Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

Th s kinh te lợi ích kinh tế của người dân bị thu hồi đất trong quá trình đô thị hóa ở thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (409.84 KB, 99 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những địa phương ln đi đầu
về các mặt kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phịng. Trong những năm
qua, việc chỉnh trang đơ thị theo hướng hiện đại hố, trong đó vấn đề phát
triển khu đô thị mới, khu công nghiệp và các cơng trình cơng cộng… được các
ngành, các cấp hết sức quan tâm.
Tại Thành phố Hồ Chí Minh với tốc độ đơ thị hố ngày càng nhanh thì
nhu cầu mở rộng và phát triển đơ thị diễn ra nhanh chóng. Đảng bộ và chính
quyền thành phố đã tập trung đẩy mạnh tiến trình đơ thị hố, kết hợp với việc
giải quyết ô nhiễm môi sinh môi trường, giải toả các khu nhà lụp xụp, nhà trên
và ven kênh rạch, thực hiện việc chỉnh trang đơ thị, cải thiện tình hình nhà ở
đi đôi với việc đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật với mục tiêu đề ra đến năm
2020 Thành phố Hồ Chí Minh sẽ là trung tâm phát triển đơ thị, cơng nghiệp và
dịch vụ…
Thành phố Hồ Chí Minh trong quá trình CNH, HĐH diễn ra khá
nhanh, thành phố đã quy hoạch và hình thành một số khu cơng nghiệp, du
lịch, khu đơ thị mới và các cơng trình công cộng… với quy mô lớn.
Trên địa bàn thành phố đã quy hoạch và đang triển khai xây dựng các
khu đô thị mới, khu công nghiệp và dịch vụ và các cơng trình cơng cộng gồm:
- Đường cao tốc thành phố Hồ Chí Minh - Trung Lương.
- Đại lộ Đơng Tây.
- Khu dịch vụ Cảng Sài Gịn.
- Khu đơ thị mới Thủ Thiêm Quận 2.
- Khu đô thị mới Phú Mỹ Hưng Quận 7.
- Khu chế xuất Tân Thuận Quận 7.


2


- Khu công nghệ cao Quận 9.
- Khu công nghiệp Tân Bình Quận Tân Bình.
- Khu đơ thị Bình Hưng huyện Bình Chánh.
- Khu cơng nghiệp Tân Tạo huyện Bình Chánh.
- Khu công nghiệp Hiệp Phước huyện Nhà Bè.
- Khu chế xuất Linh Trung Quận Thủ Đức.
- Khu đô thị Tây Bắc huyện Củ Chi…
Chính vì vậy, trong những năm vừa qua, ở thành phố Hồ Chí Minh
cơng tác thu hồi đất, bồi thường giải phóng mặt bằng, tái định cư được Thành
uỷ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân thành phố xác định là nhiệm vụ
trọng tâm, cần tập trung sự lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhanh chóng để góp
phần vào sự phát triển chung của thành phố. Cơng tác thu hồi đất, bồi thường
giải phóng mặt bằng đã có những đóng góp khơng nhỏ vào sự phát triển kinh
tế - xã hội chung của thành phố.
Tuy nhiên, mặt trái của quá trình thu hồi đất, bồi thường giải phóng
mặt bằng cũng gây ra những ảnh hưởng, tác động không nhỏ đến việc làm, đời
sống của một bộ phận dân cư, nhất là những người có đất bị thu hồi để phát
triển các khu đô thị mới, khu cơng nghiệp và dịch vụ, các cơng trình cơng
cộng… Người dân có đất bị thu hồi khơng có việc làm ổn định, thu nhập bị
giảm sút, đời sống gặp nhiều khó khăn, trong khi đó lợi ích của họ khi bị thu
hồi đất chưa được xem xét, giải quyết thoả đáng, gây ra những bức xúc, khiếu
kiện kéo dài. Những vướng mắc nói trên chủ yếu xoay quanh vấn đề lợi ích
của người có đất bị thu hồi. Xuất phát từ thực tế đó, nên tác giả chọn vấn đề:
“Lợi ích kinh tế của người dân bị thu hồi đất trong q trình đơ thị hố ở
thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài luận văn thạc sĩ Kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề lợi ích nói chung, ở nước ta đã có một số nhà khoa học đề cập
tới trong các cơng trình nghiên cứu của mình, các cơng trình nghiên cứu đã



3
được cơng bố:
- “Bàn về các lợi ích kinh tế”, do Đào Duy Hùng (chủ biên) - Nxb sự
thật, Hà Nội, 1982.
- “Lợi ích động lực phát triển xã hội”, do Nguyễn Linh Khiếu chủ biên,
nhà xuất bản khoa học xã hội, Hà nội, 1999.
- “Quan hệ lợi ích kinh tế giữa người lao động và người sử dụng lao
động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi ở nước ta hiện nay”, Luận
văn Thạc sĩ của Nguyễn Trang Tuệ Minh, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2006.
- “Lợi ích kinh tế cá nhân người lao động trong các doanh nghiệp có
vốn đầu tư của Nhật Bản trên địa bàn Hà Nội” Luận văn Thạc sĩ của Nguyễn
Thị Hương Loan, học viên chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2007.
Những cơng trình khoa học nghiên cứu các vấn đề liên quan đến đề tài
như: việc làm, đời sống, thu nhập… của người dân bị thu hồi đất trong q trình
đơ thị hố, cơng nghiệp hố, hiện đại hố có các cơng trình tiêu biểu sau đây:
- “Thu nhập, đời sống và việc làm của người có đất bị thu hồi để xây
dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, các
cơng trình cơng cộng phục vụ lợi ích quốc gia”, do GS-TS Lê Du Phong chủ
biên, nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007.
- "Giải quyết những vấn đề xã hội nảy sinh từ việc thu hồi đất trong
q trình đơ thị hố và phát triển khu cơng nghiệp ở vùng đồng bằng sông
Hồng hiện nay”, báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài khoa học cấp bộ,
do TS Bùi Thị Ngọc Lan chủ biên, 2007.
- Đoàn Thị Hải (2005), Giải quyết việc làm cho người lao động nơng
nghiệp trong q trình đơ thị hố ở nước ta hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Kinh
tế Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Trương Bá Phúc: Lợi ích kinh tế của nông dân khi thu hồi đất để
phát triển công nghiệp và dịch vụ ở huyện Tĩnh Gia - Thanh Hoá, Luận văn
Thạc sĩ Kinh tế - Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội 2008.



