Tải bản đầy đủ (.doc) (113 trang)

Th s kinh te chinh tri phát triển dịch vụ của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh quảng nam trong hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (549.06 KB, 113 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế hội nhập và phát triển, Việt Nam đã chính thức gia nhập
Tổ chức thương mại Thế giới (WTO) - Tổ chức thương mại đa phương lớn
nhất toàn cầu. Ngành ngân hàng là một trong những lĩnh vực được mở cửa
mạnh mẽ và phát triển nhất. Hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đang
trong quá trình tiếp tục cơ cấu lại theo yêu cầu hội nhập, mở cửa thị trường
dịch vụ ngân hàng theo cam kết quốc tế. Một trong các nội dung quan trọng
của quá trình cơ cấu lại đó là phát triển mở rộng các dịch vụ ngân hàng bán lẻ
tiện ích.
Đến nay, các ngân hàng thương mại Việt Nam đã có nhiều cố gắng đổi
mới các hình thức hoạt động, đa dạng hoá dịch vụ nhằm nâng cao sức cạnh
tranh. Tuy nhiên, nguồn thu chủ yếu vẫn tập trung vào các hoạt động truyền
thống như cho vay, bảo lãnh, tiền gửi. Nguồn thu từ các dịch vụ mới chưa
đáng kể, chưa phù hợp với yêu cầu phát triển dịch vụ ngân hàng trong hội
nhập kinh tế quốc tế.
Trong những năm qua, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Tỉnh Quảng Nam đã thực hiện nhiều giải pháp phát triển các dịch vụ ngân
hàng như: dịch vụ thanh tốn trong và ngồi nước, dịch vụ thẻ, chuyển tiền,
kiều hối, kinh doanh chứng khoán, ngoại tệ, bảo hiểm... đáp ứng nhu cầu ngày
càng tăng của các đối tượng khách hàng khác nhau. Tuy nhiên số lượng dịch
vụ ít, chủng loại, chất lượng và quy mô các dịch vụ vẫn còn nhiều hạn chế,
đòi hỏi phải tiếp tục phát triển mạnh mẽ theo hướng đa dạng hoá hơn nữa
trong bối cảnh cạnh tranh hiện nay và trước đòi hỏi của yêu cầu hội nhập. Từ
nhận thức trên và những hiểu biết được tiếp thu trong quá trình học tập, học
viên đã chọn vấn đề: “Phát triển dịch vụ của Ngân hàng nông nghiệp và
phát triển nông thôn Tỉnh Quảng Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế” làm
đề tài luận văn thạc sĩ của mình.



2
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Cho đến nay đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về ngân hàng thương
mại và dịch vụ ngân hàng thương mại. Tiêu biểu như:
- “Giao dịch Ngân hàng hiện đại - Kỹ năng phát triển các sản phẩm
dịch vụ tài chính" của Dwigji & Ritter do Nguyễn Tiến Dũng dịch, Nxb
Thống kê, 2002.
- “Tín dụng và thẩm định tín dụng ngân hàng” của Nguyễn Minh Kiều,
Nxb Tài chính, 2006.
- “Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại” của các tác giả Võ Thị Thuý Anh Lê Phương Dung, Nxb Tài chính, 2009.
- “Phát triển dịch vụ Ngân hàng bán lẻ trong thời đại hội nhập quốc
tế”, .
- “Thực trạng và giải pháp huy động vốn tại chi nhánh Ngân hàng Đầu
tư và Phát triển tỉnh Quảng Nam”, Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Quản lý
kinh tế của Phạm Văn Hương, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ
Chí Minh, năm 2006.
- “Vốn huy động tại chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn để phát triển kinh tế - xã hội ở huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng
Nam”, Luận văn Thạc sỹ kinh tế chính trị của Phạm Đình Dương, Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2006.
- “Mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ NHNo & PTNT đối với doanh
nghiệp nhỏ và vừa ở tỉnh Quảng Nam”. Luận văn Thạc sỹ kinh tế chính trị của
Trần Bá Tuấn, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, 2006.
- “Đổi mới hoạt động tín dụng ngân hàng cơng thương Việt Nam trong
hội nhập kinh tế quốc tế” Tơ Khánh Tồn, Luận văn Thạc sỹ kinh tế phát
triển, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, 2006.
- “Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của chi nhánh Ngân hàng
Công thương Sầm Sơn”, Phạm Văn Lâm, Luận văn Thạc sỹ Quản lý kinh tế,
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, 2008.



3
- “Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của chi nhánh Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Long An”, Nguyễn Kim Thái, Luận
văn Thạc sỹ Quản lý kinh tế, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ
Chí Minh, 2008.
- “Giải pháp mở rộng tín dụng của Ngân hàng Công thương Việt Nam
đối với doanh nghiệp lớn”, Trương Thúy Ánh, Luận văn Thạc sỹ Quản lý kinh
tế, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, 2008.
- “Giải pháp mở rộng tín dụng đối với doanh nghiệp của chi nhánh
ngân hàng công thương Vĩnh Phúc” Nguyên Trung Kiên, Luận văn Thạc sỹ
Quản lý kinh tế, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, 2009.
Các cơng trình nghiên cứu trên đã làm rõ nhiều vấn đề lý luận và thực
tiễn về ngân hàng thương mại và một số loại hình dịch vụ của ngân hàng thương
mại, trong đó có Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Quảng
Nam. Tuy nhiên chưa có cơng trình nào nghiên cứu tồn diện trên giác độ kinh tế
chính trị về phát triển sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn tỉnh Quảng Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu của luận văn là trên cơ sở lý luận về dịch vụ ngân hàng
thương mại, phân tích đánh giá thực trạng phát triển dịch vụ của Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Quảng Nam thời gian qua, từ đó đề
xuất định hướng và giải pháp chủ yếu nhằm đẩy nhanh phát triển dịch vụ của
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Quảng Nam trong bối
cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Những nhiệm vụ chủ yếu của luận văn bao gồm:
Thứ nhất, hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về dịch vụ của
ngân hàng thương mại.
Thứ hai, nghiên cứu kinh nghiệm phát triển dịch vụ của một số ngân
hàng thương mại nước ngoài và đúc rút bài học cho Ngân hàng Nông nghiệp

và Phát triển nông thôn tỉnh Quảng Nam.


4
Thứ ba, phân tích thực trạng phát triển dịch vụ tại NHNo & PTNT Tỉnh
Quảng Nam trong thời gian qua.
Thứ tư, đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy phát triển dịch
vụ tại NHNo & PTNT Tỉnh Quảng Nam thời gian tới phù hợp với xu thế hội
nhập kinh tế quốc tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là dịch vụ của ngân hàng NHNo &
PTNT trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Phạm vi nghiêm cứu của luận văn là sự phát triển dịch vụ của NHNo &
PTNT tỉnh Quảng Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Về thời gian,
luận văn phân tích thực trạng phát triển dịch vụ của NHNo & PTNT tỉnh
Quảng Nam giai đoạn 2005-2010 và đề xuất giải pháp đến 2015, tầm nhìn đến
năm 2020
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận của luận văn là: Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh; các quan điểm, đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của
Đảng và Nhà nước; của Ngân hàng nhà nước Việt Nam, Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nơng thơn Việt Nam. Bên cạnh đó có sự chọn lọc tham khảo
các cơng trình nghiên cứu, các bài viết của nhiều tác giả có liên quan tới đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử làm phương pháp luận nghiên cứu. Các phương
pháp nghiên cứu kinh tế chính trị được sử dụng trong luận văn gồm phương
pháp phân tích và tổng hợp, trừu tượng hố, thống kê, so sánh… Trong đó tác
giả chú ý phân tích thực tiễn đối chiếu với lý luận.
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn

- Góp phần hệ thống hóa lý luận về phát triển dịch vụ NHNo&PTNT
trong hội nhập kinh tế quốc tế.


