Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

Th s kinh te chinh tri khu kinh tế mở chu lai tỉnh quảng nam trong hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (405.79 KB, 98 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh nước ta ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu
vực và thế giới, cùng với các công cụ khác, mơ hình các khu kinh tế có vai trò
quan trọng trong khai thác tiềm năng của các vùng, các địa phương để phát
triển kinh tế - xã hội, thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang
hướng công nghiệp và dịch vụ, tạo động lực phát triển lan toả, thúc đẩy nhanh
q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố, góp phần đẩy mạnh q trình hội
nhập kinh tế khu vực và quốc tế của nước ta.
Khu Kinh tế mở Chu Lai được thành lập nhằm mục tiêu khai thác lợi
thế về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội...để tạo động lực phát triển kinh tế xã hội tỉnh Quảng Nam và góp phần tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội
khu vực miền Trung, đồng thời, thí điểm áp dụng các cơ chế, chính sách mới
về tạo mơi trường đầu tư, kinh doanh theo thông lệ quốc tế, đúc kết kinh
nghiệm nhằm hồn thiện cơ chế, chính sách quản lý kinh tế trong quá trình
hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế của nước ta.
Khu kinh tế mở Chu Lai có diện tích quy hoạch là 32.400 ha, trải rộng
trên địa bàn 8 xã thuộc huyện Núi Thành và 4 xã, phường của thành phố Tam
Kỳ tỉnh Quảng Nam. Đây là khu kinh tế kết nối giao thông thuận lợi với quốc
lộ 1A, đường sắt Bắc Nam, sân bay Chu Lai, cảng biển Kỳ Hà; gần khu cơng
nghiệp lọc hố dầu Dung Quất ở phía Nam và thành phố Đà Nẵng ở phía Bắc.
Khu này có các yếu tố thuận lợi để phát triển công nghiệp, thương mại, dịch
vụ, mở rộng giao thương quốc tế. Qua 7 năm hoạt động, Khu Kinh tế mở Chu
Lai đã đạt được một số thành công về thu hút đầu tư, xây dựng kết cấu hạ
tầng, đóng góp cho sự phát triển kinh tế - xã hội và quá trình hội nhập kinh tế
khu vực và quốc tế của tỉnh Quảng Nam.


2
Bối cảnh kinh tế - xã hội nước ta và thế giới hiện nay có nhiều đặc điểm
khác với giai đoạn mới thành lập Khu kinh tế mở Chu Lai (năm 2003), tuy


nhiên các khu kinh tế nói chung và Khu kinh tế mở Chu Lai vẫn đóng vai trị
quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội địa phương và hội nhập kinh tế
quốc tế. Nhận thức vai trò quan trọng ấy của các khu kinh, tác giả chọn đề tài
“Khu Kinh tế mở Chu Lai tỉnh Quảng Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế”
làm luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về Khu Kinh tế mở Chu Lai, đến nay chỉ mới có luận văn
của Thạc sỹ Nguyễn Văn Lúa nghiên cứu về đề tài “Thu hút vốn đầu tư để
phát triển Khu Kinh tế mở Chu Lai, tỉnh Quảng Nam”. Ngoài ra, một số bài
nghiên cứu về các lĩnh vực được trình bày tại Hội thảo 6 năm xây dựng Khu
Kinh tế mở Chu Lai do Tạp chí Cộng sản, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, UBND
tỉnh Quảng Nam phối hợp tổ chức vào tháng 02/2010, nhưng không với tư
cách là luận văn, luận án nghiên cứu sâu. Vì vậy, việc chọn đề tài “Khu Kinh
tế mở Chu Lai tỉnh Quảng Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế” không
trùng lắp với bất kỳ cơng trình nghiên cứu nào.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Làm rõ luận cứ khoa học về vai trò của Khu Kinh tế mở Chu Lai trong
phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế. Trên cở sở đó, đề xuất hướng phát triển Khu Kinh tế mở Chu Lai
trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là các khu kinh tế nói chung
và Khu kinh tế mở Chu Lai tỉnh Quảng Nam hiện nay để rút ra vai trò của Khu
Kinh tế mở Chu Lai trong hội nhập kinh tế quốc tế gắn với các chủ trương của
Đảng và Nhà nước về phát triển các khu kinh tế trong thời gian tới.


3
5. Phương pháp nghiên cứu luận văn
- Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử;

- Sử dụng các phương pháp nghiên cứu kinh tế cụ thể như: thống kê,
phân tích, so sánh.
6. Những đóng góp của luận văn
Trên cơ sở các vấn đề được nghiên cứu, đề xuất giải pháp hồn thiện mơ
hình phát triển, thể chế và thiết chế để Khu Kinh tế mở Chu Lai tiếp tục giữ
vai trò đi đầu trong hội nhập kinh tế quốc tế của tỉnh Quảng Nam.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, mục lục,
luận văn có 3 chương, 8 tiết.


4
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ KHU KINH TẾ MỞ
TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KHU KINH TẾ MỞ

1.1.1. Nhận thức chung về khu kinh tế mở
1.1.1.1. Khu kinh tế
Các khu kinh tế xuất hiện khá sớm ở một số quốc gia châu Âu từ nhiều
thế kỷ trước. Theo các nhà nghiên cứu, thương cảng tự do đầu tiên được xây
dựng ở Italia năm 1574 đánh dấu sự ra đời của các khu kinh tế trên thế giới.
Tuy nhiên, đến sau chiến tranh thế giới lần thứ II, do nhu cầu thu hút vốn đầu
tư của nước ngoài, các khu kinh tế, khu chế xuất được hình thành ở một số
nước với nhiều hình thức. Khu chế xuất đầu tiên được xây dựng tại sân bay
Shanon thuộc Cộng hoà Ailen năm 1959. Đặc biệt, những năm 70 và 80 của
thế kỷ XX, cả các nước phát triển và đang phát triển đều chú ý phát triển các
khu kinh tế nhằm thu hút đầu tư, đổi mới công nghệ, tạo ra các khu vực phát
triển, thúc đẩy sản xuất hướng về xuất khẩu, thay thế nhập khẩu và tích cực
hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.

Đối với các quốc gia chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang nền
kinh tế thị trường, việc xây dựng các khu kinh tế cịn nhằm mục đích thử
nghiệm các cơ chế, chính sách, mơ hình kinh tế mới chưa thể áp dụng rộng
rãi trong nước để vừa phải bảo đảm sự phát triển ổn định trong nước vừa
thu hút được nguồn lực bên ngồi. Đã có lúc, việc thử nghiệm cơ chế,
chính sách mới trở thành mục tiêu ưu tiên mà các đặc khu kinh tế ở Trung
Quốc là một ví dụ điển hình.
Hiện nay, khu kinh tế tự do (Free Economic Zones - FEZ) là tên gọi phổ
biến ở nhiều nước để chỉ mơ hình trên, nhấn mạnh đặc tính tự do hố về kinh
tế. Ngồi ra, một số nước có thể gọi theo cách khác. Chẳng hạn, có nước gọi