4
- Hồng Văn Hoa (2006), Đơ thị hố và lao động, việc làm ở Hà Nội
từ năm 2000 đến nay, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
- TS Nguyễn Hữu Dũng: Đơ thị hố, cơng nghiệp hố, hiện đại hố
với việc đảm bảo điều kiện sống và làm việc của người lao động, Tạp chí Lý
luận chính trị số 11 - 2005 và nhiều cơng trình nghiên cứu khác.
Các cơng trình cũng đã đề cập đến các vấn đề đơ thị hố, cơng nghiệp hố,
hiện đại hố với vấn đề lợi ích, lợi ích kinh tế của người dân bị thu hồi đất để phát
triển công nghiệp, dịch vụ, đô thị hố …Tuy vậy, vấn đề lợi ích của người có đất
bị thu hồi trong q trình đơ thị hố địa bàn thành phố Hồ Chí Minh dưới góc độ
khoa học kinh tế - chính trị thì chưa có cơng trình nào; vì thế đề tài luận văn này
vẫn là cần thiết và khơng trùng lặp với các cơng trình khoa học đã công bố.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Giải quyết lợi ích của người dân bị thu hồi đất trong q trình đơ thị
hố ở thành phố Hồ Chí Minh.
- Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vị nghiên cứu trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Thời gian
nghiên cứu được giới hạn từ năm 2005 đến nay.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích:
Làm rõ một số lý luận về lợi ích kinh tế của người dân khi thu hồi đất để
phát triển đô thị. Đồng thời nghiên cứu thực trạng giải quyết lợi ích kinh tế cho
các đối tượng trên ở thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian qua để đề xuất
phương hướng và giải pháp giải quyết vấn đề lợi ích của người dân có đất bị thu
hồi để đơ thị hố. Lợi ích của người dân phải được đặt trong mối quan hệ lợi ích
giữa các bên tham gia trong các quan hệ đất đai là Nhà nước, người sử dụng đất,
doanh nghiệp có như vậy mới tạo điều kiện cho các nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư vào các
dự án đơ thị hố tại thành phố…, góp phần thúc đẩy sự phát triển chung của đất nước.

- Nhiệm vụ:


5
Muốn đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn cần phải giải quyết
tốt các nhiệm vụ sau:
+ Nghiên cứu để làm rõ những vấn đề lý luận về lợi ích kinh tế của
người dân bị thu hồi trong quá trình đơ thị hố.
+ Thực trạng việc giải quyết lợi ích của người dân bị thu hồi đất trong
quá trình đơ thị hố ở thành phố Hồ Chí Minh.
+ Nêu phương hướng và đề xuất các giải pháp chủ yếu đảm bảo lợi ích
kinh tế của người dân bị thu hồi đất trong q trình đơ thị hố tại thành phố
Hồ Chí Minh.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:
Khi nghiên cứu, đứng trên quan điểm của lý luận Mác - Lê Nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước, các lý luận cơ bản về kinh tế có liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp
duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp của khoa học kinh tế - chính
trị Mác - Lênin. Đồng thời sử dụng các phương pháp cụ thể khác như: khảo
sát, tổng kết thực tiễn, phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, khái qt hố
vấn đề nghiên cứu.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Làm rõ hơn lợi ích của người dân có đất khi Nhà nước thu hồi để phát
triển các khu đô thị mới, khu công nghiệp, dịch vụ và các cơng trình cơng cộng…
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu để tham
khảo khi xây dựng các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là các
chính sách liên quan đến đất đai, lợi ích của Nhà nước và người sử dụng đất.

Nội dung nghiên cứu này có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan,
nhà trường đối với các lĩnh vực có liên quan.
7. Kết cấu của luận văn


6
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
CƠ SỞ ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ LỢI ÍCH KINH TẾ
CỦA NGƯỜI DÂN BỊ THU HỒI ĐẤT TRONG Q TRÌNH
ĐƠ THỊ HỐ Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
1.1. MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ LỢI ÍCH KINH TẾ

1.1.1. Lợi ích và lợi ích kinh tế
* Khái niệm lợi ích:
Lợi ích là một phạm trù triết học, phản ánh nhu cầu được hiện thực
hố, đáp ứng những địi hỏi của sự phát triển đời sống con người và xã hội.
Nhu cầu được biểu thị trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hố, xã
hội có địa điểm, thời gian, khơng gian nhất định. Có nhu cầu vật chất và nhu
cầu tinh thần. Do đó, có lợi ích vật chất, lợi ích kinh tế và lợi ích chính trị, tinh
thần, tư tưởng. Nhu cầu có khả năng thanh tốn là cơ sở hình thành lợi ích.
Như vậy, lợi ích hiểu theo nghĩa chung nhất là lợi ích của con người và
của xã hội lồi người, lợi ích của cá nhân có mối quan hệ biện chứng với lợi
ích của từng giai tầng và của tồn xã hội. Lợi ích trở thành động lực thúc đẩy
phát triển nhận thức và hành động của con người trong đời sống xã hội.
* Bản chất, vai trị lợi ích kinh tế:
Lợi ích kinh tế là một phạm trù kinh tế biểu hiện quan hệ sản xuất
trước hết là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất. Lợi ích kinh tế nảy sinh trong
điều kiện tồn tại xã hội của con người, những nhu cầu vật chất của con người

khi được xác định về mặt xã hội thì nó trở thành cơ sở, nội dung của lợi ích
kinh tế.
Trong bất cứ nền sản xuất xã hội nào, lợi ích kinh tế đều là mối quan
tâm của tất cả các chủ thể kinh tế và các thành viên trong xã hội. Lợi ích kinh
tế là vấn đề cơ bản, xuyên suốt mọi nền sản xuất của tồn bộ tiến trình vận


7
động và phát triển của lịch sử. Lợi ích kinh tế là tối thượng, nó quyết định và
chi phối các lợi ích khác của con người.
Lợi ích kinh tế là một phạm trù kinh tế, một mặt nó phản ánh những
điều kiện, những phương tiện nhằm đáp ứng nhu cầu vật chất của mỗi con
người, mỗi chủ thể kinh tế của của cải vật chất mà họ tham gia vào hoạt động
kinh tế - xã hội. Mặt khác, nó phản ánh quan hệ giữa con người với con người
trong hệ thống sản xuất xã hội. Lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện của quan
hệ sản xuất, trước hết là quyền quan hệ sở hữu, quan hệ sử dụng và quan hệ
phân phối lợi ích. Do đó, lợi ích kinh tế được quy định bởi vị trí, vai trị của
mỗi con người lao động, các giai cấp, tầng lớp xã hội trong hệ thống quan hệ
sản xuất và nó thể hiện trong tất cả các khâu của chu trình tái sản xuất xã hội
(sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng). Trong cuốn sách Nội dung của
chủ nghĩa dân tuý và nội dung phê phán cuốn sách của ông Stơruve, V.I.Lênin
viết: Lợi ích của giai cấp này hay giai cấp khác xác định một cách khách quan
theo vai trị mà họ có trong hệ thống sản xuất, theo những hoàn cảnh và điều
kiện sống của họ. Như vậy, lợi ích kinh tế khơng phụ thuộc vào ý muốn chủ
quan của các chủ thể lợi ích kinh tế. Lợi ích kinh tế là động lực bên trong của
hành động và nó là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Khi lợi ích kinh
tế được thực hiện thì nó cũng là cơ sở, tiền đề để thực hiện các lợi ích khác,
đồng thời nó là động cơ thúc đẩy mạnh mẽ hành động của con người C.Mác
cho rằng: Lợi ích kinh tế làm lay động đời sống con người; và xét đến cùng
mọi cuộc cách mạng được tiến hành trước hết vì lợi ích kinh tế.

C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đều cho rằng: Trong các động lực
suy cho đến cùng đều từ và do động lực kinh tế quyết định. Nó kích thích,
thơi thúc và thúc đẩy con người, các chủ thể kinh tế và lợi ích kinh tế mà
quan tâm đến sản xuất, sự hoàn thiện, phát triển sản xuất. Cả xã hội tập
trung xây dựng kinh tế để phát triển lực lượng sản xuất, hình thành, hoàn
thiện quan hệ sản xuất tiến bộ.


