1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo hiểm xã hội là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, được
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm, thực hiện sau khi Cách mạng tháng 8 thành
công và luôn được thường xuyên mở rộng, bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp
với thực tiễn xây dựng và bảo vệ đất nước. Góp phần đảm bảo cuộc sống cho
đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, Lực lượng vũ trang nhân dân, người
lao động. Tạo thành sức mạnh tổng hợp toàn quân dân làm nên thắng lợi vĩ
đại trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ, đưa đất nước vững bước đi lên trên
con đường xây dựng Chủ nghĩa Xã hội vì mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng dân chủ văn minh.
Để thực hiện chính sách BHXH phù hợp với cơng cuộc đổi mới của đất
nước, hồ nhập với xu thế phát triển và hội nhập quốc tế; thực hiện Hiến pháp
năm 1992 và Bộ Luật Lao động.
Cùng với sự hình thành và phát triển của hệ thống BHXH từ Trung
ương đến địa phương, BHXH Hà Tĩnh được thành lập theo Quyết định số
14a/TC-CB ngày 15/6/1995 của Tổng GĐ BHXH Việt Nam. Qua gần 15 năm
tổ chức xây dựng và phát triển với những kết quả đã đạt được BHXH Hà Tĩnh
đã góp phần tích cực ổn định chính trị, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội,
đảm bảo quốc phòng an ninh trên địa bàn của tỉnh.
Tuy nhiên trong q trình thực hiện chính sách BHXH ở tỉnh Hà Tĩnh
trong thời gian qua còn bộc lộ những hạn chế thiếu sót nhất là trong cơng tác
thu BHXH đã và đang đặt ra những vấn đề cần quan tâm giải quyết, đó là:
* Việc phát triển mở rộng đối tượng tham gia BHXH bắt buộc nhất là
khu vực các Doanh nghiệp ngoài Quốc doanh. Đây là khu vực tiềm năng có
nhiều lao động nhưng tỷ lệ tham gia BHXH còn quá thấp chưa tương xứng
với tiềm năng của tỉnh.
2
* Vấn đề quản lý lao động trong độ tuổi có việc làm thuộc các thành
phần kinh tế. Đây là cơ sở để phát triển mở rộng đối tượng tham gia BHXH
nhưng cũng là khâu cịn yếu hoặc có thể đánh giá là chưa quản lý được.
* Công tác tuyên truyền, tham gia, kiểm tra xử lý vi phạm pháp luật
BHXH đối với các chủ Doanh nghiệp ngoài quốc doanh cố tình khơng đóng,
đóng khơng đúng, khơng kịp thời, đầy đủ BHXH cho người lao động. Vấn đề
giải quyết nợ đọng BHXH là một trong những vấn đề gây bức xúc hịên nay.
* Nỗ lực thực hiện công tác cải cách hành chính, đổi mới tác phong,
phong cách phục vụ người lao động của đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác
thu BHXH và ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác thu BHXh bắt buộc.
Do sắp xếp lai lao động trong cạnh tranh trong cơ chế thị trường bắt
buộc một số doanh nghịêp phải sát nhập, tách và giải thể do làm ăn thua lỗ.
Như vậy sự thách thức đối với hoạt động thu BHXh là rất lớn. Tất cả những
điều đó đang đặt ra những vấn đề bức xúc cần có những giải pháp nằhm thực
hiện tốt công tác thu BHXH.
Là người trực tiếp làm công tác quản lý thu BHXH ở địa phương, tác
giả chọn đề tài: “Thu bảo hiểm xã hội ở các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh trên địa bàn Hà Tĩnh” làm đề tài luận văn thạc sỹ để nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Từ năm 1995 sau gần 15 năm thành lập và đi vào hoạt động của hệ
thống BHXH Việt Nam đã có nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu của cán
bộ lãnh đạo, quản lý trong ngành và ngoài ngành, từ đề tài cấp Bộ, luận văn
thạc sỹ, luận văn tiến sỹ đi sâu nghiên cứu những vấn đề chung, cũng như
từng lĩnh vực cụ thể về BHXH nhưng về công tác quản lý thu BHXH cịn rất
hạn chế. Phải có một số đề tài trong lĩnh vực này để nghiên cứu một cách có
hệ thống, đó là:
- “Thực trạng quản lý thu Bảo hiểm xã hội hiện nay và các bịên pháp
nâng cao hiệu quả công tác thu”, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ do TS.
Nguyễn Văn Châu làm chủ nhiệm đề tài bảo vệ năm 1996.
3
Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm quản lý thu BHXh của một số nước
trên thế giới và tổng kết hoạt động thực tiễn của quản lý thu BHXH ở Việt
Nam trước năm 1995 và đến năm 1996, tác giả làm rõ thực trạng hoạt động
BHXH, đặc biệt là công tác thu BHXH trong thời gian qua, nhằm phân tích
khả năng thu BHXH để bù đắp các chế độ BHXH được hưởng nhằm thay thế
dần các nguồn chi lấy từ Ngân sách Nhà nước đồng thời đề xuất kiến nghị
một số vấn đề cụ thể nhằm cải tiến công tác thu BHXH ở Việt Nam.
- “Cơ sở khoa học hoàn thiện quy trình quản lý thu BHXH", đề tài
nghiên cứu khoa học cấp Bộ do Tiến sỹ Dương Xuân Triệu, Chủ nhiệm, bảo
vệ năm 1999.
- “Hoàn thiện quản lý thu BHXH khu vực doanh nghiệp ngoài quốc
doanh ở Việt Nam”, Luận văn thạc sỹ quản lý kinh tế của tác giả Trần Quốc
Túy bảo vệ năm 2000.
Nhìn chung các cơng trình, bài viết trên dưới những góc độ tiếp cận
khác nhau đã đề cập đến công tác thu BHXH. Nhưng đến nay chưa có cơng
trình nghiên cứu nào nghiên cứu thu BHXH ở các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh trên địa bàn Hà Tĩnh, một cách có hệ thống dưới dạng lụân văn khoa
học. Vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài nghiên cứu là cần thiết và khơng có sự
trùng lặp nào với cơng trình đã nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở vận dụng lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về thu BHXH
ngồi quốc doanh, luận văn phân tích thực trạng cơng tác thu BHXH ngồi
quốc doanh từ năm 2005 đến 2009 trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh; từ đó đề xuất
những giải pháp chủ yếu nhằm hồn thiện cơng tác thu BHXh ngoài quốc
doanh đảm bảo phát triển sự nghiệp BHXH một cách bền vững.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về thu BHXH ngoài
quốc doanh.
4
- Phân tích đánh giá thực trạng về thu BHXH ngoài quốc doanh, chỉ ra
những kết quả đã đạt được, những hạn chế và những vấn đề đang đặt ra hịên
nay trong cơng tác thu BHXH các doanh nghiệp ngồi quốc doanh ở Hà Tĩnh.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện thu BHXH các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.