5
đặc khu kinh tế (Special Economic Zones – SEZ) như ở Trung Quốc, là khu
kinh tế mở (Open Economic Zones - OEZ) như ở Khu kinh tế mở Chu Lai Việt Nam, khu thương mại tự do (Free Trade Zones - FTZ), hay thậm chí đơn
giản chỉ là khu kinh tế (Economic Zones - EZ).
Vì vậy, có thể hiểu mơ hình các khu kinh tế, dù tên gọi có khác nhau,
được thành lập nhằm thu hút đầu tư trong và ngồi nước bằng các biện pháp
khuyến khích đặc biệt. Các biện pháp khuyến khích đặc biệt thường được áp
dụng để thu hút đầu tư vào khu kinh tế gồm: Tạo mơi trường thuận lợi bằng
các chính sách như: miễn giảm thuế, ít quy chế nhất có thể, chính sách linh
hoạt về lao động; kết cấu hạ tầng tiện lợi, điều kiện sống thật tốt cho những
người làm việc trong khu kinh tế này, nhất là các dịch vụ đạt đẳng cấp quốc
tế; có vị trí địa lý chiến lược, gắn với cảng biển, cảng hàng không quốc tế, gần
thị trường tiêu dùng lớn, v.v…
Sự phát triển mơ hình khu kinh tế trong những năm gần đây đã có nhiều
thay đổi cả về hình thức và nội dung hoạt động. Từ những khu mang tính chất
thuần tuý về thương mại, chuyển khẩu hàng hoá đã phát triển thành những
khu sản xuất hướng về xuất khẩu; từ những khu mang tính chất thương mại
hoặc cơng nghiệp chuyển thành những khu mang tính chất tổng hợp nhiều

ngành. Trong một khu kinh tế có thể gồm nhiều khu chức năng như khu vực
phi thuế quan (khu vực bảo thuế), khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công
nghệ cao, các tiểu khu du lịch, nghỉ dưỡng, giải trí, dịch vụ, v.v.
Ở nước ta hiện nay có 14 khu kinh tế và khu kinh tế mở được thành lập.
Cụ thể như sau:


6
Bảng 1.1: Các khu kinh tế và khu kinh tế mở ở nước ta
STT
01
02
03
04
05
06
07
08
09
10
11
12
13
14

Khu kinh tế
Chu Lai
Dung Quất
Nhơn Hội
Chân Mây - Lăng Cô

Phú Quốc - Nam An Thới
Vũng Áng
Vân Phong
Nghi Sơn
Vân Đồn
Đơng Nam Nghệ An
Đình Vũ - Cát Hải
Nam Phú n
Hịn La
Định An

Địa điểm
Quảng Nam
Quảng Ngãi
Bình Định
Thừa Thiên Huế
Kiên Giang
Hà Tĩnh
Khánh Hồ
Thanh Hố
Quảng Ninh
Nghệ An
Hải Phịng
Phú n
Quảng Bình
Trà Vinh

Thời điểm
thành lập
05/6/2003

21/3/2005
14/6/2005
05/01/2006
14/02/2006
03/4/2006
25/4/2006
15/5/2006
31/5/2006
11/6/2007
10/01/2008
29/4/2008
10/06/2008
27/4/2009

Diện tích
(ha)
27.040
10.300
12.000
27.108
56.100
22.781
150.000
18.611,8
55.133
18.826
21.600
20.730
10.000
39.020


Nguồn: Wikipedia.
1.1.1.2. Khu kinh tế mở
Khu kinh tế mở (Open Economic Zones - OEZ) là khu vực địa lý trên
lãnh thổ quốc gia với môi trường đặc biệt thuận lợi cho đầu tư và kinh doanh,
nhằm thu hút vốn, công nghệ tiên tiến, nhân lực chất lượng cao… để trở thành
mũi nhọn tăng trưởng của vùng và quốc gia, tích cực thúc đẩy hội nhập kinh
tế khu vực và quốc tế.
Khái niệm này được rút ra từ Đề án xây dựng Khu Kinh tế mở Chu Lai.
Đề án nêu rõ: Khu kinh tế mở là một bộ phận lãnh thổ thuộc chủ quyền của
Việt Nam, có ranh giới xác định, được vận hành bằng khung pháp lý riêng với
những cơ chế chính sách đặc biệt về kinh tế, có sự giao lưu thơng thống với
nước ngồi và có sức hút mạnh mẽ các nguồn đầu tư trong và ngoài nước, có
cơ chế quản lý hành chính tinh gọn, một cửa, mở rộng quyền tự do kinh
doanh theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước Việt Nam.


7
Như vậy, rõ ràng khu kinh tế mở có sự khác biệt so với khu kinh tế nói
chung. Khu kinh tế, khu kinh tế mở, khu kinh tế tự do đều là mơ hình khu
kinh tế tổng hợp với nhiều ngành, nhiều phân khu chức năng. Song, bản chất
khu kinh tế mở mang tính hướng ngoại hơn, hoạt động ngoại thương và hoạt
động FDI sẽ là những hoạt động then chốt tạo nên tính “mở” của mơ hình khu
kinh tế này. Tuy nhiên, xem xét nội dung các quyết định thành lập các khu
kinh tế và Khu kinh tế mở Chu Lai, thì thực tế khơng có sự khác biệt đáng kể
giữa hai loại hình khu kinh tế tổng hợp này, có thể đây là nhược điểm lớn nhất
làm cho Khu Kinh tế mở Chu Lai chưa phát triển đúng như mong muốn.
Mơ hình Khu Kinh tế mở Chu Lai có một số đặc điểm sau:
Một là, khu kinh tế mở có tính chất đặc trưng là mơ hình “khu trong
khu”, tức trong khu kinh tế cùng tồn tại nhiều phân khu chức năng có đặc

điểm và cơ chế hoạt động khác nhau được chia thành 2 khu vực: Khu phi thuế
quan và Khu thuế quan, trong Khu thuế quan có các khu cơng nghiệp, khu chế
xuất, khu giải trí đặc biệt, khu du lịch, khu đô thị và hành chính.
Hai là, khu kinh tế mở khơng có hàng rào “cứng” nhưng có ranh giới rõ
ràng để áp dụng cơ chế, chính sách quản lý trong khơng gian lãnh thổ nhất
định. Riêng khu phi thuế quan, khu công nghiệp, khu chế xuất sẽ có hàng rào
“cứng” ngăn cách với các phần còn lại, tạo điều kiện thuận lợi để quản lý
hàng hóa.
Ba là, khu kinh tế mở là mơ hình khu kinh tế tổng hợp, khơng chỉ có
cơng nghiệp mà có tất cả các ngành kinh tế khác như: thương mại, dịch vụ, tài
chính, ngân hàng, du lịch, nơng nghiệp, thuỷ sản, văn hoá, thể thao,...
Bốn là, khu kinh tế mở chưa phải là đơn vị hành chính riêng. Vì thế, quản
lý nhà nước về các vấn đề an ninh, chính trị, văn hóa, xã hội đều do các cấp
chính quyền tỉnh thực hiện; Ban quản lý Khu kinh tế mở chỉ tập trung quản lý
quy hoạch, đầu tư để phát triển kinh tế, đô thị trên địa giới hành chính của khu
kinh tế.


