1
Ở ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Các văn kiện của Đảng và Nhà nước ta đều khẳng định: Con người ln
ở vị trí trung tâm trong tồn bộ chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, lấy việc
phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và
bền vững. Lịch sử phát triển nhân loại đã kiểm nghiệm và đi đến kết luận:
Nguồn lực con người là lâu bền nhất, chủ yếu nhất trong sự phát triển kinh tếxã hội và sự nghiệp tiến bộ của nhân loại.
Trước đây, các nhân tố sản xuất truyền thống như số lượng đất đai, lao
động, vốn được coi là quan trọng nhất, song ngày nay đã có sự thay đổi thứ tự ưu
tiên. Chính nguồn nhân lực có chất lượng cao mới là yếu tố cơ bản nhất của mọi
q trình, vì vậy, để có được tốc độ phát triển cao, các quốc gia trên thế giới đều
rất quan tâm tới việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thơng qua các chương
trình về đầu tư và phát triển con người mang tính chất chiến lược.
Quảng Ninh là tỉnh địa đầu Đơng Bắc Tổ quốc, có biên giới đất liền và
biển, với các cửa khẩu nhộn nhịp nhất trên cả tuyến biên giới Việt-Trung,
trong bối cảnh quan hệ hợp tác Việt-Trung cũng như ASEAN-Trung Quốc
ngày càng được củng cố, đẩy mạnh. Với vị trí địa lý đặc biệt quan trọng, tiềm
lực kinh tế được xây dựng qua gần 25 năm đổi mới đã giúp Quảng Ninh có vị
thế ngày càng quan trọng trong hợp tác Hai hành lang-Một vành đai kinh tế
Việt Nam-Trung Quốc. Tuy nhiên, những thành tựu mà tỉnh Quảng Ninh đạt
được vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của Tỉnh: Tốc độ tăng
trưởng kinh tế mặc dù phát triển khá cao nhưng chất lượng, hiệu quả, sức
cạnh tranh và công nghệ của nhiều ngành kinh tế còn thấp. Kết cấu hạ tầng
kinh tế-xã hội còn nhiều bất cập, kinh tế biển, kinh tế cửa khẩu, du lịch chưa
phát triển so với yêu cầu... Điều đó, trong chừng mực nhất định đang cản trở
bước tiến của quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Nghị quyết Đại hội
Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lần thứ XIII (nhiệm kỳ 2010 - 2015) đã chỉ rõ:
2
Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ vào sản xuất, dịch vụ, phát triển
mạnh những ngành có lợi thế, gắn với thu hút đầu tư phát triển
những lĩnh vực có hàm lượng công nghệ cao. Nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, chú trọng thu hút nguồn nhân lực có trình độ cao,
công nhân kỹ thuật lành nghề [13, tr.13].
Để thực hiện chủ trương trên, một trong những vấn đề quan trọng là
phát triển và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, đặc biệt là nguồn nhân lực nhân tố quan trọng nhất cho sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung, cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng. Với những lý do đó, tác giả chọn vấn đề:
“Xây dựng nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Ninh”
làm đề tài luận văn thạc sĩ kinh tế, chuyên ngành kinh tế chính trị, với mong
muốn được góp phần phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, làm cơ
sở cho việc thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội tỉnh Quảng Ninh, góp phần tích
cực cùng cả nước thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
dân chủ, công bằng, văn minh.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nguồn nhân lực là một chủ đề không mới, một mặt, do nhân lực là
nhân tố quan trọng của mọi quá trình phát triển, mặt khác, nguồn nhân lực là
nhân tố quyết định chất lượng, hiệu quả của mọi hoạt động, vì thế nguồn nhân
lực trở thành đối tượng nghiên cứu của rất nhiều nhà khoa học, là vấn đề dành
được sự quan tâm đặc biệt của các nhà lãnh đạo, quản lý ở hầu khắp các bộ,
ban, ngành chức năng.
Do vậy, ở những phạm vi và mức độ khác nhau, đã có nhiều cơng trình
nghiên cứu trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập đến nguồn nhân lực, chất lượng
nguồn nhân lực, hay nâng cao chất lượng nguồn nhân lực như:
- Phạm Minh Hạc (1996), “Vấn đề phát triển con người trong sự nghiệp
cơng nghiệp hố, hiện đại hố”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Nguyễn Cơng Tồn (Tạp chí Triết học 5/1998), “Mấy suy nghĩ về phát
huy nguồn lực con người trong sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố”.
3
- Vương Quốc Được (1999), “Xây dựng nguồn nhân lực cho cơng
nghiệp hố, hiện đại hố ở thành phố Đà Nẵng”, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- TS. Đồn Văn Khải (2005), “Nguồn nhân lực con người trong q trình
cơng nghiệp hố, hiện đại hố ở Việt Nam”, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
- TS. Vũ Bá Thể, Học viện Tài chính (2005), “Phát huy nguồn nhân lực
con người để cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá”, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.
- PGS,TS. Nguyễn Quốc Tế (2003), “Vấn đề phân bổ, sử dụng nguồn
lao động theo vùng và hướng giải quyết việc làm ở Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay”, Nxb Thống kê, Hà Nội...
Ngồi ra, cịn có những cơng trình, bài viết trên các báo, tạp chí chun
ngành, nhưng nhìn chung các cơng trình nghiên cứu về chủ đề này đã được
công bố chủ yếu tập trung vào giải quyết vấn đề nguồn nhân lực hoặc chất
lượng nguồn nhân lực cho một ngành hoặc một lĩnh vực cụ thể nào đó hoặc
nghiên cứu nhân lực, chất lượng nguồn nhân lực phục vụ cơng cuộc cơng
nghiệp hố, hiện đại hố nói chung, hoặc tiếp cận vấn đề theo từng khía cạnh
riêng biệt và theo thời gian, không gian nhất định, cho đến nay chưa có cơng
trình nào đề cập đến nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế-xã hội tỉnh Quảng
Ninh một cách đầy đủ dưới góc độ kinh tế chính trị. Vì vậy, đề tài nghiên cứu
luận văn khơng bị trùng lắp với các cơng trình đã cơng bố và được thực hiện
trên cơ sở kế thừa, phát triển những thành quả của các đề tài trước.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu trong luận văn
3.1. Mục đích
Phân tích thực trạng xây dựng nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế-xã
hội của tỉnh Quảng Ninh trong những năm qua, chỉ ra những thành tựu đạt
được, những mặt còn hạn chế và nguyên nhân, trên cơ sở đó đề xuất phương
hướng, giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu
phát triển kinh tế-xã hội ở Quảng Ninh trong thời gian tới.
4
3.2. Nhiệm vụ
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về nguồn nhân lực; vai trò
của nguồn nhân lực trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội.