- Kiến nghị với Chính phủ, UBND tỉnh và BHXH Việt Nam bổ sung
sửa đổi chính sách liên quan đến cơng tác thu BHXH các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
An sinh xã hội có nhiều lĩnh vực trong đó BHXH là trụ cột của an sinh
xã hội gồm hai mảng chính là BHXH, BHYT. Đối tượng tham gia BHXH bắt
buộc gồm người lao động làm việc theo hợp đồng lao động khơng xác định
thời hạn và có thời hạn từ đủ ba tháng trở lên trong các cơ quan nhà nước, các
doanh nghiệp và làm việc trong khối lực lượng vũ trang. Tuy nhiên do phạm
vi nghiên cứu luận văn chỉ tập trung ở đối tượng khu vực DNNQD và người
lao động ở trong khu vực này. Trong đó ngồi mức đóng chủ sử dụng lao
động, người lao động thì các quyền lợi của họ được hưởng là được cấp sổ
BHXH và hưởng các quyền lợi của năm chế độ như sau:
1. Chế độ ốm đau
2. Chế độ thai sản
3. Chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
4. Chế độ hưu trí
5. Chế độ tử tuất.
Và từ 01/01/2007 thực hiện Luật BHXH khi họ tham gia Bảo hiểm thất
nghiệp tùy theo thời gian tham gia cụ thể để được hưởng chế độ này ngồi ra
cịn được hưởng
- Hỗ trợ học nghề
- Hỗ trợ tìm việc làm chế độ BHYT
5
Với cấp độ của một luận văn thạc sỹ, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu
thu BHXH từ các đối tượng phải nộp BHXH bắt buộc ở các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh.
- Về phạm vi nghiên cứu: chỉ nghiên cứu về cơng tác thu BHXh các
doanh nghiệp ngồi quốc doanh ở Hà Tĩnh từ năm 2005 - 2009, không đề cập
đến thu BHXH của các đối tượng khác.
5. Cơ sở lý lụân và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới của Đảng được đề ra trong các kỳ Đại
hội, đặc biệt là Đại hội IX, Đại hội X; các số liệu tổng hợp báo cáo, điều tra
về thu BHXH các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.
Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp của KTCT học, ngồi ra có kết
hợp phương pháp hệ thống và khái quát hóa, so sánh, kế thừa một số cơng
trình đã cơng bố có liên quan đến vấn đề nghiên cứ để đánh giá và làm sáng tỏ
vấn đề cần quan tâm.
6. Đóng góp của luận văn
- Vai trị của khu vực ngồi quốc doanh ngày càng quan trọng trong nền
kinh tế và an sinh xã hội của đất nước.
- Phân tích thực trạng cơng tác thu BHXH ở khu vực doanh nghiệp
ngoài quốc doanh hiện nay trên địa bàn Hà Tĩnh.
- Đưa ra một số quan điểm, định hướng, dự báo, giải pháp chủ yếu
nhằm góp phần hồn thiện cơng tác quản lý thu BHXH ở khu vực này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Luận văn
gồm 3 chương, 8 tiết.
6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ THU BẢO HIỂM XÃ HỘI
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI
1.1.1. Khái niệm bảo hiểm xã hội
Khi sinh ra và lớn lên con người luôn phải chịu những tác động của quy
luật tự nhiên và xã hội. Những tác động đó có hai xu hướng chính: hoặc là tác
động tốt hoặc là tác động xấu đối với con người. Những tác động xấu mà con
người phải đối mặt đó là những rủi ro do thiên tai, do lao động sản xuất hay
do sinh hoạt trong cuộc sống gây ra, như: bão lụt, hạn hán, hoả hoạn, sóng
thần, động đất, bệnh dịch, sự ơ nhiễm môi trường, tai nạn giao thông... Mặt
khác, đa số con người ai cũng phải trải qua quá trình: “Sinh, lão, bệnh, tử”,
trong q trình đó con người phải cần những nhu cầu tối thiểu về ăn, ở, mặc, học
hành, đi lại, khám chữa bệnh. Để thoả mãn những nhu cầu đó con người phải
làm việc để đem lại thu nhập, nhưng thực tế khơng phải lúc nào con người cũng
có việc làm để mang lại thu nhập hay có đủ sức khoẻ để làm việc; mà những rủi
ro: ốm đau, bệnh tật, già yếu, mất việc làm... ln rình rập con người.
Để khắc phục những rủi ro trên, thông thường có hai nhóm giải pháp cơ
bản: nhóm phịng chống rủi ro và nhóm khắc phục hậu quả do rủi ro gây ra.
Nhóm phịng chống rủi ro: Nhà nước đã đưa ra các quy định quản lý
từng lĩnh vực (ban hành bộ luật, luật, pháp lệnh, nghị định, thông tư...) bắt
buộc từng các nhân, tổ chức, cơ quan, đơn vị phải thực hiện, để phòng ngừa
và hạn chế những rủi ro. Đồng thời tiến hành các biện pháp kiểm tra, giám
sát, ngăn ngừa, né tránh để hạn chế rủi ro. Chẳng hạn, khi ký kết hợp đồng lao
động giữa người lao động và chủ sử dụng lao động bắt buộc phải có thoả
thuận về điều kiện làm việc, an tồn lao động, bảo hiểm xã hội. Để giảm tai
nạn lao động, chủ sử dụng lao động phải tổ chức cho người lao động học tập
7
nội quy, quy chế làm việc, chấp hành đầy đủ các quy định về bảo hộ lao động.
Để hạn chế tai nạn giao thông nhà nước ban hành Luật giao thông, bắt buộc
mọi người phải tuân thủ, nếu điều khiển xe phải có giấy phép lái xe, chấp
hành các tín hiệu trên đường...
Nhóm khắc phục các rủi ro: Nhà nước có các chính sách, các quy định
khắc phục các rủi ro, cũng được thể hiện trong bộ luật, luật, pháp lệnh, nghị
định, thông tư...nếu hậu quả do thiên tai gây ra thì nhà nước có thể chi ra một
khoản ngân sách để khắc phục hay vận động nhân dân quyên góp tiền để ủng hộ.
Cịn với mỗi cá nhân có thể tự chi quỹ dự phòng như tiền gửi tiết kiệm, vàng,
bạc, các đồ quý hiếm đắt tiền để khắc phục rủi ro.
Thực tế có nhiều rủi ro xảy ra mà khơng thể phịng trước được, để khắc
phục hậu quả của nó quỹ dự phịng của mỗi các nhân khơng thể bù đắp, gánh
vác được (chẳng hạn như phòng chống thiên tai, bão lụt hay mắc bệnh hiểm
nghèo), họ phải thế chấp tài sản để vay tiền ngân hàng, vay tiền các tổ chức
tín dụng hay của người thân, của bạn bè để bù đắp. Chính vì vậy, cần phải có
biện pháp khắc phục tổng thể và dài lâu mang tính cộng đồng xã hội nhằm
giảm bớt khó khăn cho mỗi con người khi khắc phục các rủi ro, tức là tham
gia bảo hiểm. Hay nói cách khác là chuyển từ dự phòng cá nhân sang dự
phòng của cộng đồng.
Trong tất cả các biện pháp phòng chống và khắc phục rủi ro, tổn thất, bảo
hiểm là biện pháp mang lại hiệu quả cao nhất. Bảo hiểm là chế độ bồi thường
kinh tế, chia nhỏ rủi ro, tổn thất của một người hay một số ít người cho nhiều
người có cùng khả năng xảy ra rủi ro, tổn thất nào đó, theo những nguyên tắc,
chuẩn mực được thống nhất và quy định trong khung khổ pháp luật của mỗi
quốc gia. Bảo hiểm không những đảm bảo sự chủ động, an tâm cho người tham
gia về kinh tế mà cịn góp phần làm ổn định an toàn xã hội, tạo ra nguồn vốn lớn
để đầu tư tăng trưởng quỹ bảo hiểm và phát triển kinh tế - xã hội. Đối tượng
tham gia bảo hiểm là các cơ quan, đơn vị, tổ chức và cá nhân, đóng góp một
8
khoản phí nhất định cho cơ quan bảo hiểm để hình thành quỹ dự trữ. Quỹ dự trữ
này dùng để bồi thường thiệt hại hoặc trợ cấp cho người tham gia khi gặp phải
những rủi ro, tổn thất.