5
- Phân tích đánh giá thực trạng phát triển dịch vụ của NHNo&PTNT
tỉnh Quảng Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế.
- Đề xuất các giải pháp chủ yếu thúc đẩy phát triển dịch vụ của
NHNo&PTNT tỉnh Quảng Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế.
- Kết quả nghiên cứu trong luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho
hoạt động của các chi nhánh NHNo & PTNT cấp tỉnh, ngân hàng thương mại
khác ở nước ta nói chung và NHNo & PTNT tỉnh Quảng Nam nói riêng trong
hội nhập kinh tế quốc tế.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và các danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn được kết cấu làm 3 chương, 8 tiết.


6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ DỊCH VỤ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

1.1.1 Khái niệm ngân hàng thương mại và dịch vụ ngân hàng
thương mại
- Khái niệm ngân hàng thương mại

Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh tế chuyên doanh trong lĩnh vực
tiền tệ được hình thành và phát triển cùng sự phát triển của xã hội hóa sản
xuất trong nền kinh tế thị trường. Cơ sở khách quan của sự hình thành, vận
động và phát triển ngân hàng thương mại là sự xuất hiện thường xuyên hiện
tượng không ăn khớp giữa sự vận động của vốn dưới hình thái giá trị và quá
trình tái sản xuất thực tế về mặt hiện vật do đặc điểm của tuần hoàn và chu
chuyển vốn gây ra. Sự hình thành các nguồn vốn nhàn rỗi và tạm thời nhàn
rỗi trong nền kinh tế ở một số chủ thể cùng tình trạng tạm thời thiếu vốn ở
những chủ thể khác trong quá trình tái sản xuất cá biệt đòi hỏi sự xuất hiện
những tổ chức kinh tế đặc thù với chức năng vừa cung ứng vốn đầy đủ, kịp
thời phục vụ tính liên tục khơng ngừng của hoạt động kinh doanh ở các chủ
thể kinh tế, vừa nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Với sự hình thành và phát triển của quan hệ thị trường dưới tác động
mạnh mẽ của phân công lao động xã hội, xã hội hoá sản xuất, hoạt động huy
động các nguồn vốn nhàn rỗi và tạm thời nhàn rỗi và cung cấp chúng cho
những chủ thể cần vốn ngày càng trở nên phổ biến. Nguyên nhân của hiện
tượng đó là do yêu cầu tích trữ nguồn tài chính tự có ở mức đủ trang trải cho
mọi nhu cầu chi tiêu của từng chủ thể kinh tế trong quá trình sản xuất kinh


7
doanh thường ít có khả năng thực hiện mọi nơi, mọi lúc bởi các chức năng
của vốn sản xuất dưới tác động của nhiều yếu tố thường được hồn thành
khơng kịp thời tương ứng như: chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho quá trình
sản xuất, thực hiện quá trình sản xuất hàng hóa, dịch vụ, chuyển hóa hàng
hóa, dịch vụ thành tiền. Sự thiếu hụt vốn tạm thời đặt ra trước chủ thể sản
xuất kinh doanh nguy cơ gián đoạn q trình tái sản xuất từ đó xuất hiện nhu
cầu về nguồn tài chính bổ sung để đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh
doanh có thể diễn ra bình thường khơng bị rối loạn, trong khi đó sự xuất hiện ở
một số chủ thể những nguồn tài chính nhàn rỗi hoặc tạm thời nhàn rỗi mà nếu

không được đưa vào sử dụng thì sẽ khơng thể mang lại lợi cho các chủ thể đó, vì
thế dẫn tới hình thành nguồn cung về vốn cho vay. Như vậy, sự hình thành quan
hệ cung cầu về vốn vay là tất yếu trong nền kinh tế thị trường.
Quan hệ đó ngày càng có xu hướng mở rộng mạnh mẽ dưới áp lực thực
hiện các quá trình tái sản xuất ở từng chủ thể sản xuất kinh doanh cá biệt khi
mọi yếu tố đầu vào và đầu ra của sản xuất kinh doanh đều được thực hiện
thông qua thị trường. Để vừa đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh của các
chủ thể đang thiếu vốn vừa mang lại lợi ích cho các chủ thể sở hữu các nguồn
vốn nhàn rỗi và tạm thời nhàn rỗi cần phương thức để giải quyết mâu thuẫn
thích hợp là sự xuất hiện tín dụng. Đến lượt mình tín dụng khơng những đã
trở thành hình thức phổ biến mà cịn có tác dụng ngày càng tăng trong việc
thúc đẩy sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường và đặc biệt là thúc
đẩy sự phát triển của bản thân quan hệ hàng hóa tiền tệ, làm cho tiền tệ tách ra
vận động tương đối độc lập với tư cách là thể hiện của giá trị. Sự vận động
của tín dụng dưới hình thái tiền tệ trên cơ sở chun mơn hóa lao động đã dẫn
tới sự xuất hiện các tổ chức kinh tế chuyên doanh trong lĩnh vực tiền tệ là các
ngân hàng thương mại nhằm tạo ra những điều kiện thuận lợi hơn cho quá
trình tái sản xuất cá biệt ở từng chủ thể kinh tế và qua đó thực hiện tái sản
xuất xã hội.


8
Sự hình thành và phát triển của ngân hàng thương mại với tư cách là
kết quả phát triển tất yếu của xã hội hóa sản xuất và phân cơng lao động xã
hội trong nền kinh tế thị trường đã định ra vị trí và vai trị đặc biệt quan trọng
của nó trong nền kinh tế. Với vị trí trung gian trong chu trình tái sản xuất,
thơng qua phân phối và phân phối lại dưới hình thái giá trị tiền tệ, ngân hàng
thương mại là cầu nối trong giao dịch tài chính có vai trị chủ yếu là tập trung
các nguồn vốn tiền tệ nhàn rỗi và tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế và đáp
ứng các nhu cầu về vốn cho các hoạt động của các chủ thể kinh tế từ đó tạo

điều kiện thuận lợi hơn thúc đẩy kinh tế phát triển. Vai trị đó được thể hiện
thơng qua các hoạt động nghiệp vụ của mình và tác động của các hoạt động
đó tới các hoạt động sản xuất kinh doanh của các chủ thể kinh tế. Những hoạt
động chủ yếu của ngân hàng thương mại bao gồm hoạt động tín dụng, thủ
quỹ, thanh tốn, ngoại hối, kinh doanh kim loại quý...
Với sự phát triển của các quan hệ thị trường và đặc biệt là quan hệ tín
dụng dưới hình thái tiền tệ, phạm vi hoạt động của ngân hàng thương mại
ngày càng được mở rộng không ngừng nhằm vừa cung cấp các dịch vụ tài chính
ngân hàng cần thiết cho các chủ thể kinh tế khác đảm bảo thực hiện có hiệu quả
q trình tái sản xuất, đồng thời với tư cách là một trong số các chủ thể trong nền
kinh tế ngân hàng còn là một trong những chủ đầu tư đầy tiềm năng trong mọi
lĩnh vực của đời sống kinh tế. Cho nên, vai trò của ngân hàng thương mại ngày
càng được phát huy theo hướng thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội.
Ngân hàng ngày nay đang thực hiện rất nhiều các chức năng như: chức
năng tạo tiền, chức năng thanh toán, chức năng huy động vốn, chức năng mở
rộng tín dụng, chức năng tài trợ ngoại thương, chức năng thực hiện dịch vụ ủy
thác, dịch vụ kinh kỹ, bảo quản an toàn vật có giá…
- Khái niệm dịch vụ ngân hàng thương mại
Dịch vụ là khái niệm được sử dụng rộng rãi trong các tài liệu kinh tế.
Tuy nhiên, nội hàm của dịch vụ được hiểu với những nghĩa còn khác nhau:


9
Trong Bách khoa tồn thư xơ viết lớn, dịch vụ được hiểu, thứ nhất, là
hình thái của lao động phi sản xuất, là quan hệ kinh tế-xã hội thể hiện sự tiêu
dùng thu nhập, thứ hai, là hoạt động có mục đích nhất định tồn tại dưới hình
thái hiệu quả có ích của lao động [13]. Đây là quan niệm phổ biến của thời ky
kinh tế hiện vật, phủ nhận kinh tế thị trường trong chủ nghĩa xã hội, từ đó, đã
gây cản trở cho sự phát triển của các ngành dịch vụ.
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam tại trang 167 giải thích “Dịch vụ là

các hoạt động phục vụ, nhằm thoả mãn những nhu cầu sản xuất kinh doanh và
sinh hoạt”. Nhưng cách giải thích này theo tác giả luận văn cho rằng chưa
phản ánh đầy đủ hoạt động dịch vụ trong xã hội.
Trong Từ điển kinh tế Megabook.ru, dịch vụ được hiểu là công việc
được thực hiện theo đơn đặt hàng nhưng không tạo ra sản phẩm có hình thái
độc lập mới [15]. Trong Từ điển thuật ngữ kinh tế, dịch vụ là những dạng hoạt
động, công việc, mà trong q trình thực hiện chúng khơng tạo ra sản phẩm
vật chất có hình thái vật thể mới, nhưng làm cho sản phẩm hiện có đã được
tạo ra thay đổi về chất. Đó là của cải được cung cấp khơng phải dưới hình thái
hiện vật, mà là dưới hình thái hoạt động [14].
Từ những quan điểm trên, có thể thấy điểm chung trong các quan niệm
về dịch vụ,,̀ đều coi dịch vụ là kết quả có ích của một dạng lao động đặc thù.
Kết quả đó được biểu hiện ra dưới hình thái phi vật thể hay vơ hình. Trong tác
phẩm “Các học thuyết về giá trị thặng dư”, C. Mác cũng đã sử dụng thuật ngữ
“sự phục vụ” để thể hiện khái niệm dịch vụ. Theo đó, có thể hiểu dịch vụ là
những hiệu quả có ích của những lao động cụ thể tồn tại dưới hình thái sản
phẩm vơ hình [23, tr.204-219;573-591]. Như vậy, dịch vụ là loại hình sản
phẩm đặc thù của lao động, là hiệu quả có ích của lao động cụ thể, tồn tại
dưới hình thái phi vật thể.
Theo đó trong xã hội có thể thấy xuất hiện nhiều loại dịch vụ cụ thể
khác như: dịch vụ cắt tóc, dịch vụ làm đầu, dịch vụ giặt là, dịch vụ ăn uống,


10
dịch vụ trông giữ xe ô tô, dịch vụ giúp việc gia đình, dịch vụ hàng khơng,
dịch vụ cảng biển, dịch vụ khách sạn, dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ y tế, dịch vụ
văn phòng, dịch vụ ngân hàng...
Về dịch vụ ngân hàng, cho đến nay vẫn đang tồn tại những quan niệm
chưa đồng nhất:
Thứ nhất, dịch vụ ngân hàng là tổng thể các hoạt động của ngành ngân

hàng với tư cách là một ngành thuộc lĩnh vực dịch vụ. Các lĩnh vực cịn lại
của nền kinh tế đó là: nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng...thuộc về các
ngành sản xuất.
Thứ hai, dịch vụ ngân hàng là các dịch vụ phi tín dụng của ngân hàng.
Cách hiểu này thường được sử dụng khi phân chia thu nhập của mỗi ngân
hàng theo cơ cấu và tính chất. Thu nhập từ hoạt động tín dụng là chênh lệch
giữa lãi suất đầu ra (cho vay) và lãi suất đầu vào (huy động). Thu nhập dịch
vụ là khoản thu nhập từ các khoản phí do khách hàng trả cho ngân hàng [4].
Theo quan điểm của tác giả luận văn, Cách hiểu thứ hai chưa chặt chẽ
về mặt khoa học cũng như thực tiễn, chưa phù hợp với thơng lệ quốc tế, tuy
nhiên có ý nghĩa nhất định trong việc hoạch định chiến lược chuyển từ các
ngân hàng thiên về hoạt động tín dụng sang mở rộng các dịch vụ khác,
đồng thời nó được sử dụng phổ biến trong thực tiễn, nhất là ở nước ta hiện
nay. Đồng thời quan điểm này có tính chất lịch sử của nó. Đó là từ khi bắt
đầu đổi mới ngân hàng đến trước khi triển khai thực hiện đề án cơ cấu lại
cả hai khối NHTM nhà nước và NHTM cổ phần. Trong giai đoạn này hoạt
động của các ngân hàng thương mại ở nước ta hầu hết thiên về tín dụng và
yêu cầu đặt ra là cần mở rộng và đa dạng hoá các dịch vụ ngân hàng. Từ
khi thực hiện hai đề án cơ cấu lại đến nay, thì quan niệm về dịch vụ ngân
hàng phù hợp với thông lệ quốc tế. Thực tế đối với cả nền kinh tế, hoạt
động ngân hàng ngày nay được coi là hoạt động dịch vụ vì khơng trực tiếp
làm ra sản phẩm dưới hình thái vật thể.


11
Trong nền kinh tế thị trường, đặc biệt trong giai đoạn nhiều quốc gia
đang chuẩn bị cho hội nhập và tồn cầu hố hiện nay, địi hỏi phải sớm tiếp
cận thống nhất với các thông lệ, chuẩn mực quốc tế đang được chấp nhận
rộng rãi ngay từ những khái niệm. Tuy nhiên, để có thể đánh giá rõ hơn về
mức độ ứng dụng và phát triển dịch vụ trong mỗi hệ thống NHTM thì cần

