Tải bản đầy đủ (.doc) (117 trang)

Th s kinh tế phát triển huy động vốn đầu tư để phát triển nông nghiệp tỉnh phú thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (563.6 KB, 117 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Muốn tăng trưởng và phát triển kinh tế cần phải có vốn đầu tư. Mức
độ huy động vốn đầu tư là một trong những nhân tố quyết định sự tăng trưởng
và phát triển của nền kinh tế nói chung và ngành nơng nghiệp nói riêng.
Để phát triển ngành kinh tế nơng nghiệp, tỉnh Phú Thọ đã và đang rất
cần vốn đầu tư. Cùng với chính sách đổi mới của Đảng và nhà nước, trên địa
bàn tỉnh đã xuất hiện nhiều hình thức huy động vốn đầu tư để phát triển nông
nghiệp. Những kết quả phát triển nông nghiệp trên địa bàn tỉnh đã chứng tỏ
lượng vốn huy động đã được sử dụng bước đầu có hiệu quả. Tuy nhiên, do
đặc điểm kinh tế - xã hội và các nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong
đó chính sách đầu tư, cơ chế quản lý vốn đầu tư, huy động và sử dụng vốn
đầu tư để phát triển nông nghiệp trên địa bàn tỉnh ...đã bộc lộ những hạn chế
và yếu kém, làm cho ngành nông nghiệp Phú Thọ phát triển chưa tương xứng
với tiềm năng. Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất nơng nghiệp cịn lạc
hậu, trình độ khoa học công nghệ chưa cao, khả năng đáp ứng yêu cầu sản
xuất hàng hóa quy mơ lớn cịn thấp. Đặc biệt, tình hình thu hút cho đầu tư
phát triển nơng nghiệp còn nhiều hạn chế, dẫn đến khả năng khai thác nguồn
lực và lợi thế của tỉnh trong phát triển kinh tế - xã hội chưa hiệu quả. Hơn
nữa, trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, nông sản của Phú Thọ không
chỉ cạnh tranh với các sản phẩm trong nước mà cịn phải cạnh tranh với các
nơng sản cùng loại của các nước trong khu vực. Đây chính là một thách thức
lớn đối với nông nghiệp của tỉnh trong thời gian tới.
Để phát triển ngành nông nghiệp cần phải được thực hiện nhiều giải
pháp đồng bộ, trong đó vốn đầu tư là một trong những vấn đề quan trọng. Vì
vậy, nghiên cứu đề tài: "Huy động vốn đầu tư để phát triển nơng nghiệp tỉnh
Phú Thọ" có ý nghĩa lý luận và thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội nói chung,
phát triển nơng nghiệp nói riêng của tỉnh Phú Thọ.



2
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Phạm trù tư bản (vốn), tích tụ và tập trung vốn, vai trị của vốn trong
quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế đã được các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác - Lênin luận bàn trong nhiều tác phẩm. Hiện nay, nhiều nhà kinh tế
học cũng đang tiếp tục nghiên cứu vấn đề này.
Ở nước ta, vấn đề vốn đầu tư phát triển nền kinh tế quốc dân nói
chung, vốn đầu tư phát triển các ngành nơng nghiệp nói riêng được các nhà
khoa học rất quan tâm nghiên cứu, đáng chú ý là các cơng trình: Những giải
pháp chủ yếu nhằm huy động vốn trong nước phục vụ phát triển kinh tế Việt
Nam, Luận án PTS kinh tế của Nguyễn Văn Lai, Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh, 1996; Những giải pháp tài chính huy động vốn trong nước
để đầu tư phát triển kinh tế Việt Nam, Luận án PTS kinh tế của Phạm Ngọc
Quyết, Trường Đại học Tài chính - Kế tốn Hà Nội, 1996; Tích tụ và tập
trung vốn trong nước để phát triển công nghiệp nước ta hiện nay, Luận án
tiến sĩ kinh tế của Trần Xuân Kiên, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh, 1998; Đầu tư trong nông nghiệp - thực trạng và triển vọng của PTS
Nguyễn Sinh Cúc và PTS Nguyễn Văn Tiêm (chủ biên), NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1995; Hồn thiện chính sách tài chính hỗ trợ phát triển nơng
nghiệp và kinh tế nông thôn ở Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ
của Học viện Tài chính, Bộ Tài chính, 2002; Huy động vốn phát triển nơng
nghiệp hàng hóa vùng đồng bằng sơng Hồng nước ta, Luận án TS kinh tế
của Phạm Thị Khanh, Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Hồ Chí
Minh, 2003; Đặng Kim Sơn, Kinh nghiệm quốc tế về nông nghiệp, nông thơn,
nơng dân trong q trình cơng nghiệp hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2008; Nguyễn Danh Sơn (chủ biên), Nơng nghiệp, nơng thơn, nơng dân Việt
Nam trong q trình phát triển đất nước theo hướng hiện đại, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội, 2010; Trung tâm Nghiên cứu và phát triển hệ thống nông
nghiệp, Kỷ yếu 20 năm nghiên cứu và phát triển hệ thống nông nghiệp, Nxb
Nông nghiệp, Hà Nội, 2009; Nguyễn Từ (chủ biên), Tác động của hội nhập