Trên thế giới, hoạt động bảo hiểm xuất hiện khá sớm và phát triển ở
hầu hết các nước, năm 1870 Chính phủ Anh ban hành các đạo luật về các
công ty bảo hiểm rủi ro (bảo hiểm nhà nước). Năm 1883, đạo luật BHXH ra
đời đầu tiên ở nước Phổ (nay là nước Cộng hoà Liên bang Đức) Luật bảo
hiểm y tế; năm 1884 Luật bảo hiểm tai nạn lao động; năm 1889, Luật bảo
hiểm thương tật và người già. Ngày 18/6/1952 tại Giơnevơ, Thụy Sỹ, Hội
nghị quốc tế về lao động đã ký Cơng ước về an tồn xã hội (Cơng ước số 102
năm 1952). Đây là công ước đầu tiên của thế giới về bảo hiểm lao động (bảo
hiểm xã hội).
Ở Việt Nam, dưới thời thuộc địa cũng đã có chế độ bảo hiểm đối với công
nhân. Năm 1918, thực hiện chế độ bảo hiểm đối với công nhân bị tàn tật; năm
1920 thực hiện bảo hiểm ốm đau. Sau cách mạng Tháng tám năm 1945 Hồ Chí
Minh đã thay mặt Chính phủ ra Sắc lệnh số 54-SL ngày 03/11/1945, Sắc lệnh số
105-SL ngày 14/6/1946 quy định những điều kiện cho cơng chức về hưu.
Về cơ bản bảo hiểm có hai loại hình chính là bảo hiểm xã hội và bảo
hiểm thương mại. Đối với bảo hiểm xã hội, những rủi ro mà người tham gia
gặp phải đó là: ốm đau, bệnh tật, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp,
tàn tật, suy giảm sức khoẻ, mất việc làm, không còn đủ khả năng lao động và cả
khi qua đời. Khi gặp các rủi ro trên con người sẽ bị ảnh hưởng về kinh tế nên cần
phải có nguồn thu nhập khác bù đắp để đảm bảo cuộc sống của chính bản thân
họ và gia đình. Nguồn thu nhập đó được hình thành trên cơ sở quỹ tài chính tập
trung do người tham gia BHXH đóng góp và hỗ trợ của Nhà nước.
Để bảo đảm quyền lợi cơ bản cho người lao động trên toàn thế giới và an
toàn xã hội, Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) ban hành Công ước số 102 ngày
4/6/1952 về quy phạm tối thiểu an tồn xã hội, có quy định 09 chế độ trợ cấp
9
gồm:
- Chế độ chăm sóc y tế;
- Chế độ trợ cấp TNLĐ - BNN;
- Chế độ trợ cấp ốm đau;
- Chế độ trợ cấp thai sản;
- Chế độ trợ cấp thất nghiệp;
- Chế độ trợ cấp tàn tật;
- Chế độ trợ cấp tuổi già;
- Chế độ trợ cấp tiền tuất.
- Chế độ trợ cấp gia đình;
Việc thực hiện các chế độ BHXH ở mỗi nước rất khác nhau, tuỳ thuộc vào
điều kiện kinh tế, lịch sử, chính trị và xã hội cụ thể của mỗi nước. Đối với những
nước có nền kinh tế phát triển thì gần như thực hiện đầy đủ cả 9 chế độ được quy
định trong Công ước 102 và quy định bổ sung của Tổ chức Lao động quốc tế. Còn
những nước lạc hậu, nền kinh tế nghèo nàn thì chỉ áp dụng một số chế độ bắt buộc
chủ yếu là: Ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, hưu trí và tử tuất. Các chế độ khác
chỉ được bổ sung dần trong điều kiện kinh tế cho phép. Ở nước ta, theo quy định
tại Điều lệ BHXH ban hành kèm theo Nghị định số: 12/CP ngày 26/01/1995 và
Nghị định số 45/CP ngày 15/07/1995 của Chính phủ, NĐ 63/2005/NĐ - CP ngày
16/5/2005, Luật BHXH được quốc hội khóa XII thơng qua ngày 12 tháng 07 năm
2006 đang thực hiện 08 chế độ:
- Chế độ trợ cấp ốm đau;
- Chế độ trợ cấp thai sản;
- Chế độ trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp;
- Chế độ trợ cấp hưu trí;
- Chế độ trợ cấp tử tuất.
- Chế độ dưỡng sức và phục hồi sức khoẻ
- Chế độ trợ cấp thất nghiệp
- Chế độ khám chữa bệnh BHYT.
Không những việc áp dụng các chế độ BHXH ở mỗi quốc gia phụ
thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh kinh tế - xã hội mà còn phụ thuộc vào cách
10
nhìn nhận về BHXH, chẳng hạn:
Dưới góc độ chính sách: “BHXH là một chính sách xã hội, nhằm giải
quyết các vấn đề xã hội liên quan đến mỗi tầng lớp đông đảo người lao động và
bảo vệ sự phát triển kinh tế - xã hội, sự ổn định chính trị quốc gia”.
Dưới góc độ quản lý: “ BHXH là cơng cụ để quản lý, thông qua pháp
luật về BHXH điều chỉnh mối quan hệ kinh tế giữa người lao động, chủ sử
dụng lao động và Nhà nước; thực hiện quá trình phân phối và phân phối lại
thu nhập giữa các thành viên trong xã hội”.
Dưới góc độ tài chính: “Thực hiện BHXH để hình thành quỹ tài chính
tập chung, qua đó đầu tư, tăng trưởng bảo tồn quỹ BHXH và góp phần làm
tăng tổng vốn đầu tư phát triển tồn xã hội”.
Dưới góc độ thu nhập: “BHXH là sự bảo đảm thay thế một phần thu
nhập khi người lao động có tham gia BHXH mất hoặc giảm thu nhập”.
Vì vậy, cho đến nay chưa có một khái niệm thống nhất về BHXH, các
nhà kinh điển đưa ra một số khái niệm như:
Khái niệm thứ nhất: BHXH là mọi chế độ về bảo hiểm cho người lao
động. Đây là loại bảo hiểm bắt buộc. Những người lao động bắt buộc phải
đóng góp theo các quy định của Chính phủ vào các tổ chức bảo hiểm quốc gia
để nhận được các khoản trợ cấp.
Khái niệm thứ hai: BHXH là tổng hợp những quy định của Nhà nước
về bảo đảm vật chất, góp phần ổn định đời sống cho người lao động và gia
đình trong các trường hợp người lao động ốm đau, thai sản, hết tuổi lao động,
bệnh nghề nghiệp, mất việc làm, gặp rủi ro hoặc các khó khăn khác.
Hai khái niệm trên thể hiện được những điểm cơ bản về BHXH như:
- BHXH là tổng hợp những quy định của nhà nước về quyền lợi và
trách nhiệm của người lao động khi tham gia BHXH;
- Quy định các chế độ về BHXH như: ốm đau, thai sản, tai nạn lao
động bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động, mất việc làm, chết...