8
Lợi ích kinh tế có vai trị là động lực kinh tế, thể hiện qua các phạm trù
thu nhập (tiền lương, giá cả, thuế, lợi tức, lợi nhuận… ). Những phạm trù này
gắn liền lợi ích quốc gia (xã hội), lợi ích tập thể, lợi ích cá nhân người lao
động; trong một thể chế kinh tế của một nền kinh tế quốc dân thống nhất. Nhà
nước là một tổ chức quyền lực, có vai trị quản lý điều tiết vĩ mô nền kinh tế,
sử dụng các công cụ trên thông qua việc ban hành các chính sách kinh tế,
những chính sách và quyết định của Nhà nước có liên quan và gắn liền với lợi
ích kinh tế của từng người lao động, tập thể và cả xã hội. “Những cội rễ sâu xa
nhất của chính sách đối nội cũng như chính sách đối ngoại của Nhà nước
chúng ta đều do lợi ích kinh tế, địa vị kinh tế của các giai cấp thống trị ở nước
ta quyết định” [14, tr.403 - 404].
Một chính sách, quyết định kinh tế đúng đắn khi nó giải quyết tốt hài
hồ lợi ích kinh tế, nó sẽ kích thích lịng nhiệt tình hăng say lao động sáng tạo
và đầu tư của cá nhân người lao động cũng như các chủ thể kinh tế, đặc biệt
người lao động, nhất là khi đời sống của người lao động, nhất là khi đời sống
của người lao động còn rất thấp. V.I. Lênin viết:
Sang chủ nghĩa xã hội không phải bằng cách trực tiếp dựa vào
nhiệt tình mà là nhiệt tình do cách mạng vĩ đại sinh ra bằng cách
khuyến khích lợi ích cá nhân, bằng cách áp dụng chế độ hạch tốn
kinh tế, nếu khơng các đồng chí sẽ không tiến đến chủ nghĩa cộng sản,
nếu không các đồng chí sẽ khơng dẫn được hàng chục và hàng chục

triệu người đến chủ nghĩa cộng sản [15, tr.184].
Trong nền kinh tế quá độ với nhiều thành phần kinh tế, nền kinh tế bao
gồm tổ hợp nhiều lợi ích kinh tế. Các lợi ích này khơng phải lúc nào cũng
hồn tồn thống nhất, khơng có mặt mâu thuẫn. Vì vậy, việc kết hợp hài hồ
các lợi ích là vấn đề có ý nghĩa to lớn trong ổn định, phát triển bền vững kinh
tế - xã hội. C.Mác viết: “Ở đâu khơng có lợi ích chung thì ở đó khơng thể có
sự thống nhất mục đích và càng khơng thể có sự thống nhất về hành động


9
được” [17, tr.250]. Nghĩa là phải có và đảm bảo lợi ích xã hội nhưng vừa bảo
đảm hài hồ lợi ích riêng.
Ngày nay, phần lớn các nền kinh tế xích lại gần nhau hơn, sự liên
doanh, hợp tác giữa các đối tác trong và ngoài nước càng mở rộng theo cơ
chế thị trường, đã đặt ra mối quan hệ đôi bên cùng có lợi, giữa các dân tộc
và quốc gia cũng như quốc tế, giữa người mạnh người yếu, giữa mối quan
hệ Nhà nước, tập thể trong từng quốc gia, dân tộc được xem xét trong sự
tính tốn như thế nào để vừa đảm bảo lợi ích chung và lợi ích riêng cũng
như sự phù hợp với tiến trình phát triển văn minh của từng dân tộc, đó cũng
là tiền đề là cơ sở đầu tiên để xác định mối quan hệ tương tác giữa các chủ
thể kinh tế, các lợi ích trong sự phát triển bền vững kinh tế - xã hội của mỗi
đất nước.
1.1.2. Tính tất yếu khách quan của việc thu hồi đất trong q trình
đơ thị hố
CNH, HĐH và đơ thị hố là con đường phát triển của mọi quốc gia
trên thế giới, nhất là các nước phát triển. Đối với các nước này, cơng nghiệp
hố là một tất yếu khách quan không thể bỏ qua. Chỉ có cơng nghiệp hố
gắn với hiện đại hố mới có khả năng rút ngắn thời gian so với các nước đi
trước và trở thành một nước công nghiệp phát triển. Thực tiễn phát triển
của nhiều quốc gia trong những năm gần đây cho thấy, CNH, HĐH và đơ

thị hố là nhân tố quyết định làm thay đổi căn bản phương thức sản xuất,
chuyển nền kinh tế từ sản xuất nông nghiệp truyền thống, tiểu nông sang
phương thức mới, hiện đại, do đó cũng làm thay đổi nội dung kinh tế xã hội
trong nông thôn. Trong nền kinh tế hiện đại, CNH, HĐH và đơ thị hố có
sự gắn bó chặt chẽ với nhau, tạo thành một tiến trình thống nhất thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
Đối với nước ta, từ một nước công nghiệp lạc hậu muốn trở thành một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại thì phải đẩy mạnh CNH, HĐH và chỉ


10
có như vậy mới đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, chất lượng cuộc
sống của nhân dân mới được cải thiện và nâng cao. Mục tiêu mà Đại hội X
của Đảng đề ra: Đến năm 2020 nước ta cơ bản thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại.
Việc phát triển các khu kinh tế, khu công nghiệp và đơ thị hố trong
q trình CNH, HĐH tất yếu diễn ra q trình phải thu hồi một bộ phận đất
nơng nghiệp. Quá trình này được tiến hành mạnh mẽ từ những năm 1990 khi
nước ta bước vào giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH. Theo số liệu của Tổng Cục
thống kê, đến năm 2009 cả nước ta có 33105,1 ha, trong đó đất chuyên dùng
là 1629,5 ha, đất ở là 633,9 ha. Như vậy, đất chuyên dùng năm 2009 so với
năm 2005 tăng lên khoảng 245.8 ha, bình quân mỗi năm tăng 6.82 ha; đất ở
tăng 39.5 ha, bình quân mỗi năm tăng 1.09 ha.
Theo báo cáo của Vụ Quản lý các Khu kinh tế, Bộ Kế hoạch và Đầu tư
năm 2010:
Tính đến hết tháng 12/2010, kể từ khi khu cơng nghiệp đầu tiên của
Việt Nam được thành lập năm 1991, qua gần 20 năm xây dựng và phát triển
(1991 - 2010), đến nay trên cả nước có hơn 250 khu công nghiệp, khu chế
xuất được thành lập ở 57 tỉnh, thành phố với tổng diện tích đất tự nhiên xấp xỉ
68.000 ha, trong đó có hơn 45.000 ha đất cơng nghiệp có thể cho th. Các

khu cơng nghiệp cả nước đã thu hút được hơn 8.500 dự án đầu tư với tổng vốn
đầu tư 70 tỷ USD, trong đó có gần 52 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài. Các khu
công nghiệp, khu chế xuất đã giải quyết việc làm cho gần 1,5 triệu lao động và
tạo ra giá trị sản xuất công nghiệp mỗi năm từ 20 - 25 tỷ USD, ngồi ra cịn có
có 15 khu kinh tế được thành lập theo quyết định của Thủ tướng Chính Phủ
với với tổng diện tích là 662.249 ha.
Tình hình CNH, HĐH ở nước ta được gắn liền với đô thị hoá. Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam 10 năm (2001 - 2010) đã nêu rõ phát
triển mạng lưới đô thị phân bổ hợp lý trên các vùng. Hiện đại hoá dần các