- Phân tích thực trạng nguồn nhân lực của tỉnh Quảng Ninh trong 5 năm
gần đây, chỉ rõ những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm xây dựng nguồn nhân lực
đảm bảo cho quá trình phát triển kinh tế-xã hội ở tỉnh Quảng Ninh giai đoạn
2010-2015 và định hướng đến năm 2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là nguồn nhân lực cho phát triển
kinh tế-xã hội ở Quảng Ninh. Tập trung vào phân tích thực trạng xây dựng và
sử dụng nguồn nhân lực ở tỉnh Quảng Ninh trong những năm gần đây (20052010) và đề xuất phương hướng, giải pháp xây dựng nguồn nhân lực cho giai
đoạn 2010-2015 và những năm tiếp theo để thúc đẩy quá trình phát triển kinh
tế-xã hội trên địa bàn tỉnh.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên nền tảng phương pháp luận duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử, phương pháp trừu tượng hoá khoa học của chủ nghĩa MácLênin, phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, đồng thời dựa vào quan
điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam và của Đảng bộ tỉnh Quảng
Ninh về nguồn nhân lực, sự kế thừa có chọn lọc kết quả nghiên cứu của các
cơng trình nghiên cứu trước ...
6. Những đóng góp của luận văn
Luận văn hệ thống hoá những lý luận cơ bản về nguồn nhân lực cho
phát triển kinh tế-xã hội. Làm rõ đặc điểm nguồn nhân lực cho quá trình phát
triển kinh tế-xã hội của tỉnh Quảng Ninh. Trên cơ sở đó đề xuất phương
hướng, giải pháp hình thành và phát triển nguồn nhân lực cho phát triển kinh
tế-xã hội tỉnh Quảng Ninh, làm tài liệu tham khảo cho các cấp uỷ đảng và các
5
cấp chính quyền địa phương trong q trình lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn công
tác đào tạo cán bộ, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực của tỉnh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NGUỒN NHÂN
LỰC CHO PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
1.1. KHÁI NIỆM, CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG VÀ VAI TRÒ CỦA
NGUỒN NHÂN LỰC TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI
1.1.1. Khái niệm về nguồn nhân lực
Nguồn lực con người mà các nhà kinh tế thường hiểu: Đó là nguồn nhân
lực, được xem là nguồn lực quan trọng nhất để phát triển đất nước. Xét về tổng
thể, sự phát triển của mỗi quốc gia phụ thuộc rất lớn vào việc khai thác các
nguồn lực mà mình có như nguồn lực về tài nguyên thiên nhiên (Đất đai, rừng,
biển, khoáng sản...), nguồn lực về cơ sở vật chất kỹ thuật (cơ sở hạ tầng, nhà
xưởng, máy móc, thiết bị...), nguồn lực xã hội (dân trí, nền văn hố, phong tục
tập quán, sự đồng thuận xã hội...), nguồn lực tài chính (vốn bằng tiền). Nhưng
trong tất cả các yếu tố nguồn lực đó thì con người là nguồn lực quan trọng, quyết
định nhất. Như C.Mác đã chỉ rõ: Con người là chủ thể của mọi sự sáng tạo, mọi
nguồn của cải vật chất tinh thần, chủ thể của sự phát triển lịch sử.
Hiện nay, có nhiều định nghĩa về nguồn nhân lực. Theo thuyết lao
động xã hội, nguồn nhân lực theo nghĩa rộng là nguồn cung cấp sức lao
động cho sản xuất và cho sự phát triển xã hội, do đó bao gồm tồn bộ dân
cư có cơ thể phát triển bình thường (trừ những người bị dị tật). Theo
nghĩa hẹp, nguồn nhân lực là khả năng lao động thực tế của xã hội, bao
gồm các nhóm dân cư trong độ tuổi lao động đang tham gia vào quá
trình sản xuất xã hội.
Theo lý luận về tăng trưởng kinh tế, nguồn nhân lực là yếu tố chủ yếu
của tăng trưởng kinh tế. Mức độ đáp ứng về nguồn nhân lực đóng vai trị
quyết định đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế trong từng điều kiện cụ thể.
7
Theo thuyết về vốn con người, đầu tư hợp lý vào phát triển NNL sẽ mang
lại nguồn lợi lớn hơn so với các nguồn lực khác như vốn, công nghệ, tài
nguyên thiên nhiên, đất đai.
Ngân hàng thế giới (WB) cho rằng: NNL là toàn bộ vốn con người bao
gồm thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp,… mà mỗi cá nhân sở hữu. Như
vậy, ở đây nguồn lực con người được coi như một nguồn vốn bên cạnh các
loại vốn vật chất khác: vốn tiền, công nghệ, tài nguyên thiên nhiên… Do đó
đầu tư cho con người là đầu tư quan trọng nhất trong các loại đầu tư và được
coi là cơ sở vững chắc cho sự phát triển bền vững. Theo cách tính tốn của
WB thì đầu tư cho giáo dục tiểu học tỷ lệ thu hồi vốn là 24% so với vốn đầu
tư, cho trung học là 17%, và cao đẳng đại học là 14%, trong khi đó đầu tư vào
các ngành sản xuất vật chất tỷ lệ thu hồi chỉ đạt 13% tổng vốn đầu tư.
Liên hiệp quốc cũng có cách tiếp cận tương tự và cho rằng: Nguồn
nhân lực là tất cả những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, năng lực và tính
sáng tạo của con người có quan hệ tới sự phát triển của mỗi cá nhân và của
đất nước. Liên hiệp quốc đã kêu gọi các quốc gia quan tâm hơn nữa tới nguồn
nhân lực, vì:…đầu tư vào vốn con người trước hết có tỷ lệ thu hồi vốn cao
hơn so với đầu tư cho các nguồn lực khác…tiết kiệm được việc sử dụng và
khai thác các nguồn lực khác, lợi ích thu được từ đầu tư này có tính lan toả
đồng đều hơn so với đầu tư vào các nguồn lực khác. Do vậy, việc tập trung
phát triển con người sẽ đem lại tốc độ phát triển cao hơn, ổn định hơn và cơng
bằng hơn trong phân phối lợi ích của sự phát triển.
Ở Việt Nam, theo các tác giả của cuốn "Nguồn lực và động lực phát
triển trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam"
do GS.TSKH Lê Du Phong chủ biên thì "Nguồn lực con người được hiểu là
tổng hoà trong thể thống nhất hữu cơ giữa năng lực xã hội của con người (thể lực,
trí lực, nhân cách) và tính năng động của con người. Tính thống nhất đó được thể
hiện ở q trình biến nguồn lực con người thành vốn con người [27, tr.14].
8
Những quan niệm trên đây chủ yếu mới xem xét nguồn nhân lực về
phương diện chất lượng con người và vai trị, sức mạnh của nó đối với sự phát
triển xã hội.
Bộ môn kinh tế phát triển của trường Đại học Kinh tế Quốc dân phân
biệt nguồn nhân lực và nguồn lao động: Nguồn nhân lực là một bộ phận của
dân số trong độ tuổi quy định có khả năng tham gia lao động. Nguồn lao động
là tổng số những người trong độ tuổi lao động quy định đang tham gia lao
động hoặc đang tích cực tìm việc làm. Theo khái niệm này, có một số người
được tính là nguồn nhân lực, nhưng lại không phải là nguồn lao động, đó là:
Những người khơng có việc làm nhưng khơng tích cực tìm việc làm, tức là
những người khơng có nhu cầu tìm việc làm, những người trong độ tuổi lao
động quy định nhưng đang đi học [42, tr.73]. Theo quan niệm này thì những
người chưa đến độ tuổi lao động và quá độ tuổi lao động không bao gồm
trong khái niệm nguồn nhân lực.
