1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đảng và Nhà nước ta đã và đang đổi mới toàn diện nền kinh tế nhằm
hoàn thiện thể chế thị trường theo định hướng XHCN và hội nhập kinh tế
quốc tế. Trong đó nền Tài chính quốc gia giữ vai trị quan trọng trong việc
thúc đẩy sản xuất phát triển và giữ vững nhịp độ tăng trưởng của nền kinh tế
tạo nền tảng tốt cho sự phát triển kinh tế, xã hội (KT-XH).
Bước tiến nổi bật nhất trong thời gian qua là Ngân sách Nhà nước
(NSNN) và tổ chức quản lý NSNN đã được Nhà nước ban hành đồng bộ
luật pháp, cơ chế, chính sách như: Luật NSNN ban hành và áp dụng vào
năm 1997 và luật Ngân sách sửa đổi được thực hiện vào đầu năm 2004.
Luật NSNN đã phân cấp rõ các nguồn thu, khoản thu và nhiệm vụ chi cho
từng cấp ngân sách. Trong đó kiểm sốt chi NSNN giữ vai trị quan trọng
nhằm kiểm tra kiểm sốt các khoản chi NSNN đúng mục đích, đúng đối
tượng góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN của các đối tượng thụ
hưởng ngân sách.
Chi NSNN ở nước ta hàng năm rất lớn, việc tiết kiệm một phần nhỏ
trong chi tiêu NSNN cũng có ý nghĩa vơ cùng quan trọng trong nền kinh tế
quốc dân. Nó có thể giải quyết được rất nhiều nhu cầu khác của xã hội. Do đó
tiết kiệm chi tiêu, nâng cao hiệu quả các khoản chi là một u cầu có tính
ngun tắc đối với các cấp, các ngành, các đơn vị có liên quan đến cơng tác
quản lý và sử dụng NSNN. Để góp phần nâng cao hiệu quả chi NSNN đảm
bảo chi một cách tiết kiệm, chống lãng phí cần phải áp dụng đồng bộ nhiều
biện pháp. Một trong những biện pháp quan trọng là tăng cường kiểm soát các
khoản chi NSNN, nhất là chi cho đầu tư phát triển.
Tuy nhiên, việc quản lý NSNN nói chung và quản lý chi ngân sách nói
riêng cịn có những vấn đề chưa phù hợp, thậm chí trong nhiều trường hợp
2
còn bị động và chậm chạp, nhiều vấn đề cấp bách khơng được đáp ứng kịp
thời hoặc chưa có quan điểm xử lý thích hợp, gây tình trạng lúng túng trước
những vấn đề mới nảy sinh, quá trình điều hành NSNN nhiều trường hợp còn
bất cập, những đổi mới trong chính sách thu, chi cịn mang tính chất tình
huống, chưa có chính sách cơ bản và tồn diện để NSNN thực sự là công cụ
quan trọng nhất trong việc điều tiết nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
ở nước ta hiện nay.
Tuyên Quang là một tỉnh miền núi phía bắc với nhiều dân tộc anh em
sinh sống, trình độ dân trí cịn thấp, kinh tế chậm phát triển, thu không đủ chi.
Với nguồn vốn NSNN hạn hẹp, chủ yếu là do ngân sách Trung ương trợ cấp
cân đối. Chi NSNN tăng liên tục qua các năm do chi thường xuyên và chi đầu
tư phát triển từ nguồn vốn NSNN tăng nhanh.
Trước vấn đề đặt ra nêu trên, để nâng cao hiệu quả chi NSNN đang trở
thành vấn đề cần thiết. Là người trực tiếp tham gia quản lý trong lĩnh vực chi
NSNN ở địa phương cấp tỉnh, tôi chọn đề tài “Chi Ngân sách Nhà nước cho
phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang” làm luận văn thạc
sỹ kinh tế - Chuyên ngành Kinh tế Chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Về hoạt động chi NSNN ở nước ta trong những năm qua đang là một
vấn đề được nhiều ngành, nhiều cấp quan tâm và có liên quan đến nhiều
ngành, nhiều lĩnh vực nên đến nay đã có nhiều cơng trình nghiên cứu của các
nhà khoa học, các nhà quản lý, cụ thể:
- Luận văn thạc sỹ kinh tế “Tác động của chi NSNN đến phát triển KTXH ở tỉnh Vĩnh Phúc” của tác giả Trần Văn Vinh, Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh.
- Luận văn thạc sỹ kinh tế “Về hồn thiện hoạt động kiểm sốt chi
NSNN qua Kho bạc Nhà nước (KBNN) trong giai đoạn hiện nay” của tác giả
Vũ Hồng Nam, Học viện Tài chính, năm 2008.
3
- Luận văn thạc sỹ kinh tế “Hoàn thiện cơ chế kiểm soát chi thường
xuyên NSNN qua KBNN Việt Nam” (lấy ví dụ tại KBNN Nam Định) của tác
giả Vũ Văn Yên, trường Đại học Kinh tế quốc dân, năm 2008.
- Luận văn thạc sỹ kinh tế “Quản lý NSNN trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh”
của tác giả Trần Văn Ngọc, trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà
nội, năm 2008.
- Luận văn thạc sỹ kinh tế “Về hoàn thiện quản lý thu, chi NSNN của
thành phố Nha Trang tỉnh Khánh Hoà” của tác giả Nguyễn Anh Tuấn, Học
viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2007.
- Luận văn thạc sỹ kinh tế “Hồn thiện kiểm sốt chi NSNN qua KBNN
Thanh Hố” của tác giả Nguyễn Thị Thanh Hà, Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2008.
- Luận văn thạc sỹ kinh tế “Hồn thiện kiểm sốt chi thường xuyên
NSNN qua KBNN tỉnh Bến Tre” của tác giả Nguyễn Hồi Minh, Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2008.
- Luận văn thạc sỹ kinh tế “Kiểm soát chi NSNN qua KBNN Hải
Dương", của tác giả Vũ Đức Trọng, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh, năm 2008.
- Luận văn thạc sỹ kinh tế “Kiểm soát chi thường xuyên từ NSNN qua
KBNN Hà Nội - Thực trạng và giải pháp” của tác giả Phùng Anh Quang, Học
viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2006.
- Bài viết “Bàn về thực trạng và giải pháp nâng cáo chất lượng dự tốn
NSNN” của tác giả Hồng Hàm, Tạp chí Kế tốn, số 11, 12 năm 2008.
- “Một số vấn đề về Kinh tế - Tài chính Việt Nam” tài liệu chuyên khảo
dùng cho các lớp đào tạo, bồi dưỡng cơng chức, viên chức ngành Tài chính,
Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội - 2008.
Việc nghiên cứu và hồn thiện cơng tác chi NSNN là vấn đề có tính cấp
thiết đối với chi NSNN, nhằm mục tiêu nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN.