11
thành phố lớn, thúc đẩy q trình đơ thị nơng thôn. Chiến lược phát triển đô
thị Việt Nam thời kỳ 1996 - 2020 của Bộ Xây dựng đã xác định: Xây dựng
tương đối hồn chỉnh đơ thị cả nước, có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và kỹ
thuật hiện đại, có mơi trường đơ thị trong sạch, được phân bổ và phát triển
hợp lý trên địa bàn cả nước… phấn đấu đến năm 2020, dân số đô thị chiếm
khoảng 45% dân số cả nước.
Theo báo cáo thống kê của Bộ Xây dựng, nếu năm 2005 cả nước có
478 khu đơ thị mới thì đến năm 2010 đã có 632 khu đơ thị mới với diện tích
lên tới 101.886 ha.
Như vậy, sự gia tăng diện tích đất đai để phát triển công nghiệp dịch
vụ và đô thị trong quá trình CNH, HĐH đồng nghĩa với việc thu hẹp diện tích
đất nơng nghiệp nơng thơn một cách tương ứng. Đây là tính hai mặt của q
trình phát triển của các quốc gia cũng như của nước ta.
Nhìn chung, từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đến nay,
trên khắp các vùng miền của cả nước, nhiều khu kinh tế, khu công nghiệp, khu
đô thị ra đời thu hút nhiều nguồn lực trong và ngoài nước đầu tư phát triển trở
thành động lực thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và
các địa phương. Tuy nhiên, quá trình thu hồi đất để phát triển công nghiệp,

dịch vụ và phát triển đơ thị đang có những vấn đề đặt ra đối với lợi ích kinh tế
của người dân.
1.2. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT LỢI ÍCH KINH TẾ
CỦA NGƯỜI DÂN BỊ THU HỒI ĐẤT ĐỂ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ

1.2.1. Lợi ích kinh tế của người dân bị thu hồi đất
- Về lợi ích quyền sử dụng đất:
Điều 17 Hiến pháp năm 1992 khẳng định: “Đất đai thuộc sở hữu toàn
dân”. Điều 18, Hiến pháp qui định: “Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất
đai. Nhà nước giao đất cho các tổ chức và cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài.


12
Luật đất đai năm 2003 quy định Nhà nước đại diện quyền sở hữu toàn dân
về đất đai và thống nhất quản lý nhà nước về đất đai. Nhà nước thực hiện giao đất
và công nhận quyền sử dụng đất cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân.
Mục 2 Điều 9, Luật Đất đai 2003 quy định rõ: “Hộ gia đình, cá nhân
trong nước (sau đây gọi chung là hộ gia đình, cá nhân) được Nhà nước giao
đất, cho thuê đất, hoặc công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử
dụng đất” [26]. Như vậy, về mặt pháp lý người nơng dân cũng như các hộ gia
đình, cá nhân khác được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất đai ấy của
các chủ thể sử dụng đất một cách hợp pháp. Đối với người nông dân được
Nhà nước giao quyền sử dụng đất với hai mục đích cơ bản là đất để làm nhà
cửa, các cơng trình khác, trực tiếp phục vụ cuộc sống của bản thân và gia đình
họ và đất với tư cách là tư liệu sản xuất nông nghiệp chủ yếu của người nông
dân. Người dân với tư cách là chủ thể sử dụng đất, Nhà nước đảm bảo các
quyền chung và các quyền cụ thể như sau:
+ Về quyền chung:
Được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; Hưởng thành quả lao
động, kết quả đầu tư trên đất; Hưởng các lợi ích do cơng trình của Nhà nước

về bảo vệ, cải tạo đất nông nghiệp; Được Nhà nước bảo hộ khi bị người khác
xâm phạm đến quyền sử dụng đất hợp pháp của mình.
+ Về quyền cụ thể:
Quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế,
cho tặng quyền sử dụng đất, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng
đất; Quyền được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất [26].
Những quyền sử dụng đất được pháp luật quy định trên, chính là cơ sở
pháp lý quy định về lợi ích kinh tế của người nơng dân trong mối quan hệ với
đất đai, trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Điều 11 Luật Đất Đai năm 2003 quy định rõ nguyên tắc sử dụng đất:


13
+ Đúng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và mục đích sử dụng đất.
+ Tiết kiệm, có hiệu quả, bảo vệ môi trường và không làm tổn hại đến
lợi ích chính đáng của người sử dụng đất xung quanh.
+ Người sử dụng đất thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình trong
thời gian sử dụng đất theo quy định của Luật này và các quy định khác của
pháp luật có liên quan.
- Về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất được quy định ở Điều
105, 106, 107 Luật Đất đai 2003 như sau:
+ Người sử dụng đất được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất; được hưởng thành quả lao động, kết quả đầu
tư trên đất; hưởng các lợi ích do cơng trình của Nhà nước về bảo vệ, cải tạo
đất nông nghiệp; được Nhà nước hướng dẫn và giúp đỡ trong việc cải tạo, bồi
bổ đất nông nghiệp; được Nhà nước bảo hộ khi người khác xâm phạm đến
quyền sử dụng đất hợp pháp của mình…
+ Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển
nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng, cho quyền sử dụng đất, thế chấp,
bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất; người sử dụng đất được bồi

thường khi Nhà nước thu hồi đất. Cụ thể mục 2, Điều 42 Luật Đất Đai quy
định: Người bị thu hồi loại đất nào thì việc bồi thường bằng việc giao đất mới
có cùng mục đích sử dụng, nếu khơng có đất để bồi thường thì được bồi
thường bằng giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm có quyết định thu hồi.
+ Về nghĩa vụ của người sử dụng đất phải sử dụng đất đúng mục đích,
đúng ranh giới thửa đất diện tích được giao, đúng quy định về sử dụng độ sâu
trong lịng đất và chiều cao trên khơng; thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy
định của pháp luật; giao lại đất khi Nhà nước có quyết định thu hồi đất hoặc
hết thời hạn sử dụng đất.
Từ những nội dung quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của
các tổ chức, cá nhân được giao quyền sử dụng đất gắn liền với lợi ích của họ,


14
nên khi Nhà nước thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất của người có
quyền sử dụng đất thì được Nhà nước giải quyết các lợi ích chính đáng theo
pháp luật, chính sách hiện hành, trước hết và quan trọng nhất là lợi ích kinh tế.
Như vậy lợi ích kinh tế của người dân gắn liền với quyền và nghĩa vụ khi
được Nhà nước giao quyền sử dụng đất. Cụ thể như sau:
+ Đất ở dùng để làm nhà cửa, các cơng trình phụ trợ: Luật Đất đai
2003 khơng quy định hạn mức cụ thể mà tuỳ theo thực tế quỹ đất của từng địa
phương, cơ sở để giao đất cho phù hợp.
+ Đất sản xuất bao gồm: Đất vườn, đất ngoài đồng ruộng, đất đồi
rừng, đất mặt nước… đối tượng sử dụng đất sản xuất là dùng vào mục đích
sản xuất như: trồng cây hàng năm, trồng cây lâu năm, làm muối, nuôi trồng
thuỷ sản, đất sản xuất tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ…
Căn cứ theo Luật Đất Đai 2003, tuỳ theo thực tế quỹ đất của từng địa
phương, cơ sở để giao đất cho phù hợp.
Theo Luật Đất Đai năm 2003 quy định: Đất thổ cư bao gồm đất ở và
đất vườn; đất sản xuất nông, lâm nghiệp… có vị trí khơng gian nằm ngồi đất