Các nhà khoa học tham gia chương trình khoa học - cơng nghệ cấp Nhà
nước, mã số KX - 07: "Con người Việt Nam - mục tiêu và động lực của sự
phát triển kinh tế - xã hội” do giáo sư, tiến sỹ khoa học Phạm Minh Hạc làm
chủ nhiệm cho rằng, nguồn lực con người được hiểu là số dân và chất lượng
con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khoẻ và trí tuệ, năng lực và
phẩm chất. Quan niệm này khác với quan niệm của Bộ môn Kinh tế phát triển
trên đây ở chỗ, nguồn nhân lực "là số dân" của đất nước, bao gồm cả những
người chưa đến tuổi lao động, những người trong độ tuổi lao động và những
người trên độ tuổi lao động.
Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) coi lực lượng lao động là bộ phận dân
số trong độ tuổi lao động theo quy định của mỗi nước, đang có việc làm và
đang thất nghiệp.
9
Từ những quan niệm trên, tùy theo yêu cầu của việc nghiên cứu và
hoạch định chính sách xây dựng và khai thác sử dụng các nguồn nhân lực, có
thể hiểu nguồn nhân lực theo các cách tiếp cận sau đây:
- Theo khả năng lao động hiện tại và cả trong tương lai của một nước
thì nguồn nhân lực là bộ phận dân số có cơ thể phát triển bình thường đã, đang
và sẽ tham gia lao động tạo ra của cải vật chất tinh thần. Theo khái niệm này
nguồn nhân lực được hiểu rộng ra là gồm cả những người trong độ tuổi lao
động có khả năng lao động, những người chưa đến độ tuổi lao động với cơ thể
phát triển bình thường sẽ được bổ sung vào nguồn lao động và cả những
người ngoài độ tuổi lao động vẫn cịn khả năng lao động có nhu cầu và có
tham gia lao động.
- Theo khả năng lao động và theo giới hạn độ tuổi lao động (của mỗi
quốc gia) thì nguồn nhân lực là toàn bộ những người trong độ tuổi lao động có
khả năng lao động đang làm việc và có nhu cầu làm việc nhưng chưa tìm được
việc làm.
- Nguồn lao động là toàn bộ những người trong độ tuổi lao động có khả
năng lao động đang làm việc và đang thất nghiệp, những người làm công việc
nội trợ, những người đang đi học và những người không có nhu cầu làm
việc ... Cần phân biệt khái niệm "Nguồn lao động" và khái niệm "Những
người trong độ tuổi lao động": Cả hai thuật ngữ trên đều có giới hạn độ tuổi
quy định của mỗi quốc gia, nhưng nguồn lao động chỉ bao gồm những người
có khả năng lao động, còn những người trong độ tuổi lao động còn bao gồm
cả những người khơng có khả năng lao động như người tàn tật, mất sức lao
động do chiến tranh, tai nạn ... Ở nước ta, theo quy định của Bộ luật Lao động
(1994), độ tuổi lao động của nam giới từ 15 tuổi đến 60 tuổi, của nữ giới từ 15
tuổi đến 55 tuổi.
- Lực lượng lao động là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động theo quy
định của pháp luật có khả năng lao động có việc làm và những người đang
10
thất nghiệp. Đây là bộ phận dân số biểu hiện khả năng thực tế sáng tạo ra của
cải vật chất và tinh thần cho xã hội (dân số hoạt động kinh tế).
Nguồn nhân lực được biểu hiện trên hai mặt: Về số lượng, đó là số
người đang và sẽ tham gia vào quá trình sáng tạo ra của cải vật chất và tinh
thần cho xã hội. Về chất lượng, đó là thể chất và tinh thần, sức khoẻ và trí tuệ,
năng lực, phẩm chất và trình độ chun mơn, kiến thức và trình độ lành nghề
của người lao động.
Xây dựng nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội phải được hiểu
là quá trình hình thành cả số lượng và chất lượng, bồi dưỡng cả về thể lực và
trí lực cho con người.
1.1.2. Vai trị của nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế-xã hội
Con người có vai trị quyết định đối với mọi q trình phát triển kinh tế
- xã hội. Trong lĩnh vực kinh tế và sản xuất, V.I Lê nin đã khẳng định: Lực
lượng sản xuất hàng đầu của nhân loại là công nhân, là người lao động.
Con người vừa là chủ thể của lịch sử, chủ thể của những biến đổi về
kinh tế, xã hội vừa là khách thể của nhiều bộ môn khoa học khác nhau. Xét từ
góc độ hiệu quả hoạt động thì con người có liên quan tới các khía cạnh cụ thể
như: cá nhân, nhân lực, nguồn nhân lực, hiệu suất lao động xã hội. Với những
đặc điểm của con người nói chung và nguồn nhân lực nói riêng như vậy, có
thể khái qt vai trị của nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế - xã hội đối
với một quốc gia ở những khía cạnh sau:
- Nguồn nhân lực là tiền đề quyết định cho sự thành công của quá trình
phát triển kinh tế-xã hội
Quá trình phát triển KT-XH sẽ thúc đẩy sự phát triển, sự thay đổi về
nhiều mặt đối với NNL. Chẳng hạn, nó làm thay đổi cơ cấu NNL, làm chuyển
biến từ một cơ cấu lạc hậu sang một cơ cấu tiến bộ hơn; làm thay đổi cơ cấu
các ngành kinh tế kỹ thuật, cơ cấu trong nội bộ mỗi ngành, cơ cấu NNL ở
11
từng vùng, từng địa phương cho đến cơ cấu NNL trong nội bộ từng doanh
nghiệp. Kinh tế-xã hội phát triển là một yếu tố tác động rất mạnh đến NNL và
phát triển NNL.
Ngược lại NNL có chất lượng sẽ tạo ra những tiền đề và điều kiện quyết
định cho sự phát triển KT - XH nhất là đối với Việt Nam hiện nay, bước vào
giai đoạn CNH, HĐH rút ngắn, tiếp cận kinh tế tri thức trong điều kiện trình
độ phát triển KT - XH cịn thấp, do đó u cầu nâng cao chất lượng NNL,
nhất là trí lực có ý nghĩa quyết định tới sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và
phát triển bền vững. Bởi lẽ, Việt Nam đang trong quá trình hội nhập sâu vào
nền kinh tế thế giới, riêng về kinh tế thì mục tiêu hàng đầu là ngày càng mở
rộng được thị trường, bán được nhiều hàng hố dịch vụ. Muốn thế, phải có
sức mạnh trong cạnh tranh, tức là chất lượng và giá cả. Chất lượng và giá cả
hàng hoá lại phụ thuộc vào hai yếu tố chủ chốt: đó là trình độ cơng nghệ của
sản xuất và trình độ chun mơn, kỹ thuật của nguồn nhân lực. Mặt khác, quá
trình hội nhập kinh tế thế giới là quá trình giao lưu, trao đổi giữa Việt Nam và
các nước trên thế giới về hàng hoá dịch vụ, tiền tệ, công nghệ mới, NNL…
theo hai chiều ra và vào. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài và công nghệ mới vào
Việt Nam kéo theo việc làm, các ngành nghề mới, kinh nghiệm và kỹ năng
quản lý…, diễn biến đó có tác động tích cực vào NNL và phát triển NNL chất
lượng cao của Việt Nam.