phải xem xét các loại hình ngân hàng truyền thống và hiện đại cũng như cụ
thể các mối quan hệ giữa các mảng hoạt động huy động, cho vay, tín dụng và
phi tín dụng, thu nhập từ lãi và ngoài lãi...trong các hệ thống NHTM.
Từ những quan niệm trên có thể hiểu: dịch vụ ngân hàng là tổng thể các
sản phẩm được ngân hàng tạo ra và cung ứng ra thị trường, nhằm đáp ứng nhu
cầu của khách hàng trên thị trường tài chính. Từ đây, trong luận văn khái niệm
dịch vụ ngân hàng được sử dụng theo nghĩa bao hàm tổng thể những sản
phẩm dịch vụ mà ngân hàng cung cấp cho các chủ thể trong nền kinh tế.
1.1.2. Đặc điểm dịch vụ ngân hàng thương mại trong hội nhập kinh
tế quốc tế
- Hội nhập kinh tế quốc tế:
Ngày nay xu thế mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế đi liền với xu thế
tồn cầu hố kinh tế, diễn ra với nhịp độ ngày càng tăng. Để tránh nguy cơ tụt
hậu và khỏi bị gạt ra ngồi quỹ đạo phát triển chung đó, các nước đều phải nỗ
lực hội nhập vào xu thế chung, ra sức cạnh tranh kinh tế vì sự tồn tại và phát
triển của mình. Nhìn chung, các nước đang phát triển hội nhập vào nền kinh
tế thế giới và khu vực là nhằm tạo ra những điều kiện quốc tế thuận lợi cho
việc khai thác tối đa nội lực, khơi dậy các tiềm năng kinh tế, đi đôi với việc
tận dụng các ngoại lực nhằm thúc đẩy hợp tác quốc tế có hiệu quả. Sự kết hợp
hai loại yếu tố này mở ra những cơ hội cho quá trình hội nhập quốc tế của các
nước đang phát triển trong đó có Việt Nam.
Hội nhập kinh tế quốc tế là q trình đi liền với tồn cầu hố kinh tế, mà
trọng tâm là “mở cửa” nền kinh tế, đưa các doanh nghiệp trong nước tham gia


12
tích cực vào cuộc cạnh tranh quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế cho phép nền
kinh tế quốc gia tham gia vào phân công lao động quốc tế, tạo điều kiện thuận
lợi để phát triển kinh tế, mở rộng khơng gian và mơi trường để chiếm lĩnh những
vị trí phù hợp nhất có thể được trong quan hệ kinh tế quốc tế. Tuy vậy, hội nhập

kinh tế quốc tế là một cuộc đấu tranh phức tạp để góp phần phát triển kinh tế và
củng cố an ninh chính trị, độc lập kinh tế và bản sắc văn hoá dân tộc của mỗi
nước thông qua việc thiết lập quan hệ tuy thuộc lẫn nhau, đan xen nhau với
nhiều tầng nấc giữa các quốc gia khác nhau.
Nói tới hội nhập kinh tế quốc tế là nói tới việc tham gia vào các tổ chức
kinh tế, tài chính khu vực và thế giới, nhất là WTO; tự do hoá thương mại
hàng hoá; mở cửa thương mại dịch vụ; là sự gia tăng các luồng giao lưu quốc
tế về vốn, đầu tư, tài chính, cơng nghệ... thơng qua đó mà thiết lập các mối
quan hệ thương mại, đầu tư, khoa học - công nghệ… với các nước trên thế
giới dưới hình thức quan hệ song phương hay đa phương.
Hội nhập quốc tế về ngân hàng là sự mở cửa hoạt động ngân hàng giữa
nền kinh tế nội địa với nền tài chính tiền tệ khu vực và thế giới, khiến cho
hoạt động của hệ thống ngân hàng trong nước hội nhập với hoạt động của các
ngân hàng trên thế giới
Sự mở cửa cho hội nhập quốc tế về ngân hàng được đo lường bằng
mức độ tự do hố tài chính, tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, mức độ dỡ bỏ các
giới hạn rào chắn ngăn cách giữa hệ thống ngân hàng trong nước với hệ thống
tài chính ngân hàng của khu vực và thế giới.
Nói cách khác, hội nhập quốc tế về ngân hàng là q trình vận động để
đưa tồn bộ hệ thống ngân hàng trong nước (bao gồm tổ chức bộ máy quản
trị, năng lực điều hành, vốn, công nghệ ngân hàng và các mặt hoạt động của
ngân hàng) hội nhập với hệ thống ngân hàng trên thế giới phù hợp với hệ thống
luật pháp và thông lệ quốc tế về lĩnh vực ngân hàng, khơng cịn một ranh giới rõ
rệt giữa hệ thống ngân hàng nội địa với hệ thống ngân hàng thế giới.


13
Hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và hội nhập quốc tế về ngân hàng
nói riêng đã và đang là một trào lưu lôi cuốn nhiều khu vực, nhiều nước trên
thế giới tham gia. Đây là xu hướng mang tính khách quan của hệ thống kinh

tế tài chính thế giới. Trong trào lưu và xu thế đó, những lĩnh vực nhạy cảm bị
lôi cuốn khá mạnh mẽ vào tiến trình hội nhập đó là ngân hàng. Một ngành
dịch vụ có vị trí đặc biệt và quan trọng hàng đầu trong nền kinh tế, tất yếu
phải tham gia quá trình hội nhập.
Hội nhập kinh tế quốc tế cho phép tận dụng được dịng chảy vốn khổng
lồ cùng với cơng nghệ tiên tiến, sẽ đem lại cho ngân hàng nhiều cơ hội và khả
năng để các ngân hàng trong nước có điều kiện học hỏi kinh nghiệm quản lý,
kế thừa những thành tựu khoa học, công nghệ ngân hàng, mở rộng thị trường,
hợp tác phát triển. Phát triển và đa dạng hóa sản phẩm phục vụ khơng những
ở thị trường trong nước mà cả thị trường quốc tế. Đẩy mạnh hội nhập ngân
hàng sẽ tạo ra sức ép phải xây dụng hệ thống ngân hàng vững mạnh, nâng cao
năng lực cạnh tranh trên thị trường khu vực và thế giới. Một hệ thống ngân
hàng hữu hiệu sẽ trở thành kênh dẫn nhập vốn quan trọng hàng đầu đáp ứng
đầy đủ nhu cầu về vốn và cung ứng dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế để vừa
góp phần đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, vừa khơng ngừng
nâng cao đời sống nhân dân.
Hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi ngành ngân hàng phải tuân thủ những
luật chơi quốc tế như những yêu cầu cơ bản của WTO, Hiệp định thương mại
Việt Mỹ và Hiệp định khung về hợp tác và thương mại dịch vụ (AFAS) của
ASEAN về lĩnh vực ngân hàng.
* Theo hiệp định GATS của WTO
Các nước gia nhập WTO phải đáp ứng những yêu cầu cơ bản trong lĩnh
vực dịch vụ ngân hàng như:
- Trong cam kết mở cửa dịch vụ ngân hàng, trừ khi có trong danh mục
cam kết cụ thể, các thành viên sẽ không ban hành thêm hay áp dụng những
biện pháp được nêu dưới đây:


14
+ Hạn chế nhà cung cấp dịch vụ ngân hàng

+ Hạn chế về tổng giá trị các giao dịch về dịch vụ ngân hàng và tài sản
+ Các biện pháp hạn chế hay yêu cầu phải mang một hình thức pháp
nhân nào cụ thể hay liên doanh...
+ Hạn chế việc tham gia đóng góp vốn của bên nước ngồi...
- Phải dành sự đãi ngộ không kém hơn sự đãi ngộ các thành viên khác.
- Khơng hạn chế thanh tốn và chuyển tiền quốc tế cho các dịch vụ
vãng lai (trừ trường hợp đặc biệt)
- Cho phép các thành viên khác đưa ra dịch vụ ngân hàng mới.
- Cho phép tiếp cận hệ thống thanh toán bù trừ và các thể thức cấp vốn
- Trả lời khơng chậm trễ khi có yêu cầu của bất ky thành viên nào khác
về những thơng tin cụ thể
- Các thành viên có quyền được thành lập và mở rộng hoạt động
- Các thành viên cần đàm phán để định ra những quy tắc nhằm tránh tác
động tiêu cực trong một số trường hợp.
* Theo Hiệp định thương mại Việt - Mỹ
Phía Việt nam cam kết sẽ dỡ bỏ mọi hạn chế và dành cho phía Hoa Ky
các quyền bình đẳng về lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, tín dụng, ngân hàng trên
nguyên tắc đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia với lộ trình dỡ bỏ dần các
hạn chế đến năm 2008. Gồm 6 yêu cầu:
- Không hạn chế số lượng người cung cấp dịch vụ
- Không hạn chế về tổng giá trị các giao dịch dịch vụ hay giá trị tài sản
- Không hạn chế về tổng số các hoạt động dịch vụ hoặc tổng số dịch vụ
thể hiện theo đơn vị số lượng.
- Không hạn chế về thể nhân được tuyển dụng trong một ngành dịch vụ.
- Không áp dụng các biện pháp hạn chế hoặc địi hỏi phải có những
hình thức pháp lý cụ thể hay liên doanh để một nhà cung cấp dịch vụ cung
ứng dịch vụ.