Tuy nhiên ở từng khái niệm chưa thể hiện đầy đủ các khía cạnh của
11
BHXH: khái niệm thứ nhất đưa ra một loại hình BHXH bắt buộc, trên thực tế
cịn có BHXH tự nguyện; khái niệm thứ hai khơng thể hiện trách nhiệm đóng
góp của người lao động; cả hai khái niệm trên đều không nêu sự bảo đảm thực
hiện và bảo hộ của nhà nước đối với việc thực hiện các chính sách BHXH.
Từ những phân tích trên tác giả đưa ra khái niệm như sau: Bảo hiểm xã
hội là những quy định của Nhà nước được bảo đảm thực hiện, để thay thế
hoặc bù đắp một phần thu nhập do bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và
bệnh nghề nghiệp, dưỡng sức và phục hồi sức khoẻ, tàn tật, thất nghiệp, tuổi
già, tử tuất; dựa trên cơ sở quỹ tài chính do các bên tham gia BHXH đóng
góp và sự bảo hộ của Nhà nước nhằm ổn định đời sống cho người tham gia
BHXH và gia đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm an tồn xã hội.
1.1.1.1. Nội dung của chính sách bảo hiểm xã hội
Trước hết, phải thấy rằng bảo hiểm xã hội là một quá trình của nhận
thức, cùng với quá trình phát triển, tiến bộ của lồi người chính sách BHXH
ln được hồn thiện cả về nội dung và hình thức. Theo quan niệm của Bảo
hiểm xã hội Việt Nam: “Chính sách BHXH là một bộ phận quan trọng trong
chính sách kinh tế xã hội của nhà nước, là những chủ trương, quan điểm
nguyên tắc BHXH để giải quyết các vấn đề xã hội liên quan đến một tầng lớp
đông đảo người lao động và các vấn đề kích thích phát triển kinh tế của từng
thời kỳ”. Nội dung của chính sách BHXH được thể hiện như sau:
Một là, Bảo hiểm xã hội là sự san sẻ rủi ro, chia nhỏ rủi ro cho nhiều cá
nhân trong cộng đồng cùng gánh chịu; hay nói cách khác “lấy số đơng bù số ít”
tức là dùng số tiền đóng góp của số đơng người tham gia BHXH để bù đắp, chia sẻ
cho một số ít người khi gặp phải những biến cố rủi ro gây tổn thất.
Đối với các rủi ro mà nguyên nhân do ốm đau, thai sản, tai nạn lao
đông, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, tật nguyền, nhiều khi từng cá nhân
không đủ khả năng tài chính để khắc phục; do vậy Nhà nước ban hành các
quy định để huy động mọi người trong xã hội đóng góp một khoản nhất
12
định cùng với Nhà nước để hình thành nên quỹ BHXH chi trả cho một số
người gặp phải rủi ro cần khắc phục. Những người tham gia BHXH không
phải ai cũng được hưởng đồng đều mà chỉ khi gặp phải rủi ro và có đủ điều
kiện theo quy định thì mới được hưởng. Còn đối với những người hết tuổi
lao động hoặc suy giảm khả năng lao động quỹ BHXH bảo đảm một khoản
thu nhập để ổn định cuộc sống.
Hai là, BHXH là một công cụ để quản lý xã hội, là sự bảo đảm của nhà
nước để ổn định đời sống cho người tham gia BHXH, an toàn xã hội và thúc
đẩy sản xuất phát triển.
BHXH được coi là một chính sách xã hội quan trọng, nhằm bảo đảm
đời sống vật chất và tinh thần cho mọi người trong xã hội, chống các tệ nạn
tiêu cực, góp phần tăng thu nhập, thúc đẩy sản xuất phát triển. Với tư cách
là công cụ để quản lý xã hội, nhà nước can thiệp, bảo vệ quyền lợi chính
đáng của người lao động, đặc biệt trong mối quan hệ thuê mướn giữa chủ
và thợ. Yêu cầu giới chủ phải thực hiện những cam kết đảm bảo điều kiện
làm việc và nhu cầu đời sống vật chất, tinh thần cho giới thợ, trong đó có
nhu cầu về tiền lương, chăm sóc khi bị ốm đau, tai nạn… Đồng thời bản
thân người lao động cũng phải có trách nhiệm giành một khoản thu nhập để
chi cho bản thân mình khi có những rủi ro xảy ra. Nhà nước coi như là một
người chủ sử dụng lao động của mọi người lao động, vì vậy trong trường
hợp sự đóng góp của chủ sử dụng lao động và người lao động không đủ để
trang trải cho những khoản chi cho người lao động khi họ gặp rủi ro thì nhà
nước có trách nhiệm chi ngân sách để bảo đảm đời sống cho người lao
động. Quỹ BHXH là quỹ của người lao động tiết kiệm được qua hình thức
đóng góp hàng tháng, vì vậy bất luận trong hoàn cảnh nào nhà nước phải
đứng sau hỗ trợ, duy trì, bảo tồn để thực hiện các chế độ trợ cấp cho người
lao động, nếu khơng thì xã hội sẽ mất ổn định, kinh tế sẽ trì trệ. Khi quỹ
BHXH được hình thành sẽ có một khoản tiền lớn đầu tư trở lại để giúp cho
13
sản xuất phát triển.
Ba là, BHXH là mối quan hệ kinh tế ba bên giữa người lao đông, chủ
sử dụng lao động và nhà nước trong thực hiện chính sách BHXH.
BHXH được hình thành trên cơ sở quan hệ lao động, giữa các bên
cùng tham gia và thụ hưởng. Mối quan hệ này chịu tác động sâu sắc của nền
kinh tế thị trường. Thị trường lao động càng phát triển, việc thuê mướn lao
động trở nên phổ biến, là nền tảng, cơ sở cho sự phát triển và đa dạng hố
BHXH. Người lao động trong q trình lao động có thu nhập phải đóng góp
thường xuyên và đầy đủ vào quỹ BHXH theo mức quy định của pháp luật.
Khi người lao động có đủ điều kiện theo quy định sẽ được hưởng các chế độ
trợ cấp BHXH. Chủ sử dụng lao động cũng có trách nhiệm đóng góp để hình
thành quỹ BHXH, quản lý hồ sơ về quá trình làm việc của người lao động và
làm các thủ tục cần thiết để người lao động hưởng trợ cấp BHXH. Nhà nước
ban hành các chế độ, chính sách BHXH, tổ chức ra cơ quan chuyên trách thực
hiện nhiệm vụ quản lý hoạt động BHXH. Đồng thời nhà nước cùng có trách
nhiệm đóng góp và hỗ trợ thêm để đảm bảo thực hiện các chế độ BHXH đối
với người lao động. Việc đóng góp và hỗ trợ thêm quỹ BHXH là thể hiện sự
bảo hộ, sự điều tiết và trách nhiệm của nhà nước trong việc giữ gìn ổn định
kinh tế, chính trị - xã hội.
Bốn là, BHXH là quá trình phân phối lại thu nhập xã hội theo hướng
có lợi cho người tham gia BHXH khi gặp phải rủi ro trong lao động sản xuất
và đời sống xã hội.