thổ cư. Thời hạn sử dụng đất thổ cư và đất sản xuất là khác nhau. Đất thổ cư
được quy định sử dụng lâu dài (không xác định thời gian cụ thể), đất sản xuất
kinh doanh được xác định thời gian cụ thể. Ví dụ: Đất trồng cây hàng năm,
thời hạn sử dụng 20 năm, đất trồng cây lâu năm thời hạn sử dụng là 30 năm
hoặc 50 năm. Đất sản xuất nông, lâm nghiệp, khi Nhà nước giao quyền sử
dụng đất cho nơng dân nhìn chung là khơng thu tiền.
+ Đối với các chủ đầu tư, được Nhà nước giao quyền sử dụng đất để
xây dựng phát triển sản xuất kinh doanh cơng nghiệp, dịch vụ với hình thức
Nhà nước cho thuê đất với thời hạn 30 năm, 50 năm, tối đa là 70 năm.
+ Trong quá trình sử dụng đất chủ hộ phải được thụ hưởng những
thành quả từ đất đai, được đảm bảo các lợi ích, nhất là lợi ích kinh tế từ quyền
và nghĩa vụ sử dụng đất.
- Lợi ích về quyền sở hữu tài sản, hoa màu trên đất:


15
Tài sản, hoa màu trên đất của người dân là kết quả của quá trình lao
động sản xuất của hộ dân được tích tụ qua những thời gian nhất định. Vì vậy,
tài sản, hoa màu trên đất thuộc hồn tồn quyền sở hữu của các hộ dân.
Tài sản này là những tài sản hữu hình với hình thức biểu hiện phổ biến
bằng hiện vật. Cụ thể đó là nhà ở, cơng trình phụ, các vật kiến trúc khác...
Những tài sản này của hộ dân được xây dựng trên diện tích đất ở hợp pháp
của gia đình họ. Tuy nhiên, trên thực tế cũng có một tỷ lệ nhất định các hộ gia
đình xây dựng nhà ở và sinh sống trên một diện tích đất chưa hợp pháp hoặc
khơng hợp pháp. Nhưng cho dù họ xây dựng ở đâu, trên đất đai nào thì những
tài sản mà người dân đã xây dựng cùng đều là tài sản riêng của họ và thuộc
quyền sở hữu của gia đình họ.
Hoa màu trên đất là những sản phẩm từ kết quả lao động sản xuất của
người dân theo thời vụ hàng năm, hoặc lâu năm trên diện tích đất vườn, đất
sản xuất của gia đình họ được quyền sử dụng, hoặc trên một bộ phận diện tích

mà họ tự nguyện đóng góp với tư cách là tư liệu sản xuất và vốn tham gia vào
các hợp tác xã, các tổ chức kinh tế hợp tác để tiến hành sản xuất kinh doanh.
Tất cả những hoa màu trên đều thuộc quyền sở hữu của hộ dân, hoặc được
phân phối theo kết quả sản xuất, số lượng tham gia góp ruộng đất, góp vốn,
góp lao động... trong các hợp tác xã.
Khi Nhà nước thu hồi đất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất để phát
triển cơng nghiệp, dịch vụ, xây dựng kết cấu hạ tầng… thì đương nhiên Nhà
nước phải trả tiền giá trị các tài sản và hoa màu trên đất đối với những hộ có
đất bị thu hồi, hộ gia đình người dân bị thu hồi đất (đất ở và đất sản xuất) có
quyền được nhận bồi thường những giá trị tài sản, hoa màu trên đất của mình.
Họ có quyền được đề nghị Nhà nước phải bồi thường đầy đủ theo giá thị
trường đối với những tài sản, hoa màu của gia đình họ. Đó là sự tất yếu của
quyền sở hữu tài sản, hoa màu của từng hộ được luật pháp quy định. Nghị
quyết Hội nghị lần thứ VII Ban Chấp hành Trung ương khố X có ghi: Cơng


16
nhận quyền sử dụng đất được vận động theo cơ chế thị trường… Ban hành
chính sách định giá đảm bảo hài hoà quyền lợi của người sử dụng đất, nhà đầu
tư và Nhà nước trong quá trình giải toả, thu hồi đất.
- Lợi ích về việc làm và thu nhập:
Việc làm là hoạt động lao động sản xuất của con người khi đến tuổi
trưởng thành và trong độ tuổi nhất định nhằm tạo ra thu nhập, đáp ứng nhu
cầu lợi ích thiết thân hàng ngày của người lao động và gia đình họ. Nó là
một quyền cơ bản của con người mà Nhà nước và cộng đồng xã hội phải
chăm lo giải quyết. Các hộ gia đình được Nhà nước giao quyền sử dụng
đất. Nghĩa là, Nhà nước đã giải quyết về tư liệu sản xuất chủ yếu cho họ.
Từ tư liệu sản xuất ấy, họ được chủ động về việc làm và thu nhập để đảm
bảo ổn định cuộc sống của bản thân và gia đình. Trên thực tế, từ quyền sử
dụng đất, người dân chủ động quyết định tổ chức sản xuất với nhiều ngành

nghề, quy mô và phương thức phù hợp với điều kiện của từng gia đình.
Ngồi lao động chính, mỗi hộ cịn bố trí được việc làm cho lao động phụ
(trẻ em đang trong độ tuổi đi học và số lao động trên 60 tuổi) có khả năng
lao động.
Song, khi thu hồi đất để phát triển công nghiệp, dịch vụ, những hộ dân
ở các quận ngoại thành họ mất đất canh tác, mất công việc làm và mất thu
nhập, không ổn định đời sống sinh hoạt lâu nay của họ.
Nếu người dân khơng có việc làm và thu nhập ổn định, họ sẽ trở
thành những người lang thang, cơ nhỡ, vào đô thị để kiếm việc làm, cuộc
sống nay đây mai đó. Đơ thị q tải, hàng loạt vấn đề kinh tế - chính trị - xã
hội - văn hố nảy sinh khơng chỉ tại đơ thị mà cịn trở về len lỏi và phát
triển ở cộng đồng.
Người dân bị thu hồi đất, muốn xin vào làm việc ở các khu công
nghiệp và dịch vụ, thực sự họ khơng có đủ trình độ và học vấn đề phù hợp với
yêu cầu của doanh nghiệp, còn đối với doanh nghiệp bao giờ họ cũng tính đến


17
hiệu suất của đồng vốn bỏ ra cho nên thu hút lao động phải tính đến hiệu suất
của một lao động sống trong tổng lao động mà doanh nghiệp thu hút vào
doanh nghiệp. Như vậy động cơ của người dân muốn có việc làm cũng như
động cơ của doanh nghiệp khơng thể gặp nhau đó chính là lợi ích kinh tế của
hai chủ thể nhà đầu tư và người dân khơng thể hài hịa được.
Một lực lượng lao động khi bị thu hồi đất tất yếu mất việc làm và thất
nghiệp. Khoản tiền đền bù về đất đai, hoa màu... họ khơng thể có khả năng tạo
nên hiệu suất của đồng vốn cho nên họ sẽ sử dụng đồng tiền đó vào tiêu dùng
trực tiếp thậm chí những xa xỉ chưa phù hợp (mua xe máy, ôtô hoặc các tư
liệu tiêu dùng đắt tiền…) không phù hợp với thực tế cuộc sống, những yêu
cầu vừa cấp thiết vừa lâu dài đó là cơng ăn việc làm và thu nhập.
- Các lợi ích khác:

Đó là các lợi ích về chính trị, văn hố, xã hội, suy đến cùng những lợi
ích này cũng bắt nguồn từ lợi ích kinh tế. Các hộ dân được ổn định cuộc sống
tại các cộng đồng dân cư. Mỗi địa phương hoặc từng quận, huyện đều có
những nét riêng, rất phong phú, đa dạng.
Những chính sách ưu tiên về đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, chính
sách về giải quyết nhà ở cho các đối tượng nghèo, chính sách về vay vốn ưu
đãi để đầu tư sản xuất, chính sách về ưu tiên cho con em của họ được học
tập, đào tạo ở các trường phổ thơng, đại học, trung học chun nghiệp,
chính sách về chăm sóc sức khoẻ và khám chữa bệnh… Nhờ đó mà khu vực
kinh tế ở các quận, huyện ngoại thành trên địa bàn thành phố ngày càng
phát triển, đời sống vật chất, tinh thần của người dân ngày càng được cải
thiện tốt hơn, đã rút ngắn khoảng cách về chênh lệch mức sống giữa các
quận, huyện ngoại thành và nội thành.
1.2.2. Phương thức giải quyết lợi ích
Ở nước ta, các quy định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư ngày càng phù hợp hơn với yêu cầu của thực tế cũng như yêu cầu của các


18
quy luật kinh tế. Quan tâm tới lợi ích của những người bị thu hồi đất, Nghị
định 197/2004/NĐ-CP sau một thời gian thực hiện, đặc biệt là sau sự ra đời
của NĐ 84/2007/NĐ-CP đã thể hiện được tính khả thi và vai trị tích cực của
các văn bản pháp luật. Vì thế, cơng tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trong
thời gian qua đã đạt được các kết quả khá khả quan, thể hiện trên một số khía
cạnh chủ yếu sau:
- Xác định đối tượng được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đầy đủ chính
xác, phù hợp với tình hình thực tế, giúp cho cơng tác quản lý đất đai của Nhà
nước được nâng cao, người nhận đền bù cũng thấy thoả đáng.
- Mức bồi thường hỗ trợ sát với giá thị trường, tạo điều kiện cho người
dân bị thu hồi đất có thể khơi phục lại tài sản bị mất.

- Một số biện pháp hỗ trợ đã được bổ sung và quy định rất rõ ràng như
tăng mức hỗ trợ ổn định sản xuất và đời sống, mức hỗ trợ chuyển đổi nghề
nghiệp, việc dạy nghề cho người có đất bị thu hồi được lập thành đề án riêng,
có sự gắn kết chặt chẽ… qua đó thể hiện được tinh thần đổi mới của Đảng và
Nhà nước nhằm giúp cho người dân ổn định về đời sống và sản xuất.
- Việc bổ sung quy định về quyền tự thoả thuận của các nhà đầu tư cần
đất với người sử dụng đất đã góp phần giảm sức ép cho các cơ quan hành
chính trong việc thu hồi đất.
- Trình tự thủ tục tiến hành bồi thường hỗ trợ tái định cư đã giải quyết
được nhiều khúc mắc trong thời gian qua, giúp cho các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền thực hiện cơng tác bồi thường, tái định cư đạt hiệu quả.
- Các địa phương bên cạnh việc thực hiện các quy định Luật Đất
đai năm 2003, các Nghị định hướng dẫn thi hành, đã dựa trên sự định
hướng chính sách của Đảng và Nhà nước, tình hình thực tế tại địa phương
để ban hành các văn bản pháp luật áp dụng cho địa phương mình, làm cho
cơng tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được thực hiện hợp lý và đạt hiệu
quả cao hơn. Việc vận dụng các chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư


19
thoả đáng nên việc thu hồi đất tiến hành bình thường, mặc dù vẫn còn
những khiếu nại nhưng con số này ít và khơng gây trở ngại đáng kể trong
q trình thực hiện.
- Những cải thiện về quy định pháp luật về phương pháp tổ chức, về
năng lực cán bộ thực thi giải phóng mặt bằng, tiến độ giải phóng mặt bằng
trong các dự án đầu tư gần đây đã được rút ngắn hơn so với các dự án cũ, góp
phần giảm bớt tác động tiêu cực đối với người dân cũng như đối với dự án.
1.2.1. Tác động của giải quyết quan hệ lợi ích của người dân có đất
bị thu hồi
- Ổn định chính trị - xã hội:

Giải quyết đúng đắn, phù hợp với lợi ích kinh tế của người dân. Nó
có vai trị to lớn trong sự chuyển biến và phát triển kinh tế - xã hội cũng
như ổn định chính trị - xã hội của đất nước, trong từng khu vực và địa
phương.
Ổn định công ăn việc làm, ổn định thu nhập, duy trì và phát huy bản
sắc văn hoá cộng đồng dân tộc… Tất cả những điều đó cũng là một q trình
để đảm bảo ổn định an ninh kinh tế, chính trị, xã hội, trật tự an tồn xã hội,
mơi trường sinh thái. Thực tế, trong những năm qua ở nhiều địa phương trong
cả nước cũng như ở thành phố Hồ Chí Minh trong q trình thu hồi đất, do
khơng thực hiện thoả đáng và đồng bộ lợi ích kinh tế của người dân nên đã
nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp như tranh chấp đất đai, không thực hiện tái
định cư, khiếu kiện kéo dài… có nơi đã trở thành điểm nóng, gây mất an ninh
trật tự ở các cộng đồng dân cư, tiềm ẩn nhân tố mất ổn định chính trị xã hội ở
một số cơ sở; làm suy giảm niềm tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước. Vì
vậy, việc đảm bảo lợi ích kinh tế đối với người dân bị thu hồi đất là con đường
có hiệu quả nhất và nhanh nhất để ổn định đời sống chính trị xã hội của cộng
đồng dân cư của từng địa phương từng khu vực cả đất nước khi người dân bị
thu hồi đất.


20
Giải quyết tốt lợi ích kinh tế đối với người dân bị thu hồi đất có vai trị
quan trọng đối với mục tiêu lớn là thực hiện tốt có hiệu quả q trình CNH,
HĐH và đơ thị hố, cũng như bảo đảm nâng cao hiệu suất hoạt động của nền
kinh tế quốc dân và an sinh xã hội đối với quốc tế dân sinh cũng như mỗi
vùng, địa phương, khu vực bị thu hồi đất.
- Đối với việc giải quyết mặt bằng, đưa quỹ đất vào sử dụng:
Giải toả, san lấp tạo mặt bằng là khâu đầu tiên để hình thành, bảo đảm
tiến độ phát triển các khu đô thị, khu cơng nghiệp và dịch vụ. Vì vậy, việc giải
quyết tốt lợi ích kinh tế đối với người dân khi thu hồi đất sẽ tạo điều kiện