Do vậy, phát triển NNL ở Việt Nam đặc biệt quan trọng cho sự thành
cơng của q trình phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện CNH, HĐH và hội
nhập kinh tế quốc tế. Cho nên, cần tạo ra và cải thiện tất cả các điều kiện cần
thiết để phát triển NNL nhanh, có chất lượng, đáp ứng nhu cầu cấp bách của
công cuộc đổi mới, của CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Nguồn nhân lực có chất lượng cao là điều kiện đảm bảo thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, rút ngắn khoảng cách phát triển giữa miền núi và miền xuôi
12
Tăng trưởng kinh tế là sự lớn lên của nền kinh tế được đo bằng sự gia
tăng của các chỉ số như GDP và GNP, chỉ có thể thực hiện được khi các hoạt
động sản xuất kinh doanh được duy trì và phát triển khơng ngừng, do vậy phụ
thuộc vào nhiều yếu tố như vốn, khoa học - công nghệ, NNL, cơ cấu kinh tế,
thể chế kinh tế…. và sự kết hợp giữa chúng với nhau. Trong số các nhân tố
quyết định tăng trưởng kinh tế thì NNL có vai trị quan trọng đặc biệt vì trong
mọi hoạt động của con người, đặc biệt là hoạt động lao động sản xuất nhân tố
con người luôn là yếu tố quyết định, có tính sáng tạo và là nguồn lực khơng
cạn kiệt.
Vai trò quyết định của NNL trong tăng trưởng kinh tế thể hiện ở chỗ,
NNL là nguồn cung cấp lao động sống cho nền kinh tế, do đó là yếu tố quyết
định hiệu quả sử dụng của các yếu tố khác. Tác động của NNL tới tăng trưởng
kinh tế thể hiện trên cả hai phương diện: Tái sản xuất mở rộng theo chiều
rộng và tái sản xuất theo chiều sâu. Để thực hiện tái sản xuất mở rộng theo
chiều rộng, bên cạnh sự gia tăng về tư tiệu sản xuất thì ln cần tới sự gia
tăng của NNL, trong đó NNL với tư cách là lao động sống có vai trị cải tử
hồn sinh đối với lao động quá khứ biểu hiện trong các tư liệu sản xuất, biểu
hiện cụ thể vai trị đó là khơng thể mở rộng sản xuất theo chiều rộng nếu thiếu
NNL phù hợp.
Trong tái sản xuất mở rộng theo chiều sâu, khoa học - công nghệ có vai
trị động lực vì chỉ trên cơ sở ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ
hiện đại thì mới có thể tạo ra năng suất lao động xã hội cao từ đó thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Tuy nhiên, bản thân các thành tựu
khoa học - công nghệ cũng không thể tự động tạo ra năng suất lao động cao
và từ đó tạo ra tăng trưởng kinh tế. Chủ thể của quá trình này vẫn là con
người lao động với thể lực, trình độ chuyên môn tay nghề cũng như ý thức
tổ chức kỷ luật, tác phong làm việc phù hợp. Việc phát huy vai trị động lực
của khoa học - cơng nghệ phụ thuộc chủ yếu vào số lượng và chất lượng
13
của NNL hiện có, do đó thực tiễn phát triển kinh tế thế giới cho thấy, các
quốc gia phát triển đều quan tâm tới phát triển NNL, đặc biệt thông qua các
chính sách tổng thể về phát triển con người, trong đó giáo dục đào tạo
thường được coi là quốc sách.
Trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế, Việt
Nam đang đứng trước thách thức rất lớn về NNL chất lượng cao. Tỷ lệ nguồn
nhân lực chất lượng cao còn thấp so với nhu cầu của thực tế. Đến năm 2005, lao
động qua đào tạo có tăng, song đến nay mới chỉ đạt 24,8% chỉ tăng 2,2% so với
năm trước (chưa đạt mục tiêu do đại hội IX của Đảng đề ra là 30%).
Trong khi dư thừa rất lớn lao động phổ thơng, thì lại thiếu hụt nghiêm
trọng lao động có trình độ cao, nhất là lao động cung cấp cho các khu công
nghiệp, khu chế xuất và cho xuất khẩu lao động. Đây là tình trạng đáng báo
động, khơng phù hợp với quy luật tăng trưởng là tỷ lệ tăng trưởng lao động có
trình độ chuyên môn kỹ thuật bao giờ cũng phải cao hơn tốc độ tăng GDP để
đảm bảo tăng GDP một cách vững chắc.
Với mục tiêu phát triển đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một
nước cơng nghiệp, có cơ cấu công, nông và dịch vụ trong GDP chiếm khoảng
85-90%, nơng nghiệp chỉ cịn 10-15% thì nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao theo dự báo như sau:
Bảng 1.1: Dự báo nhu cầu đào tạo
Năm
2000
2005
2010
2020
Tỷ lệ lao động được đào
tạo(%)
20
30
40
60
Tỷ lệ lao động được đào
tạo nghề(%)
13,4
18-19
26,6
44
Nguồn: Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp
CNH,HĐH đất nước, Nguyễn Đình Luận, Tạp chí Nơng nghiệp và phát triển
nông thôn, tháng 7/2005.
14
Như vậy, vấn đề cơ bản, có tính chất chiến lược trong phát triển NNL
chất lượng cao là phải tăng nhanh về số lượng để nâng cao tỷ lệ lao động được
đào tạo, đặc biệt chú trọng đào tạo nghề, đảm bảo cơ cấu đào tạo hợp lý giữa
đại học, cao đẳng trở lên so với trung học chuyên nghiệp và đào tạo nghề,
đồng thời nâng cao chất lượng NNL với tiêu chuẩn về trình độ chun mơn,
kỹ năng nghề nghiệp, phẩm chất và năng lực phù hợp với yêu cầu kinh tế tri
thức ở Việt Nam, có như thế mới rút ngắn được khoảng cách tụt hậu so với các
nước trong khu vực và thế giới, góp phần tăng trưởng nhanh và bền vững.
- Nguồn nhân lực có chất lượng cao cho phép thực hiện những bước
nhẩy vọt, từng bước phát triển kinh tế tri thức
Trước đây khi KH-CN chưa phát triển, kinh tế tự nhiên cịn phổ biến,
thì sự phát triển của các nền kinh tế quốc gia trên thế giới chủ yếu dựa vào
nguồn tài nguyên thiên nhiên và lao động thủ cơng, do đó nước nào giàu tài
ngun hoặc có nhiều lao động, thì nước đó có lợi thế trong phát triển kinh tếxã hội và ngược lại. Bước sang thời đại bùng nổ của cách mạng KH-CN, tình
hình đã thay đổi: nước giàu tài nguyên thiên nhiên và nguồn lao động dồi dào
chưa hẳn đã có lợi thế trong phát triển hơn các nước nghèo tài nguyên hoặc
khan hiếm lao động giản đơn. Trên thực tế, chẳng hạn, Singapore, với dân số
4.553.009 người (tính đến tháng 7 năm 2007) [2], tài ngun khơng có gì đặc
biệt, đã nổi lên như một nền kinh tế có mức độ cạnh tranh cao nhất thế giới.