15

- Khơng hạn chế việc tham gia vốn nước ngồi dưới hình thức hạn chế
tỷ lệ tối đa vốn cổ phần nước ngoài hoặc tổng giá trị từng khoản đầu tư hoặc
tổng số đầu tư.
* Yêu cầu của Hiệp định khung về hợp tác và thương mại dịch vụ
(AFAS) của ASEAN
- Tăng cường hợp tác trong lĩnh vực dịch vụ giữa các nước thành viên
nhằm nâng cao hiệu quả và tính cạnh tranh, đa dạng hóa khả năng sản xuất,
cung cấp và phân phối dịch vụ của các cơ sở cung cấp dịch vụ thuộc các nước
thành viên ASEAN
- Loại bỏ phần lớn các hạn chế về thương mại dịch vụ giữa các nước
thành viên
- Tự do hóa thương mại dịch vụ thông qua việc mở rộng quy mô và
phạm vi tự do hóa cao hơn các cam kết của các thành viên trong khuôn khổ
hiệp định khung về thương mại dịch vụ của tổ chức WTO nhằm mục đích
thành lập một khu vực tự do thương mại dịch vụ ASEAN vào năm 2020.
Việc thực hiện các yêu cầu cơ bản trên về hội nhập quốc tế trong lĩnh
vực ngân hàng đã tạo ra những sức ép và thử thách rất nặng nề đối với hệ
thống ngân hàng Việt Nam trong việc cung cấp các dịch vụ cho khách hàng.
Các ngân hàng nước ngoài rất mạnh cả về năng lực tài chính, đội ngũ cán bộ
và hệ thống quản trị có bề dày kinh nghiệm và tài năng, sản phẩm dịch vụ
phong phú, đa dạng; trong khi hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam còn
thua kém các ngân hàng nước ngoài trên nhiều phương diện. Tuy nhiên trên
thực tế, chỉ có chấp nhận cạnh tranh và dựa vào những lợi thế vốn có, đặc biệt là
lợi thế tiếp cận khách hàng, hệ thống ngân hàng Việt Nam mới phát triển được.
- Đặc điểm của dịch vụ ngân hàng thương mại trong hội nhập kinh
tế quốc tế:
Dịch vụ ngân hàng thương mại trong hội nhập kinh tế quốc tế vừa
mang những đặc điểm chung của dịch vụ vừa thể hiện tính đặc thù của dịch



16
vụ ngân hàng phù hợp với yêu cầu hội nhập. Những đặc điểm chủ yếu của
dịch vụ so với các sản phẩm lao động hữu hình bao gồm:
Thứ nhất, dịch vụ là sản phẩm vơ hình. Sản phẩm hữu hình có thể dễ
dàng định lượng và tiêu chuẩn hóa. Cịn kết quả của hoạt động dịch vụ, mặc
dù có thể cảm nhận, đánh giá, nhưng rất khó lượng hố vì khơng tách riêng ra
dưới hình thái hiện vật được. Phần lớn công việc của những người làm dịch
vụ thường biến đi ngay khi làm xong, rất ít khi để lại một dấu vết hay một giá
trị nào đó để sau này có thể cho ta nhận được một số lượng dịch vụ ngang như
thế. Ví dụ, kết quả của dịch vụ vận tải là sự di chuyển từ nơi này sang nơi
khác, nhưng kết quả di chuyển đó khơng biểu hiện thành hình thái hiện vật
mới. Kết quả một số dịch vụ nhất định có thể tồn tại như một giá trị sử dụng
có hình thái độc lập tách khỏi người sản xuất và người tiêu dùng, có thể duy
trì sự tồn tại, lưu thông trong một khoảng thời gian giữa sản xuất và tiêu dùng
như những tác phẩm nghệ thuật, Nhưng, thực ra, giá trị sử dụng của chúng
không phải là bản thân yếu tố vật chất của sản phẩm tồn tại độc lập đó, mà là
“cái hồn” của những tác phẩm đó, thể hiện ở cái đẹp, cái hay mà từng người tiêu
dùng cảm thụ được. Cũng có những dịch vụ phải có sản phẩm vật chất kèm theo,
làm trung gian, như dịch vụ cung ứng bữa ăn trên máy bay hay trên xe lửa, hoặc
là dịch vụ cho thuê nhà.... nhưng bản thân dịch vụ đó vẫn là vơ hình.
Thứ hai, phần lớn dịch vụ được sản xuất và tiêu dùng đồng thời, nên
dịch vụ không thể tích luỹ, để dành. Sản phẩm hiện vật có thể tách rời sản
xuất với tiêu dùng, có thể tích trữ trong kho, nhưng dịch vụ thì thường sản
xuất đến đâu tiêu dùng đến đấy, khơng tiêu dùng sẽ bỏ phí vì dịch vụ khơng
thể tích trữ, để dành. Ví dụ, khi xe chở khách, người lái xe tạo ra sự di chuyển
đến đâu thì hành khách hưởng thụ đến đó. Nếu xe có 4 chỗ mà chỉ có một người
ngồi thì ba chỗ cịn lại sẽ bị bỏ phí, khơng thể để dành cho lần sau được.
Thứ ba, chất lượng của dịch vụ phụ thuộc rất nhiều vào sự tiếp xúc hay
sự tương tác giữa người cung cấp dịch vụ và người được thụ hưởng dịch vụ.



