm độ phì tự nhiên và độ phì nhân
tạo. Ngồi ra, trình độ về lao động, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp
cũng là nhân tố quan trọng tác động tới độ phì của đất. Địa tô chênh lệch là do sự
9


chênh lệch về mức độ phì nhiêu của đất đai. Do đó, địa tơ đều khơng phải là vơ
hạn. Địa tơ chênh lệch có thể phát sinh khi ta chuyển từ đất xấu đến tốt hoặc từ
tốt đến xấu. Địa tơ chênh lệch đều có thể phát sinh khi giá cả sản xuất thay đổi
lên, đứng nguyên hoặc giảm. Có trường hợp giá cả sản xuất giảm mà tổng địa tơ
vẫn có thể tăng.
Bên cạnh ngun ngun nhân chính là độ phì của đất dẫn đến kết quả
khác nhau của địa tơ chênh lệch, cịn ngun nhân khác cũng rất quan trọng đó là
vị trí thuận lợi của mảnh đất. Độ phì của đất và vị trí của mảnh ruộng có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau. Hai nhân tố này có thể phát sinh thuận chiều và
ngược chiều nhau: có thể độ phì nhiêu cao, vị trí thuận lợi, thì mức Psn thu được
lại càng lớn; có thể độ phì nhiêu cao, song vị trí thuận lợi kém thì Psn cũng sẽ bị
bù trừ đi; có thể độ phì nhiêu thấp, song vị trí lại thuận lợi thì Psn cũng sẽ bị bù
trừ đi; có thể độ phì nhiêu thấp, vị trí khơng thuận lợi thì Psn sẽ có ít hoặc khơng
cịn nữa. Chính sự tác động qua lại như thế, nên xu hướng chuyển dịch cơ cấu

các loại đất đưa vào canh tác, khai hoang có thể theo q trình rất khác nhau: nếu
vị trí sử dụng đất từ thuận lợi đến khơng thuận lợi, thì trình tự khai thác có thể từ
đất xấu chuyển dần sang đất tốt (đất xấu ở gần tương đương đất tốt ở xa); nếu vị
trí sử dụng đất chuyển dần từ khơng thuận lợi đến thuận lợi, thì trình tự khai thác
có thể từ đất tốt sang đất xấu (thực ra là vẫn là đất tốt ở xa tương đương với đất
xấu ở gần).
Điều cần chú ý là vấn đề vị trí của đất có tính tương đối và lịch sử. Vì một
mặt sự tiến bộ của xã hội có tác dụng san bằng các chênh lệch về hiệu quả. Mặt
khác, cũng có thể sự tiến bộ ấy lại có thể làm chênh lệch hơn về hiệu quả. Sự tiến
bộ về giao thông vận tải nhiều khi làm đảo lộn trật tự thuận lợi đi.

10


Từ đó, Mác đã đi đến kết luận quan trọng: độc quyền kinh doanh ruộng
đất dẫn đến hình thành giá cả thị trường không qua cạnh tranh, giá cả thị trường
cao hơn giá cả sản xuất thực tế, sinh ra giá trị xã hội ảo.
* Lý luận địa tô chênh lệch II (Rcl2)
Địa tô chênh lệch II là kết quả khác nhau của những lần đầu tư tư bản nối
tiếp nhau trên một diện tích. Nó là do sự chênh lệch sản phẩm giữa những lần
đầu tư khác nhau trên cùng một diện tích của một mảnh ruộng. Địa tơ chênh lệch
II chẳng qua chỉ là một biểu hiện khác đi của địa tô chênh lệch I nhưng về thực
chất là nhất trí với nhau

[Sđd, 355, 378].

Địa tơ chênh lệch I là cơ sở và điểm xuất

phát của địa tô chênh lệch II (giống như m tuyệt đối và m tương đối). Địa tô
chênh lệch I xuất hiện trước, địa tô chênh lệch II chỉ vận động trên cơ sở những

ruộng đất đã canh tác có chênh lệch I.
Khi canh tác quảng canh đạt đến một trình độ nhất định, đất đai đã bạc
màu thì việc đầu tư tập trung tư liệu sản xuất trở thành yếu tố quyết định. Như
vậy, địa tô chênh lệch II thu được là do sản xuất thâm canh trong nông nghiệp,
song lợi nhuận siêu ngạch này không rơi vào túi địa chủ ngay trong thời kỳ còn
hợp đồng thuê đất, mà rơi vào túi nhà tư bản. Chừng nào thời hạn thuê đất vẫn
còn thì nhà tư bản bỏ túi số lợi nhuận siêu ngạch trên. Nhưng khi hết hạn hợp
đồng thì chủ ruộng đất sẽ tìm cách nâng mức địa tơ lên để giành lấy lợi nhuận
siêu ngạch đó, biến nó thành địa tơ chênh lệch. Vì thế, chủ ruộng đất chỉ muốn
cho thuê ruộng đất ngắn hạn còn nhà tư bản lại muốn thuê dài hạn. Cho nên nhà
tư bản kinh doanh trong nông nghiệp thường không muốn bỏ ra số vốn lớn hơn
để cải tiến kĩ thuật, cải tạo đất, như vậy sẽ mất nhiều thời gian mới thu hồi được
vốn, mà rồi chủ đất sẽ là người hưởng hết lợi ích của những cải tiến đó. Do đó,
nhà tư bản thuê ruộng đất chỉ nghĩ cách tận dụng hết độ màu mỡ của đất trong