8
1.1.1.3. Phân biệt khu kinh tế mở với khu chế xuất, khu cơng nghiệp,
khu kinh tế cửa khẩu
Ở nhiều khía cạnh, các khu chế xuất gần giống như các khu kinh tế mở,
do đều có các ưu đãi nhất định nhằm mục tiêu phát triển kinh tế của quốc gia.
Tuy nhiên, chúng khơng hồn tồn giống nhau. Khu chế xuất chỉ dành cho
việc sản xuất, chế biến những sản phẩm để xuất khẩu ra nước ngoài hoặc dành
cho các loại doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ liên quan đến
hoạt động xuất - nhập khẩu tại khu vực đó. Khu chế xuất có vị trí, ranh giới
được xác định và khơng có dân cư sinh sống. Mục đích chính của nó là để
nâng cao kim ngạch xuất khẩu; quan hệ trao đổi hàng hố giữa các doanh
nghiệp ngồi khu chế xuất với các doanh nghiệp trong khu chế xuất được coi

là quan hệ xuất khẩu - nhập khẩu, nên phải thực hiện các quy định của pháp
luật về xuất khẩu - nhập khẩu hàng hố nói chung và phải khai báo, làm thủ
tục hải quan.
Khu công nghiệp là khu vực dành cho phát triển công nghiệp theo quy
hoạch. Những khu cơng nghiệp có quy mơ nhỏ thường được gọi là cụm công
nghiệp. Giống như khu chế xuất, khu cơng nghiệp khơng có dân cư. Về quy
mơ, các khu công nghiệp nhỏ hơn các khu kinh tế và khu kinh tế mở.
Ngồi ra, nước ta hiện nay cịn loại hình khu kinh tế cửa khẩu. Khu Kinh
tế cửa khẩu là một không gian kinh tế xác định, gắn với cửa khẩu quốc tế hay
cửa khẩu chính của quốc gia, có dân cư sinh sống và được áp dụng những cơ
chế, chính sách phát triển đặc thù, phù hợp với đặc điểm từng địa phương sở
tại, khai thác, sử dụng, phát triển bền vững các nguồn lực nhằm mang lại hiệu
quả kinh tế - xã hội các địa phương.
Khu kinh tế của khẩu có một số đặc trưng sau đây: Cách xa trung tâm
kinh tế - chính trị - văn hoá của đất nước; dân cư tại các khu kinh tế cửa khẩu
với dân cư địa phương lân cận của các nước láng giềng có sự tương đồng


9
nhau về văn hố, truyền thống, tín ngưỡng,...; có sự khác biệt về trình độ phát
triển kinh tế - xã hội - môi trường và chất lượng cuộc sống; hợp tác và cạnh
tranh là đặc trưng chủ yếu, dựa trên ngun tắc tơn trọng chủ quyền của nhau,
bình đẳng các bên cùng có lợi.
Như vậy, có thể thấy rằng, các khu cơng nghiệp được xây dựng nhằm
mục tiêu chính là phát triển các ngành cơng nghiệp, cịn khu kinh tế nói chung
và khu kinh tế mở là khu vực phát triển đa ngành. Khu chế xuất nhằm mục
tiêu chính là xuất khẩu, trong khi khu kinh tế mở không những nhằm mục tiêu
xuất khẩu mà còn tạo các điều kiện ưu đãi cho các doanh nghiệp với định
hướng vào thị trường nội địa. Nói chung, các khu kinh tế mở thường hay
được lập ra tại các khu vực ít thuận lợi hơn khu chế xuất nhất nhằm mở mang,

phát triển kinh tế tại khu vực đó, cịn các khu chế xuất thường nằm tại các khu
vực thuận tiện cho xuất - nhập khẩu, tức là gần với cảng hàng không hay cảng
biển. Khu kinh tế cửa khẩu, chủ yếu nhấn mạnh vai trò hợp tác phát triển ở
các vùng biên giới của nước ta và các nước láng giềng. Khu kinh tế mở đã
giải quyết được những tồn tại cơ bản về sự phát triển công nghiệp đơn thuần
trong khu công nghiệp, khu chế xuất, đặt công nghiệp trong mối quan hệ mật
thiết với các ngành dịch vụ, thương mại; đặt các ngành gắn kết với quy hoạch
phát triển các khu đô thị, khu thương mại, và các khu chức năng liên quan.
1.1.2. Những đặc trưng cơ bản của khu kinh tế mở
1.1.2.1. Về vị trí địa lý
Hầu hết các khu kinh tế mở, dù được thành lập để thử nghiệm chính sách
hoặc nhằm mục tiêu kích thích phát triển kinh tế tại một số địa phương kém
phát triển cũng đều chú ý đến vị trí địa lý chiến lược trong vùng để thuận tiện
cho việc kinh doanh và đầu tư. Trong lịch sử hình thành, các khu kinh tế trên
thế giới đều gắn với các tuyến giao thông huyết mạch của đất nước hoặc của
vùng, gắn với cảng biển, sân bay quốc tế, gần thị trường tiêu dùng lớn… Các


10
lợi thế về vị trí địa lý giúp cho các doanh nghiệp giảm thiểu chi phí đầu tư, chi
phí sản xuất, tăng lợi thế cạnh tranh, thuận lợi trong việc tiêu thụ hàng hoá.
1.1.2.2. Về kết cấu các ngành kinh tế
Xét về tỷ trọng các ngành kinh tế chiếm ưu thế, có các khu kinh tế mang
tính chất thương mại, có các khu kinh tế mang tính chất cơng nghiệp và các
khu kinh tế mang tính chất tổng hợp. Nhóm khu kinh tế mang tính chất
thương mại là các khu kinh tế cho phép đưa hàng hố bên ngồi vào, khơng
phải đóng thuế hoặc có chịu thuế nếu có các hoạt động tồn trữ, gia cố, lắp
ráp… và sau đó được xuất khẩu miễn thuế. Mục đích các khu này là để thu
hút và thúc đẩy việc trao đổi, mua bán hàng hố, dịch vụ chuyển khẩu q
cảnh. Nhóm khu kinh tế mang tính chất cơng nghiệp được thành lập để đẩy

mạnh sản xuất công nghiệp, tăng cường xuất khẩu và phục vụ cho chiến
lược cơng nghiệp hố hướng về xuất khẩu, đặc biệt là đối với các nước đang
phát triển.
Nhóm khu kinh tế mở mang tính hỗn hợp được xây dựng với cơ cấu
kinh doanh tổng hợp, gồm nhiều ngành, từ công nghiệp, nông nghiệp, dịch
vụ, du lịch, tài chính, ngân hàng, y tế, giáo dục, nghiên cứu khoa học… được
triển khai trên quy mô lớn, phạm vi lãnh thổ rộng. Tỷ trọng các ngành kinh tế
có thể thay đổi tuỳ thuộc vào lợi thế, nhưng hiện nay, quá trình diễn ra tại Khu
Kinh tế mở Chu Lai phổ biến là ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong
cơ cấu ngành kinh tế.
1.1.2.3. Về cơ chế, chính sách
Theo Trung Quốc, đặc khu kinh tế có hệ thống pháp luật về kinh tế khác
biệt với hệ thống pháp luật của phần còn lại của quốc gia, được ngăn cách với
bên ngoài bởi hàng rào quản lý nhằm: (1) để quản lý quan hệ giữa đặc khu
kinh tế với thị trường thế giới; (2) để ngăn cách đặc khu kinh tế với thị trường
nội địa.


11
Các khu kinh tế có hệ thống pháp luật hợp lý hơn so với vùng khác và
được cụ thể hoá thành các chính sách về ưu đãi đầu tư, thuế, quyền sử dụng đất,
kiểm sốt hành chính rất đặc biệt. Theo mơ hình này, các khu kinh tế được tổ
chức như xã hội thu nhỏ và được áp dụng những chính sách kinh tế đặc biệt để
thu hút vốn đầu tư nước ngồi, cơng nghệ… với cơ cấu ngành nghề đầy đủ của
một nền kinh tế, gồm nhiều ngành từ sản xuất đến dịch vụ. Trong đó, ưu tiên
phát triển công nghiệp hướng về xuất khẩu, song không bỏ quên thị trường nội
địa. Tóm lại, đặc trưng về cơ chế, chính sách của các khu kinh tế là: Tạo mơi
trường đầu tư và kinh doanh thuận lợi hơn hẳn các vùng, các khu vực khác
của quốc gia cùng với các hỗ trợ khác của chính phủ như: được hưởng hệ
thống kết cấu hạ tầng hồn thiện nhất có thể, ít các quy chế nhất.