17
Sản phẩm hiện vật có thể đánh giá thơng qua các tiêu chuẩn cụ thể về chất
lượng mà không cần có sự tiếp xúc trực tiếp giữa người sản xuất và người tiêu
dùng. Còn chất lượng dịch vụ phụ thuộc rất nhiều vào sự giao tiếp, thái độ và
năng lực đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng, đem lại sự hài lòng và
thiện cảm của khách hàng đối với người phục vụ.
Trong nền kinh tế thị trường, đại bộ phận các dịch vụ cũng trở thành
hàng hoá. Bên cạnh những hàng hố hiện vật, trên thị trường cịn có những
hàng hóa vơ hình hay dịch vụ, như dịch vụ của bác sĩ, giáo viên, luật sư, v.v.
Giá trị sử dụng của dịch vụ là cũng đáp ứng một nhu cầu nào đó của người
mua. Để tạo ra dịch vụ cũng cần tới những chi phí lao động nhất định. Những
người làm dịch vụ cũng cần nhận được thu nhập bằng tiền từ hoạt động dịch
vụ của mình, đồng những người được thụ hưởng dịch vụ cũng phải chi tiền
để được hưởng thụ những dịch vụ đó. Việc mua những dịch vụ hồn tồn
khơng khác gì chi tiền mua bất cứ loại hàng hóa nào khác, vì vậy, dịch vụ
cũng có giá trị trao đổi. Căn cứ chủ yếu để xác định giá cả thị trường của
dịch vụ là chi phí sản xuất ra chúng.
Khi lực lượng sản xuất cịn chưa phát triển, các sản phẩm mang hình
thái vật thể như nông sản, sản phẩm của các ngành công nghiệp... có vai trị
nền tảng trực tiếp của đời sống xã hội, vì vậy việc sản xuất ra chúng là quan
tâm hàng đầu của xã hội. Theo sự phát triển của lực lượng sản xuất, số lượng
và chủng loại các sản phẩm phi vật thể tăng dần, có vai trị không những đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng cá nhân ngày càng tăng của xã hội, mà cịn có tác động
ngày càng lớn tới các ngành sản xuất sản phẩm vật thể. Vì vậy, tốc độ phát
triển của các hoạt động dịch vụ có xu hướng tỷ lệ thuận với trình độ phát triển
của sản xuất xã hội, các ngành dịch vụ cũng được hình thành và mở rộng
khơng ngừng dưới tác động của phân công lao động xã hội.
+ Bên cạnh những đặc điểm chung của dịch vụ như đã kể trên, dịch vụ
ngân hàng với tư cách là loại hình dịch vụ đặc thù cịn có những đặc điểm

riêng, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu, rộng:


18
Một là, chủ thể cung ứng dịch vụ ngân hàng là các ngân hàng thương
mại. Hội nhập quốc tế về ngân hàng không ngừng mở rộng số lượng chủ thể
cung cấp dịch vụ ngân hàng, bao gồm không những các ngân hàng thương
mại trong nước, mà còn các ngân hàng thương mại nước ngồi. Do đó hội
nhập kinh tế quốc tế tạo ra sức ép cạnh tranh ngày càng lớn đối với các ngân
hàng thương mại trong việc cung cấp dịch vụ cho khách hàng, buộc các ngân
hàng trong nước phải không ngừng vươn lên theo hướng vừa phát triển mở
rộng, vừa phải nâng cao chất lượng dịch vụ.
Hai là, hoạt động dịch vụ ngân hàng trực tiếp hoặc gián tiếp làm tăng
thu nhập của ngân hàng thông qua việc thu phí, chênh lệch giá, hoa hồng...
Hội nhập kinh tế quốc tế mang lại cho các ngân hàng thương mại cơ hội nâng
cao thu nhập từ những hoạt động cung cấp dịch vụ cho các chủ thể tham gia
hoạt động xuất nhập khẩu, từ các dịch vụ kiều hối.
Ba là, mục đích đáp ứng nhu cầu dịch vụ của ngân hàng thương mại
đối với khách hàng là nhằm đáp ứng nhu cầu về sinh lời, đầu tư, giữ hộ hay bảo
đảm an tồn tài sản. Cịn đối với các ngân hàng, việc đa dạng và phát triển dịch
vụ là nhằm tăng doanh thu phí, tăng lợi nhuận. Hội nhập kinh tế quốc tế thể hiện
sự gia tăng giao lưu kinh tế giữa các quốc gia, các nền kinh tế, tác động mạnh
mẽ tới sự phát triển các nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng trong và
ngoài nước về dịch vụ ngân hàng, do đó tạo thuận lợi cho sự phát triển các dịch
vụ của ngân hàng thương mại theo hướng ngày càng đa dạng hóa.
Bốn là, tính chất của dịch vụ an tồn có độ rủi ro phức tạp, mức độ lan
truyền rủi ro lớn. Các dịch vụ có tính chất liên hồn, dịch vụ này là tiền đề
cho dịch vụ khác. Hay một khách hàng có rất nhiều dịch vụ ngân hàng khác
nhau, có thể chỉ do một NHTM cung cấp. Dịch vụ ngân hàng cịn có tính chất
liên hồn theo hệ thống giữa các chi nhánh NHTM hay giữa các NHTM khác

với nhau. Hội nhập kinh tế quốc tế không những tạo ra sức ép cạnh tranh
trong cung cấp dịch vụ đối với các ngân hàng thương mại, mà còn thúc đẩy sự


19
liên kết, phối kết hợp giữa các ngân hàng thương mại trong và ngoài nước
trong việc phục vụ khách hàng.
Năm là, dịch vụ ngân hàng liên quan rất chặt chẽ đến uy tín, danh tiếng
của ngân hàng. Hoạt động dịch vụ gắn liền với cơ sở vật chất tốt, công nghệ
hiện đại, đội ngũ cán bộ năng động, nhiệt tình và thành thạo trong chuyên
môn nghiệp vụ. Hội nhập kinh tế quốc tế là điều kiện thuận lợi để các ngân
hàng thương mại đổi mới cơng nghệ, học hỏi hồn thiện kỹ năng quản lý và
chuyên môn nghiệp vụ, không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng.
1.1.3. Các loại hình dịch vụ ngân hàng chủ yếu trong hội nhập kinh
tế quốc tế
1.1.3.1. Căn cứ vào thời gian hình thành có thể phân biệt
- Dịch vụ truyền thống của ngân hàng thương mại bao gồm: nhóm dịch
vụ tiền gởi; nhóm dịch vụ cho vay; Nhóm dịch vụ bảo lãnh; nhóm dịch vụ
thanh tốn; nhóm các dịch vụ khác.
- Các dịch vụ mới:
+ Theo giác độ tiện ích so với dịch vụ truyền thống: tiết kiệm lãi suất
bậc thang, tiết kiệm gắn với bảo hiểm nhân thọ, tiết kiệm tích luỹ, tiết kiệm
học đường, tiết kiệm rút gốc linh hoạt hưởng lãi suất cao.... Dịch vụ mới trong
dịch vụ cho vay được mở rộng và tiện ích hơn, thí dụ: cho vay đi du học, cho
vay xuất khẩu lao động. Cho vay các mục đích tiêu dùng hay sinh hoạt khác...
+ Theo giác độ phát triển dịch vụ: thực hiện giao dịch quyền tự chọn;
dịch vụ thanh toán séc du lịch, dịch vụ đại lý phát hành và thanh toán thẻ tín
dụng quốc tế...; dịch vụ đầu tư tín dụng (hùn vốn đầu tư liên doanh trong
nước và nước ngoài, mua cổ phần, cổ phiếu, các loại chứng khoán khác, hùn
vốn kinh doanh địa ốc, cho vay cầm cố, chiết khấu các loại giấy tờ có giá, làm

dịch vụ uỷ thác đầu tư, cho vay các dự án trong nước và nước ngoài...)
+ Theo giác độ phát triển thành tập đồn tài chính đa năng: đại lý kinh
doanh bảo hiểm, quản lý quỹ đầu tư, kinh doanh chứng khoán...