11


thời gian thuê ruộng đất nhằm thu được thật nhiều lợi nhuận trong thời gian kí
kết hợp đồng thuê đất.
“Mỗi bước tiến của công nghiệp TBCN là một bước tiến khơng những trong
nghệ thuật bóc lột người lao động, mà còn là bước tiến trong nghệ thuật làm cho đất
đai ngày càng kiệt quệ; mỗi bước tiến trong nghệ thuật làm tăng màu mỡ cho đất đai
trong một thời gian là một bước tiến trong việc tàn phá những nguồn màu mỡ lâu dài
của đất đai.”

* Lý luận địa tô tuyệt đối
Địa tô tuyệt đối là loại địa tô mà các nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp
nhất thiết phải nộp cho địa chủ, do chế độ độc quyền tư hữu về ruộng đất trong
nông nghiệp tư bản chủ nghĩa. Nguồn gốc của địa tô tuyệt đối là một bộ phận

của giá trị thặng dư do lao động không công của công nhân nông nghiệp làm
thuê tạo ra.
Do cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nông nghiệp thấp hơn trong công
nghiệp, nên với một lượng tư bản ứng ra như nhau, có tỉ suất giá trị thặng dư như
nhau, nhưng giá trị thặng dư được tạo ra trong nông nghiệp bao giờ cũng cao hơn
trong cơng nghiệp. Vì chế độ độc quyền tư hữu về ruộng đất đã ngăn trở sự tự do
di chuyển tư bản từ các ngành khác vào nông nghiệp nên trong nông nghiệp tư
bản chủ nghĩa, giá trị của nông sản phẩm cao hơn giá cả sản xuất chung. Số
chênh lệch giữa giá trị của nơng sản phẩm và giá cả sản xuất chung chính là địa
tô tuyệt đối. Địa tô tuyệt đối làm tăng giá cả nông sản phẩm, ảnh hưởng xấu đến
đời sống của những người lao động. Vì vậy, việc xóa bỏ chế độ độc quyền tư hữu
về ruộng đất chính là cơ sở để xóa bỏ địa tơ tuyệt đối, khi đó giá cả nơng sản
phẩm sẽ hạ xuống và có lợi cho người tiêu dùng.
Phân biệt địa tô chênh lệch với địa tô tuyệt đối:

12


- Giống nhau: Địa tô tuyệt đối giống với địa tô chênh lệch ở chỗ chúng
đều là lợi nhuận siêu ngạch, đều có nguồn gốc từ giá trị thặng dư, đều là kết quả
của sự chiếm đoạt lao động thặng dư của công nhân nông nghiệp làm thuê.
- Khác nhau: Độc quyền kinh doanh ruộng đất theo kiểu TBCN là ngun
nhân sinh ra địa tơ chênh lệch; cịn độc quyền tư hữu về ruộng đất là nguyên
nhân sinh ra địa tô tuyệt đối.
* Lý luận về địa tô đất xây dựng, địa tô hầm mỏ, giá cả ruộng đất
- Địa tô đất xây dựng, địa tô hầm mỏ
Địa tô đất xây dựng, địa tô hầm mỏ cũng như là loại địa tô độc quyền và
đem lại lợi nhuận siêu ngạch cho nhà tư bản. Địa tô độc quyền là loại địa tô thu
được trên các khu đất trồng được các loại cây q, hiếm, hoặc có vị trí đặc biệt
về công nghiệp, thương mại.

Khi nghiên cứu về địa tô TBCN, Mác đã chỉ ra rằng: bất kỳ ở đâu có sức
tự nhiên có thể bị độc chiếm có Psn, thì ở đó đều bị những kẻ sở hữu ruộng đất
chiếm đoạt dưới hình thái địa tơ. Mác vạch rõ: kẻ sở hữu ruộng đất đã liên minh
với bọn tư bản để tước đoạt công nhân và nhân dân lao động. Vị trí đặc biệt của
khu đất, như trong xây dựng thành phố chẳng hạn, cũng là nguồn gốc của giá cả
độc quyền.
Trong đất hầm mỏ có những khống sản được khai thác cũng đem lại địa
tô chênh lệch và địa tô tuyệt đối cho người sở hữu đất đai ấy. Từ đó, địa tơ đất
hầm mỏ cũng hình thành và được quyết định như địa tô đất nông nghiệp.
Địa tô đất xây dựng về cơ bản giống như địa tô đất nông nghiệp. Đồng
thời địa tô đất xây dựng cũng có đặc trưng riêng là:
+ Thứ nhất, trong địa tơ đất xây dựng, vị trí của đất mới là yếu tố quyết
định, còn độ màu mỡ và trạng thái của đất không ảnh hưởng nhiều.