Việc tổ chức thu, chi BHXH là thực hiện quá trình phân phối lại thu
nhập. Thu BHXH dựa trên cơ sở thang bảng lương, hợp đồng lao động, mức
lương tối thiểu do nhà nước quy định, do đó mỗi người tham gia có một mức
đóng BHXH khác nhau; hàng năm nhà nước cịn trích một khoản nhất định từ
nguồn thu ngân sách để hỗ trợ quỹ BHXH. Vì thế, phân phối trong BHXH
khơng phải đóng bao nhiêu thì hưởng bấy nhiêu. Phân phối trong BHXH vừa
14
mang tính bồi hồn vừa khơng mang tính bồi hồn. Những biến cố mang tính
tất yếu sẽ xảy ra đối với con người như thai sản, tuổi già và chết; trong trường
hợp này phân phối mang tính bồi hồn vì người lao động đóng góp BHXH chắc
chắn được hưởng khoản trợ cấp đó. Cịn những biến cố làm giảm hoặc mất khả
năng lao động, mất việc làm, ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, là sự
phân phối mang tính khơng bồi hồn; có nghĩa là chỉ khi nào người lao động gặp
phải tổn thất do biến cố trên gây ra thì mới được hưởng trợ cấp BHXH.
Năm là, BHXH là một loại hoạt động dịch vụ công, không mang tính
chất kinh doanh, lợi nhuận khơng phải là mục tiêu của hoạt động BHXH.
Sự hình thành và sử dụng quỹ BHXH được thực hiện trên nguyên tắc
là: có tham gia tạo lập hay đóng góp thì mới được hưởng quyền lợi, quỹ
BHXH được đầu tư, bảo tồn và tăng trưởng; nhưng hoạt động BHXH khơng
mang tính chất kinh doanh vì lợi nhuận, mà là một loại hoạt động dịch vụ
cơng, mang tính xã hội, lấy hiệu quả xã hội làm mục tiêu hoạt động. Hoạt
động BHXH là quá trình tổ chức, triển khai thực hiện các chế độ, chính sách
BHXH của tổ chức quản lý sự nghiệp BHXH; là thực hiện các nghiệp vụ thu
BHXH đối với người sử dụng lao động và người lao động; giải quyết các chế
độ, chính sách và chi BHXH cho người được hưởng. Mức độ đóng góp và sử
dụng của hoạt động BHXH không thực hiện theo cơ chế thị trường và nguyên
tắc hạch tốn kinh doanh, mà dựa vào chính sách xã hội trong từng thời kỳ
của nhà nước và mục tiêu bảo vệ sự phát triển kinh tế, xã hội, sự ổn định
chính trị quốc gia. Do vậy đa số các nước trên thế giới đều thực hiện BHXH
với hình thức bắt buộc, theo khuyến cáo của ILO.
1.1.1.2. Yêu cầu mới đặt ra của bảo hiểm xã hội trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và gia nhập WTO
Yêu cầu mới đạt ra trong phát triển ngành BHXH cần được xây dựng
trên các quan điểm chủ yếu sau đây:
Thứ nhất: BHXH phải thực hiện trên nguyên tắc có đóng có hưởng,
15
khoản trợ cấp BHXH được thụ hưởng phải do chính bản thân người lao động
tham gia đóng góp. Đi đơi với việc giải quyết các chế độ được thụ hưởng phải
đảm bảo theo đúng quy định của pháp luật một cách đầy đủ, kịp thời, chính xác.
Thứ hai: Mọi người lao động được quyền tham gia BHXH và thụ
hưởng các chế độ BHXH theo quy định của pháp luật. Người lao động khi có
việc làm, có thu nhập bảo đảm được cuộc sống hiện tại đều phải tham gia
BHXH dưới hai hình thức: BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện. Khi mất
việc làm, ốm đau, thai sản, TNLĐ - BNN hoặc khi tuổi già, thì được hưởng
trợ cấp BHXH để duy trì, ổn định cuộc sống.
Thứ ba: Chủ sử dụng lao động trong các đơn vị sử dụng lao động phải
có trách nhiệm đóng BHXH cho người lao động. Quan điểm này là thể hiện
trách nhiệm của chủ sử dụng lao động trong việc tham gia đóng BHXH để bảo
vệ cho người lao động và tạo điều kiện cho họ được hưởng các chế độ BHXH.
Thứ tư: Mức đóng BHXH
Mức đóng BHXH phải được tính trên cơ sở tiền lương hoặc tiền công
thực tế của người lao động và mức thu phải được điều chỉnh dần dần từ thấp
đến cao theo mức tăng của tiền lương hoặc tiền công, vừa bảo đảm cuộc sống
hiện tại của người lao động, vừa bảo đảm cân đối tăng số thu BHXH, đồng
thời phải phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong
giai đoạn từ nay đến năm 2020.
Thứ năm: Nhà nước có trách nhiệm hỗ trợ cho quỹ BHXH.
Ở các nước trên thế giới, vai trò trách nhiệm của nhà nước được thể hiện
rất rõ đối với sự nghiệp BHXH. Bởi vì, các loại trợ cấp BHXH được thực hiện
đối với những người gặp hồn cảnh khó khăn hơn những người khác. Đa số các
nước chỉ quy định nhà nước trợ giúp trong thời gian đầu mới thành lập BHXH,
hoặc hỗ trợ phần thiếu hụt của quỹ và hỗ trợ một số chế độ nào đó.
Ở nước ta, Điều 149 của Bộ luật lao động và Điều 36 Điều lệ BHXH
ban hành kèm theo NĐ 12/CP ngày 26/01/1995 của Chính phủ và điều Luật
16
BHXH cũng quy định rõ: Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm để bảo đảm thực
hiện các chế độ BHXH đối với người lao động. Trong giai đoạn 10 năm tới,
số thu BHXH và lãi do đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH vẫn chưa thể đủ để chi
trả các chế độ BHXH; vì vậy, cần duy trì hỗ trợ của Nhà nước đối với sự
nghiệp BHXH.
Thứ sáu: Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, phối hợp của các cấp Uỷ,
chính quyền quận, huyện, thị xã và các cơ quan chức năng trên địa bàn để giúp
cơ quan BHXH khai thác mở rộng đối tượng thu BHXH khu vực DNNQD.
Thứ bảy: Tăng cường công tác tuyên truyền, thanh tra, kiểm tra và xử
phạt nghiêm minh các trường hợp vi phạm pháp luật lao động nói chung,
pháp luật về BHXH nói riêng.
Thứ tám: Tổ chức bộ máy thực hiện chính sách BHXH và quản lý thu
BHXH hoạt động có hiệu quả. Quan điểm này nhằm thực hiện tốt chính sách
BHXH và cơng tác thu BHXH; phục vụ tốt nhất cho các đối tượng tham gia
BHXH. Nội dung của quan điểm này bao gồm:
- Phải tổ chức hệ thống BHXH theo mơ hình tập trung thống nhất đặt
dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng Chính phủ.
- Phải bổ sung hồn thiện chế độ chính sách BHXH, quy chế quản lý tài
chính BHXH, tăng cường các giải pháp trong việc tổ chức thực thi các chế độ
chính sách và quản lý chặt chẽ thu BHXH.
- Phải có đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ chun mơn vững vàng về
các nghiệp vụ thu, chi, giải quyết chế độ chính sách, có tác phong phục vụ đối
tượng tận tình chu đáo.
- Trang bị đầy đủ cơ sở vật chất kỹ thuật, hiện đại hố phương tiện
quản lý bằng cơng nghệ thơng tin.