4
Các đề tài nghiên cứu đã đề cập nhiều đến khía cạnh về quản lý NSNN
nói chung, quản lý chi NSNN và kiểm sốt chi NSNN nói riêng, nghiên cứu
từ góc độ Tài chính, cịn ít đề tài nghiên cứu sâu về lĩnh vực chi NSNN cho
phát triển KT - XH, đặc biệt là chưa có đề tài nào nghiên cứu về chi NSNN
cho phát triển KT - XH trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang trên phương diện Kinh
tế Chính trị.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận về chi NSNN tiếp cận dưới giác độ kinh tế chính
trị, kế thừa các kết quả nghiên cứu đã có, luận văn làm rõ những vấn đề lý
luận cơ bản, phân tích đánh giá thực trạng, đề xuất giải pháp và kiến nghị
nhằm nâng cao hiệu quả chi NSNN trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang và tác
động của nó đối với sự phát triển KT - XH.
* Nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra gồm:
- Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về chi NSNN đối với phát triển
KT - XH.
- Phân tích và đánh giá thực trạng về chi NSNN cho phát triển KT - XH
trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang.
- Đề xuất một số giải pháp và đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao
hiệu quả chi NSNN cho phát triển KT - XH.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động chi NSNN trên địa
bàn tỉnh Tuyên Quang.
* Phạm vi nghiên cứu: Đề tài chủ yếu tập trung nghiên cứu nội dung
chi NSNN trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang, bao gồm cả chi thường xuyên và
chi đầu tư phát triển.
Các số liệu và thông tin được đề cập trong khoảng thời gian từ năm
2001 đến năm 2010 và đề xuất cho thời gian tới.
5
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu đề tài là những nguyên lý của chủ
nghĩa Mác-LêNin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước về hoạt động chi NSNN.
Các phương pháp nghiên cứu chung được sử dụng trong luận văn chủ
yếu là trừu tượng hóa khoa học được hỗ trợ bằng các phương pháp toán học,
phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp tiếp cận hệ thống,
phương pháp phân tích kết hợp với tổng hợp…
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu và hệ thống hoá những vấn đề lý luận và thực
tiễn, luận văn có một số đóng góp mới như sau:
- Hệ thống hóa lý luận về chi NSNN.
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động chi NSNN cho phát triển KT
- XH trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang và nêu ra những tồn tại, thiếu sót trong
q trình chi NSNN trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang.
- Đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả chi NSNN, góp phần
thực hành tiết kiệm và chống lãng phí trong chi tiêu NSNN để có tác động tốt
hơn cho phát triển KT - XH trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được chia làm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về chi ngân sách nhà nước và các
nhân tố ảnh hưởng đến chi ngân sách nhà nước.
Chương 2: Thực trạng về chi ngân sách nhà nước cho phát triển kinh tế
- xã hội ở Tuyên Quang thời kỳ 2001 - 2010.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp về chi ngân sách nhà nước cho
phát triển kinh tế - xã hội ở Tuyên Quang trong thời gian tới.
6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
CHO PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
1.1. BẢN CHẤT, ĐẶC ĐIỂM VÀ NỘI DUNG CHI NGÂN SÁCH NHÀ
NƯỚC
1.1.1. Bản chất và đặc điểm chi ngân sách nhà nước
1.1.1.1. Ngân sách nhà nước
a. Ngân sách nhà nước và bản chất của ngân sách nhà nước
Thuật ngữ "NSNN" có từ lâu và ngày nay được dùng phổ biến trong
đời sống KT - XH và được diễn đạt dưới nhiều góc độ khác nhau. Song quan
niệm NSNN được bao quát nhất cả về lý luận và thực tiễn của nước ta hiện
nay là: NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước trong dự toán đã
được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong
một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng của Nhà nước.
Trong thực tế nhìn bề ngồi, hoạt động NSNN là hoạt động thu chi tài
chính của Nhà nước. Hoạt động đó đa dạng, phong phú, được tiến hành hầu
hết trên các lĩnh vực, tác động đến mọi chủ thể KT - XH. Tuy đa dạng, phong
phú như vậy, nhưng chúng mang bản chất, thể hiện ở các mặt cơ bản sau:
Thứ nhất, các hoạt động thu chi của NSNN luôn luôn gắn chặt với quyền
lực kinh tế - chính trị của Nhà nước, được Nhà nước tiến hành trên cơ sở những
luật lệ nhất định. Đằng sau những hoạt động thu chi tài chính đó chứa đựng nội
dung KT - XH nhất định và chứa đựng các quan hệ kinh tế, quan hệ lợi ích nhất
định. Trong các quan hệ lợi ích đó, lợi ích quốc gia, lợi ích chung bao giờ cũng
được đặt lên hàng đầu và chi phối các mặt lợi ích khác trong thu, chi NSNN.
Quá trình thực hiện các chỉ tiêu thu, chi NSNN nhằm hình thành quỹ
tiền tệ tập trung của Nhà nước và là quá trình phân phối và phối lại giá trị
7
tổng sản phẩm xã hội phục vụ cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
Nhà nước trên các lĩnh vực, trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Thứ hai, thu, chi của NSNN hồn tồn khơng giống bất kỳ một hình
thức thu chi của một loại quỹ nào. Thu của NSNN phần lớn đều mang tính
chất bắt buộc, cịn các khoản chi của NSNN lại mang tính chất khơng hoàn
lại. Đây là đặc trưng nổi bật của NSNN trong bất cứ một Nhà nước nào. Xuất
phát từ quyền lực của Nhà nước và các nhu cầu về tài chính để thực hiện chức
năng quản lý và điều hành của Nhà nước đối với nền KT - XH. Do nhu cầu
chi tiêu của mình, Nhà nước đã sử dụng quyền lực thơng qua hệ thống pháp
luật tài chính buộc mọi pháp nhân và thể nhân phải đóng góp một phần thu
nhập của mình cho NSNN, tức là các chủ thể kinh tế thực hiện nghĩa vụ của
mình với Nhà nước. Sự bắt buộc đó là hồn tồn khách quan, vì lợi ích của
tồn xã hội chứ khơng phải phục vụ cho lợi ích riêng của Nhà nước. Người
nộp thuế cũng hồn tồn ý thức được nghĩa vụ của mình trong việc đảm bảo
sự tồn tại và phát triển của Nhà nước. Họ cũng hiểu được vai trò của Nhà
nước trong việc sử dụng các nguồn lực tài chính nhằm thực hiện các chức
năng kinh tế, xã hội, do nhân dân giao phó. Sự tồn tại và hoạt động của Nhà
nước chính là yếu tố quyết định tính chất hoạt động của NSNN, nói lên bản
chất của NSNN. Mọi hoạt động của NSNN đều nhằm vào việc tạo lập và sử
dụng các nguồn lực tài chính, nó phản ánh hệ thống các quan hệ kinh tế giữa
Nhà nước và các chủ thể trong xã hội, phát sinh do Nhà nước tạo lập thơng
qua NSNN. Đó là mối quan hệ kinh tế giữa phần nộp vào NSNN và phần để
lại cho các chủ thể kinh tế trong xã hội. Phần nộp vào ngân sách sẽ tiếp tục
được phân phối lại nhằm thực hiện các chức năng của Nhà nước và phục vụ
cho các nhu cầu phát triển KT - XH.