13


+ Thứ hai, địa tô đất xây dựng ngày càng tăng lên do q trình đơ thị hóa,
sự gia tăng dân số, do nhu cầu về xây dựng, nhà ở tăng lên và do đầu tư tư bản
vào đất đai ngày càng tăng lên.
“Bất kỳ ở đâu có địa tơ nói chung thì địa tơ chênh lệch cũng đều xuất hiện và
cũng theo những quy luật như địa tô chênh lệch trong nơng nghiệp. Bất kỳ ở đâu có
những sức tự nhiên có thể bị độc chiếm và có thể bảo đảm một lợi nhuận siêu ngạch
cho nhà công nghiệp lợi dụng những sức tự nhiên ấy; chẳng kể đó là có điều kiện thiên
nhiên ưu đãi, là hầm mỏ giàu khoáng sản, là những nơi nhiều cá hay là địa điểm xây
dựng có vị trí tốt - thì kẻ có cái giấy chứng nhận về quyền sở hữu một mảnh của địa
cầu và do đó trở thành kẻ sở hữu những của cải tự nhiên ấy, sẽ chiếm của nhà tư bản
hoạt động số lợi nhuận siêu ngạch đó dưới hình thái địa tơ.”[Sđd, tr.472].

- Giá cả ruộng đất

Giá cả ruộng đất là địa tơ tư bản hóa, là giá mua địa tơ được tính theo tỷ
suất lợi nhuận (z'), là một ảnh ảo của tư bản hoặc địa tô.
Vấn đề giá cả ruộng đất được Mác đề cập ở nhiều nơi trong q trình phân
tích lý luận về địa tô TBCN. Trong các phần nghiên cứu về địa tơ chênh lệch ở
hình thái thứ nhất (Rcl1) và hình thái thứ hai (Rcl2), địa tô tuyệt đối, địa tô đất
xây dựng, hầm mỏ…, Mác đã chỉ ra rằng các hình thức lợi nhuận mà nhà tư bản
thu được từ chênh lệch giữa lợi nhuận cá biệt với lợi nhuận bình qn, lợi nhuận
đó được đem tư bản hóa và biểu hiện thành các hình thái của địa tơ. Có nghĩa là,
các yếu tố ảnh hưởng đến các hình thái của địa tơ (hay các hình thức cho th
ruộng đất) đều có ảnh hưởng đến giá cả ruộng đất. Tuy nhiên sự biến động giữa
địa tô và giá cả ruộng đất vẫn có sự độc lập tương đối. Vì vậy, cần khảo sát các
trường hợp khác nhau một cách cụ thể.

14


Ví dụ: Nếu tỷ suất lợi tức trung bình (Z’) là 5% thì một khoản địa tơ (R)
thu được hàng năm là 200£ (đồng bảng Anh). Giả sử lợi tức của một tư bản là
4000£, 4000£ này lại cấu thành giá cả của ruộng đất.
Cơng thức tính giá cả ruộng đất = R / Z’ = 200£ : 5% = 4000£
Như vậy, nếu một nhà tư bản bỏ ra 4000£ để mua một khoảnh đất sẽ mang
lại một khoản thu địa tơ hằng năm là 200£ thì xem như nhà tư bản thu được lợi
tức trung bình hằng năm là 5% về số tư bản ấy. Điều này cũng giống như nhà tư
bản đầu tư vào mua chứng khoán để sinh lợi tức hoặc gửi tiền vào ngân hàng
theo tỷ suất lợi tức 5%. Cũng với khoản thu nhập từ địa tơ hằng năm ấy khi
ruộng đất cịn thuộc sở hữu tư nhân lại rất khác so với khi ruộng đất đã được
quốc hữu hố; vì vậy, việc hình thành giá cả ruộng đất trong hai trường hợp trên
sẽ khác nhau hoàn toàn.
1.1.1.2. Sự phát triển của Lênin, Đảng ta về lý luận địa tô của C.Mác
* Sự phát triển của Lênin về lý luận địa tô của C.Mác

Sau C.Mác và Ph.Ăngghen, Lênin đã tiếp tục nghiên cứu học thuyết về địa
tô và vấn đề đất đai, coi đây là những mặt quan trọng của học thuyết Mác. Trên
cơ sở kế thừa lý luận về địa tô của C.Mác, Lênin đã xây dựng lý luận về ruộng
đất, trong đó nội dung lý luận về quốc hữu hóa ruộng đất là nền tảng, gắn liền
với kế hoạch hợp tác hóa nơng nghiệp. Từ đó, Lênin đã có cơng lao hết sức quan
trọng là phát triển lý luận địa tô của C.Mác lên một tầm cao mới và hiện thực
hóa rất thành công vào điều kiện cụ thể của cách mạng nước Nga trong những
thập kỷ đầu của thế kỷ XX.