Để có được kết quả như vậy, một trong hướng đi của họ là đào tạo một nguồn
nhân lực tốt. Ngay từ cuối năm 1998, Uỷ ban cạnh tranh của Singapore (CSC)
đã công bố chiến lược phát triển nguồn nhân lực trong một thập kỷ với mục
tiêu là “trí thức hố” lực lượng lao động. Các quốc gia như Nhật Bản, Hồng
Kông, Singapore, Hàn Quốc là những nước nghèo về tài nguyên, nhưng họ lại
là những nước đạt tốc độ phát triển kinh tế cao liên tục trong nhiều thập kỷ,
nên chỉ trong một thời gian ngắn đã biến đất nước họ trở thành các quốc gia
có nền kinh tế phát triển. Yếu tố đóng vai trị quyết định cho sự thành cơng
15
trong phát triển kinh tế của các quốc gia đó chính là nguồn nhân lực có chất
lượng cao. Ở các nước phát triển cao người ta đã tính tốn được rằng trong
giá trị của những sản phẩm cao cấp thì hàm lượng chất xám chiếm 70%, năng
lượng 10%, nguyên liệu 10%, thao tác vật chất chỉ chiếm 5,6%. Trong thời
đại ngày nay, những quan niệm về vai trị, vị trí của nguồn nhân lực trong
phát triển liên tục thay đổi. Nếu như trước đây, người ta nhìn nhận vai trị của
nguồn nhân lực chỉ đơn thuần là phương tiện, là một nguồn lực cho phát triển
giống như mọi nguồn lực vật chất khác, thì ngày nay, sự nhận thức trên đã
hoàn toàn khác. Khi nền kinh tế thế giới đang dần chuyển sang nền kinh tế tri
thức và quá trình tồn cầu hố đang diễn ra hết sức nhanh chóng thì vai trị
quyết định của nguồn nhân lực đối với phát triển kinh tế lại càng rõ nét hơn.
Trong nền kinh tế tồn cầu cạnh tranh quyết liệt thì ưu thế cạnh tranh ln
nghiêng về các quốc gia có nguồn nhân lực chất lượng cao. Vì vậy, hiện nay
trong chiến lược phát triển của mình, nhiều quốc gia đã xác định phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố cạnh tranh cơ bản nhất.
Như vậy, nhân tố đóng vai trò quyết định cho sự phát triển bền vững
của các quốc gia chính là nguồn nhân lực chất lượng cao, chứ không chỉ là
nguồn của cải vật chất. Do vậy, hình thành và phát triển NNL có chất lượng
cao là yếu tố quan trọng nhất không chỉ trong sự phát triển KT - XH của mỗi
quốc gia, mà còn tạo cơ hội tiếp cận kinh tế tri thức.
Tóm lại: Động lực, mục tiêu của sự phát triển và tác động của sự phát
triển tới bản thân con người cũng nằm trong chính bản thân con người. Điều
đó lý giải tại sao con người, mà trước hết là NNL chất lượng cao, được coi là
nhân tố năng động nhất, quyết định nhất của sự phát triển kinh tế-xã hội. Vì
vậy, để phát triển, mỗi ngành, lĩnh vực nói riêng, quốc gia, dân tộc nói chung
cần coi trọng chiến lược xây dựng, phát triển nguồn nhân lực. Đặc biệt là phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
16
1.1.3. Nhân tố ảnh hưởng đến nguồn nhân lực trong quá trình phát
triển kinh tế-xã hội
1.1.3.1. Trình độ phát triển của nền kinh tế
Đây là cơ sở nền tảng để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trình độ
phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia đóng vai trị quyết định đến trình
độ phát triển nguồn nhân lực của nước đó, vì tăng trưởng và phát triển kinh tế
sẽ đưa đến kết quả là nâng cao mức sống, cải thiện tình hình sức khỏe của dân
cư, sẽ tăng vốn đầu tư cho phát triển giáo dục - đào tạo, do đó góp phần nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực. Hơn nữa, trình độ phát triển kinh tế sẽ quyết
định mức độ hiện đại hóa nền kinh tế, mức độ áp dụng những thành tựu khoa
học, công nghệ hiện đại vào sản xuất và đời sống, do đó, thúc đẩy phát triển
kinh tế và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Và khi chất lượng nguồn
nhân lực được nâng cao sẽ là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Ở các quốc gia có trình độ kinh tế phát triển cao, thì ở đó NNL có chất
lượng cao, kể cả trình độ học vấn, trình độ CMKT, sức khoẻ và tuổi thọ, có
thể thấy điều đó qua các số liệu tại bảng 1.2.
Bảng 1.2: Quan hệ giữa GDP với HDI
Tên nước
Tuổi thọ
(năm)
Tỷ lệ
Tỷ lệ đi
GDP đầu
người lớn học từ
người (PPP
biết chữ 6-23 tuổi
USD)
(%)
(%)
91,8
91,8
24.210
Xếp
hạng
HDI
Xếp hạng
HPI
24
-
Singapo
77,3
Malaixia
72,2
86,4
65
8.137
61
18
Thái Lan
68,9
95
61
5.456
76
29
Trung Quốc
70,1
82,8
72
3.105
99
30
Việt Nam
67,8
92,9
63
1.689
108
47
Campuchia
53,5
65
61
1.257
136
-
Lào
53,7
46,1
57
1.734
140
-
Nguồn: Báo cáo phát triển nguồn nhân lực, UNDP năm 2000.
Từ số liệu trên cho thấy, trình độ phát triển KT - XH góp phần quan
trọng vào việc nâng cao mức sống, có điều kiện chăm sóc sức khoẻ, nâng cao
17
thể lực, trí lực, nâng cao tuổi thọ của người lao động. Trình độ KT - XH càng
phát triển, càng có điều kiện nâng cao chất lượng NNL và NNL có chất lượng
càng cao.
Đối với Việt Nam, do trình độ KT - XH còn ở mức thấp nên chất lượng
nguồn nhân lực chưa cao, do đó việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế được xác
định là khâu đột phá nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược phát
triển KT - XH thời kỳ 2001-2010 và phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản
trở thành một nước cơng nghiệp.