1.1.2. Thu bảo hiểm xã hội
1.1.2.1. Khái niệm thu bảo hiểm xã hội
Thu BHXH dựa trên cơ sở những định hướng, chủ trương, chính sách,
17
pháp luật của nhà nước, quy định về: loại hình BHXH, đối tượng và phạm vi
áp dụng, mức trích nộp BHXH, tiền lương làm căn cứ đóng BHXH, thời gian
và phương thức đóng BHXH. Thu BHXH là khâu đầu tiên trong việc xác lập
mối quan hệ về BHXH giữa người lao động, chủ sử dụng lao động và cơ quan
BHXH. Mối quan hệ này xác định quyền lợi và trách nhiệm của các bên trong
việc thực hiện các quy định về BHXH, đặc biệt là trách nhiệm đóng BHXH
của người lao động và chủ sử dụng lao động. Đây là mối quan hệ quan trọng
hàng đầu, vì có thực hiện được thì mới có cơ sở để tổ chức thu BHXH, hình
thành nên quỹ BHXH; từ đó mới có nguồn tài chính để chi trả các chế độ
BHXH, chi cho hoạt động của bộ máy quản lý, chi đầu tư tăng trưởng quỹ
BHXH. Để đảm bảo thu đúng, thu đủ, thu kịp thời và khơng để thất thốt số
tiền đã thu được, địi hỏi phải có phương pháp và biện pháp hữu hiệu, phương
thức quản lý thu khoa học, đúng quy định của pháp luật và phù hợp với điều
kiện kinh tế xã hội của đất nước; đồng thời phải tham khảo kinh nghiệm quản
lý của các nước có bề dày lịch sử về thực hiện BHXH và thực trạng công tác
thu BHXH của từng thời kỳ phát triển của đất nước. Bên cạnh đó, cịn phải
thực hiện các biện pháp hỗ trợ, tăng cường thu như: thực hiện tốt các chế độ
về BHXH cho người lao động, các quy định về quản lý tài chính, xử phạt
hành chính khi vi phạm các quy định về BHXH, xây dựng mối quan hệ với
các cơ quan hữu quan như: ngân hàng, kho bạc...; thường xuyên phối hợp với
các cơ quan thông tin đại chúng tuyên truyền phổ biến chính sách pháp luật về
BHXH. Như vậy, thu BHXH là: “Một khái niệm phức hợp, bao gồm các định
hướng, chủ trương, phương pháp và biện pháp hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu
quả quản lý, chỉ đạo, khuyến khích đẩy mạnh cơng tác thu bảo hiểm xã hội”.
1.1.2.2. Nguyên tắc thu bảo hiểm xã hội
Để hoạt động thu BHXH đúng quy định của pháp luật, đạt được mục
tiêu đề ra cần phải thực hiện theo các nguyên tắc:
Một là: Thu đúng, đủ và kịp thời
Thu đúng đối tượng, đúng mức quy định: tất cả mọi người khi có giao
18
kết lao động có thu nhập và trong diện pháp luật quy định phải tham gia
BHXH, cơ quan BHXH có trách nhiệm tổ chức thu BHXH. Đối với mỗi đơn
vị sử dụng lao động được phân theo khối, chẳng hạn: khối sản xuất kinh
doanh, khối hành chính..., được quy định căn cứ xác định mức lương đóng
BHXH của người lao động có khác nhau. Việc xác định mức lương làm căn
cứ đóng BHXH là cơ sở quan trọng để đảm bảo thu đúng mức quy định.
Thu đủ: trong quá trình tổ chức thu BHXH ngoài việc phải xác định
đúng đối tượng, đúng mức còn phải thu đủ số đối tượng, đủ mức đóng BHXH
theo luật định.
Thu kịp thời: chế độ chính sách BHXH thường thay đổi để phù hợp với
tình hình phát triển kinh tế xã hội từng thời kỳ của đất nước. Ở mỗi thời điểm
thay đổi đó cần phải tổ chức thực hiện kịp thời để tận thu BHXH. Chẳng hạn
khi thay đổi mức lương tối thiểu không những phải tổ chức thu theo mức
lương tối thiểu mới mà còn phải truy thu kịp thời. Mặt khác, trong việc tổ
chức thu thường quy định thời gian đóng BHXH hàng tháng, hàng quý đối
với các đơn vị sử dụng lao động, các đơn vị chấp hành nghiêm chỉnh sẽ hạn
chế được số thu tồn đọng, tạo lập được quỹ BHXH ổn định để chi trả cho
người lao động và đầu tư tăng trưởng.
Hai là: Thống nhất, công bằng, công khai, dân chủ
Chế độ chính sách BHXH nói chung, về thu BHXH nói riêng được nhà
nước ban hành và thực hiện thống nhất trong tồn quốc; khơng có sự phân
biệt giữa các vùng, miền, dân tộc, nam hay nữ. Mọi người lao động làm việc
ở các thành phần kinh tế đều bình đẳng trong về quyền lợi và trách nhiệm
tham gia BHXH. Số đối tượng tham gia BHXH và số thu BHXH phải cơng
khai thường xun, có sự kiểm tra, thanh tra, kiểm toán của nhà nước, các bộ
các ngành và giám sát của các tổ chức xã hội.
Ba là: Tập trung, an toàn, hiệu quả
Số thu BHXH là cơ sở tạo lập lên quỹ BHXH để chi trả các chế độ
19
cho người lao động và đầu tư tăng trưởng, góp phần phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước. Số thu BHXH là một nguồn vốn cực kỳ lớn, do đó phải
được quản lý tập trung thống nhất ở Trung ương, không phân tán thành
nhiều quỹ hoặc do các địa phương quản lý. Thực hiện quản lý chặt chẽ tiền
thu BHXH theo chế độ quản lý tài chính của nhà nước và sử dụng đúng
mục đích, đúng chế độ.
1.1.2.3. Vai trị của chính sách bảo hiểm xã hội
Chính sách BHXH có vai trị to lớn trong đời sống kinh tế - xã hội của
mỗi quốc gia, thể hiện ở các mặt sau:
- BHXH góp phần ổn định đời sống của người lao động và gia đình họ,
đảm bảo an toàn và trật tự an ninh xã hội. BHXH là sự đảm bảo thay thế một
phần thu nhập bị mất đi khi người lao động bị suy giảm, mất khả năng lao
động... Chẳng hạn, khi hết tuổi lao động sẽ được hưởng trợ cấp hưu trí, khi chết
được hưởng tiền tuất, mai táng phí. Do đó, BHXH có tác dụng rất lớn đối với
người lao động, nó làm cho người lao động yên tâm cống hiến và không phải lo
lắng khi rủi ro có thể xảy ra. Đồng thời, BHXH góp phần hạn chế và điều hồ
các mâu thuẫn có thể xảy ra giữa chủ sử dụng lao động và người lao động, tạo
môi trường làm việc ổn định, đảm bảo cho hoạt động lao động, công tác đạt
hiệu quả cao, từ đó góp phần tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước. Một bộ
phận lớn người dân có thu nhập ổn định từ trợ cấp BHXH đảm bảo cuộc sống
sẽ hạn chế các tiêu cực, tệ nạn cho xã hội. Đây là vai trò cơ bản nhất của chính
sách BHXH.