- Lý luận về quốc hữu hóa ruộng đất của Lênin

15


Theo Lênin, quốc hữu hoá ruộng đất trong các quan hệ tư bản chủ nghĩa là
việc chuyển địa tô cho nhà nước. “Do đó – khái niệm lý luận về quốc hữu hoá gắn
liền chặt chẽ với lý luận địa tơ, nghĩa là với chính lý luận về địa tơ tư bản chủ nghĩa,
với tư cách là một hình thức đặc biệt của thu nhập của một giai cấp đặc thù (giai cấp
chiếm hữu ruộng đất) trong xã hội tư bản chủ nghĩa” [Lênin toàn tập, t.16, Nxb Tiến bộ, M,
1980, tr.345].

Lênin chỉ rõ mối liên hệ của địa tô chênh lệch và địa tơ tuyệt đối với hai
hình thức độc quyền trong nông nghiệp. Địa tô chênh lệch là kết quả của sự có
hạn về ruộng đất, việc canh tác ruộng đất của các doanh nghiệp tư bản vô luận là
chế độ tư hữu ruộng đất có tồn tại hay khơng và hình thức chiếm hữu ruộng đất
như thế nào, “địa tơ chênh lệch khơng tránh khỏi hình thành trong chế độ nông
nghiệp tư bản chủ nghĩa ngay cả khi chế độ tư hữu về ruộng đất bị xoá bỏ hoàn
toàn”[Sđd, tr.346]. Khi thay đổi chế độ tư hữu ruộng đất, nhà nước vẫn thu được
loại địa tô này.
“Do đó, thủ tiêu chế độ tư hữu ruộng đất tức là xố bỏ đến mức tối đa có thể

được trong xã hội tư sản, tất cả những trở ngại, ngăn cản việc tự do dùng tư bản vào
nông nghiệp và tự do di chuyển tư bản từ ngành sản xuất này sang ngành sản xuất
khác. Sự phát triển tự do, rộng rãi nhanh chóng của chủ nghĩa tư bản, sự tự do hoàn
toàn của cuộc đấu tranh giai cấp, sự xố bỏ tất cả những khâu trung gian khơng cần
thiết khiến cho nền nông nghiệp giống như một nền công nghiệp có những “nhịp độ
kinh khủng”, quốc hữu hố ruộng đất dưới chế độ sản xuất tư bản chủ nghĩa là như thế
đấy”[Sđd, t.16, tr.371].

Khi làm rõ ý nghĩa kinh tế chính trị của quốc hữu hố ruộng đất, Lênin đã
nêu vấn đề về điều kiện để có thể thực hiện được việc quốc hữu hố ruộng đất,
khơng chỉ thực hiện được ở trình độ phát triển cao của chủ nghĩa tư bản, mà ngay
cả ở trình độ thấp hơn vẫn có thể thực hiện được quốc hữu hóa. Lênin phê phán
quan điểm cho rằng quốc hữu hoá ruộng đất chỉ được thực hiện ở trình độ phát
16


triển cao của chủ nghĩa tư bản. “Đứng về mặt lý luận mà nói, quốc hữu hố là sự
phát triển thuần tuý “lý tưởng” của chủ nghĩa tư bản trong nơng nghiệp” [Sđd, t.16,
tr.375].

- Kế hoạch hợp tác hóa của Lênin
Hợp tác hóa của Lênin là hình thức mới XHCN của nền kinh tế, được coi
là chế độ xã hội mới ở nơng thơn và có ý nghĩa tồn thế giới. Trong đó, Lênin
nêu ra căn cứ về mặt lý luận cho sự cần thiết và khả năng cải tạo nền kinh tế tiểu
nông thành nền kinh tế tập thể. Ý nghĩa to lớn của việc hợp tác hóa là ở chỗ nó
kết hợp các lợi ích cá nhân của những người nơng dân với lợi ích xã hội và tồn
dân. Cơ sở chính trị của kế hoạch hợp tác của Lênin là khối liên minh giai cấp
công nhân với nơng dân lao động. Từ đó Lênin đã khởi thảo học thuyết về khối
liên minh của giai cấp công nhân và giai cấp nông dân lao động.
Một trong những điều kiện chủ yếu tiên quyết để thực hiện hợp tác hóa

nơng nghiệp là quốc hữu hóa ruộng đất. Quốc hữu hóa ruộng đất làm dễ dàng và
tạo khả năng cho việc cho việc thống nhất các mảnh ruộng đất nhỏ do những
nông hộ cá thể đang sử dụng vào những dải ruộng đất lớn để tổ chức các doanh
nghiệp tập thể, mà người nông dân không sợ mất mảnh ruộng sở hữu riêng của
mình. Nền sản xuất nơng nghiệp XHCN lớn tập thể khơng thể có được khi vẫn
cịn chế độ sở hữu ruộng đất nhỏ tư nhân. Vì vậy, xóa bỏ chế độ sở hữu ruộng đất
tư nhân là cuộc cách mạng ruộng đất vĩ đại nhất.
Lênin cũng nhận định việc chuyển từ nền kinh tế nông dân nhỏ sang nền
sản xuất tập thể lớn theo nguyên tắc xã hội chủ nghĩa mang tính tất yếu khách
quan, “thiếu việc cày chung ruộng đất có áp dụng máy móc thì nơng dân khơng có lối
thốt”, nhưng cũng khơng thể diễn ra một cách tự phát, mà cần phải có sự tác