1.1.2.2. Trình độ phát triển giáo dục và đào tạo có ảnh hưởng quyết
định đến chất lượng nguồn nhân lực
Giáo dục và đào tạo đóng vai trò trực tiếp quyết định đến chất lượng
nguồn nhân lực. Chúng ta đều biết: Trí tuệ và năng lực sáng tạo là nhân tố chủ
yếu của chất lượng nguồn nhân lực. Giáo dục và đào tạo giúp cho người lao
động nâng cao trình độ văn hóa, sự hiểu biết nói chung, trình độ nghề nghiệp,
tay nghề, năng lực tư duy sáng tạo, phát huy tài năng của họ để tăng năng
suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất, kinh doanh... Do đó, giáo dục và đào
tạo đóng vai trị quyết định nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Trên thực tế, quốc gia nào quan tâm đến giáo dục và đào tạo thì quốc gia
đó có nguồn nhân lực chất lượng cao, tạo điều kiện cho phát triển kinh tế xã hội
của đất nước. Ấn Độ không chọn tài nguyên hay lao động giản đơn mà sử dụng
tri thức chất xám “chất xúc tác”, chọn dịch vụ làm thế mạnh để phát triển kinh
tế. Ấn Độ đã áp dụng một chính sách giáo dục thích hợp với nhu cầu thời đại.
Hàng năm, Ấn Độ đào tạo được khoảng 3 triệu cử nhân, trong số đó nhiều người
có trình độ chun môn cao về kỹ thuật, kinh doanh, y học. Số trường kỹ thuật
tính đến 2004 đã lên đến khoảng 1600 trường. Hiện nay, một số công ty tin học
của Ấn Độ dẫn đầu thế giới về phần mềm cũng như về dịch vụ khai thác.
18
Nếu tính tỷ lệ trong GDP thì nước đầu tư vào giáo dục cao nhất là Cuba
(8,7% GDP), còn nước đầu tư thấp nhất vào giáo dục là XriLanca (1,3%
GDP). Các nước có nền kinh tế phát triển, đầu tư nhiều vào giáo dục là
Canada, một trong các nước G7 đã đầu tư vào giáo dục 5,5% GDP. Nước ta
đầu tư khoảng 4,6% GDP. Nếu so sánh với một số quốc gia trong khu vực về
mức đầu tư cho giáo dục đào tạo trong GDP, Việt Nam đã vượt qua một số
quốc gia như Inđônêxia, Ấn Độ, Pakixtan, tuy nhiên tỷ lệ này vẫn còn thấp
hơn Thái Lan, Malaixia.
Trong giai đoạn hiện nay, khi tri thức trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp, thì chất lượng NNL trở thành nguồn tài nguyên quan trọng hơn mọi tài
nguyên khác, muốn phát triển và sử dụng nó một cách hiệu quả khơng có con
đường nào khác là học tập. Theo Lênin: Việc điện khí hố khơng thể do những
người mù chữ thực hiện, mà chỉ biết chữ không thôi cũng không đủ…Họ phải
hiểu rằng điều đó chỉ có thể thực hiện trên cơ sở một nền học vấn hiện đại, và
nếu họ khơng có nền học vấn đó, thì chủ nghĩa cộng sản vẫn chỉ là một
nguyện vọng mà thôi.
Đối với nước ta, để thực hiện mục tiêu trở thành nước công nghiệp vào
năm 2020, thực hiện quá trình CNH, HĐH rút ngắn tiếp cận kinh tế tri thức
đưa đất nước đuổi kịp các nước trong khu vực và thế giới, đòi hỏi phải cải
cách giáo dục, đào tạo một cách mạnh mẽ đang là một yêu cầu cấp bách như
văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII của Đảng
đã khẳng định: "Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực
quan trọng thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH, là điều kiện để phát huy nguồn
lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh
và bền vững” [14, tr.108-109]. Nói cách khác, giáo dục và đào tạo là phương
tiện để khai trí, thiếu nó thì trí tuệ của một dân tộc sẽ kém cỏi và do vậy
khơng có sức mạnh. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Một dân tộc
dốt là một dân tộc yếu”.
19
Chiến lược phát triển giáo dục quốc gia 2001-2010 đã khẳng định: "Ưu
tiên nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực, đặc biệt chú trọng nhân lực khoa
học - công nghệ trình độ cao, cán bộ quản lý, kinh doanh giỏi và cơng nhân kỹ
thuật lành nghề trực tiếp góp phần nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh
tế...”[35, tr.10].
1.1.2.3. Tốc độ tăng dân số ảnh hưởng đến nguồn nhân lực
Tốc độ và quy mô dân số ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng, chất lượng
của nguồn nhân lực. Một trong những nguyên nhân cản trở tốc độ tăng trưởng
và phát triển kinh tế là quy mô dân số đông, tốc độ dân số gia tăng lớn. Dân số
gia tăng làm tăng nhân khẩu ăn theo trên một lao động, làm chậm tốc độ tăng
GDP/người, gây sức ép về nhu cầu việc làm và các vấn đề xã hội khác. Theo
số liệu của Tổ chức dân số Liên Hiệp quốc thì khi dân số tăng 1%, muốn đảm
bảo cơng ăn việc làm, thu nhập như trước phải gia tăng 3% GDP.
Ở nước ta thời kỳ 1996-2000 mức tăng dân số bình quân 1,5%/năm mà
mức tăng GDP bình quân là 6,9%/năm (trội hơn mức cần có là 3,35%/năm).
Thời kỳ 2001-2005 mức tăng dân số là 1,2%/năm mà mức tăng GDP là
7,5%/năm (trội hơn 3,9%/năm).
Việc làm đang là vấn đề bức xúc cần được giải quyết hiện nay. Để nâng
cao chất lượng NNL đồng thời để giảm bớt bất hợp lý trong quan hệ CungCầu NNL, chính sách dân số hợp lý là cơ sở ảnh hưởng trực tiếp đến NNL.
Theo số liệu của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, trong giai đoạn 2001
- 2005 nước ta đã tạo việc làm cho khoảng 7,54 triệu người, tăng 23,6% so với
giai đoạn 1996 - 2000, bình quân hàng năm là 1,5 triệu người được tạo việc
làm, tỷ lệ thất nghiệp giảm. Tuy nhiên, NNL nước ta cịn bị lãng phí, bởi tính
đến 1/7/2004 có tới 5,6% lao động thành thị và 20,66% lao động nơng thơn
thất nghiệp hồn tồn, tương đương với 9 triệu lao động thất nghiệp hoàn toàn
[6, tr.20], trong số này có khơng ít lao động trẻ, có sức khoẻ và khơng ít lao
động đã qua đào tạo. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo chưa có việc làm hoặc làm
20
khơng đúng nghề cịn lớn, lãng phí rất nhiều chi phí đào tạo; cơ cấu lao động
cịn mất cân đối nghiêm trọng. Như vậy nguồn lao động lớn chưa được sử
dụng, hoặc sử dụng chưa có hiệu quả đang trở thành vấn đề xã hội lớn. Cũng
theo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, đến năm 2010 dân số nước ta sẽ
đạt tới 88 triệu người trong đó dân số trong độ tuổi lao động đạt 59,3 triệu
người (chiếm 67,4%) với mức tăng bình quân 1,5 triệu người/năm, thành thị
tăng 460 nghìn người/năm và nơng thơn tăng hơn 1 triệu người/năm [7, tr.9].
Mức độ gia tăng tương đối cao của lực lượng lao động trong bối cảnh tỷ lệ
thất nghiệp ở thành thị và tỷ lệ thời gian nhàn rỗi ở nông thôn tương đối cao như
hiện nay đang đặt ra những vấn đề lớn cần giải quyết, trong khi đó chất lượng lao
động thấp thể hiện ở chỗ tỷ lệ lao động có trình độ chun mơn kỹ thuật trong
tổng lực lượng lao động thấp và cơ cấu lực lượng lao động bất hợp lý.