Thứ ba, với quyền lực tối cao của mình, Nhà nước có thể sử dụng các
cơng cụ sẵn có để bắt buộc mỗi thành viên trong xã hội cung cấp cho mình
các nguồn lực tài chính cần thiết. Song cơ sở tạo lập các nguồn lực tài chính
8
xuất phát từ sản xuất, mà chủ thể của sản xuất chính là các thành viên trong
xã hội. Mọi thành viên đều có lợi ích kinh tế và đấu tranh bảo vệ lợi ích kinh
tế đó, nghĩa là thơng qua quyền lực của mình, Nhà nước sử dụng các cơng cụ,
chính sách giải quyết hài hồ giữa lợi ích Nhà nước và lợi ích của các thành
viên trong xã hội. Do vậy muốn có NSNN đúng đắn, lành mạnh thì phải tôn
trọng và vận dụng các quy luật kinh tế một cách khách quan, phải dựa trên cơ
sở đảm bảo hài hồ lợi ích của Nhà nước và lợi ích cho các thành viên trong
xã hội. Một NSNN lớn mạnh phải đảm bảo sự cân đối trên cơ sở khuyến
khích phát triển sản xuất kinh doanh, bao quát hết toàn bộ các nguồn thu, nuôi
dưỡng nguồn thu để đáp ứng nhu cầu chi ngày càng tăng.
Như vậy bản chất của NSNN là hệ thống các mối quan hệ kinh tế giữa
Nhà nước và các thành viên trong xã hội, phát sinh trong quá trình Nhà nước
huy động và sử dụng các nguồn lực tài chính, nhằm đảm bảo thực hiện các
chức năng quản lý và điều hành nền kinh tế, xã hội của Nhà nước.
Chức năng đầu tiên của NSNN là chức năng phân phối. Bất kỳ một
Nhà nước nào, muốn tồn tại và duy trì được các chức năng của mình, trước
hết phải có nguồn lực tài chính. Đó là các khoản chi cho bộ máy quản lý
Nhà nước, cho lực lượng quân đội, cảnh sát, cho nhu cầu văn hoá, giáo dục,
y tế, phúc lợi xã hội, chi cho đầu tư phát triển v.v... Nhưng muốn tạo lập
được NSNN, trước hết phải tập hợp các khoản thu theo luật định, cân đối
chi tiêu theo tiêu chuẩn định mức đúng với chính sách hiện hành. Đó chính
là sự huy động các nguồn lực tài chính và đảm bảo nhu cầu chi tiêu theo kế
hoạch của Nhà nước, thực hiện việc cân đối thu chi bằng tiền của Nhà
nước.
Chức năng thứ hai của NSNN là giám đốc quá trình huy động các
khoản thu và thực hiện các khoản chi. Thông qua chức năng này, NSNN kiểm
tra, giám sát quá trình động viên các nguồn thu, tránh tình trạng trốn lậu thuế,
chây ỳ nộp thuế của các đối tượng thực hiện nghĩa vụ nộp NSNN hoặc bị lạm
9
dụng, làm trái pháp luật, coi thường pháp luật và các chính sách động viên
khác. Trong khâu cấp phát nếu bng lỏng việc kiểm tra, kiểm sốt chi thì dễ
dẫn đến tình trạng làm sai luật định và các chế độ chi quy định. Đồng thời
thông qua kiểm tra, kiểm soát hoạt động thu chi NSNN giúp ta giám sát việc
chấp hành các chế độ, chính sách của Đảng và Nhà nước. Thơng qua đó đánh
giá hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội của vốn NSNN, hiệu quả của các chủ
trương, chính sách, chế độ do Đảng và Nhà nước đề ra.
Như vậy, hai chức năng phân phối và giám đốc ln có mối quan hệ
mật thiết với nhau, có vị trí và tầm quan trọng như nhau, không thể coi chức
năng này hơn chức năng kia, mà phải coi trọng cả hai chức năng ở mọi lúc,
mọi nơi trong tạo lập và sử dụng vốn NSNN.
b. Bản chất của chi ngân sách Nhà nước
Như đã biết NSNN là toàn bộ các khoản thu chi của Nhà nước đã được
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một
năm để đảm bảo hoàn thành các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước giao cho.
Chi NSNN là việc phân phối và sử dụng quỹ NSNN theo ngun tắc
khơng hồn trả, trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ KT - XH đảm bảo cho hoạt
động của bộ máy Nhà nước và phát triển KT - XH ở địa phương trong một
năm tài khố.
Chi NSNN có thể được hiểu trong hai quá trình: Quá trình phân phối và
quá trình sử dụng quỹ tiền tệ Nhà nước. Có thể nói ngắn gọn, chi NSNN là
việc cung cấp nguồn tài chính từ quỹ tiền của Nhà nước nhằm thực hiện các
nhiệm vụ của Nhà nước.
1.1.1.2. Bản chất của chi ngân sách nhà nước
- Xét về bản chất, chi NSNN là một cơng cụ kinh tế mạnh trong tay
chính quyền Nhà nước nhằm thực hiện các chức năng kinh tế, chính trị và xã
hội của Nhà nước. Thực chất đó là cơng cụ thực hiện sức mạnh vật chất của
Nhà nước trong bảo vệ và phát triển kinh tế xã hội ở địa phương. Do đó, nó
10
mang tính giai cấp rõ rệt và phụ thuộc vào bản chất của Nhà nước do giai cấp
thống trị chi phối.
- Đối với Nhà nước do giai cấp bóc lột thống trị, chi NSNN trước hết là
phục vụ lợi ích giai cấp và nâng đỡ giai cấp và đồng minh của giai cấp cầm quyền
trong việc bảo đảm quyền lãnh đạo kinh tế, chính trị, xã hội tại địa phương. Trong
đó duy trì trật tự, kinh tế, xã hội nhằm bảo đảm lợi ích cho giai cấp cầm quyền.
- Đối với Nhà nước của giai cấp công nhân, trước hết chi NSNN là
phục vụ lợi ích của giai cấp cơng nhân, nơng dân và tồn bộ xã hội. Do đó chi
NSNN được định hướng vào các mục tiêu phát triển KT - XH do đường lối
của chính đảng của giai cấp công nhân vạch ra. Trên địa bàn cấp tỉnh NSNN
phải phục vụ các mục tiêu KT - XH do Nghị quyết của tỉnh, Đảng bộ vạch ra.
1.1.1.3. Đặc điểm cơ bản của chi ngân sách nhà nước
Chi NSNN phải gắn chặt với việc thực hiện các nhiệm vụ về kinh tế,
chính trị, xã hội mà Nhà nước phải đảm nhận. Trong từng thời kỳ cụ thể
NSNN được coi là một cơng cụ tài chính quan trọng mà Nhà nước sử dụng để
điều tiết vĩ mô nền kinh tế, nên các khoản được phân phối từ nguồn vốn của
NSNN phải phục vụ cho việc thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước.
Do chi NSNN là việc phân phối và sử dụng quỹ của NSNN theo
ngun tắc khơng hồn trả, do đó nảy sinh ra các đặc điểm cơ bản sau:
Một là, dễ nảy sinh ra hiện tượng tham nhũng và lãng phí nếu khơng có
cơ chế thanh tra giám sát chặt chẽ.