động có phương hướng đến q trình này từ phía nhà nước vì nền kinh tế xã hội
hóa cho phép thực hiện “những cải tiến trong nền kinh tế mà những người tiểu tư hữu
17


cá thể khơng thể nào có được”[Lênin tồn tập, t.37, Nxb Tiến bộ, M. 1977, tr.214] , sự ủng hộ

về mặt kinh tế của chế độ nông trang. Cần thiết phải xây dựng những doanh
nghiệp mẫu theo nguyên tắc xã hội chủ nghĩa trên ruộng đất đã quốc hữu hóa;
đồng thời, đặt ra các biện pháp thực tế nhằm giữ nguyên những doanh nghiệp lớn
và tiếp tục đưa nó vào nền sản xuất công cộng “cùng với việc áp dụng những
phương pháp tốt nhất của kỹ thuật nông nghiệp” [Sđd,

tr.336],

phải giành cho các

nông trang hàng loạt các khoản ưu đãi về kinh tế, tài chính và tín dụng, tìm các

hình thức ủng hộ các nông trang tập thể.
Lênin cũng đã lưu ý rằng q q trình hợp tác hóa này phải diễn ra dần
dần, là một quá trình lâu dài, “cuộc cách mạng của tồn thể nơng dân vẫn là một
cuộc cách mạng tư sản và … nếu không trải qua một loạt bước quá độ, một loạt giai
đoạn quá độ thì trong một nước lạc hậu khơng thể biến cuộc cách mạng đó thành cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa được”[Lênin toàn tập, t.38, Nxb Tiến bộ, M.1977, tr.124].

Cùng với chính sách quốc hữu hóa ruộng đất, Lênin đề ra điều kiện tiên
quyết để chuyển các hộ nông dân nhỏ lên lên con đường của nền kinh tế tập thể
lớn và xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cần thiết cho nó như máy móc, điện khí
hóa, sử dụng các phương pháp quản lý kinh doanh khoa học. Chỉ trong một thời
gian tương đối ngắn (10 – 12 năm), nước Nga đã xây dựng xong cơ sở vật chất
kỹ thuật cho nông nghiệp. Với việc đặc biệt chú ý đến việc xây dựng nông
trường, các nông trường đã trở thành các điểm tựa của nền kinh tế nông nghiệp
XHCN, giữ vị trí chủ đạo trong cuộc cải tạo XHCN ở nơng thơn.
“Tư tưởng về hợp tác hóa của Lênin vĩ đại, chính sách của Đảng trong việc giải
quyết vấn đề nơng dân, hồn tồn được thời gian kiểm tra, kinh nghiệm của Liên Xô và
các nước XHCN khác chỉ ra một cách rõ ràng rằng việc xây dựng CNXH ở nơng thơn
đó là con đường duy nhất để nông dân đi tới hạnh phúc, cơ sở của mọi sự giàu có của

18


toàn thể nhân dân lao động”[Brêgiơnếp, Theo đường lối của Lênin, Bài nói chuyện và bài báo, t.2,
M, 1973, tr.491].

* Sự phát triển của Đảng ta về lý luận địa tơ của C.Mác
Từ khi có Đảng lãnh đạo sự nghiệp cách mạng nước ta, những vấn đề lý
luận về địa tô của C.Mác và lý luận ruộng đất của Lênin đã được Đảng ta nghiên
cứu, vận dụng vào chính sách đất đai ở Việt Nam. Những đóng góp quan trọng

của Đảng ta vào việc phát triển lý luận về địa tô của C.Mác là:
- Thực hiện cách mạng độc lập dân tộc và người cày có ruộng
Trước cách mạng tháng Tám năm 1945, Việt Nam vốn là một nước thuộc
địa, nửa phong kiến. Thực dân Pháp cấu kết với giai cấp địa chủ, nhất là đại địa
chủ phong kiến để thống trị nước ta một cách hà khắc. Ruộng đất tập trung chủ
yếu vào tay thực dân Pháp và giai cấp địa chủ, hầu hết nơng dân khơng có ruộng
đất nên lệ thuộc vào giai cấp địa chủ và thực dân. Do đó, trong xã hội tồn tại hai
mâu thuẫn chủ yếu là: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc ta với chủ nghĩa đế quốc
xâm lược; mâu thuẫn giữa quần chúng nhân dân đông đảo, chủ yếu là nông dân
với giai cấp địa chủ phong kiến. Trước tình hình đó, Đảng đã chủ trương phải
tiến hành cách mạng để giải quyết cả hai mâu thuẫn, thực hiện độc lập dân tộc và
“người cày có ruộng”. Đồng thời, Đảng đề ra chủ trương và thực hiện “giảm tô,
giảm tức”; chia ruộng đất công, ruộng hiến, ruộng nửa công nửa tư cho nông
dân; thực hiện lĩnh canh ruộng đất nhằm bảo vệ quyền lợi của tá điền; thực hiện
cải cách ruộng đất.... Với những đường lối, chủ trương này, Đảng đã xác định
tính cấp bách, sự cần thiết phải thay đổi chế độ sở hữu độc quyền ruộng đất từ
thực dân đế quốc cấu kết với giai cấp địa chủ phong kiến về tay nhân dân, quan
tâm thực sự đến quyền lợi của nhân dân vốn đã phải gánh chịu nhiều tầng nấc
bóc lột về sưu thuế, tơ tức hà khắc của thực dân và địa chủ phong kiến. Từ đó,
Đảng đã quy tụ được đông đảo các tầng lớp nhân dân, nhất là giai cấp nông dân
19