Trong khi đó, thị trường sức lao động chưa phát triển, chất lượng giáo
dục, đào tạo và dạy nghề còn thấp dẫn đến một loạt vấn đề mâu thuẫn liên
quan đến giải quyết việc làm, đến việc phát triển chất lượng của lực lượng lao
động, hay nói đúng hơn là phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam chưa đáp
ứng được nhu cầu CNH, HĐH đất nước.
Do đó, tốc độ và quy mơ dân số có ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng,
chất lượng của nguồn nhân lực.
1.1.2.4. Truyền thống dân tộc và sự phát triển của nền văn hoá
Văn hoá sinh ra cùng với con người, có mặt trong bất cứ hoạt động nào
của con người, dù đó là hoạt động sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần, hay
trong quan hệ giao tiếp, ứng xử xã hội và cả trong thái độ đối với tự nhiên.
Nói văn hố là nói tới con người, là việc phát huy các năng lực bản chất người
và hoàn thiện con người, hoàn thiện xã hội.
Mỗi dân tộc, quốc gia có nền văn hố riêng, mang bản sắc riêng và có
giá trị độc đáo riêng. CNH, HĐH là quá trình biến đổi cách mạng về mọi mặt của
đời sống con người và cộng đồng. CNH, HĐH thực hiện được phải trong một
21
mơi trường văn hố phù hợp. Ở nước ta truyền thống dân tộc và văn hoá Việt
Nam là “Tài sản kế thừa của các thế hệ người Việt Nam hôm nay và mai sau”.
Văn hoá và truyền thống dân tộc là nhân tố quan trọng để hình thành và
phát triển NNL đất nước. Coi trọng và gìn giữ bản sắc dân tộc gắn với sự phát
triển văn minh của nhân loại đó chính là mơi trường văn hố lành mạnh cho
CNH, HĐH ở nước ta. Mơi trường văn hố là tổng thể những giá trị văn hoá
vật thể và phi vật thể mà xã hội đã tạo nên. Những giá trị đó tác động trực tiếp
đến con người ngay từ khi con người mới sinh ra. Vì vậy, việc tạo lập mơi
trường văn hố phù hợp với u cầu CNH là nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả,
thời gian và định hướng đúng đắn sự hình thành và phát triển NNL ở nước ta.
Truyền thống lịch sử và nền văn hoá của một quốc gia cũng bồi đắp và kết
tinh trong mỗi con người và cả cộng động dân tộc, hun đúc nên bản lĩnh, ý
chí, tác phong của con người trong lao động.
1.1.2.5. Trình độ phát triển y tế và các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ
Trình độ phát triển y tế và các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ có ảnh hưởng
trực tiếp tới nguồn nhân lực trong quá trình phát triển kinh tế -xã hội, bởi lẽ:
sức khoẻ tốt thì chất lượng NNL ở cả hiện tại và tương lai đều có thể phát
triển tăng lên, người lao động có sức khoẻ tốt có thể mang lại những lợi nhuận
trực tiếp bằng việc nâng cao sức bền bỉ, dẻo dai và khả năng tập trung khi làm
việc. Việc ni dưỡng và chăm sóc sức khoẻ tốt cho trẻ em sẽ là yếu tố làm tăng
năng suất lao động trong tương lai, giúp trẻ em nhanh chóng trở thành những
người khoẻ về thể chất, lành mạnh về tinh thần; giúp trẻ em nhanh chóng đạt
được những kỹ năng, kỹ xảo cần thiết thông qua giáo dục ở nhà trường và xã hội.
Nếu như có đầu tư về y tế tốt thì sẽ đảm bảo sức khoẻ cho nguồn nhân lực. So
với nền kinh tế có cùng mức phát triển thì tuổi thọ người Việt Nam cao hơn 11
năm. Đầu tư hàng năm cho chăm sóc sức khoẻ người dân của ta chỉ khoảng 6
USD/người/năm, mới bằng 1/10 của Thái Lan nhưng nhiều chỉ số về sức khoẻ
của ta vẫn cao hơn. Tuy nhiên, mức đầu tư như vậy cịn thấp. Ngồi những yếu
tố về giáo dục và y tế thì chất lượng nguồn nhân lực cịn bị tác động bởi nhiều
22
yếu tố khách quan: Tính năng động xã hội và sức sáng tạo của con người liên
quan đến môi trường pháp luật, thể chế và các chính sách, cơ chế giải phóng sức
lao động, tạo động lực để con người phát triển, phát huy tài năng và sức sáng
tạo của mình trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
1.1.2.6. Các chính sách kinh tế - xã hội vĩ mơ tác động đến nguồn
nhân lực
Chính sách kinh tế - xã hội vĩ mô là những nhân tố quan trọng và có tác
động trực tiếp đến số lượng, chất lượng và cơ cấu của nguồn nhân lực. Các
chính sách vĩ mơ của Nhà nước tác động trực tiếp đến NNL gồm: Chính sách
giáo dục và đào tạo, chính sách tuyển dụng, sử dụng lao động, chính sách tiền
lương, thu nhập, bảo hiểm xã hội, bảo hộ lao động... Bằng hệ thống các chính
sách kinh tế - xã hội, nhà nước đã thiết lập được môi trường pháp lý cho hoạt
động và phát triển NNL mà hệ thống các chính sách là sự thể hiện các ý chí,
nguyện vọng của giai cấp lãnh đạo trong điều hành, quản lý xã hội hướng tới
mục tiêu mà chính phủ đã hoạch định. Hiệu quả của hệ thống các chính sách
được thực hiện và đo lường ở hoạt động kinh tế - xã hội, ở sự phát triển của
mỗi người và NNL. Các chính sách của Trung ương, địa phương đã có những
tác động đến nguồn nhân lực như chính sách hỗ trợ giáo dục đào tạo, hỗ trợ về
y tế, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, những chính sách của địa phương đối với
lao động và đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ. Vậy chính sách kinh tế - xã hội
là nhân tố tác động tích cực hoặc kìm hãm sự phát triển của NNL.