Hai là, mục tiêu của chi NSNN của mọi Nhà nước là đạt tối đa lợi ích
cơng, tuy nhiên trong các quốc gia định hướng phát triển nền kinh tế theo con
đường tư bản chủ nghĩa, thì chi NSNN nhằm bảo tồn chế độ tư bản tạo điều
kiện cho các tập đoàn tư bản làm giàu thu lợi nhuận tối đa; còn trong các nước
theo còn đường xây dựng XHCN thì chi NSNN phục vụ cho sự phát triển các
hình thức kinh tế XHCN và thúc đẩy CNXH ra đời và phát triển. Do đó chi
ngân sách địa phương cũng phải tn theo mục đích chung đó.
11
Ba là, chi NSNN của bất cứ Nhà nước nào cũng bảo đảm cho lợi ích
của giai cấp cầm quyền, tuy nhiên trong CNXH lợi ích của giai cấp cơng nhân
phù hợp với lợi ích của nơng dân và các thành phần lao động khác trong toàn
bộ xã hội, nên Nhà nước của giai cấp công nhân thực chất là Nhà nước của
dân, do dân và vì dân. Do đó chi NSNN nếu thiếu công bằng sẽ tạo ra mâu
thuẫn, tuy khơng mang tính chất đối kháng giai cấp, nhưng trong thực tế
những nhóm lợi ích do chi NSNN sinh ra có mâu thuẫn căng thẳng và gay gắt
hơn nhiều, thậm trí bùng nổ xã hội .
Bốn là, đánh giá hiệu quả của chi NSNN cho các dự án kinh tế, kỹ thuật
không chỉ dựa trên hiệu quả kinh tế mà phát triển trên chỉ tiêu KT - XH tổng hợp.
Năm là, chi NSNN luôn gắn với biến động của giá cả và tỷ giá trên thị
trường. Do đó chi NSNN cho những dự án kinh tế - xã hội thuộc kết cấu hạ
tầng hay dịch vụ công luôn ở trạng thái bội chi ngân sách, đặc biệt là trong
thời kỳ biến động của giá cả như hiện nay ở Việt Nam. Chính vì vậy mà
khơng tính tốn và bổ sung kịp thời thì nhiều dự án bị đình trệ hoặc đạt chất
lượng thấp.
1.1.1.4. Nội dung và các hình thức của chi ngân sách nhà nước trên
địa bàn tỉnh
a. Nội dung chi NSNN và ý nghĩa
Chi NSNN là một hệ thống các quan hệ rất đa dạng, phức tạp, bao gồm:
1) Các khoản chi phát triển KT - XH; 2) Các khoản chi bảo đảm quốc
phòng, an ninh, bảo đảm hoạt động của bộ máy Nhà nước.
Đây là những khoản chi bắt buộc trong NSNN của mọi quốc gia nhằm
để giữ vững an ninh tổ quốc, ổn định chính trị - xã hội cũng như của từng địa
phương trong một quốc gia xác định.
Quy mô khoản chi này tuỳ thuộc vào việc xác định chức năng nhiệm
vụ và tổ chức bộ máy Nhà nước xuất phát từ tình hình kinh tế - chính trị xã hội ở trong nước và quốc tế. Trên cơ sở xác định quy mô chi tiêu cần
12
thiết cho lĩnh vực này, tiến hành phân bổ các loại thuế trực thu và gián thu
trên địa bàn, thông qua thực thu các sắc thuế mà bảo đảm nguồn lực tài
chính đầy đủ cho nhu cầu này. Hoặc phải nhận từ ngân sách quốc gia cấp
phát, thông thường bao gồm các loại chi cơ bản sau:
Một là, các khoản chi trả nợ của Nhà nước: Tuỳ theo mức độ bội chi
của ngân sách, quy mô và các điều kiện tín dụng Nhà nước về thời hạn trả nợ
và mức lãi suất mà khoản chi này có tỷ lệ cao hay thấp trong tổng chi NSNN.
Ở nước ta hiện nay, do hậu quả của việc quản lý vốn vay chưa tốt, để thất
thoát lớn và việc sử dụng hiệu quả thấp, nên nợ nước ngồi tồn đọng rất lớn
trong đó có cả khoản nợ của địa phương, cho nên chi trả nợ nước ngoài đang
là vấn đề căng thẳng. Khả năng trả nợ thấp, tuy nhiên chúng ta vẫn phải đảm
bảo uy tín trong quan hệ quốc tế. Để giải quyết vấn đề này, chúng ta cần
khống chế nhu cầu chi tiêu trong nước để dành tiền trả nợ, trong đó các dự án
ở địa phương thường bị cắt giảm.
Đối với vay từ nguồn trong nước dưới nhiều hình thức, trong đó chủ
yếu là hình thức tín phiếu Kho bạc Nhà nước ngắn hạn và tín phiếu dài hạn để
huy động vốn trong dân vào nhu cầu đầu tư. Hướng chủ yếu của tín dụng Nhà
nước là các khoản vay dài hạn đầu tư phát triển kinh tế. Những hình thức này
chỉ phát triển trong điều kiện sức mua đồng tiền ổn định và lãi suất hợp lý
đem lại lợi ích người cho vay, đồng thời đảm bảo cho Nhà nước thanh toán
được nợ.
Hai là, các khoản chi dự trữ Nhà nước (từ 3 - 5% tổng số dư). Đây là
khoản dự phòng cho những nhu cầu đột xuất bất trắc có thể xảy ra trong khi
thực hiện nhiệm vụ của Nhà nước.
Ba là, các khoản chi viện chợ và các khoản chi khác theo quy định của
pháp luật.
13
NSNN bao gồm hai cấp: Ngân sách trung ương và ngân sách địa
phương. Quan hệ giữa hai cấp này được thực hiện theo nguyên tắc chủ yếu là
phân định nguồn thu và nhiệm vụ chi cụ thể, thực hiện bổ sung từ ngân sách
cấp trên cho ngân sách cấp dưới để bảo đảm sự cân bằng, phát triển cân đối và
thực hiện được nhiệm vụ của các vùng, các địa phương.
NSNN được cân đối theo nguyên tắc tổng số thu từ thuế, phí, lệ phí
phải lớn hơn tổng số chi thường xun và góp phần tích luỹ ngày càng cao
vào đầu tư phát triển. Nếu có bội chi thì số bội chi đó phải nhỏ hơn chi đầu
tư phát triển, tiến tới cân bằng thu - chi ngân sách. Nếu có vay để bù đắp
bội chi NSNN thì phải trên nguyên tắc tiền vay được không sử dụng cho
tiêu dùng mà chỉ sử dụng vào mục đích phát triển và có kế hoạch thu hồi
vốn vay để đảm bảo cân đối ngân sách, chủ động trả nợ đến hạn. Ngân sách
địa phương được cân đối theo quy tắc: Tổng số chi khơng được vượt q
tổng số thu...
b. Các hình thức tồn tại của chi NSNN
Các khoản chi NSNN thường tồn tại dưới các hình thức cơ bản sau:
Thứ nhất, chi thường xuyên: Là những khoản chi hết sức cần thiết và
khơng thể trì hỗn, phải thực hiện thường xun hàng tháng, hàng năm để duy
trì sự tồn tại của bộ máy Nhà nước.