1.1.2.4. Về tổ chức quản lý và hoạt động
Khu kinh tế mở có mơ hình quản lý hành chính đặc biệt, tương ứng với
hệ thống luật pháp, chính sách đặc biệt. Đa số các khu kinh tế trên thế giới
đều hình thành cấp quản lý hành chính tương đương với các địa phương
nhưng được Chính phủ phân cấp mạnh mẽ hơn với những quy định đặc biệt.
Bên cạnh đó, Chính phủ cũng đã thơng qua các cơng cụ quản lý vĩ mô để quản
lý thống nhất và tạo môi trường pháp lý tương đối rõ ràng và thơng thống cho
các doanh nghiệp hoạt động và bảo đảm công tác quản lý nhà nước.
Ở nước ta hiện nay, để giúp Chính phủ quản lý hoạt động các khu kinh tế,
Chính phủ thành lập các ban quản lý và được các bộ, ngành và Ủy ban nhân
dân các tỉnh phân cấp quản lý, thực hiện cơ chế quản lý “một cửa, tại chỗ”. Cơ
chế quản lý “một cửa, tại chỗ” được thực hiện thông qua việc các bộ, ngành
trung ương và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố uỷ quyền cho các ban quản lý
cấp tỉnh thực hiện một số nhiệm vụ quản lý nhà nước về đầu tư, xây dựng,
thương mại, lao động... Một số nội dung quản lý thuộc lĩnh vực chuyên ngành
như hải quan, công an, thuế vụ... thực hiện theo phương thức các cơ quan này
đặt cơ quan đại diện để giải quyết trực tiếp công việc tại từng khu kinh tế. Song


12
song với việc uỷ quyền, các cơ quan quản lý nhà nước trung ương tập trung
cho công tác quy hoạch ngành, vùng lãnh thổ, xây dựng các quy trình, quy
phạm các định mức kinh tế - kỹ thuật, tăng cường công tác hướng dẫn, tổ chức
tập huấn, sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm và giám sát các ban quản lý cấp tỉnh
thực hiện các chức năng quản lý nhà nước được uỷ quyền. Cơ chế phân cấp và
uỷ quyền này đã rút ngắn được thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho các hoạt
động đầu tư, kinh doanh trong các khu kinh tế.
1.1.2.5. Về dân cư và đô thị
Khác với các khu chế xuất, khu cơng nghiệp khơng có dân cư sinh sống
ở nội khu, các khu kinh tế có quy mơ lãnh thổ lớn hơn và đặc biệt là có dân cư

sinh sống. Cư dân trong khu kinh tế phần lớn làm việc trong các doanh
nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh và dịch vụ của khu kinh tế. Ngồi ra,
cịn các bộ phận cư dân, mà hoạt động làm ăn của họ gián tiếp phục vụ cho
các hoạt động của khu kinh tế và cho cả cộng đồng dân cư như các hoạt động
sản xuất nông nghiệp, các dịch vụ về y tế, giáo dục, đào tạo nghề…
Các khu kinh tế ở nước ta hiện nay được xây dựng chủ yếu ở những
vùng chưa phát triển, đa số dân cư sản xuất nơng nghiệp là chính. Vì vậy, việc
di dời, sắp xếp lại dân cư, chuyển đổi nghề nghiệp đang đặt ra yêu cầu vừa
bức bách vừa phải tiến hành thận trọng để bảo đảm cuộc sống nhân dân ít bị
tác động tiêu cực nhất. Đồng thời, khi các doanh nghiệp đầu tư vào các khu
kinh tế bắt đầu hoạt động sản xuất kinh doanh, một lượng lớn lao động nhập
cư đến các khu kinh tế dẫn đến các yêu cầu về các điều kiện an sinh xã hội
cần phải tính tới để bảo đảm cuộc sống.
1.1.2.6. Về tính hội nhập và liên hệ quốc tế
Đối với các nền kinh tế chuyển đổi, các khu kinh tế đầu tiên là “cửa sổ”
của đất nước và dần dần chuyển thành “cửa mở” ra với thế giới. Vì vậy, đặc
trưng về tính hội nhập và liên hệ quốc tế của các khu kinh tế thể hiện trước
hết ở hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách kinh tế. Hệ thống các cơ chế,


13
chính sách áp dụng cho các khu kinh tế có độ “mở” cao hơn hệ thống các cơ
chế chính sách được áp dụng chung cho cả nước, phù hợp với thơng lệ của
quốc tế. Chính sự “liên thơng”, tương đồng ở mức độ nào đó về cơ chế chính
sách đã tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp FDI đầu tư và kinh doanh như là
đầu tư tại các nước sở tại. Hệ thống cơ chế, chính sánh ấy là động lực ban đầu
để thu hút mạnh mẽ FDI, công nghệ, nhân lực chất lượng cao.
Thứ hai, các khu kinh tế là nơi có nhiều doanh nghiệp FDI, các chi
nhánh của các cơng ty xun quốc gia hoạt động, vì vậy, có sự liên hệ chặt
chẽ với các đối tác kinh tế nước ngoài. Hoạt động xuất nhập khẩu tại các khu

kinh tế luôn sôi động hơn các khu vực khác do sự gắn kết các doanh nghiệp đầu
tư tại các khu kinh tế với thị trường khu vực và thế giới. Các khu kinh tế là nơi
có lợi thế để các doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất và dịch vụ hướng đến xuất
khẩu, đồng thời hướng đến thị trường nội địa. Hàng xuất khẩu muốn có năng lực
cạnh tranh thị trường nước ngồi về giá cả phải tìm kiếm các địa điểm đầu tư sản
xuất với chi phí thấp, vì vậy, các khu kinh tế là lựa chọn hợp lý nhất để tập trung
các nguồn lực đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu.
Mặt khác, các khu kinh tế là đầu cầu quan trọng để hàng hoá và dịch vụ của các
doanh nghiệp FDI hướng vào thị trường nội địa, là “căn cứ” để từ đó đưa sản
phẩm đến tay người tiêu dùng nội địa nhanh nhất, với chi phí thấp.
1.2. VAI TRỊ KHU KINH TẾ MỞ TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
VÙNG VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

1.2.1. Vai trò của khu kinh tế mở trong phát triển
kinh tế - xã hội vùng
1.2.1.1. Kích thích các ngành kinh tế địa phương phát triển và phân
bố lại cơ cấu công nghiệp - dịch vụ - nơng nghiệp
Nhìn chung, các địa phương tại Việt Nam, khi các khu kinh tế ra đời, cơ
cấu kinh tế ở các địa phương thay đổi lớn, khu vực cơng nghiệp và dịch vụ
tăng trưởng nhanh chóng, tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống xã