thuận lợi thúc đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng (GPMB) để đầu tư xây
dựng, phát triển các dự án trong quá trình CNH, HĐH; rút ngắn được thời
gian chu chuyển vốn đối với chủ thể đầu tư mới. Số lượng đất đai tích tụ và
tập trung nhanh kịp thời cho tiến độ giải toả và san lấp mặt bằng phù hợp ăn
khớp với kế hoạch tổng thể của doanh nghiệp, như vậy thời gian chu chuyển
vốn đầu tư, hiệu suất vốn sẽ cao. Trên thực tế, việc thu hồi đất ở nước ta trong
những năm gần đây là sự chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Nhờ có thu hồi
đất, chúng ta đã xây dựng được các khu đô thị, khu kinh tế, khu công nghiệp,
phát triển các cơ sở du lịch, dịch vụ; hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
được tăng cường: đô thị ở nhiều địa phương trên cả nước được chỉnh trang đổi
mới… Điều đó làm cho q trình CNH, HĐH, đơ thị hố được diễn ra nhanh
hơn, mạnh mẽ hơn. Cụ thể trong những năm gần đây, cả nước đã đầu tư xây
dựng được nhiều khu đô thị mới, khu công nghiệp, khu kinh tế, khu chế xuất,
thu hút được hàng trăm dự án của các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài
với giá trị hàng chục tỷ USD và hàng ngàn tỷ đồng.
- Đối với việc ổn định và phát triển sản xuất, nâng cao đời sống của
người dân sau khi bị thu hồi đất:
Giải quyết tốt lợi ích kinh tế đối với người dân khi thu hồi đất chính là
việc tạo nên sự ổn định và phát triển sản xuất, đời sống tạo ra công ăn, việc


21
làm, tạo ra thu nhập trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu việc
làm, cơ cấu lao động và cơ cấu thu nhập hợp lý. Tạo ra những tiền đề kinh tế
ổn định và phát triển mới. Khi thu hồi đất, Nhà nước và các nhà đầu tư giải
quyết đúng mức và đồng bộ các lợi ích kinh tế của nông dân là tạo điều kiện
thuận lợi cho người dân có đất bị thu hồi về vốn để mua sắm tư liệu sản xuất
mới, chuyển đổi nghề nghiệp, tạo ra việc làm mới để ổn định thu nhập và đời
sống; số hộ phải di chuyển chỗ ở đến các khu tái định cư có nhà ở, có điều
kiện sống tốt hơn nơi ở cũ nhân dân sẽ phấn khởi, ủng hộ tích cực đối với chủ

trương CNH, HĐH của Đảng và Nhà nước. Vì vậy, giải quyết lợi ích kinh tế
đối với người dân bị thu hồi đất thì doanh nghiệp, Nhà nước phải tạo ra cho
người dân những cơ sở vật chất như; điện, đường, trường, trạm. Hỗ trợ, giúp
đỡ, hướng dẫn những tiến bộ khoa học kỹ thuật… tạo nên những tiền đề liên
kết, tích tụ, tập trung sản xuất mới, hỗ trợ việc làm, đào tạo và nâng cao chất
lượng nguồn lực lao động mới cũng như tổ chức, quản lý, đào tạo đội ngũ lao
động có kỹ thuật.
1.3. KINH NGHIỆM GIẢI QUYẾT LỢI ÍCH CỦA NGƯỜI DÂN BỊ THU
HỒI ĐẤT Ở MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG TRONG NƯỚC VÀ BÀI HỌC ĐỐI VỚI
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

1.3.1. Kinh nghiệm giải quyết lợi ích của người dân bị thu hồi đất
ở một số địa phương
* Kinh nghiệm của thành phố Đà Nẵng [23]:
Năm 1997, Đà Nẵng chính thức trở thành Thành phố trực thuộc Trung
ương; đến cuối năm 2003 được Chính phủ xếp hạng là đô thị loại 1 cấp quốc
gia. Bên cạnh những kết quả to lớn do quy hoạch, xây dựng cơ sở hạ tầng,
phát triển các khu công nghiệp tập trung, chỉnh trang đơ thị đem lại, là tình
trạng hàng chục nghìn người thiếu việc làm, một bộ phận lớn lao động nông
nghiệp phải chuyển sang ngành nghề khác. Riêng trong năm 2004, quận hải
Châu, huyện Hồ Vang với tổng diện tích đất sản xuất bị thu hồi chuyển mục


22
đích sử dụng là gần 1.000 ha. Tổng số hộ phải di dời, giải toả ở các địa
phương nói trên là 12.694 hộ, gần 60.000 khẩu, lao động bị mất việc làm là
4.893 người.
Ngồi chính sách đền bù, bố trí tái định cư, trong thời gian qua, các
đối tượng bị thu hồi đất thực hiện di dời, giải toả chỉnh trang đô thị đã được
Uỷ ban nhân dân thành phố chỉ đạo các ngành, địa phương tổ chức các lớp

học nghề miễn phí, cho vay vốn để sản xuất kinh doanh từ nguồn vốn vay của
Ngân Hàng Chính sách xã hội, nguồn quỹ quốc gia giải quyết việc làm. Từ
năm 2000 đến nay, thành phố đã hỗ trợ 15 tỷ đồng nhằm đào tạo cho 16.337
người học nghề, trong đó có 5.502 học sinh là lao động thuộc hộ bị thu hồi
đất, di dời, giải toả. Hầu hết các học viên cịn có hồn cảnh khó khăn sau khi
tham gia các lớp học nghề ngắn hạn đều tìm được việc làm, thu nhập ổn định.
Tuy nhiên, số lao động không chuyển đổi được ngành nghề còn lớn, số
con em họ bước vào tuổi lao động, do văn hố thấp, khơng có đất canh tác,
khơng có nghề nghiệp nên rất khó khăn. Để góp phần tháo gỡ vấn đề bức xúc
này, thành phố đã chỉ đạo các địa phương chủ động nắm danh sách số hộ bị
giải toả di dời, cũng như tình trạng việc làm và thu nhập của họ. Qua đó vận
động nhân dân vùng nơng thơn mua đất lập trang trại, thuê mặt nước để nuôi
trồng thuỷ hải sản, hướng dẫn thủ tục vay vốn từ các nguồn quỹ quốc gia giải
quyết việc làm và xố đói giảm nghèo; vận động các doanh nghiệp trên địa
bàn tiếp nhận lao động trong diện trên vào làm việc, hoặc nhận hàng về gia
công tại nhà. Kết quả là phần lớn nông dân bị thu hồi đất đã chuyển hẳn sang
các hoạt động cơng nghiệp, xây dựng và dịch vụ
Tính chung trong 8 năm vừa qua, Đà Nẵng đã có gần 60.000 hộ phải
thực hiện di dời, giải toả giao lại đất sản xuất để xây dựng các khu công
nghiệp, du lịch, dịch vụ và các khu đô thị mới. Đến nay, hầu hết các hộ thực
hiện di dời, giải toả từ năm 2003 về trước đã được bố trí đất tái định cư, từng
bước ổn định cuộc sống. Thông qua chính sách đề bù, một số hộ có vốn đầu tư