Thứ hai, Chi đầu tư, phát triển: Là những khoản chi để hình thành tài
sản cố định như mua sắm tài sản cố định, đầu tư xây dựng các cơng trình kinh
tế mũi nhọn, xây dựng cơ sở hạ tầng KT - XH, xây dựng nhà cửa, đầu tư vào
các động sản tài chính, sửa chữa lớn tài sản cố định, chi trả nợ gốc tiền vay…
Những khoản chi này gắn với việc điều chỉnh vĩ mô của Nhà nước, tạo môi
trường và điều kiện cho các thành phần kinh tế hoạt động và phát triển.
14
Sự khác nhau cơ bản giữa hai nhóm chi tiêu trên thể hiện ở chỗ: Chi
thường xun có tính chất tiêu hao trực tiếp, còn chi đầu tư phát triển có tính
chất thu hồi trong những điều kiện nhất định.
Theo thứ tự ưu tiên thì chi thường xuyên được ưu tiên trước hết, sau đó
mới đến chi đầu tư phát triển. Thứ tự ưu tiên này cũng chỉ có ý nghĩa tương
đối vì nếu cứ ưu tiên chi thường xuyên dễ dẫn đến phá vỡ cơ cấu kinh tế, và
ngược lại ưu tiên chi đầu tư phát triển dễ đẫn đến làm tăng thâm hụt NSNN.
Cả ngân sách trung ương và ngân sách địa phương đều có hai khoản chi
trên, tuy nhiên, giữa chúng cũng có sự khác nhau về quy mô, phạm vi của các
khoản chi. Chi đầu tư phát triển của ngân sách trung ương là những khoản chi
có quy mơ lớn, có tác dụng đối với tồn bộ nền kinh tế quốc dân, các khoản
chi này nhìn chung là khó xác định chủ đầu tư và các cơng trình phúc lợi cơng
cộng. Cịn các khoản chi của ngân sách địa phương chỉ đầu tư cho những
cơng trình, mục tiêu được thực hiện trong phạm vi địa phương đó. Ngồi ra,
có một số khoản chi thuộc đặc thù chức năng của ngân sách trung ương thì
ngân sách trung ương đảm nhiệm: Trả nợ vay, chi an ninh quốc phòng, chi về
ngoại giao…
c. Các phương thức quản lý chi NSNN
Theo cách tiếp cận khác nhau, phương thức quản lý chi NSNN đúng
hướng được chia thành: 1) Quản lý ngân sách theo kiểu hành chính, truyền
thống; 2) Quản lý ngân sách theo kết quả đầu ra; 3)- Quản lý ngân sách theo
trung hạn gắn với kết quả đầu ra.
Trong phương pháp quản lý ngân sách trung hạn, có 3 khái niệm ứng
với qui trình quản lý cần nắm vững: Đó là khn khổ tài chính trung hạn,
khn khổ ngân sách trung hạn và khuôn khổ chi tiêu trung hạn:
+ Khuôn khổ tài chính trung hạn là khâu đầu tiên cần làm trong quá
trình xây dựng kế hoạch ngân sách trung hạn. Khn khổ tài chính trung hạn
15
xác định các mục tiêu cơ bản của các chính sách, giải pháp hoặc chiến lược
của Chính phủ trong khoảng thời gian trung hạn, trong đó, chỉ rõ các chỉ tiêu
và các dự báo tổng hợp về Kinh tế - Tài chính (vĩ mơ).
+ Khn khổ ngân sách trung hạn (cịn gọi là khn khổ tài khóa trung
hạn) là khâu tiếp theo của khn khổ tài chính trung hạn.
+ Khn khổ chi tiêu trung hạn là khâu cuối trong xây dựng khuôn
khổ ngân sách trung hạn. Khuôn khổ chi tiêu trung hạn là dự tốn ngân
sách trung hạn, mang tính vi mô của các cơ quan, ban, ngành, đơn vị sử
dụng ngân sách.
1.1.1.5. Quản lý chi ngân sách với việc thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn tỉnh
Thứ nhất, mối quan hệ giữa quản lý chi ngân sách nhà nước với phát
triển kinh tế - xã hội
- Quản lý chi ngân sách phải nhằm đảm bảo thực hiện có hiệu quả việc
phân bổ ngân sách theo các ưu tiên phát triển KT - XH.
- Quản lý chi ngân sách, phân bổ có hiệu quả nguồn lực cơng gắn liền
với việc thúc đẩy (hoặc kìm hãm) KT - XH phát triển.
Khi KT - XH phát triển cũng sẽ tác động trở lại không nhỏ đến quản lý
chi NSNN, là điều kiện cơ bản để làm tăng thu NSNN mà tăng thu ngân sách
là điều kiện tiền đề để cải thiện tình hình chi NSNN; tạo điều kiện để sắp xếp,
cơ cấu lại chi NSNN theo hướng ngày càng tích cực hơn; làm cho tư duy quản
lý chi NSNN có nhiều biến đổi cho phù hợp.
Thứ hai, quản lý việc phân bổ nguồn lực công phù hợp với các mục
tiêu ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội
- Quản lý việc phân bổ nguồn lực theo các ưu tiên chiến lược phát triển
KT - XH.
16
- Phân bổ ngân sách cho các ưu tiên phát triển KT - XH... thực chất là
phân bổ tổng nguồn lực đã được xác định cho các lĩnh vực trên cơ sở các ưu
tiên đã được xác định.
Thứ ba, quản lý việc sử dụng nguồn lực ngân sách một
cách hiệu quả
Đây chính là mục tiêu quan trọng của quản lý chi tiêu công. Trong khi
phân bổ ngân sách theo các ưu tiên là điều kiện cần, thì việc sử dụng hiệu quả
nó là điều kiện đủ để đảm bảo nguồn lực công được sử dụng một cách hiệu
quả nhất cho các mục tiêu phát triển KT - XH.
Thứ tư, tái phân phối nguồn lực công hướng tới công bằng xã hội
Tái phân phối nguồn lực công ở đây đề cập đến tác động tái phân phối
của chi NSNN vì mục đích duy trì, củng cố và cải thiện cơng bằng xã hội.
Thứ năm, quản lý chi ngân sách nhà nước nhằm hạn chế các biến động
kinh tế có tính chu kỳ
Để hạn chế những biến động chu kỳ, định hướng nền kinh tế đi đúng
quỹ đạo, hoạt động ổn định hơn, thì tài chính phải đảm nhiệm sứ mệnh kế
hoạch hoá, hạn chế nguồn lực đi vào các lĩnh vực có thể dẫn tới dư thừa,
khuyến khích nguồn lực vào các lĩnh vực ưu tiên cho mục tiêu phát triển dài
hạn, hạn chế việc mở rộng phát triển quá mức trong thời kỳ kinh tế mở rộng.
Đồng thời cũng ngăn chặn sự đi xuống, tụt dốc sâu trong thời kỳ suy thối của
các q trình sản xuất, kinh doanh.
1.1.2. Vai trò của chi ngân sách nhà nước tỉnh cho phát triển kinh
tế - xã hội
1.1.2.1. Vai trò của chi ngân sách nhà nước tỉnh cho
phát triển kinh tế
Cùng với chính sách tiền tệ, chính sách thu nhập và chính sách ngoại
thương, chính sách tài khóa thơng qua chi NSNN được sử dụng để tác động
17
vào tổng cầu của xã hội nhằm hướng nền kinh tế đạt những mục tiêu nhất
định như sản lượng cao, tỷ lệ lạm phát thấp, tỷ lệ thất nghiệp thấp và cân
bằng cán cân thanh tốn. Chính sách tài khóa nhằm vào các mục tiêu: Thúc
đẩy sự phát triển kinh tế, thực hiện công bằng xã hội, ổn định kinh tế và
hiệu quả kinh tế. Nói cách khác, khi nói đến vai trò của chi NSNN người ta
thường gắn với ba chức năng sau:
Thứ nhất, chi NSNN để đảm bảo ổn định kinh tế và tăng trưởng kinh tế
trong một năm tài khóa nhất định.