14
hội. Ngồi việc thử nghiệm chính sách và đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế, các khu kinh tế được thành lập còn nhằm hướng đến phát triển các
khu vực, các địa phương nằm trong chiến lược phát triển kinh tế tổng thể của
quốc gia, thực hiện việc phân bố lực lượng sản xuất hợp lý hơn, thúc đẩy kinh
tế - xã hội ở những vùng cần ưu tiên phát triển. Việc hình thành các khu kinh
tế là một biện pháp tích cực và hiệu quả nhất để tập trung nguồn lực trong và
ngoài nước phát triển các ngành kinh tế, đặc biệt là phát triển công nghiệp và

dịch vụ, góp phần làm cho nền kinh tế sơi động hơn, làm xuất hiện những
ngành nghề mới, mang lại diện mạo mới cho nền kinh tế địa phương và khu
vực, với sự gia tăng nhanh chóng các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh
trên nhiều lĩnh vực, kích thích mạnh các ngành kinh tế “truyền thống” địa
phương phát triển.
Mỗi doanh nghiệp đầu tư vào khu kinh tế, dù chuẩn bị tốt đến đâu cũng
không thể đáp ứng tất cả các yêu cầu của quá trình sản xuất, vì vậy dẫn đến
nhu cầu phát triển nhiều ngành công nghiệp phụ trợ, thương mại, dịch vụ...để
hỗ trợ cho các doanh nghiệp hoạt động tốt hơn, tiết kiệm chi phí sản xuất như
các loại dịch vụ tư vấn, thiết kế xây dựng, bảo hiểm, bưu chính viễn
thơng...Những ngành dịch vụ phát triển do yêu cầu thị trường tại các khu kinh
tế nhưng đồng thời các dịch vụ này cũng phục vụ cho yêu cầu của đời sống
dân sinh ngoài khu các khu kinh tế.
Sự hình thành và phát triển các khu kinh tế là nhân tố tích cực tạo điều
kiện hình thành và phát triển vùng kinh tế lãnh thổ, đặc biệt là các vùng trọng
điểm. Sự thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng trên, phần nhiều mang tính tích
cực, phản ánh việc phân bổ các nguồn lực hợp lý hơn. Tuy nhiên, nếu khơng
có chính sách đúng đắn đối với nơng nghiệp, có thể dẫn đến sự phát triển
thiếu bền vững.
1.2.1.2. Thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước


15
Trong q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố, vốn có vai trị đặc biệt
quan trọng. Việc thu hút tốt các nguồn vốn đầu tư sẽ tạo điều kiện mở rộng
quy mô sản xuất, đổi mới công nghệ, tạo việc làm, nâng cao thu nhập dân cư,
tăng tiềm lực kinh tế của đất nước.
Thực tế cho thấy, sự phát triển của nền kinh tế thế giới luôn kéo theo sự
vận động khơng ngừng các dịng vốn đầu tư quốc tế. Có hai xu thế di chuyển
vốn đầu tư quốc tế hiện nay, đó là đầu tư ra ngồi nước và thu hút đầu tư vào

trong nước. Nguyên nhân tác động trực tiếp đến việc di chuyển vốn đầu tư
quốc tế là do các điều kiện về kinh doanh và đầu tư ở các nước thay đổi dẫn
đến việc tăng hoặc giảm lợi thế so sánh. Cả các nước phát triển và đang phát
triển vẫn có dịng vốn đầu tư quốc tế di chuyển vào và di chuyển ra khi lợi thế
kinh doanh của một lĩnh vực nào đó thay đổi, buộc các nhà đầu tư phải tìm
kiếm thị trường đầu tư mới. Việc huy động vốn từ nước ngoài để phát triển là
tận dụng điều kiện khách quan thuận lợi mà thế giới đã tạo ra do nhu cầu cần
đầu tư ra nước ngoài của các nước phát triển. Các khu kinh tế là địa chỉ tin
cậy cho các nhà đầu tư nước ngồi do chính sách ưu đãi đầu tư được thể hiện
rõ nét nhất. Các nhà đầu tư nước ngoài cảm thấy yên tâm hơn khi đầu tư vào
khu vực này cịn bởi trong khu kinh tế có một hệ thống kết cấu hạ tầng hiện
đại, có một mơi trường pháp lý thuận lợi và thơng thống hơn, là nơi cơ chế
“một cửa tại chỗ” được thực thi rõ ràng nhất.
Cùng với việc di chuyển vốn đầu tư, công nghệ cũng được di chuyển vào
các nước, các khu vực, những nơi mà các điều kiện như trình độ nhân lực,
chính sách thu hút cơng nghệ của Chính phủ… đáp ứng yêu cầu của nhà đầu
tư và trình độ cơng nghệ họ sở hữu. Giai đoạn cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
nền kinh tế thường đi kèm với yêu cầu bức bách phải tăng năng lực sản xuất
cho những ngành có lợi thế cạnh tranh. Muốn đáp ứng yêu cầu trên, phải tăng
năng lực về công nghệ để tăng năng suất, hiệu quả và chất lượng sản phẩm.
Việc thu hút FDI, đi kém theo đó là cơng nghệ, là một trong những phương


16
thức quan trọng để tiếp thu công nghệ các nước phát triển, đổi mới và nâng
cao trình độ cơng nghệ của quốc gia.
Một trong những khó khăn của các khu kinh tế là nguồn nhân lực chưa
thật sự sẵn sàng để đáp ứng nhu cầu các nhà đầu tư. Vì vậy, đi kèm với việc
thu hút FDI, công nghệ, các khu kinh tế ở giai đoạn ban đầu còn thu hút
nguồn nhân lực ngồi nước có chất lượng cao hơn so với nguồn nhân lực tại

địa phương. Nguồn nhân lực được đào tạo với kỹ năng và trình độ cao đã giúp
cho các doanh nghiệp ổn định giai đoạn sản xuất kinh doanh khởi đầu và góp
phần tác động đến việc đào tạo nguồn nhân lực tại địa phương.
Đối với nguồn vốn huy động vốn từ trong nước, đây là nguồn nội lực có
tính chất quyết định cho việc xây dựng đất nước. Trong những năm đầu, do
chưa thấy được hết tầm quan trọng của nó nên nguồn vốn này huy động còn
hạn chế. Các dự án đầu tư trong nước tập trung vào khu kinh tế cịn ít, chủ
yếu là các dự án đầu tư nước ngoài. Vài năm gần đây, nguồn vốn này đã được
chú trọng hơn, dòng vốn đầu tư trong nước vào các khu kinh tế đã tăng lên
đáng kể. Số dự án trong nước tập trung vào các khu kinh tế tăng nhanh so với
các dự án có vốn đầu tư nước ngồi.
1.2.1.3. Phân cơng lại lao động, giải quyết việc làm và tăng thu nhập
dân cư
Các khu kinh tế, từ chỗ thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế
của địa phương đã dẫn đến cơ cấu lao động cũng chuyển dịch tương ứng. Đội
ngũ lao động ở khu vực nông nghiệp, thông qua việc đào tạo chuyển đổi
ngành nghề đã di chuyển mạnh sang cơng nghiệp và dịch vụ, góp phần giảm
áp lực thiếu việc làm tại địa phương, tăng thu nhập dân cư. Ngoài ra, lực
lượng lao động tại địa phương đã dần dần thay thế lực lượng lao động từ các
địa phương khác chuyển đến, giúp cho các doanh nghiệp chủ động hơn trong
việc tuyển dụng lao động, tiết kiệm chi phí sản xuất.


17
Có thể thấy rằng, về phương diện lao động và việc làm, thì sự phát triển
khu kinh tế đã tác động tích cực trên hai mặt cơ bản sau:
Thứ nhất, đã thu hút một lực lượng lao động khá đông đảo. Tính đến
cuối năm 2010, các khu kinh tế, khu công nghiệp trên cả nước đã giải quyết
việc làm cho khoảng trên 1 triệu lao động trực tiếp, chưa kể lao động gián tiếp
ngồi các khu kinh tế, khu cơng nghiệp [20]. Các khu kinh tế phát triển đã