20
1.1.3.2. Theo chức năng dịch vụ ngân hàng thương mại phân thành
Một là, nhóm dịch vụ tiền gửi: Cho vay được coi là hoạt động sinh
lời cao, do đó, các ngân hàng tìm kiếm mọi cách để huy động nguồn vốn để
cho vay thơng qua việc đa dạng hố việc thu hút tiền gởi, đa dạng hoá các
phương thức huy động vốn, linh hoạt lãi suất tiền gởi, tăng tiện ích của
dịch vụ tài khoản.
Hai là, Nhóm dịch vụ cho vay: Đây là hoạt động truyền thống và cơ
bản của ngân hàng, nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh. Song
trong quá trình phát triển của ngân hàng và do nhu cầu của thị trường, cho vay
có thêm nhiều dịch vụ mới như tài trợ tiêu dùng, tài trợ dự án, dịch vụ cho
thuê tài chính, chiết khấu thương phiếu và cho vay thương mại, tài trợ các
hoạt động của chính phủ, các hoạt động tài trợ khác.
Ba là, Nhóm dịch vụ bảo lãnh bao gồm bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh dự
thầu, bảo lãnh bảo hành, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực hiện hợp đồng,
bảo lãnh đảm bảo chất lượng sản phẩm, bảo lãnh khác...
Bốn là, Nhóm dịch vụ thanh tốn bao gồm thanh tốn trong nước, thanh
toán quốc tế, chuyển tiền, thanh toán thẻ, thanh tốn khác.
Năm là, Nhóm dịch vụ khác: thực hiện trao đổi ngoại tệ và kinh doanh
ngoại tệ, bảo quản vật có giá, cung cấp các tài khoản giao dịch, cung cấp dịch
vụ uỷ thác, tư vấn tài chính, quản lý ngân quỹ, cung cấp các dịch vụ bảo
hiểm, cung cấp dịch vụ mơi giới đầu tư chứng khốn, cung cấp các dịch vụ
ngân hàng quốc tế.
1.1.4. Vai trò của dịch vụ ngân hàng thương mại đối với phát triển
kinh tế trong hội nhập kinh tế quốc tế

1.1.4.1. Đối với nền kinh tế: Sự phát triển của dịch vụ ngân hàng góp
phần huy động, phân phối và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn nhàn
rỗi và tạm thời nhàn rỗi từ mọi tầng lớp dân cư, thành phần kinh tế trong và
ngồi nước, phục vụ q trình tái sản xuất cá biệt và toàn xã hội theo cơ chế
thị trường, từ đó thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Trình độ phát triển của
dịch vụ ngân hàng phản ảnh trình độ phát triển của nền kinh tế.


21
Dịch vụ ngân hàng chiếm tỷ trọng và quy mô ngày càng lớn trong nền
kinh tế quốc dân. Nó thúc đẩy phát triển dịch vụ du lịch, phát triển hoạt động
thương mại và đầu tư nước ngoài, tạo điều kiện cho đồng nội tệ có khả năng
chuyển đổi mạnh. Phát triển dịch vụ ngân hàng, góp phần hạn chế tình trạng
thanh tốn bằng tiền mặt trong nền kinh tế. Thơng qua đó cho phép tiết kiệm
được các khoản chi phí rất lớn cho việc in tiền, tiêu huỷ, cất giữ tiền và an
ninh tiền tệ, an tồn xã hội.
Khơng những vậy, phát triển dịch vụ ngân hàng có vai trị mở rộng
thanh tốn khơng dùng tiền mặt góp phần hạn chế tình trạng tham nhũng, hạn
chế tình trạng bn lậu, chống thất thu thuế. Nền kinh tế trở nên minh bạch
hơn, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và ổn định. Dịch vụ ngân
hàng phát triển dựa trên nền tảng công nghệ tiên tiến, nhất là công nghệ thơng
tin, cơng nghệ tự động hố. Đến lượt nó, do nhu cầu của hiện đại hố cơng
nghệ ngân hàng, phát triển dịch vụ ngân hàng lại thúc đẩy sự phát triển của
khoa học công nghệ.
Sự phát triển của dịch vụ ngân hàng không những thúc đẩy các hoạt
động kinh tế - xã hội trong nước, mà còn là điều kiện cần thiết để thúc đẩy hội
nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng. Sự phát triển của giao lưu kinh tế
quốc tế và kinh tế đối ngoại có hiệu quả ngày nay luôn cần tới sự hỗ trợ vô
cùng mạnh mẽ của các dịch vụ từ phía các ngân hàng thương mại.
1.1.4.2. Đối với các chủ thể sử dụng dịch vụ ngân hàng: Trong bối

cảnh cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước, cạnh tranh quốc tế trong
xu hướng hội nhập, buộc các doanh nghiệp phải không ngừng tiết kiệm mọi
chi phí. Các luồng tiền thanh tốn, luồng vốn phải được luân chuyển nhanh
nhất, an toàn, tiện lợi và bí mật. Phát triển dịch vụ ngân hàng, hạn chế thanh
tốn bằng tiền mặt, tiết kiệm chi phí tài chính, chi phí nhân lực, chi phí thời
gian, giảm thời gian vốn đọng trong thanh toán cho các doanh nghiệp, các tổ
chức, hộ gia đình và cá nhân. Thực tế, các doanh nghiệp, hộ kinh doanh nào nắm


22
bắt và chấp nhận các dịch vụ ngân hàng bán lẻ tiện lợi cho phép họ nâng cao
được năng lực cạnh tranh, có điều kiện mở rộng có hiệu quả các mối quan hệ
kinh doanh trong và ngoài nước, cũng như hội nhập thực sự với khu vực và quốc
tế. Phát triển dịch vụ ngân hàng sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, tổ chức,
cá nhân chủ động lựa chọn các kênh đầu tư sinh lời an toàn và hiệu quả hơn.
Như vậy, sự phát triển của dịch vụ ngân hàng thương mại cũng là điều
kiện cần thiết để không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của các chủ thể kinh
doanh trên các thị trường trong và ngoài nước
1.1.4.3. Đối với ngân hàng: Ngân hàng là tổ chức kinh doanh tiền tệ,
phát triển dịch vụ ngân hàng cho phép ngân hàng nâng cao sức cạnh tranh, thu
hút ngày càng nhiều khách hàng, tăng thu nhập. Với dịch vụ ngân hàng hiện
đại cho phép ngân hàng mở rộng thị phần, tiếp cận khách hàng...mà không
cần phải thiết lập thêm chi nhánh với nhiều chi phí trụ sở, nhân lực, trang thiết
bị làm việc...Phát triển dịch vụ, làm cho ngân hàng dần dần thốt khỏi các
nghiệp vụ hoạt động mang tính chất truyền thống. Nếu như vốn hoạt động
trước đây chủ yếu là vốn huy động bằng các hình thức tiền gửi tiết kiệm, ky
phiếu, trái phiếu... với lãi suất cao, thì với dịch vụ ngân hàng phát triển cho
phép ngân hàng thu hút được khối lượng tiền gửi của khách hàng trên tài
khoản thanh toán với lãi suất thấp, tạo điều kiện mở rộng cho vay và đầu tư.
Không những vậy ngân hàng thu được phí dịch vụ. Nguồn thu nhập từ rất

nhiều loại dịch vụ khác nhau, tạo nên nền tảng tài chính, nền tảng thu nhập
bền vững của ngân hàng.Dịch vụ ngân hàng phát triển địi hỏi tính liên kết,
hợp tác chặt chẽ hơn giữa các ngân hàng, tính hệ thống được tăng cường hơn.
1.2. NỘI DUNG VÀ NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

1.2.1. Nội dung phát triển dịch vụ ngân hàng thương mại trong hội
nhập kinh tế quốc tế
Phát triển dịch vụ ngân hàng thương mại trong hội nhập kinh tế quốc tế
bao gồm nhiều nội dung. Những nội dung chủ yếu gồm:


23
Thứ nhất, phát triển về số lượng, chủng loại các dịch vụ theo hướng
ngày càng đa dạng hóa phù hợp với đòi hỏi của phát triển kinh tế trong bối
cảnh hội nhập. Mở rộng dịch vụ ngân hàng trong hội nhập kinh tế quốc tế bao
gồm các nội dung như:
- Mở rộng và tăng thêm tiện ích của dịch vụ hiện có, tạo nên một quy
trình giao dịch đa dạng, khách hàng chỉ cần mở tài khoản tại một ngân hàng thì
có thể thoả mãn được tất cả các nhu cầu, đặc biệt là các nhu cầu về thanh toán.
- Mở rộng quy mô từng loại dịch vụ cung ứng cho khách hàng
- Phát triển các dịch vụ mới
- Tổ chức mạng lưới theo hướng mở rộng thị trường, xâm nhập và
chiếm lĩnh các thị trường mới, nhóm khách hàng mới…
Thứ hai, không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng. Chất
lượng sản phẩm dịch vụ là năng lực của sản phẩm dịch vụ thể hiện trong việc
thoả mãn nhu cầu nào đó của người sử dụng nó. Chất lượng dịch vụ ngân
hàng quyết định khả năng hấp dẫn khách hàng Trong điều kiện hội nhập kinh
tế quốc tế, sức ép cạnh tranh buộc các ngân hàng thương mại phải khơng
ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ của mình. Ngân hàng thương mại nào có

chất lượng dịch vụ tốt sẽ có uy tín thu hút khách hàng, mở rộng thị phần cung
cấp dịch vụ và đứng vững trong cạnh tranh.
Thứ ba, phát triển nguồn nhân lực ngân hàng về số lượng, chất lượng
và cơ cấu phù hợp với yêu cầu hiện đại hóa dịch vụ ngân hàng. Như trên đã
phân tích, dịch vụ ngân hàng là loại hình dịch vụ đặc thù trong nền kinh tế có
liên quan chặt chẽ với các hoạt động của các chủ thể kinh tế trong thực hiện
tái sản xuất, do đó chất lượng dịch vụ ngân hàng phụ thuộc rất lớn vào đội
ngũ cán bộ ngân hàng. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng
sâu, rộng, muốn đứng vững trong cạnh tranh về cung cấp dịch vụ, các ngân
hàng thương mại đều phải quan tâm phát triển nguồn nhân lực của mình đủ về số
lượng, mạnh về năng lực, thành thạo về chun mơn, có tinh thần tận tụy phục


24
vụ khách hàng. Để phát triển nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu hội nhập kinh
tế quốc tế, các ngân hàng thương mại phải có chiến lược phát triển nguồn nhân
lực bao gồm các nội dung cơ bản định hướng cho công tác tuyển dụng, bồi
dưỡng đào tạo, sử dụng và đãi ngộ hợp lý đội ngũ cán bộ ngân hàng.
Thứ tư, chú trọng phát triển công nghệ hiện đại, tiếp thị, quảng bá
thương hiệu làm nền tảng cho việc cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài
vào hoạt động tại Việt Nam. Hoạt động của ngân hàng thương mại hiện đại
trong hội nhập kinh tế quốc tế dựa trên nền tảng công nghệ thông tin và các
công nghệ mới về nghiệp vụ ngân hàng. Để phát triển và nâng cao chất
lượng dịch vụ, các ngân hàng luôn phải quan tâm đầu tư đổi mới trang thiết
bị làm việc, cập nhật những cơng nghệ mới và hiện đại, góp phần tích cực
phát triển các dịch vụ tiện ích mới kịp thời phục vụ có hiệu quả các khách
hàng của mình.
1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới phát triển dịch vụ ngân hàng
thương mại trong hội nhập kinh tế quốc tế
1.2.2.1. Môi trường kinh tế vĩ mô

Môi trường kinh tế vĩ mô thể hiện ở nhiều nhân tố khác nhau tác động
đến sự phát triển của dịch vụ ngân hàng. Nhưng có thể khái quát và phân
thành các nhóm chủ yếu sau:
- Trình độ và tính chất phát triển của kinh tế đó (tăng trưởng kinh tế,
thu nhập, kết cấu hạ tầng thơng tin, quy mơ và trình độ phát triển của hệ thống
thị trường tài chính…). Đó là nền kinh tế thị trường phát triển, nền kinh tế thị
trường đang phát triển, hay nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi từ cơ
chế kế hoạch hố tập trung sang nền kinh tế thị trường, nền kinh tế chậm phát
triển...Hoạt động cung ứng dịch vụ ngân hàng ra đời và phát triển là do nhu
cầu của các doanh nghiệp, các khách hàng cá nhân, các cơ quan, các tổ
chức khác về dịch vụ bảo hiểm, cho thuê tài chính, kinh doanh chứng
khốn, ngân quỹ, ngoại hối... Hay nói cách khác là phải do nhu cầu của thị


25
trường. Điều này cho thấy rõ ràng nó phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh
tế-xã hội của từng nước. Các nước cơng nghiệp phát triển thì dịch vụ ngân
hàng khơng những đa dạng mà cịn địi hỏi có chất lượng cao và hoàn hảo.
Song ngược lại, đối với các nền kinh tế kém phát triển , trình độ dân trí
thấp thì các dịch vụ ngân hàng cũng khơng thể thực hiện được một cách
rộng rãi và có hiệu quả. Trong bản thân từng quốc gia thì nhu cầu dịch vụ
ngân hàng cũng tùy thuộc vào trình độ phát triển kinh tế của từng vùng,
từng địa phương, tuy thuộc vào thu nhập và trình độ văn hố của mỗi người
dân, hay du khách. Đối với các nước có nền kinh tế phát triển và đang phát
triển, thị trường dịch vụ ngân hàng phát triển mạnh, có hệ thống ngân hàng
trình độ tiên tiến.
Thơng thường các nền kinh tế có thu nhập quốc dân tính bình qn theo
đầu người ở mức độ cao, mức độ tiền tệ hoá cao, các chu chuyển tài chính,
giao dịch vốn, thanh tốn diễn ra ở qui mơ lớn địi hỏi tốc độ nhanh và chính
xác thì có thị trường dịch vụ ngân hàng phát triển ở trình độ cao. Các nền kinh

tế có tốc độ tăng trưởng GDP cao, hoạt động của các doanh nghiệp, cá nhân
sơi động, có mức độ cạnh tranh cao, thì ở đó thị trường dịch vụ ngân hàng
cũng có tốc độ phát triển cao và chuyển động linh hoạt.
- Sự ổn định kinh tế vĩ mô, mức độ lạm phát thấp, đồng tiền có khả
năng chuyển đổi hay khơng, đồng tiền có phải là loại ngoại tệ mạnh hay
khơng, cơ chế điều hành tỷ giá linh hoạt, thả nổi hay cố định. Việc sử dụng
các công cụ gián tiếp hay trực tiếp của chính sách tiền tệ, sử dụng hiệu quả
nghiệp vụ NHTW, mức độ phát triển của hệ thống ngân hàng và sự phát triển
của thị trường tiền tệ...có ảnh hưởng lớn và tác động trực tiếp đến sự phát
triển của thị trường dịch vụ ngân hàng
- Mức độ kiểm sốt bn lậu và tình trạng tham nhũng...
- Các yếu tố khác của nền kinh tế như mức độ mở cửa và hội nhập kinh
tế quốc tế, sự phát triển của thị trường du lịch, hoạt động xuất nhập khẩu hàng


×