tham gia cách mạng. Sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, vấn đề
đất đai ở nước ta cơ bản đã giải quyết được.
- Thực hiện công hữu hóa ruộng đất theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Đây là sự vận dụng và phát triển sáng tạo của Đảng ta về lý luận địa tô của
Mác vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam, trong điều đất nước vốn có
xuất phát điểm rất thấp về mặt kinh tế - xã hội, đang tiến hành cuộc cách mạng
trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH, bỏ qua giai đoạn phát triển hình thái kinh tế

xã hội TBCN. Trong thời kỳ vừa kháng chiến vừa kiến quốc, Đảng đã đề ra
đường lối chính trị của cách mạng gắn liền với giải quyết vấn đề ruộng đất, xóa
bỏ chế độ độc quyền, sở hữu tư bản tư nhân về ruộng đất. Đến thời kỳ xây dựng
và phát triển đất nước, Đảng đề ra nguyên tắc “đất đai thuộc sở hữu toàn dân do
Nhà nước làm đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý”, đồng thời vẫn công
nhận các “quyền sử dụng đất” đến mức tối đa cho các chủ thể khác; cùng các chủ
trương giảm tô, miễn, giảm thuế về ruộng đất đã thể hiện sự quan tâm của Đảng
đến quyền lợi của tuyệt đại bộ phận nhân dân, đảm bảo quyền lợi tối thượng Nhà
nước của dân, do dân, vì dân. Có nghĩa là, Đảng ta đã cải tạo bản chất của địa tô
TBCN khi vận dụng vào Việt Nam; từng bước xây dựng lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất XHCN trong nông nghiệp và các ngành kinh tế khác. Điều này
rất khác biệt so với nhiều nước khác trên thế giới. Theo đó, ở các nước có chế độ
sở hữu tư nhân về ruộng đất, phần lớn đất đai, nhất là các vị trí quan trọng, có lợi
thế cao đều tập trung độc quyền trong tay các nhà tư bản; hoặc tuy phần lớn đất
đai, vị trí quan trọng có lợi thế do nhà nước kiểm sốt nhưng thực chất chính
sách, pháp luật đất đai của nhà nước lại do giai cấp tư sản chi phối, phần ruộng
đất còn lại do nhân dân lao động sở hữu chỉ chiếm số ít.

20


1.1.1.3. Ý nghĩa nghiên cứu lý luận địa tô của C.Mác đối với nước ta
- Thứ nhất, nghiên cứu lý luận địa tơ TBCN của C.Mác, ngồi mục đích
hiểu rõ quan hệ sản xuất TBCN còn tồn tại trong điều kiện nền kinh tế đang vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN
ở nước ta hiện nay, cũng như trong nông nghiệp, chúng ta còn rút ra cơ sở lý luận
để đề ra các đường lối, chính sách đối với nơng nghiệp nhằm kích thích nơng
nghiệp phát triển, kết hợp hài hịa các lợi ích trong nơng nghiệp cũng như giữa
nơng nghiệp với các ngành khác. Đồng thời làm cơ sở lý luận để xây dựng các
chính sách về đất đai, chính sách về thuế trong nơng nghiệp và các ngành khác

liên quan đến đất đai có hiệu quả hơn, nhằm khai thác được mọi tiềm năng trong
nông nghiệp, trong lĩnh vực đất đai, tránh độc quyền trong phân phối ruộng đất
và tài nguyên, khoáng sản gắn liền với đất đai, tránh để đất đai bị khai thác cạn
kiệt, bị hoang hóa, bạc màu.
- Thứ hai, trong thời kỳ quá độ nền kinh tế ở nước ta hiện nay, trong một
chừng mực nào đó, quan hệ sản xuất TBCN và vấn đề bóc lột giá trị thặng dư nói
chung, cũng như vấn đề một bộ phận lợi nhuận siêu ngạch trong các hình thái địa
tơ thu được từ lĩnh vực nơng nghiệp, đất đai nói riêng là một tồn tại khách quan.
Càng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần chúng ta càng thấy rõ, chừng nào
quan hệ bóc lột, các hình thái địa tơ cịn có tác dụng giải phóng sức sản xuất và
thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, thì chừng đó chúng ta cịn phải chấp nhận
sự hiện diện của nó.
- Thứ ba, trong thực tế nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở nước ta hiện nay, những quan niệm tìm cách định lượng rõ ràng, máy móc và
xơ cứng về địa tơ, mức độ bóc lột giá trị thặng dư trong địa tơ, nhằm hoạch định
các chủ trương, chính sách, cũng như có cách đánh giá, nhìn nhận thiếu khách
quan đối với tầng lớp doanh nhân, người kinh doanh liên quan lĩnh vực nông
21