góp phần đưa công nghiệp và dịch vụ về nông thôn, tác động trực tiếp đến
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thơn và cơ cấu lao động nơng nghiệp.
Thứ hai, góp phần đào tạo và và nâng cao chất lượng lao động, rèn luyện
tác phong lao động công nghiệp, nâng cao ý thức kỷ luật, nâng cao trình độ
tay nghề cho người lao động. Lao động Việt Nam được đánh giá là cần cù,
tháo vát, nhạy bén với cái mới, có khả năng nắm bắt công nghệ mới. Tuy vậy,
so với yêu cầu của các nhà tuyển dụng lao động hiện nay, thì chất lượng lao
động ở nước ta, nhìn chung cịn rất thấp, do chưa có một nền tảng giáo dục tốt,
cơng tác đào tạo tay nghề cịn nhiều hạn chế. Vì thế, các khu kinh tế hiện nay
ngồi việc tạo nhiều chỗ làm việc, quan trọng hơn còn nơi để đa số lao động
chuyển đổi từ lao động nông nghiệp được tiếp cận với công nghệ mới, được trực
tiếp làm việc trong môi trường kỷ luật nghiêm, yêu cầu tay nghề cao, được rèn
luyện kỹ năng và bản lĩnh làm việc thích ứng với một nền cơng nghiệp hiện đại.
Các doanh nghiệp ở khu kinh tế, khu công nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngồi đã đào tạo được đội ngũ lao động có chất lượng, nâng
cao trình độ của lao động Việt Nam. Đối với các doanh nghiệp đầu tư vào các
khu kinh tế, việc có nguồn lao động dồi dào, sẽ ít chịu tác động cạnh tranh quyết
liệt để thu hút lao động như ở các khu vực phát triển khác. Đây là điều kiện
thuận lợi để các doanh nghiệp sớm ổn định và phát triển sản xuất kinh doanh.
1.2.1.4. Phát triển nhiều ngành công nghiệp hiện đại và thúc đẩy đổi
mới công nghệ, tăng tiềm lực khoa học - công nghệ cho đất nước
Với sự hấp dẫn về chính sách và các điều kiện thuận lợi khác, các khu
kinh tế đã làm xuất hiện nhiều ngành công nghiệp hiện đại để nhân rộng vào


18
khu vực nội địa. Các doanh nghiệp tìm thấy ở các khu kinh tế cơ hội đầu tư
sản xuất, kinh doanh, phát triển thị trường mới. Việc đầu tư mới luôn đi liền
với việc ứng dụng các công nghệ mới, đưa ra sản phẩm mới hoặc nâng cao
chất lượng sản phẩm đã có; tiếp cận với các ý tưởng cơng nghệ có tính ứng

dụng cao và tiềm năng thị trường tốt. Hầu hết các khu kinh tế đều có chính
sách khuyến khích đầu tư cho các ngành cơng nghiệp hiện đại, tạo điều kiện
thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư, giúp các doanh nghiệp vượt qua được giai
đoạn khó khăn ban đầu. Việc thực hiện chính sách khuyến khích phát triển các
ngành công nghiệp hiện đại tại các khu kinh tế là chủ trương đúng hiện nay để
thu hút các doanh nghiệp FDI đảng cấp.
Trên phạm vi toàn cầu, tốc độ phát triển khoa học và công nghệ ngày
càng nhanh dẫn đến trình độ ứng dụng và đổi mới công nghệ, di chuyển từ
các nước phát triển cao đến các nước đang phát triển ra không ngừng. Sự ra
đời của khu kinh tế, với những ưu thế của nó, đã thúc đẩy nhanh q trình di
chuyển cơng nghệ. Trong những năm qua, các nhà đầu tư nước ngoài đã đưa
vào Việt Nam những dây chuyền sản xuất với công nghệ tiên tiến góp phần
nâng cao trình độ cơng nghệ của Việt Nam, nhất là những công nghệ ở những
lĩnh vực mà chúng ta cịn yếu kém như cơ khí chính xác, điện tử, tự động
hóa… Những cơng nghệ mới, tiên tiến hiện đại đó đã tạo điều kiện và kích
thích doanh nghiệp trong nước đổi mới cơng nghệ, học tập đào tạo nâng cao
trình độ để tiếp cận, sử dụng cơng nghệ hiện đại. Q trình này bắt đầu từ các
doanh nghiệp dần lan tỏa đến nhiều lính vực của đời sống xã hội, thúc đẩy
khoa học - công nghệ trong nước phát triển, góp phần nâng cao tiềm lực khoa
học - công nghệ cho đất nước.
1.2.1.5. Phát triển khu kinh tế, khu công nghiệp thúc đẩy việc phát
triển và hoàn thiện kết cấu hạ tầng
Xây dựng kết cấu hạ tầng là điều kiện hết sức quan trọng và cấp thiết
của nền kinh tế. Để thu hút đầu tư vào khu kinh tế tạo điều kiện thuận lợi cho


19
các nhà đầu tư trong việc triển khai nhanh các dự án, ngồi chính sách ưu đãi,
kết cấu hạ tầng có ý nghĩa quan trọng. Hệ thống kết cấu hạ tầng trong và
ngoài hàng rào các khu kinh tế bao gồm hệ thống cấp điện, bưu chính viễn

thơng, hệ thống cấp thốt nước, hệ thống giao thơng,… khơng chỉ có tác dụng
tạo điều kiện thuận lợi cho các khu kinh tế hoạt động mà cịn kích thích sự
phát triển kinh tế địa phương nơi có khu kinh tế. Nhiều địa phương ở nước ta
trước đây, do kết cấu hạ tầng chưa phát triển nên việc huy động vốn đầu tư
còn rất hạn chế đặc biệt là đầu tư nước ngoài. Trong những năm gần đây, Nhà
nước và các địa phương đã tập trung nguồn vốn lớn đầu tư phát triển kết cấu
hạ tầng. Hiện nay, hệ thống giao thông, điện, bưu chính viễn thơng... đã khá
hơn trước, do đó từng bước đáp ứng được yêu cầu các nhà đầu tư.
Ngoài các vai trò nêu trên, các khu kinh tế còn đóng góp đáng kể vào giá
trị sản xuất cơng nghiệp, vào kim ngạch xuất khẩu, tăng cường kinh tế đối
ngoại và góp phần tăng thu ngân sách Nhà nước, khẳng định được vai trị của
nó trong sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
1.2.2. Vai trị của khu kinh tế mở trong hội nhập kinh tế quốc tế
1.2.2.1. Khu kinh tế là nơi thử nghiệm các chính sách để hội nhập
kinh tế quốc tế
Quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới của nước ta diễn ra ngày
càng sâu rộng. Để việc hội nhập thành công, bảo đảm nền kinh tế phát triển
ổn định và bền vững địi hỏi phải có chính sách đúng, đáp ứng u cầu tạo
mơi trường kinh doanh và đầu tư bình đẳng, thuận lợi với cả doanh nghiệp
trong nước và doanh nghiệp FDI. Các khu kinh tế là nơi tốt nhất để thể
nghiệm các chính sách về thu hút đầu tư, quản lý hành chính, các chính sách
về di chuyển lao động, thuế, hải quan, xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ,
xuất nhập cảnh, cư trú đối với lao động nước ngồi... Thơng qua việc áp dụng
thứ nghiệm các chính sách hướng về nền kinh tế mở tại các khu kinh tế,
Chính phủ và các cơ quan quản lý từng bước hồn thiện các chính sách để áp