- BHXH cịn làm gắn bó lợi ích giữa người lao động, người sử dụng
lao động và nhà nước. Thực hiện việc đóng góp BHXH thể hiện sự quan tâm
của người chủ sử dụng lao động đối với người lao động, do đó người lao động
có trách nhiệm hơn trong công việc, chủ động sáng tạo trong lao động sản
xuất. Thông qua việc tổ chức hoạt động BHXH thể hiện vai trị quản lý của
nhà nước, tạo mơi trường bình đẳng trong lao động và sản xuất kinh doanh
20
cho mọi người lao động, mọi đơn vị, tổ chức.
- BHXH góp phần thực hiện cơng bằng xã hội. BHXH dựa trên
nguyên tắc người lao động bình đẳng trong nghĩa vụ đóng góp và thụ
hưởng. Thơng qua hoạt động của mình, BHXH tham gia vào quá trình phân
phối và phân phối lại thu nhập xã hội. Đó là sự phân phối lại thu nhập giữa
người lao động của thế hệ sau với người lao động của thế hệ trước; giữa
các ngành nghề sản xuất; giữa những người có thu nhập cao với người có
thu nhập thấp; giữa những người khoẻ mạnh với những người hay ốm yếu;
theo xu hướng có lợi cho những người lao động ở thế hệ trước, người lao
động có thu nhập thấp và hay ốm yếu. Vì vậy, BHXH góp phần thực hiện
cơng bằng xã hội, làm giảm bớt khoảng cách về thu nhập giữa người giàu
và người nghèo.
- BHXH góp phần phịng tránh và hạn chế tổn thất cho người lao động.
Để ngăn ngừa, hạn chế tổn thất, các đơn vị, tổ chức kinh tế đề ra các quy định
chặt chẽ về an toàn lao động, về vệ sinh công nghiệp bắt buộc mọi người lao
động phải tuân thủ. Cơ quan BHXH kết hợp cùng với các cấp các ngành, đơn
vị chủ sử dụng lao động thường xuyên tổ chức tuyên truyền phổ biến về chế
độ chính sách BHXH, an tồn lao động, kịp thời hỗ trợ cho người lao động
được nghỉ ngơi, điều dưỡng để nâng cao sức khoẻ. Khi không may sảy ra tai
nạn, ốm đau, hết khả năng lao động, mất việc làm... được quỹ BHXH chi trợ
cấp để khắc phục tổn thất hoặc bù đắp một phần thu nhập.
- BHXH góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh
tế của đất nước. BHXH tập trung được nguồn tài chính tương đối lớn từ sự
đóng góp của người lao động và chủ sử dụng lao động tồn tích lại, nguồn
tài chính này tương đối nhàn rỗi vì có thể tính tốn chính xác được nhu cầu
chi của từng thời kỳ, từng thời điểm. Vì vậy, Chính phủ cho phép cơ quan
BHXH đầu tư số tiền nhàn rỗi vào các dự án kinh tế - xã hội để bảo toàn,
phát triển quỹ BHXH và tăng thêm nguồn lực cho sự phát triển nền kinh tế
21
của đất nước.
1.1.2.4. Mục đích thu bảo hiểm xã hội
Thứ nhất, đảm bảo cho yếu tố “đầu vào” (tiền nộp BHXH) đủ khả năng
thực hiện quá trình tái sản xuất xã hội, tức là có thu đúng, thu đủ, thu kịp thời
mới đảm bảo chi trả chế độ cho người lao động, góp phân ổn định đời sống
của người lao động trong q trình lao động khơng may bị rủi ro, nghỉ hưu
cũng như về già.
Thứ hai, xác lập rõ ràng quyền và trách nhiệm của các bên tham gia
BHXH, đó là: người lao động, người sử dụng lao động và cơ quan BHXH;
phân định rõ chức năng quản lý nhà nước với chức năng hoạt động sự nghiệp
của BHXH.
Thứ ba, khơng bỏ sót nguồn thu, quản lý chặt chẽ, đảm bảo nguồn thu
BHXH đuợc sử dụng đúng mục đích; đồng thời làm cho nguồn thu BHXH
liên tục tăng trưởng.
Thứ tư, đảm bảo cho các quy định về thu BHXH được thực hiện
nghiêm túc, hiệu quả, khắc phục được tính bình qn nhưng vẫn đảm bảo tính
xã hội thơng qua việc điều tiết, chia sẽ rủi ro. Trong điều kiện hội nhập kinh tế
hiện nay, quản lý thu BHXH lại càng có ý nghĩa sâu sắc trong việc phịng
ngừa, ngăn chặn những lạm dụng của người sử dụng lao động với người lao
động nhất là việc thuê mướn, sử dụng, trả tiền lương, tiền cơng bất bình đẳng.
1.1.2.5. Nội dung thu bảo hiểm xã hội
- Quy định đối tượng và mức đóng: căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế
xã hội và thu nhập của người lao động trong từng thời kỳ, nhà nước có những
quy định cụ thể về đối tượng, mức đóng BHXH sao cho phù hợp.
- Công tác lập kế hoạch: thu BHXH là nguồn cơ bản hình thành quỹ
BHXH, để thực hiện tốt cơng tác thu BHXH cần phải có kế hoạch rõ ràng, cụ
thể và sát với thực tế; trên cơ sở tổng số lao động, tổng quỹ lương tham gia
22
BHXH và tình hình phát triển kinh tế xã hội để xác định số phải thu. Ở mỗi
quốc gia áp dụng mơ hình quản lý quỹ khác nhau và tương ứng phương pháp
lập kế hoạch cũng có sự khác nhau. Chẳng hạn theo mơ hình “Toạ thu- toạ
chi” Quỹ BHXH thực hiện theo năm tài khoá (thu trong năm để chi trong năm
khơng có tích luỹ, khi thu khơng đủ chi thì ngân sách nhà nước sẽ cấp bù);
Việc lập kế hoạch thu BHXH phải căn cứ vào nhu cầu chi trong năm để xác
định tổng số phải thu, nếu số phải chi trong năm kế hoạch lớn thì kế hoạch
xây dựng số phải thu lớn và ngược lại. Theo mơ hình “Tồn tích” Quỹ BHXH
thực hiện chi cho đối tượng khi có đủ điều kiện hưởng, khơng thực hiện theo
năm tài khoá mà thực hiện theo kế hoạch hàng năm, kế hoạch trung hạn, kế
hoạch dài hạn (từ 20-30 năm); cơ sở xác định tổng số phải thu của kế hoạch
chủ yếu là tổng số lao động, tổng quỹ lương tham gia đóng BHXH và tình
hình phát triển kinh tế xã hội. Sau khi xây dựng được kế hoạch thu BHXH, cơ
quan BHXH trình dự tốn thu BHXH với cơ quan quản lý có thẩm quyền phê
duyệt. Trên cơ sở dự toán được phê duyệt cơ quan BHXH phân bổ cho các
đơn vị thực hiện theo tháng, quý, năm.
- Quản lý đối tượng tham gia BHXH: đối tượng tham gia BHXH là
người lao động và các đơn vị sử dụng lao động. Trong cơ chế thị trường các
đơn vị sử dụng lao động thường không tự giác tham gia BHXH cho người lao
động, họ tìm cách né tránh hoặc gian lận. Việc quản lý chặt chẽ buộc chủ sử
dụng lao động phải cung cấp đầy đủ số liệu về lao động, quỹ lương, đóng đầy
đủ BHXH là cực kỳ quan trọng, là cơ sở hàng đầu để quỹ BHXH có nguồn
lực tài chính chi trả chế độ cho người lao động và đảm bảo an sinh xã hội. Để
thuận lợi cho việc quản lý, theo dõi quá trình tham gia BHXH, căn cứ vào đặc
điểm, tính chất, hình thức hoạt động của các đơn vị sử dụng lao động, người
ta thường phân loại để quản lý, có nhiều cách phân loại nhưng phổ biến là
phân theo các khối sau:
+ Khối doanh nghiệp Nhà nước;
23
+ Khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh;
+ Khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi;
+ Khối hành chính sự nghiệp;
+ Khối Đảng, đồn, các tổ chức chính trị - xã hội;
+ Khối xã, phường, thị trấn;...