Thứ hai, chi NSNN để phân bổ cân đối hợp lý nguồn lực, nâng cao hiệu
quả kinh tế - xã hội trên địa bàn.
Thứ ba, chi NSNN để phân phối lại thu nhập quốc dân nhằm đảm bảo
cơng bằng xã hội, nhờ đó mà ổn định tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trên
địa bàn tỉnh. Do đó NSNN được coi là một cơng cụ quan trọng, vì khả năng
nguồn vốn của NSNN là rất lớn và phạm vi tác động của nó rất rộng. Thơng
qua chi NSNN sẽ góp phần điều chỉnh cơ cấu kinh tế phát triển theo định
hướng của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Thông qua các khoản chi gián tiếp, đặc biệt là chi xây dựng phát triển
cơ sở hạ tầng cũng góp phần tích cực cho việc phát triển nền kinh tế. Do đó
chi NSNN là một yếu tố khơng thể thiếu trong q trình phát triển kinh tế, tuy
nhiên xã hội ngày càng địi hỏi tính hiệu quả cao trong quá trình chi NSNN.
Xuất phát từ chức năng của Nhà nước là có trách nhiệm tạo ra hàng hố
và dịch vụ cơng. Đó là thứ hàng hố mà một người hay một doanh nghiệp sử
dụng không ảnh hưởng tới sự hưởng dụng tiếp tục của các doanh nghiệp khác.
Đối với lĩnh vực kinh tế thì dịch vụ cơng đó là các cơ sở hạ tầng kỹ thuật của
nền kinh tế như đường xá, cầu cảng, các khu công nghiệp, các khu chế xuất,
hệ thống thông tin liên lạc, trường đào tạo lao động nghề cho người lao động
trên địa bàn tỉnh. Cơ sở sản xuất này thường có quy mô vượt quá khả năng
18
của tư nhân hoặc do khó khăn, lợi nhuận thấp mà khu vực kinh doanh ngồi
Nhà nước khơng đầu tư; song sự tồn tại của chúng bảo đảm cho sự phát triển
của vùng hay khu vực kinh tế trên địa bàn nên cần phải chi NSNN cho xây
dựng và phát triển. Từ đó chi NSNN có các vai trị cơ bản sau:
a. Chi NSNN cho phát triển các cơ sở hạ tầng kỹ thuật nhằm phát
triển kinh tế trên địa bàn tỉnh
Chi đầu tư xây dựng cơ bản: Là khoản chi tài chính Nhà nước được
đầu tư cho các cơng trình thuộc kết cấu hạ tầng (cầu cống, bến cảng, sân
bay, hệ thống thuỷ lợi, năng lượng, viễn thông…). Các cơng trình kinh tế
có tính chất chiến lược, các cơng trình và dự án phát triển văn hóa xã hội
trọng điểm, phúc lợi cơng cộng nhằm hình thành thế cân đối cho nền kinh
tế. Từ đó tạo ra tiền đề kích thích q trình vận động vốn của doanh nghiệp
và tư nhân nhằm mục đích tăng trưởng kinh tế và nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần cho người dân.
Chi đầu tư xây dựng cơ bản có tầm quan trọng trong việc tạo ra cơ sở
vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế và xã hội, góp phần hình thành cơ cấu kinh
tế hợp lý theo định hướng chung của nền kinh tế, tạo điều kiện thúc đẩy sản
xuất phát triển và nâng cao năng suất lao động xã hội.
Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm và chú
trọng đến công tác đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, đặc biệt là đầu tư xây
dựng cơ bản. Các cấp chính quyền tỉnh đã dành một nguồn vốn nhất định
để tập trung đầu tư các cơng trình, dự án thuộc nhiều lĩnh vực nhằm thúc
đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội đưa Tuyên Quang trở thành một tỉnh
CNH, HĐH. Chính vì vậy các cấp chính quyền đã tập trung chỉ đạo sát sao
vấn đề quản lý và sử dụng nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản sao cho có
hiệu quả tránh tình trạng thất thốt, lãng phí. Chi NSNN cho xây dựng các
cơ sở hạ tầng được xác định là một trong những khâu đột phá quan trọng,
Đảng bộ tỉnh đã chỉ đạo hoàn thành các quy hoạch xây dựng, huy động tối
19
đa các nguồn vốn đầu tư phát triển góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã
hội. Chủ động khai thác tốt các nguồn lực để đầu tư phát triển hệ thống
giao thông với tổng số vốn đầu tư cho giao thông giai đoạn 2005 - 2010 là
trên 7.440 tỷ đồng [10].
b. Chi NSNN cho các dự án xây dựng các cơ sở sản xuất do Nhà nước
địa phương quản lý
Chi đầu tư và hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp nhà nước: Là khoản chi gắn
liền với sự can thiệp của nhà nước vào lĩnh vực kinh tế. Với khoản chi này
một mặt Nhà nước bảo đảm đầu tư vào một số lĩnh vực sản xuất kinh doanh
cần thiết tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế xã hội, mặt khác nhằm hình
thành một cơ cấu kinh tế hợp lý trên địa bàn tỉnh.
Trong nền kinh tế thị trường, các tổng công ty và doanh nghiệp nhà
nước được hình thành và tồn tại trong các ngành, các lĩnh vực then chốt như:
Khai thác tài nguyên thiên nhiên, năng lượng, các ngành cơng nghiệp cơ bản,
an ninh quốc phịng, các ngành phục vụ lợi ích cơng cộng…Với sự hoạt động
của loại hình doanh nghiệp nhà nước đó địi hỏi NSNN phải cấp vốn đầu tư
ban đầu và hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp nhà nước, khoản chi này hình thành
nên vốn cố định và vốn lưu động của doanh nghiệp nhà nước.
Chi góp vốn cổ phần, vốn liên doanh vào các doanh nghiệp thuộc các
lĩnh vực cần thiết có sự tham gia của Nhà nước: Trong nền kinh tế thị trường
ở Việt Nam, các công ty cổ phần được hình thành thơng qua q trình cổ phần
hố doanh nghiệp quốc doanh hoặc thành lập mới. Các doanh nghiệp liên
doanh được thành lập trên cơ sở liên doanh liên kết giữa các tổ chức kinh tế
với nhau. Các doanh nghiệp này tham gia vào nhiều lĩnh vực hoạt động kinh
tế kể cả ở những lĩnh vực có vị trí trọng yếu ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế.
Trong điều kiện đó địi hỏi Nhà nước với vai trị quản lý và điều tiết vĩ
mô nền kinh tế phải tham gia vào các lĩnh vực thiết yếu đó bằng việc mua cổ
phần của các cơng ty hoặc góp vốn liên doanh theo một tỷ lệ nhất định. Tuỳ
20
theo tính chất quan trọng của từng lĩnh vực sản xuất kinh doanh đối với nền
kinh tế, nhằm thực hiện hướng dẫn, kiểm soát hoặc khống chế hoạt động của
các doanh nghiệp này đi theo hướng phát triển có lợi cho nền kinh tế và định
hướng XHCN.