20
dụng rộng rãi trên phạm vi cả nước, bảo đảm cho quá trình hội nhập thực hiện
đúng với các cam kết quốc tế, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước

nâng cao năng lực cạnh tranh và hợp tác với các doanh nghiệp nước ngoài.
Hội nhập kinh tế, theo quan niệm đơn giản nhất và phổ biến trên thế
giới, là việc các nền kinh tế gắn kết lại với nhau. Theo cách hiểu này, hội nhập
kinh tế đã diễn ra từ hàng ngàn năm nay và hội nhập kinh tế với quy mơ tồn
cầu đã diễn ra từ cách đây hai nghìn năm khi Đế quốc La Mã xâm chiếm thế
giới và mở mang mạng lưới giao thông, thúc đẩy lưu thơng hàng hố trong
tồn bộ lãnh địa chiếm đóng rộng lớn của họ và áp đặt đồng tiền của họ cho
toàn bộ các nơi.
Hội nhập kinh tế, hiểu theo một cách chặt chẽ hơn, là việc gắn kết
mang tính thể chế giữa các nền kinh tế lại với nhau. Khái niệm này được
chấp nhận rộng rãi trong giới học thuật và lập chính sách. Nói rõ hơn, hội
nhập kinh tế là quá trình chủ động thực hiện đồng thời hai việc: một mặt,
gắn nền kinh tế và thị trường từng nước với thị trường khu vực và thế giới
thông qua các nỗ lực thực hiện mở cửa và thúc đẩy tự do hóa nền kinh tế
quốc dân; và mặt khác, gia nhập và góp phần xây dựng các thể chế kinh tế
khu vực và toàn cầu [13, tr.21-24].
Hội nhập kinh tế có sáu cấp độ: khu vực/hiệp định thương mại ưu đãi;
khu vực/hiệp định thương mại tự do; liên minh thuế quan; thị trường chung;
liên minh kinh tế tiền tệ; hội nhập toàn diện. Tuy nhiên trong thực tế, các cấp
độ hội nhập có thể nhiều hơn và đa dạng hơn. Hội nhập kinh tế có thể là song
phương - giữa hai nền kinh tế hoặc giữa hai khu vực - tức là giữa một nhóm
nền kinh tế; hợp tác đa phương, với có quy mơ rộng lớn, với nhiều đối tác
giống như những gì mà Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đang thực hiện.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta đã và đang diễn ra với
mức độ ngày một sâu hơn. Tuy nhiên, đây là những nội dung rất mới đòi hỏi
phải có bước đi phù hợp, tránh gây “sốc” cho nền kinh tế. Song song với các


21
nỗ lực khác ở cấp độ quốc gia, việc các khu kinh tế ra đời cũng là giải pháp để

thử nghiệm việc hội nhập kinh tế quốc tế. Thông qua các chính sách ưu đãi
đặc biệt được áp dụng tại các khu kinh tế, một mặt, đã cải thiện tốt hơn môi
trường đầu tư kinh doanh, giúp cho việc thu hút đầu tư nước ngoài diễn ra
mạnh mẽ hơn, mặt khác, giúp các doanh nghiệp trong nước tiếp cận với “luật
chơi” chung của thế giới và khu vực.
Vì vậy, với tư cách là nơi thử nghiệm chính sách nhằm để áp dụng rộng
rãi trong nước phù hợp với lộ trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, các
khu kinh tế là công cụ quan trọng, là cơ sở thực tiễn để qua đó, hồn thiện
chính sách mở cửa, tham gia tích cực vào q trình hồn thiện thể chế kinh tế
khu vực và toàn cầu, thực hiện việc gắn nền kinh tế và thị trường trong nước
với nền kinh tế thế giới.
1.2.2.2. Khu kinh tế mở là cầu nối gắn phân công lao động quốc gia
với phân công lao động quốc tế
Phân công lao động xã hội là q trình diễn ra từ khi có sản xuất và lưu
thơng hàng hố. Ngày nay, trong điều kiện tồn cầu hố về kinh tế, phân cơng
lao động khơng chỉ diễn ra ở mỗi vùng, mỗi quốc gia mà là phạm vi toàn thế
giới. Mỗi một sản phẩm khi đến tay người tiêu dùng trải qua nhiều cung đoạn,
được sản xuất tại nhiều doanh nghiệp, ở nhiều quốc gia. Mỗi quốc gia đều có
cơ hội tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu nếu biết tận dụng lợi thế so sánh.
Thực tế hiện nay cho thấy, các nước phát triển có cung đầu vào về tư bản
nhiều hơn các nước đang phát triển dẫn đến số lượng tư bản trên mỗi nhân
công lớn hơn. Ngược lại, các nước đang phát triển, số nhân công trên một đơn
vị tư bản lớn hơn các nước phát triển. Hay nói cách khác, giá thuê tư bản ở
các nước phát triển rẻ hơn giá thuê nhân công và giá thuê nhân công ở các
nước đang phát triển rẻ hơn giá thuê tư bản.
Như vậy, lợi thế so sánh của các nước rất khác nhau, nhất là giữa các
nước phát triển và các nước đang phát triển. Việc di chuyển vốn và công nghệ


22

từ nước ngoài vào các khu kinh tế, đối với các nhà đầu tư, ngồi những lợi ích
khác cịn là nhằm để giải bài tốn về chi phí nhân cơng, tăng lợi thế cạnh
tranh. Đối với các nước sở tại, với lợi thế về nhân công, sẽ là cơ hội để đón
nhận luồng vốn đầu tư và cơng nghệ nước ngồi. Phát triển các khu kinh tế đã
góp phần khai thác mọi tiềm năng về lao động, đất đai, tài nguyên và các lợi
thế của đất nước phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hố, tham gia mạnh mẽ vào q trình
phân cơng lao động thế giới, biến những vùng thuần nông thành vùng kinh tế
đa ngành, trong đó cơng nghiệp và dịch vụ chiếm tỷ trọng ngày càng lớn.
1.2.2.3. Khu kinh tế mở là phương tiện để phát huy lợi thế kinh tế
quốc gia và tận dụng lợi thế kinh tế quốc tế vào phát triển kinh tế nội địa
Việc hình thành các khu kinh tế nói chung và khu kinh tế mở đã góp
phần làm cho nền kinh tế sôi động hơn, biến tiềm năng đất đai, lao động, hạ
tầng, vị trí địa lý... thành của cải vật chất làm giàu cho đất nước. Khơng ít
vùng nơng thơn nghèo, đất đai cằn cỗi hoang hố, ít có khả năng sinh lợi sau
khi khu kinh tế mọc lên, các doanh nghiệp phát triển, trở nên sầm uất, đời
sống kinh tế - xã hội trong vùng được cải thiện. Thí dụ rõ ràng nhất là Chu
Lai, sau giải phóng hàng chục năm là một vùng đất trắng, đời sống nhân dân ở
đây rất khó khăn. Sau khi Khu kinh mở Chu Lai được xây dựng, nơi đây đã
thành khu vực sầm uất, phát triển năng động. Khu kinh tế Dung Quất trước
đây là một vùng đất hoang hố, hiện nay là một đại cơng trường với hàng
chục cơng trình, số vốn đầu tư hàng tỷ đơ la. Vịnh Vân Phong của Khánh Hồ
là một vịnh có tiếng trên thế giới, nhưng nếu khơng có đầu tư thì chẳng tạo ra
được một giá trị nào đáng kể. Khi Khu kinh tế Vân Phong được hình thành,
đặc biệt là khi cảng trung chuyển và kho ngoại quan của thế giới đi vào hoạt
động, sẽ tạo nguồn thu dịch vụ không nhỏ cho đất nước.
Các khu kinh tế là các “đầu tàu” về kinh tế của vùng, là nơi thể hiện rõ
nhất tiềm lực và lợi thế kinh tế quốc gia trong quá trình hội nhập kinh tế khu