Bên cạnh đó cơ quan BHXH phải thường xuyên thống kê, theo dõi,
kiểm tra sự biến động của các đơn vị sử dụng lao động và người lao động
trong suất quá trình hoạt động của từng đơn vị; liên hệ chặt chẽ với các cơ
quan quản lý trên địa bàn để khai thác triệt để các đơn vị và người tham gia
BHXH, đặc biệt là các DNNQD.
- Quản lý mức đóng và tiền thu BHXH: mức đóng là cơ sở quan trọng
để tính số thu BHXH, nếu việc xác định mức đóng khơng chính xác sẽ dẫn
đến thu không đúng, không đủ số phải thu BHXH. Mức đóng của chủ sử dụng
lao động và người lao động được tính trên cơ sở trích một tỷ lệ nhất định của
tổng quỹ tiền lương. Để xác định mức đóng BHXH cơ quan BHXH phải theo
dõi, kiểm tra chặt chẽ diễn biến tiền công, tiền lương của từng cá nhân lao
động trong các doanh nghiệp, đối chiếu tổng quỹ lương hàng tháng để tính số
tiền phải nộp BHXH.
Đặc điểm của thu BHXH là số tiền thu rất lớn, của nhiều đối tượng
khác nhau, với nhiều hình thức như: tiền mặt, chuyển khoản, séc, uỷ nhiệm
chi, do vậy hệ thống BHXH phải thực hiện cơng tác hạch tốn kế tốn, thống
kê, báo cáo và kiểm tra tồn bộ số tiền thu BHXH theo đúng quy định của
pháp luật, quản lý chặt chẽ đúng nguyên tắc tài chính để tránh nhầm lẫn. Cơ
quan BHXH phải có mối quan hệ phối hợp với hệ thống ngân hàng, kho bạc;
khi các đơn vị sử dụng lao động nộp tiền BHXH vào ngân hàng, kho bạc
huyện thì huyện phải chuyển tồn bộ số tiền đó vào tài khoản chuyên thu
BHXH của ngân hàng, kho bạc tỉnh. Định kỳ ngân hàng, kho bạc, cơ quan
BHXH tỉnh phải chuyển số tiền thu BHXH lên tài khoản chuyên thu của cơ
24
quan BHXH Trung ương. BHXH cấp huyện, tỉnh không được phép sử dụng
tiền thu BHXH vào các mục đích khác.
- Tổ chức và phân cấp quản lý thu BHXH:
Căn cứ vào đặc điểm, điều kiện tự nhiên, quy mô, số lượng loại hình
các đơn vị sử dụng lao động của từng địa phương, cơ quan BHXH tổ chức bộ
máy để thực hiện công tác thu BHXH từ Trung ương đến địa phương. Bộ máy
này nằm trong bộ máy chung của hệ thống BHXH quốc gia. Việc sắp xếp bố
trí cán bộ quản lý thu đảm bảo đủ về số lượng, có trình độ chun mơn cao và
phù hợp với việc phân cấp quản lý.
Trong cơ chế quản lý thu BHXH việc phân cấp quản lý thu BHXH đảm
chun mơn hố cao, đảm bảo thông tin chỉ đạo, xử lý kịp thời các vướng mắc,
tránh tình trạng chồng chéo trong tổ chức thu BHXH đối với các tỉnh, các ngành,
các lĩnh vực. Thông thường phân cấp quản lý thu theo mô hình 3 cấp, tương ứng
với đối tượng thu nhất định. Ba cấp quản lý thu gồm:
+ Cấp Trung ương: có nhiệm vụ chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác thu
BHXH trong toàn quốc;
+ Cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương: có nhiệm vụ chỉ đạo, tổ
chức thực hiện cơng tác thu BHXH trong tồn tỉnh, thành phố;
+ Cấp quận, huyện, thị: có nhiệm vụ chỉ đạo, tổ chức thực hiện cơng tác
thu BHXH trong tồn quận, huyện, thị.
1.2. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THU BẢO HIỂM XÃ HỘI KHU
VỰC DOANH NGHIỆP NGỒI QUỐC DOANH
1.2.1. Chính sách lao động, việc làm và tiền lương
Trong Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010, Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã nêu: “Để giải quyết vấn đề việc làm
cho người lao động, phải tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho tất cả
các thành phần kinh tế đầu tư phát triển rộng rãi các cơ sở sản xuất kinh
doanh, tạo nhiều việc làm và phát triển thị trường lao động. Thúc đẩy quá
25
trình chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội...” [32, tr.41]. Việc thực hiện tốt
các chính sách lao động - việc làm sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến khu vực
DNNQD và việc tham gia BHXH cho người lao động ở khu vực này, thể
hiện qua các lý do sau:
- Nhà nước chú trọng đào tạo nghề, nâng cao chất lượng lao động trên
các phương diện: chuyên môn, tay nghề, kỹ năng hành nghề, kỹ năng ứng xử
giao tiếp, tác phong làm việc hiện đại, chuyên nghiệp, ý thức chấp hành kỷ luật
lao động và pháp luật. Giúp cho thị trường lao động có nguồn lao động chất
lượng cao, các doanh nghiệp sẽ đỡ được một phần chi phí trong cơng tác đào
tạo. Lực lượng lao động có chất lượng cao đó sẽ có cơ hội có việc làm ổn định
và thu nhập cao (chất lượng lao động có quan hệ tỷ lệ thuận với thu nhập) làm
tăng mức đóng BHXH.
- Việc ưu tiên dành vốn đầu tư của nhà nước và huy động vốn trong
toàn xã hội để giải quyết việc làm, trong 5 năm (2005 -2010) ước tạo được
khoảng 06 triệu việc làm mới (bình quân 1,6 triệu/năm) sẽ làm tăng tỷ trọng
lao động xã hội tham gia BHXH. Mặt khác do chuyển dịch cơ cấu lao động số
người làm công ăn lương sẽ tăng lên cũng là lý do làm tăng tỷ trọng lao động
xã hội tham gia BHXH.
- Việc phát triển thị trường lao động, hình thành hệ thống thông tin
thị trường và các phiên giao dịch việc làm là yếu tố quan trọng giúp cho
người lao động dễ dàng tìm việc làm phù hợp với chun mơn, nghiệp vụ,
tay nghề của mình; đồng thời có quyền lựa chọn những đơn vị thực hiện
đầy đủ quyền lợi của người lao động và thu nhập cao. Các chủ sử dụng
lao động cũng thuận tiện hơn trong việc tuyển dụng lao động, tiết kiệm
thời gian và chi phí.
Chính sách tiền lương là nhân tố có ảnh hưởng rất lớn đến số thu
BHXH, vì tiền lương, tiền cơng là căn cứ thu, nộp BHXH. Theo số liệu công
bố của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, tiền lương tiền công trong những