1.1.2.2. Vai trò của chi ngân sách địa phương cho phát triển các dịch
vụ phúc lợi xã hội trên địa bàn tỉnh
Cùng với việc thực hiện các chính sách phát triển kinh tế thì chi NSNN
cũng góp phần tích cực để thực hiện các chính sách xã hội, tạo điều kiện cho
các hoạt động xã hội phát triển một cách đồng bộ.
Thông qua chi NSNN sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của các hoạt
động: văn hóa, giáo dục, y tế, các hoạt động khác thuộc lĩnh vực văn hóa, xã
hội... Việc sử dụng công cụ chi NSNN nhằm điều tiết các vấn đề xã hội khơng
đơn giản, trong nhiều trường hợp nó tác động trở lại làm các vấn đề xã hội
thêm phức tạp. Chẳng hạn như: Khi NSNN trợ cấp giá điện và xăng dầu cho
người nghèo thì những đối tượng được hưởng trợ cấp không phải là những
người nghèo mà lại là những người có thu nhập cao, tạo ra sự mất cân bằng
trong xã hội. Vì vậy địi hỏi quá trình chi NSNN phải được nghiên cứu đầy đủ
và phải có sự thống nhất giữa chính sách và biện pháp thực hiện.
Xuất phát từ chức năng của Nhà nước là cung cấp các hàng hố và
dịch vụ cơng đối với phát triển xã hội trên địa bàn tỉnh, chi NSNN có vai
trị cụ thể sau:
a. Chi NSNN cho phát triển y tế giáo dục
Thứ nhất, chi NSNN cho phát triển y tế trên địa bàn tỉnh
Chi sự nghiệp y tế là khoản chi phục vụ cơng tác phịng bệnh và chữa
bệnh nhằm nâng cao mức sống cho mọi người dân trong xã hội. Về nội dung
khoản chi này bao gồm: 1) Chi cho cơng tác phịng bệnh: Bao gồm các khoản
chi nhằm bảo đảm điều kiện hoạt động của các viện nghiên cứu, phòng khám,
trạm chuyên khoa; 2) Chi cho công tác chữa bệnh: Là khoản chi quan trọng
21
nhất nhằm duy trì sự hoạt động của hệ thống các bệnh viện, bệnh xá, nhà điều
dưỡng; 3) Chi cho các chương trình quốc gia về y tế: Chương trình phịng
chống bướu cổ, phịng chống sốt rét, chương trình dân số và kế hoạch hóa gia
đình ..., và 4) Các khoản chi sự nghiệp y tế khác.
Hiện nay, các khoản chi từ NSNN cho hoạt động sự nghiệp y tế chưa
đáp ứng được yêu cầu phát triển của ngành y. Việc nâng cao chất lượng hoạt
động khám, chữa bệnh và tăng cường trang bị cơ sở vật chất, kỹ thuật cho một
nền y học hiện đại đòi hỏi bên cạnh nguồn kinh phí do NSNN cấp phát cần
phải huy động thêm các nguồn thu khác từ trong nước và nước ngồi.
Trong điều kiện nhằm xóa bỏ dần sự bao cấp của NSNN đối với
hoạt động sự nghiệp y tế và tăng cường sử dụng có hiệu quả kinh phí cấp
cho ngành y tế. Xu hướng chung hiện nay là Nhà nước chỉ cấp kinh phí
cho các hoạt động phịng chống các dịch bệnh, thực hiện các chương trình
quốc gia về y tế và chi chữa bệnh cho các đối tượng đặc biệt. Các trường
hợp còn lại sẽ huy động sự đóng góp từ người bệnh thơng qua việc thực
hiện chế độ bảo hiểm y tế cho mọi đối tượng để hình thành quỹ bảo hiểm
y tế nhằm thanh tốn chi phí cho người bệnh khi đến khám, chữa bệnh tại
các cơ sở y tế.
Thứ hai, chi NSNN cho phát triển giáo dục đào tạo trên địa bàn tỉnh
Đây là khoản chi mà tầm quan trọng của nó là nhằm nâng cao dân trí,
trình độ chun mơn kỹ thuật của mọi người dân trong xã hội góp phần thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế. Về nội dung khoản chi này bao gồm: 1) Chi về giáo
dục phổ thông: Hệ mẫu giáo, hệ tiểu học, hệ trung học, và hệ bổ túc văn hóa;
2) Chi về đào tạo sau đại học, đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp,
đào tạo nghề và các hình thức đào tạo bồi dưỡng khác; 3) Chi cho các chương
trình quốc gia về giáo dục và đào tạo: Chương trình phổ cập giáo dục tiểu
học, chống xuống cấp trường học, tăng cường giáo dục miền núi; 4) Các
khoản chi để xây dựng cơ sở hạ tầng giáo dục - đào tạo, hiện đại hóa việc dậy
22
và học, xây mới, sửa chữa bổ xung các trường học, đặc biệt là ở vùng đặc biệt
khó khăn, mua sắm trang thiết bị dạy học, đồ dùng học tập; 5) Chi cho chống
mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học; và 6) Các khoản chi sự nghiệp giáo dục
và đào tạo khác.
Trong cơ chế thị trường hiện nay ở Việt Nam, sự nghiệp giáo dục và
đào tạo đang phát triển theo hướng xã hội hóa và đa dạng hóa mục tiêu,
chương trình, loại hình trường lớp và các loại hình giáo dục, đào tạo nhằm
mục đích nâng cao trình độ dân trí của các tầng lớp dân cư trong xã hội.
Bên cạnh các trường công lập đã phát triển các dạng trường dân lập, tư
thục ở tất cả các cấp trong hệ thống giáo dục quốc dân đã giảm gánh nặng
cho NSNN cũng như tạo điều kiện nâng cao chất lượng giáo dục và
đào tạo.
b. Chi NSNN cho hình thành phát triển và duy trì các quỹ bảo hiểm
xã hội tỉnh quản lý
Mục tiêu của khoản chi này là nhằm bảo đảm đời sống của người lao
động khi gặp khó khăn, tai nạn, già yếu, những người khơng có khả năng lao
động đồng thời giải quyết những vấn đề xã hội nhất định.
Chi từ NSNN cho sự nghiệp xã hội bao gồm: 1) Chi thực hiện những
chính sách đối với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, gia đình có cơng
với cách mạng; 2) Chi để giúp đỡ đời sống nhân dân ở những vùng xảy ra
thiên tai, hoả hoạn và những sự cố bất ngờ; 3) Chi cho các trại xã hội: Trại trẻ
mồ côi, trại nuôi dưỡng người già cô đơn, các trại cải tạo, giáo dưỡng; và 4)
Chi trợ cấp cho người nghèo.