23
vực và thế giới. Trong xu thế tồn cầu hố ngày nay, các nước vừa tuỳ thuộc
lẫn nhau vừa phải cạnh tranh để phát triển, dẫn đến yêu cầu việc sử dụng sao
cho có hiệu quả lợi thế so sánh để nhanh chóng rút ngắn khoảng cách chênh
lệch phát triển. Đây là xu thế tất yếu, khách quan và phổ biến, bắt nguồn từ
yêu cầu của sự phân công và hợp tác quốc tế. Các khu kinh tế, với nhiều ưu
thế về vị trí địa lý, về cơ chế chính sách, về hạ tầng, là nơi tập trung nhiều
doanh nghiệp trong và ngồi nước đã góp phần vào việc phát huy các lợi thế
của đất nước, trong quá trình hội nhập. Các khu kinh tế đã góp phần đưa hàng
hố và dịch vụ trong nước đến với thị trường nước ngoài, tăng kim ngạch xuất
khẩu. Với nhiều doanh nghiệp “đầu tàu”, hàng hoá và dịch vụ được cung cấp
từ các khu kinh tế bảo đảm các yêu cầu về tiêu chuẩn chất lượng, tạo độ tin
cậy cao cho các nhà phân phối trên thế giới.
Phần lớn các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp FDI trong các khu
kinh tế sản xuất hàng công nghiệp là để xuất khẩu. Tuy nhiên, sẽ thiếu sót nếu
khơng kể đến vai trị của các doanh nghiệp trong nước. Mặc dù mức độ đóng
góp của các doanh nghiệp này vào xuất khẩu còn thấp, nhưng đã góp phần tạo
nguồn hàng xuất khẩu phong phú; đồng thời giải quyết nhu cầu thị trường
trong nước, giảm bớt nhập khẩu.
Ngồi ra, các khu kinh tế, với “tính mở” hơn hẳn các khu vực còn lại
của đất nước còn nơi tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hợp tác quốc tế
mạnh mẽ. Với tính đa dạng về loại hình doanh nghiệp, ngành nghề kinh
doanh, các doanh nghiệp trong nước không chỉ gắn kết mạnh mẽ với nhau,
tương hỗ lẫn nhau cả về sản xuất, tiêu thụ sản phẩm hàng hố và dịch vụ
mà cịn liên hệ chặt chẽ với các doanh nghiệp ngoài nước, vừa phát huy
được lợi thế của mình đối với thị trường ngồi nước vừa tận dụng được
các lợi thế của các doanh nghiệp ở nước ngồi như tận dụng các ưu thế về
cơng nghệ thơng qua hợp tác, tạo các đầu cầu để đưa sản phẩm ra thị
trường thế giới.



24
1.3. KINH NGHIỆM THÀNH CÔNG VÀ CHƯA THÀNH CÔNG
TRONG XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN KHU KINH TẾ MỞ CỦA CÁC NƯỚC
TRÊN THẾ GIỚI

1.3.1. Những kinh nghiệm thành công
1.3.1.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Hiện nay, một trong những mơ hình khu kinh tế thành công nhất là các
đặc khu kinh tế của Trung Quốc. Theo Mã Học Lượng: Đặc khu kinh tế
(Special Economic Zones – SEZ) được hiểu là khu vực mà quốc gia dành ra
một phạm vi nhất định trong hoạt động kinh tế đối ngoại thực hành chính sách
kinh tế đặc thù. Chính sách kinh tế đặc thù này bao gồm đặc khu thực hành
nhiều hình thức kinh tế cùng tồn tại, cùng lấy trong ngoài hợp doanh kinh tế
làm chính. Việc xây dựng đặc khu kinh tế lấy việc thu hút và lợi dụng đầu tư
nước ngoài làm chính, sản phẩm xuất khẩu làm chính, đặc khu kinh tế được
hưởng sự đãi ngộ tối huệ về miễn giảm thuế quan trong mậu dịch đối ngoại,
hoạt động kinh tế của đặc khu kinh tế lấy việc điều tiết thị trường làm chính,
đổi lại ngoại thương đầu tư cho đặc khu kinh tế được đặc biệt ưu huệ về thuế.
Sáng lập đặc khu kinh tế là một quyết sách chiến lược sâu xa, ý nghĩa căn bản
của nó tăng nhanh bước đi xây dựng kinh tế XHCN Trung Quốc, củng cố phát
triển CNXH. Đối với việc xây dựng nước Trung Quốc XHCN hiện đại hoá,
đặc khu kinh tế là “cửa sổ hiệu ứng” khơng thể thay thế được. Nó là cửa sổ kỹ
thuật, cửa sổ tri thức, cửa sổ quản lý, cửa sổ của chính sách kinh tế đối ngoại.
Đặc khu kinh tế còn là con đường quan trọng để Trung Quốc nhập đầu tư, kỹ
thuật, tri thức, quản lý cùng các yếu tố kỹ năng sản xuất vực dậy các ngành
truyền thống còn yếu kém. Đặc khu kinh tế là cái cầu nhảy rất mạnh trong sự
phát triển của kinh tế nước ngoài, đặc khu kinh tế là cái giường ấm để nuôi
dưỡng sản phẩm mới, sản nghiệp mới. Đặc khu kinh tế có thể thúc đẩy kinh tế
nội địa phát triển. Thông qua con đường “nội liên”, đặc khu kinh tế có thể làm

cho kỹ thuật, tri thức, kỹ năng quản lý,... chuyển dịch vào nội địa được hấp


25
thụ, được tiêu hoá, trước hết thúc đẩy sự phát triển của địa khu duyên hải,
thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế nội địa và các khu vực khác trên lãnh
thổ quốc gia [19].
Năm 1978, trong khi quyết định tiến hành cuộc cải cách thể chế kinh tế,
Chính phủ Trung Quốc đã bắt đầu thực thi từng bước chính sách mở cửa đối
ngoại. Từ năm 1980, Trung Quốc lần lượt thành lập 5 đặc khu kinh tế tại
Thâm Quyến, Châu Hải, Sán Đầu của tỉnh Quảng Đông, Hạ Môn của tỉnh
Phúc Kiến và Hải Nam; Năm 1984, lại mở cửa hơn nữa 14 thành phố ven
biển: Đại Liên, Tần Hoàng Đảo, Thiên Tân, Yên Đài, Thanh Đảo, Liên Vân
Cảng, Nam Thơng, Thượng Hải, Ninh Ba, Ơn Châu, Phúc Châu, Quảng Châu,
Trạm Giang và Bắc Hải; sau năm 1985, lại xây dựng các khu mở cửa kinh tế:
vùng châu thổ sông Trường Giang, vùng châu thổ sông Châu Giang, châu thổ
miền nam Phúc Kiến, Bán đảo Sơn Đông, Bán đảo Liêu Đông, tỉnh Hà Bắc và
khu Tự trị Quảng Tây, hình thành một vành đai mở cửa kinh tế ven biển. Năm
1990, Chính phủ Trung Quốc quyết định khai thác và phát triển Khu mới Phố
Đông Thượng Hải, mở cửa hơn nữa các thành phố ven sông Trường Giang và
hình thành một vành đai mở cửa sơng Trường Giang mà Phố Đông là con
chim đầu đàn. Từ năm 1992 đến nay, lại quyết định mở cửa đối ngoại các
thành thị biên cương và mở cửa hơn nữa các tỉnh lỵ, thủ phủ khu Tự trị trong
đất liền; xây 15 khu Ngoại quan, 49 khu phát triển kỹ thuật kinh tế cấp nhà
nước và 53 khu phát triển sản nghiệp công nghệ cao tại một số thành phố lớn
và vừa.
Do thi hành chính sách ưu tiên khác nhau, nên các vùng mở cửa đối
ngoại kể trên đã phát huy vai trò cửa sổ mở ra thế giới và bức xạ vào đất liền
phát triển kinh tế đối ngoại, tăng xuất khẩu tạo ngoại tệ, du nhập công nghệ
tiên tiến, thu hút được lượng vốn đầu tư lớn cả trong và ngoài nước. Với các

đặc khu kinh tế trên, Trung Quốc đã thu hút được số vốn đầu tư chiếm gần 10%
tổng vốn đầu tư của nước này. Đặc biệt, đã thu hút được 113 công ty xuyên quốc


×