1.1.2.7. Trình độ phát triển kết cấu hạ tầng cũng ảnh hưởng đến sự
phát triển nguồn nhân lực
Trình độ phát triển của hệ thống kết cấu hạ tầng có ảnh hưởng rất lớn
đến sự phát triển nguồn nhân lực, như việc xây dựng hệ thống trường, lớp có
ảnh hưởng trực tiếp tới vấn đề chất lượng giáo dục đào tạo. Hệ thống thông
tin, liên lạc, hệ thống phát thanh truyền hình… đó là những cơng cụ quan
trọng đem lại nhận thức cho con người nói chung và người lao động nói riêng
những hiểu biết quan trọng về thực trạng kinh tế, chính trị, xã hội của đất
23
nước cũng như thế giới. Ở đâu hệ thống trường lớp được xây dựng khang
trang đủ điều kiện cần thiết cho học tập nghiên cứu thì ở đó chất lượng giáo
dục được đảm bảo, ở đâu hệ thống thông tin, liên lạc, hệ thống phát thanh
truyền hình phát triển thì ở đó trình độ dân trí được nâng lên. Ngồi ra trình
độ phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng cũng còn ảnh hưởng trực tiếp đến
phát triển kinh tế, như hệ thống giao thông, thuỷ lợi, chợ, điện … ở nơi hệ
thống điện, giao thông, thuỷ lợi, chợ, … kém phát triển sẽ gây cản trở kinh
tế phát triển, khi kinh tế chậm phát triển sẽ khơng có tích luỹ để đầu tư cho
giáo dục cũng như đầu tư chăm sóc sức khoẻ cho con người do đó nó có
ảnh hưởng rất lớn đến phát triển nguồn nhân lực. Thực tế đã chứng minh ở
những thành phố lớn, ở các nước có hệ thống hết cấu hạ tầng phát triển thì
có nguồn nhân lực chất lượng cao. Ngược lại những vùng khó khăn, vùng
núi, vùng sâu, vùng xa hệ thống kết cấu hạ tầng kém phát triển thì nguồn
nhân lực chất lượng thấp.
Có thể khẳng định, sự hình thành, phát triển nguồn nhân lực của tỉnh
Quảng Ninh cũng không nằm ngoài những nhân tố tác động đến NNL của
nước ta, song 7 nhân tố trên có tác động chủ yếu. Giải pháp phát triển nguồn
nhân lực cũng chính là thực hiện phát huy tổng hợp các nhân tố, và từng mặt
tích cực của mỗi nhân tố để xây dựng và phát triển NNL đáp ứng cho yêu cầu
nhân lực trong quá trình phát triển KT - XH của tỉnh.
1.2. NỘI DUNG XÂY DỰNG NGUỒN NHÂN LỰC CHO PHÁT TRIỂN
KINH TẾ-XÃ HỘI
1.2.1. Những yêu cầu chủ yếu về nguồn nhân lực cho phát triển
kinh tế-xã hội
- Về thể lực
Cần cải thiện, phát triển nòi giống, nâng cao thể lực tầm vóc và thể trạng
nhằm phát triển cân đối, hài hồ giữa thể lực và trí lực con người Việt Nam.
24
Nâng cao một cách liên tục, bền vững tầm vóc của người Việt Nam
bằng cách tăng chiều cao trong thời kỳ trung hạn lên ngang bằng với các nước
trong khu vực và lên ngang bằng với chuẩn quốc tế của WHO trong thời kỳ
dài hạn.
Bảng 1.3: Chiều cao và cân nặng của người Việt Nam so với tiêu chuẩn
chung của WHO
Chiều cao (mét)
Giới
tính
Tuổi
10
15
10
15
Nam
Nữ
Việt Nam 2001
Tiêu chuẩn WHO
1,328
1,607
1,339
1,527
1,322
1,698
1,383
1,618
Cân nặng (kg)
Việt Nam
Tiêu chuẩn
2001
WHO
27,38
31,3
46,66
56,7
27,23
32,5
42,76
53,7
Nguồn: Viện Khoa học Thể dục thể thao.
Nâng cao tuổi thọ trên cơ sở tăng cường thể lực cùng với cải thiện
nhanh về hình thể, trước hết là chiều cao và trọng lượng của người lao động.
Đồng thời với việc nâng cao tầm vóc là khơng ngừng cải thiện thể trạng đảm
bảo sự phát triển hài hoà giữa chiều cao và trọng lượng cơ thể, tăng cường
trạng thái sức khoẻ chung, đặc biệt là sự phát triển hài hoà về tố chất thể lực
cần thiết (sức bền, sức mạnh, sức nhanh, mềm dẻo, sự khéo léo…) cho người
lao động, học tập, sáng tạo và các hoạt động bình thường khác của mỗi người.
Bảng 1.4: Các mục tiêu cụ thể cần đạt được vào năm 2010
Tuổi thọ
Tỷ lệ chết ở trẻ em dưới 5 tuổi (0/00)
Chiều cao của thanh niên (m)
2000
2005
2010
2020
67,8
70
71
75
42
37
32
20
-
-
1.6
1.65
Nguồn: Chiến lược tăng trưởng tồn diện và xố đói giảm nghèo; Nghị
quyết 37/CP của Chính phủ về định hướng chiến lược cơng tác chăm sóc và
sức khoẻ nhân dân giai đoạn 1996-2000 và 2020.
25
Sở dĩ như vậy là vì: Nói đến thể lực tức là nói đến năng lực thể chất của
NNL, đó là một trong hai mặt của chất lượng NNL là năng lực tinh thần và
năng lực thể chất của NNL, trong đó năng lực thể chất chiếm vị trí vơ cùng
quan trọng. Nếu con người có thể lực tốt thì mới phát huy được lợi thế của
sức mạnh trí tuệ trong phát triển KT - XH và ngược lại. Đối với thể lực của
người Việt Nam hiện nay, tình trạng thể lực chung đã được cải thiện đáng kể,
tuy nhiên, tầm vóc và thể lực cịn nhiều hạn chế. Thống kê trong vòng 25
năm, từ năm 1975 - 2001, cho thấy: Sau 25 năm chiều cao trung bình của
người Việt Nam đã tăng 6,14 cm ở nam và 4,88 cm ở nữ. Tuy vậy, so với mức
tăng trưởng chiều cao của thanh niên ở một số nước trong cùng khu vực như
Singapore, Thái Lan... thì chiều cao của thanh niên Việt Nam vẫn còn ở mức
thấp. Mục tiêu đặt ra là tới năm 2020 tỉ lệ trẻ em Việt Nam dưới 5 tuổi bị suy
dinh dưỡng sẽ giảm còn 15% và chiều cao trung bình của thanh niên phải đạt
tới 1,65 m. Chiều cao trung bình hiện nay của thanh niên Việt Nam là 1.57m
[48]. Vì vậy, để có NNL chất lượng cao không thể không đề cập đến phát
triển y tế, chăm lo sức khoẻ cho người lao động. Thể lực tốt thể hiện ở sự
nhanh nhẹn, tháo vát, bền bỉ, dẻo dai của sức mạnh cơ bắp trong công việc.
Thể lực là điều kiện quan trọng để phát triển trí lực. Trình độ kinh tế - xã hội
phát triển càng cao, càng đòi hỏi cao ở thể lực, bởi nếu khơng có thể lực và
tinh thần tốt khó có thể chịu được sức căng thẳng của cơng việc, nhịp độ cuộc
sống trong thế giới hiện đại, không thể tìm tịi, sáng tạo ra những tri thức mới
và vật hố các tri thức đó thành sản phẩm có ích. Như vậy, trí tuệ là tài sản
quý giá nhất trong mọi tài sản, nhưng chính sức khoẻ là một tiền đề cần thiết
để làm ra cái tài sản đó.
- Về trí lực
Cần xây dựng và phát triển nguồn nhân lực một cách tồn diện về trí
tuệ, ý chí, năng lực và đạo đức, có năng lực tự học, tự đào tạo, năng động, chủ
động, tự lực, sáng tạo, có tri thức và kỹ năng nghề nghiệp cao, có khả năng