nghiệp, đất đai, người có quyền sử dụng đất đều xa rời thực tế và không thể thực
hiện được. Điều quan trọng cần làm hiện nay là các chính sách về đất đai, vấn đề
giải quyết quan hệ đất đai phải được thể chế hóa bằng luật. Nhà nước dựa vào
pháp luật để kiểm soát chặt chẽ việc quản lý, khai thác, sử dụng, chuyển nhượng,
kinh doanh đất đai, kiểm soát thu nhập cá nhân, thu nhập doanh nghiệp để chống
thất thu thuế; mặt khác, bảo đảm sự công bằng trong phân phối đất đai, thu nhập
từ đất đai, chống độc quyền, đầu cơ về đất đai thông qua Nhà nước, bằng các
kênh phân phối lại và điều tiết thu nhập xã hội.
- Thứ tư, phải bảo vệ những quyền lợi hợp pháp và chính đáng của cả
người lao động, lẫn giới chủ sử dụng lao động trong nông nghiệp, các tập thể, hộ

sản xuất nông nghiệp cá thể, các đối tượng có quyền sử dụng đất trong việc giải
quyết quan hệ đất đai bằng pháp luật và bằng các chế tài thật cụ thể mới bảo đảm
công khai, minh bạch và bền vững. Những mâu thuẫn về lợi ích trong q trình
sản xuất, sử dụng lao động nơng nghiệp, trong lĩnh vực đất đai và giải quyết
quan hệ đất đai là một thực tế. Việc giải quyết các mâu thuẫn ấy như thế nào để
tránh những xung đột không đáng có, khơng nên có cũng là một u cầu cấp
thiết hiện nay, thể hiện trong bản chất tốt đẹp của chế độ ta. Bảo vệ được những
quyền lợi chính đáng, những quyền lợi được luật pháp bảo vệ, của tất cả các bên
trong quan hệ lao động nông nghiệp, quan hệ đất đai cũng chính là bảo đảm cho
việc vận dụng một cách phù hợp lý luận về địa tô của C.Mác trong điều kiện hiện
nay, đồng thời cũng là những đóng góp cơ bản nhất cho cả quá trình hồn thiện
và xây dựng chính sách về đất đai, xây dựng mơ hình kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

22


1.1.2. Một số vấn đề lý luận về quan hệ đất đai và giải quyết quan hệ
đất đai
1.1.2.1. Một số vấn đề lý luận về quan hệ đất đai
Quan hệ đất đai là quan hệ giữa các chủ thể trong xã hội với nhau về vấn
đề sở hữu, chiếm hữu sử dụng và định đoạt ruộng đất. Suy cho cùng, đó là quan
hệ về việc thực hiện lợi ích kinh tế từ việc sở hữu hay sử dụng ruộng đất. Từ xưa
đến nay, quan hệ đất đai là một trong những quan hệ cơ bản, quan trọng nhất
trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội, văn hố… của con người, cũng như của
các nhà nước. Xu hướng vận động của quan hệ đất đai một mặt chịu ảnh hưởng
của sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội, mặt khác nó cịn chịu sự chi phối
của nhiều yếu tố chính trị, kinh tế, lịch sử, dân tộc, văn hoá, xã hội….
* Những nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ đất đai ở Việt Nam
- Điều kiện tự nhiên và quan hệ ruộng đất ở Việt Nam.

Điều kiện tự nhiên có sự chi phối rất đặc biệt đến nền nơng nghiệp lúa
nước của nước ta. Nó là một trong những nhân tố chi phối xuyên suốt quan hệ
đất đai ở nước ta từ trong lịch sử cho đến hiện tại.
Điều kiện tự nhiên của nước ta có cả thuận lợi và khó khăn, trong đó yếu
tố khơng thuận lợi lại nhiều hơn. Với diện tích đất và lãnh thổ khơng rộng lắm,
trong đó diện tích đồng bằng nhỏ hơn trong tổng diện tích đất đai, thời tiết và địa
hình không thuận lợi, thiên tai thường xuyên xảy ra nên đã tạo ra những sự khó
khăn trong việc sử dụng đất, làm cho các cộng đồng dân tộc Việt Nam sớm biết
cố kết với nhau để canh tác nông nghiệp, xây dựng những cơng trình chế ngự tác
động mặt trái của thiên nhiên. Từ đó đã tác động mạnh đến việc hình thành một
nền văn minh nơng nghiệp hết sức đa dạng, dẫn đến việc thực hiện lợi ích từ nền
nông nghiệp, thông qua lĩnh vực nông nghiệp đã tác động sâu sắc tới quan hệ