23
để sản xuất kinh doanh nên cuộc sống khá lên, phương tiện đi lại, thiết bị nghe
nhìn cũng như mơi trường sống được cải thiện đáng kể; một bộ phận lớn
người lao động được thu hút vào các khu công nghiệp, các cơng trình xây
dựng cơ bản, con em họ được học nghề miễn phí và có cơ hội tìm việc làm ổn
định. Một số lao động thuần nông được chính quyền đồn thể hướng dẫn, hỗ

trợ chuyển đổi ngành nghề sang trồng hoa, trồng nấm, phát triển chăn nuôi.
Thực hiện Nghị quyết 33/NQ-BCT của Bộ Chính trị, nhằm nhanh
chóng xây dựng Đà Nẵng trở thành một trong những thành phố công nghiệp
phát triển, trong những năm tới, tốc độ đơ thị hố sẽ được đẩy mạnh, khơng
gian đơ thị sẽ được mở rộng. Theo quy hoạch, từ nay đến năm 2010, một số
cơng trình trọng điểm sẽ được triển khai với diện tích thu hồi lên đến 4 - 5
nghìn ha. Với mức độ ảnh hưởng về việc làm bình quân 5000 - 7000 lao
động/năm, một bộ phận lớn nơng dân sẽ khơng cịn tư liệu sản xuất, buộc phải
chuyển đổi ngành nghề, sức ép giải quyết việc làm cho đối tượng này sẽ gia
tăng theo tỷ lệ thuận với q trình đó. Để có chính sách ổn định và lâu dài
nhằm thực hiện tốt việc chuyển đổi ngành nghề cho nông dân trong diện giao
đất, lao động trong diện di dời, giải toả, thành phố đã thực hiện các giải pháp
sau đây:
- Tiếp tục thực hiện đầy đủ các chính sách bồi thường thiệt hại, hỗ trợ
và TĐC cho người dân khi nhà nước thu hồi đất, bên cạnh đó thường xun rà
sốt, bổ sung, điều chỉnh chính sách cho phù hợp.
- Bổ sung nguồn vốn quỹ giải quyết việc làm từ ngân sách địa phương,
đồng thời thực hiện cho vay ưu đãi theo hướng cấp bù lãi suất để đảm bảo
nguồn cho vay chuyển đổi ngành nghề khác. Thực hiện chính sách miễn giảm
học phí đối với con các hộ nông dân diện thu hồi đất sản xuất đang học ở các
trường trung học phổ thông, trung học cơ sở, tiểu học bao gồm các trường
công lập, dân lập, bán công, tư thục trên địa bàn thành phố.


24
- Tăng đầu tư ngân sách và mở rộng hoạt động dạy nghề, tăng chỉ tiêu
dạy nghề dài hạn bằng ngân sách từ 1000 - 1500 học sinh/năm. Ngoài trường
kỹ thuật - kinh tế Đà Nẵng (được giao chỉ tiêu dạy nghề từ ngân sách) có thể
thí điểm giao cho một số trường dạy nghề trên địa bàn theo dạng hợp đồng
đào tạo, góp phần đào tạo nghề dài hạn trong đó ưu tiên đào tạo lao động

thuộc các hộ bị thu hồi đất sản xuất, di dời, giải toả, đồng thời tăng nhanh đội
ngũ công nhân lành nghề cho thành phố. Duy trì chỉ tiêu dạy nghề ngắn hạn
do ngân sách tài trợ mỗi năm 4000 - 5000 học sinh.
- Đẩy mạnh các chương trình khuyến nơng, khuyến ngư, tăng cường
chuyển giao kỹ thuật, mở các lớp huấn luyện kỹ thuật, bồi dưỡng bổ túc nghề;
hình thành 3 - 4 vùng chuyên canh trồng rau sạch với quy mô mỗi vùng 30 50 ha nhằm giải quyết việc làm cho nơng dân khơng cịn đất sản xuất nhưng
thực sự có điều kiện chuyển đổi nghề.
- Quy định với doanh nghiệp được giao đất tại các khu công nghiệp,
địa bàn giải toả có trách nhiệm tiếp nhận lao động trong diện thu hồi đất, di
dời, giải toả tại địa phương vào làm việc tại doanh nghiệp.
- Ngoài ra, cần phải tính đến ngay từ đầu về vấn đề mơi trường sinh
thái để bảo đảm tính bền vững lợi ích của cộng đồng - xã hội cũng như mọi
khu vực, địa phương khi phát triển khu công nghiệp và dịch vụ
* Kinh nghiệm của Hà Nội:
Hà Nội là thủ đô, trung tâm kinh tế, chính trị và văn hố của cả nước,
nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc Bộ thuộc châu thổ sông Hồng. Trong hơn
mười năm gần đây, kinh tế của Hà Nội đã có những bước phát triển tương đối
khá, được đánh giá là một trong những địa phương có mơi trường đầu tư hấp
dẫn nhất cả nước. Tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm không ngừng tăng, giai
đoạn 1990 - 1999 bình quân đạt 11,85%/năm (cả nước đạt 7,7%), giai đoạn
2000 - 2005 đạt 9,8%/năm (cả nước đạt 7,5%). Tỷ trọng GDP của Hà Nội so
với cả nước không ngừng tăng, năm 1990 là 5,5%, lên 6,1% vào năm 1995,


25
lên 7,1% năm 1999 và 8,4% năm 2004. Hà Nội cùng thành phố Hồ Chí Minh
trở thành một trong những địa phương có tỷ lệ GDP/người cao nhất cả nước.
Có được những thành tựu trên là do thành phố đã rất cố gắng triển khai
đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó có giải pháp giải quyết việc làm cho người
có đất bị thu để cho phát triển công nghiệp, dịch vụ, xây dựng kết cấu hạ tầng,

xây dựng các khu đô thị. Những biện pháp thành phố Hà Nội đã áp dụng là:
- Thành lập Ban chỉ đạo Chương trình việc làm, tiến hành nắm bắt
thực tế nguồn nhân lực, khả năng giải quyết việc làm của các dự án mới được
xây dựng, khả năng của các cơ sở sản xuất kinh doanh để chỉ đạo các sở,
ngành có liên quan như Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, Sở Kế hoạch
và Đầu tư tìm biện pháp hỗ trợ giải quyết việc làm trên địa bàn thành phố.
- Ban hành các chính sách khuyến khích phát triển sản xuất tạo cơ chế
tổ chức triển khai thực tế như chính sách khuyến khích, tạo điều kiện về mọi
mặt để phát triển các thành phần kinh tế, nhất là khuyến khích phát triển kinh
tế ngồi quốc doanh. Trong chính sách phát triển nông nghiệp, Thành phố
thực hiện đầu tư, hỗ trợ xây dựng kết cấu hạ tầng, giống, vốn, đưa tiến bộ
khoa học - kỹ thuật mới vào trồng trọt và chăn nuôi, chuyển dịch cơ cấu nông
nghiệp theo hướng hiện đại. Chính quyền thành phố đã triển khai chính sách
phát triển các loại hình dịch vụ, tạo điều kiện về việc làm cho người lao động
thuộc diện di dời, giải toả.
- Tổ chức và thực hiện Chương trình vay vốn Quỹ quốc gia hỗ trợ việc
làm gắn với chương trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Các hội, đồn thể của
thành phố như Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh, Mặt trận Tổ
quốc, Đoàn Thanh niên cũng có những hoạt động thiết thực nhằm giải quyết
việc làm cho con em và hội viên của mình.
- Thành phố áp dụng hai mức độ hỗ trợ là: hỗ trợ một phần kinh phí
đào tạo (đây là chủ yếu) và hỗ trợ hoàn toàn. Hỗ trợ chủ yếu bằng hình thức
cấp kinh phí để người lao động tự tìm nơi đào tạo. Các cơ sở sử dụng đất thu


×