Chi cho sự nghiệp xã hội chủ yếu là do NSNN đài thọ, bên cạnh đó cịn
có nguồn do các đơn vị kinh tế, tổ chức xã hội trong và ngoài nước quyên
góp, ủng hộ của nhân dân. Khoản chi này đã góp phần giảm nhẹ những khó
23
khăn về đời sống của một số đối tượng nhất định và hình thành thu nhập về
phúc lợi xã hội cho những đối tượng đó.
c. Chi NSNN cho phát triển sự nghiệp văn hóa trên địa bàn tỉnh
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, một môi trường văn hóa lành
mạnh được xây dựng trên bản sắc dân tôc kết hợp với yếu tố thời đại sẽ làm
cho xã hội tiến bộ. Nội dung chủ yếu của nền văn hóa XHCN là kế thừa và
phát huy những giá trị văn hóa sẵn có, truyền thống, củng cố tăng cường
mạng lưới văn hóa cơ sở, xây dựng nền văn hóa mới XHCN.
Mục tiêu của các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể thao là nhằm nâng
cao tri thức và thẩm mỹ cho mọi tầng lớp dân cư nhằm xây dựng một nền văn
hóa đậm đà bản sắc dân tộc, có nội dung nhân đạo, dân chủ và tiến bộ, phát
triển đạo đức xã hội và truyền thống dân tộc. Các mục tiêu của các hoạt động
này cho phép mỗi cơng dân phát triển tồn diện về chính trị, tư tưởng và đạo đức
đặc biệt là dân cư tại các tỉnh miền núi. Vì tính chất quan trọng của các hoạt động
văn hóa, nghệ thuật, thể thao nên việc thực hiện các mục tiêu của chúng gắn liền
một khoản cấp phát từ NSNN. Về nội dung khoản chi này bao gồm: 1) Chi cho hệ
thống thư viện, bảo tàng, nhà văn hóa; 2) Chi cho hệ thống phát thanh, truyền hình
và các hoạt động thơng tin khác; 3) Chi cho các hoạt động biểu diễn nghệ thuật và
các hoạt động văn hóa khác; 4) Chi cho sự nghiệp thể dục thể thao; và 5) Chi cho
các chương trình quốc gia về văn hóa, nghệ thuật, thể dục thể thao.
Mục tiêu của khoản chi này là nhằm cải thiện đời sống văn hóa tinh
thần của người dân vì tri thức văn hóa và bản lĩnh chính trị góp phần tích cực
vào công tác tuyên truyền, giáo dục truyền thống cách mạng, đấu tranh các
hiện tượng tiêu cực, đẩy lùi văn hóa độc hại.
d. Chi NSNN cho duy trì trật tự an tồn xã hội an ninh quốc phịng
trên địa bàn tỉnh
24
An ninh và quốc phòng thuộc lĩnh vực tiêu dùng xã hội, là những hoạt
động bảo đảm sự tồn tại của Nhà nước và cần thiết phải cấp phát tài chính cho
các hoạt động này từ NSNN. Khoản chi này được phân làm hai bộ phận:
- Khoản chi cho an ninh nhằm bảo vệ chế độ xã hội, an ninh của dân cư
trên địa bàn tỉnh.
- Khoản chi cho quốc phòng để phòng thủ và bảo vệ đất nước chống sự
xâm lược, tấn cơng và đe dọa từ nước ngồi.
Xét về nội dung, chi an ninh quốc phòng bao gồm:
Một là, chi về tiền lương và phụ cấp lương cho tồn qn và lực lượng
cơng an nhân dân.
Hai là, chi về đào tạo huấn luyện cho bộ máy quốc phòng, an ninh và
chi nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh.
Ba là, chi mua sắm trang thiết bị, vũ khí và các phương tiện qn sự
cho tồn quân và lực lượng công an.
Bốn là, chi đầu tư xây dựng các cơng trình kỹ thuật phục vụ cho mục
đích quốc phịng và an ninh.
Năm là, các khoản chi khác…
Chi về an ninh quốc phòng phải căn cứ vào tình hình thực tế của tỉnh
trong từng thời kỳ. Hàng năm ngân sách tỉnh phải dành ra một phần kinh phí
đáng kể từ ngân sách để duy trì, củng cố lực lượng an ninh quốc phòng. Nếu
khoản chi này quá lớn thì sẽ hạn chế tăng trưởng kinh tế, ngược lại nếu q ít sẽ
khơng đảm bảo được trật tự an tồn xã hội trên địa bàn tỉnh. Do đó, bố trí ngân
sách cho An ninh - Quốc phịng một mặt phải đảm bảo những chi phí cần thiết
cho phịng thủ và giữ gìn an ninh của địa bàn trên cơ sở đó ổn định về kinh tế xã
hội, mặt khác phải thực hiện tiết kiệm và có hiệu quả trong chi tiêu để dành kinh
phí cho phát triển và các dịch vụ xã hội khác.
e. Chi NSNN cho phát triển và duy trì các tổ chức
xã hội trên địa bàn tỉnh.
25
Việc hỗ trợ cho các tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã
hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở địa phương phải tuân theo quy định của
pháp luật. Trong đó: Chi ngân sách địa phương hổ trợ các tổ chức tơn giáo tín
ngưỡng, các tổ chức từ thiện, tổ chức văn hóa xã hội làng nghề ở địa phương
cũng là nhiệm vụ của ngân sách tỉnh.
1.2. KINH NGHIỆM VỀ CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC CHO PHÁT TRIỂN
KINH TẾ - XÃ HỘI Ở CÁC TỈNH TƯƠNG ĐỒNG
1.2.1. Kinh nghiệm về chi ngân sách nhà nước cho phát triển kinh
tế - xã hội ở tỉnh Thái Nguyên
Tập trung cơ cấu lại ngân sách địa phương theo hướng phân định rõ
nguồn thu và nhiệm vụ chi của NSNN cấp huyện để tăng cường tính chủ
động của cấp ngân sách địa phương, xác định rõ nhiệm vụ trọng yếu như
nâng cao tỷ trọng chi đầu tư phát triển trong tổng chi NSNN, cụ thể tập
trung cho đầu tư cơ sở hạ tầng giao thông, đường điện, trường học, trạm xá
theo chủ trương giai đoạn II Quyết định 135/1998/QĐ-TTg ngày 31/7/1998
phê duyệt chương trình phát triển KT - XH các xã đặc biệt khó khăn miền
núi và vùng sâu, vùng xa.
- Động viên về thuế, phí vào NSNN song phải giải quyết hài hồ được
lợi ích kinh tế giữa Nhà nước, doanh nghiệp, xã hội, phù hợp với tốc độ tăng
trưởng kinh tế và tiến trình hội nhập khu vực, quốc tế, hạn chế tối đa tình trạng
thất thu, trốn lậu thuế, thực hiện thu đúng, thu đủ mọi nguồn thu vào NSNN.
- Đổi mới và nâng cao hiệu quả điều hành ngân sách trên địa bàn; tích
cực khai thác mọi nguồn thu cho ngân sách từ các khu vực kinh tế, đảm bảo
sự bình đẳng giữa các đối tượng, triệt để tiết kiệm trong chi thường xuyên, ưu
tiên chi đầu tư phát triển; tổ chức tốt thực hiện dự toán thu, chi ngân sách đã
được HĐND các huyện, thành phố, thị xã thông qua hàng năm. Đảm bảo chi
ngân sách phục vụ cho việc hoàn thành các mục tiêu kinh tế xã hội do Đại hội
Đảng bộ đề ra.