23


giữa các chủ thể trong xã hội Việt Nam thời phong kiến, tác động đến việc phân
phối lợi ích của việc khai thác đất đai.
Do trình độ canh tác thấp không cho phép các chủ thể nhỏ trong xã hội
như các hộ gia đình thâu tóm và khai thác nguồn lực đất đai lớn. Chỉ có nhà
nước mới là chủ thể có năng lực mạnh nhất trong xã hội, huy động được sức
mạnh của cộng đồng để thực hiện các vấn đề kỹ thuật lớn nhằm khai thác nguồn
lực đất đai. Sức mạnh kinh tế nhà nước phong kiến chủ yếu nằm trong nguồn lực
đất đai, đặc biệt là đất trồng lúa. Từ đó tạo nên khả năng tất nhiên về việc nhà
nước phong kiến nắm giữ nguồn lực chính về đất đai và điều tiết hoạt động, các
quan hệ khác.
Với những điều kiện khách quan như vậy, từ trong lịch sử, ruộng đất nhìn
chung khơng thuộc về sở hữu của tư nhân. Quan hệ đất đai của Việt Nam trong
lịch sử có nhiều điểm đặc biệt so với các quốc gia khác trên thế giới. Việc thực
hiện lợi ích từ quyền sở hữu đất vì thế mà có rất nhiều điểm khác biệt mang tính

đặc thù Việt Nam. Điều này đã và sẽ tiếp tục chi phối quan hệ đất đai ở nước ta
hiện nay.
- Tập quán văn hoá dân tộc Việt Nam và quan hệ ruộng đất
Tập quán văn hố dân tộc Việt Nam có một trong những khía cạnh nổi bật
và cũng là lối sống mang đặc trưng của người Việt là sự gắn bó tự nhiên trong
mối liên hệ giữa cấu trúc nhà – làng – nước. Trước mọi biến cố của lịch sử, sự cố
kết và mối quan hệ này vẫn trường tồn. Sự tác động của mối quan hệ đó cũng chi
phối rất sâu sắc đến quan hệ ruộng đất từ trong lịch sử.
Chính mối quan hệ đặc trưng của công xã nông thôn Việt Nam như vậy đã
tạo ra một kiểu quan hệ ruộng đất mang tính song song nhưng khơng cân đối. Đó
là kiểu quan hệ ruộng đất chứa đựng một mặt đất đai thuộc về nhà nước tập
quyền, mặt khác một bộ phận ruộng đất được giao cho làng sở hữu. Trong mối
24


quan hệ song song đó, sở hữu của nhà nước tập quyền chiếm ưu thế. Vì vậy, mặc
dù có sự sở hữu của làng nhưng không phải là chiếm phần nhiều, mà ruộng đất
của làng lại được chia cho các thành viên trong làng là các hộ gia đình cày cấy.
Thường việc chia này mang tính định kỳ được chia lại. Vì vậy, cơ sở cho việc
tồn tại sở hữu cá thể hộ gia đình về đất đai lâu dài là khơng có. Các hộ gia đình
trên thực tế là các hộ sử dụng đất đai.
Quan hệ ruộng đất trong mối liên hệ nhà – làng – nước là một kiểu quan
hệ đã chi phối xuyên suốt lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Chính kiểu quan hệ ruộng đất này đã tạo ra sự cố kết về văn hoá xã hội, sự tương
đồng về tâm lý, góp phần làm cho quan hệ tâm lý tập qn văn hố thêm chặt
chẽ. Chính kiểu quan hệ ruộng đất như vậy đã là một phương thức thực hiện lợi
ích của các chủ thể trong xã hội Việt Nam thời phong kiến. Mặc dù có rất nhiều
hạn chế, nhưng kiểu quan hệ ruộng đất như vậy đã là một trong những điều kiện
để xã hội Việt Nam phát triển ổn định, phân hố chậm. Xét về góc độ lịch sử cụ
thể thì quan hệ ruộng đất chịu ảnh hưởng của cộng đồng làng xã như thế đã có

nhiều ưu điểm đối với sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Với
nghĩa như vậy, nếu coi đây là một cách thức thực hiện lợi ích của các thành viên
trong xã hội về quan hệ ruộng đất thì ngày nay nếu biết phát huy sẽ cho chúng ta
kết quả tích cực đối với sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố ở nơng thơn,
cũng như ở các địa phương đang đơ thị hố.
Bên cạnh đó, đặc trưng văn hố phương Đơng về vấn đề quan hệ huyết
thống và truyền thống văn hoá "an cư mới lạc nghiệp’’ của người Việt cũng là
một nhân tố làm cho quy mô sử dụng đất đai của các hộ gia đình có chiều hướng
giảm dần do gặp phải những giới hạn của điều kiện tự nhiên xã hội, đặc biệt là sự
giới hạn của sự phát triển lực lượng sản xuất và theo lịch sử phát triển của dân
số.
25


×