3
kinh tế quốc tế đối với phát triển nông nghiệp Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2010...
Ngồi ra, cịn có các bài nghiên cứu liên quan đến vấn đề vốn đầu tư
và vai trò của vốn đầu tư đối với phát triển kinh tế được đăng tải trên nhiều
sách, báo, tạp chí...
Các cơng trình trên đã đề cập khá tồn diện, khái qt hoặc đi vào
phân tích từng mặt của phạm trù vốn, đầu tư vốn phát triển nền kinh tế quốc
dân nói chung, phát triển nơng nghiệp, nơng thơn nói riêng. Tuy nhiên, chưa
có cơng trình nào đi sâu nghiên cứu vấn đề huy động vốn đầu tư phát triển
nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Phú Thọ - tỉnh mang đặc trưng của vùng Trung
du và Miền núi phía Bắc nước ta, với những đặc trưng riêng có về tiềm năng
huy động và khai thác vốn đầu tư phát triển nơng ngiệp.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích: Luận văn tập trung làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của
vấn đề huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển nơng nghiệp tỉnh Phú Thọ,
trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm tăng cường huy động vốn
đầu tư để phát triển nông nghiệp trên địa bàn tỉnh trong giai đoạn hiện nay.
- Nhiệm vụ:
+ Hệ thống hóa những vấn đề lý luận chung về vốn đầu tư: Khái niệm;
cơ cấu nguồn vốn; đặc điểm, vai trò, những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến
huy động vốn đầu tư phát triển nông nghiệp; mối quan hệ giữa huy động và
sử dụng vốn đầu tư.
+ Phân tích thực trạng huy động vốn đầu tư phát triển nông nghiệp
tỉnh Phú Thọ những năm qua. Đánh giá khái quát những thuận lợi và khó
khăn; phát hiện những nguyên nhân cản trở q trình huy động vốn đầu tư
phát triển nơng nghiệp tại tỉnh Phú Thọ.
+ Luận chứng phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm huy động vốn

đầu tư có hiệu quả để phát triển nông nghiệp tỉnh Phú Thọ.


4
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Vấn đề huy động vốn đầu tư phát triển nông
nghiệp trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Luận văn chỉ nghiên cứu, xem xét vốn đầu tư biểu hiện dưới hình
thái tiền.
+ Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2001 đến nay; dự báo nhu cầu vốn
đầu tư từ nay đến năm 2020.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Xem xét, đánh giá thực tiễn huy
động vốn đầu tư ngành nơng nghiệp theo q trình phát triển, trong sự vận
động của các nhân tố, điều kiện có liên quan đến sản xuất nông nghiệp; xem
xét mối quan hệ tác động qua lại giữa nguồn vốn đầu tư ngành nông nghiệp
với các ngành, lĩnh vực khác, giữa các ngồn vốn đầu tư ngành nông nghiệp,
giữa huy động và sử dụng vốn đầu tư…
- Tiếp thu, kế thừa những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, những kiến
thức kinh tế học hiện đại và kế thừa chọn lọc những cơng trình khoa học có
liên quan đến vấn đề này.
- Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, chủ yếu là
phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; coi trọng phương pháp hệ
thống, phân tích, tổng hợp, thống kê. Tác giả luận văn thực hiện điều tra, khảo
sát thực tế ở một số địa phương, ngành trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
6. Đóng góp của luận văn
- Hệ thống hóa cơ sở khoa học về vốn đầu tư, huy động vốn đầu tư

phát triển nơng nghiệp.
- Phân tích đặc điểm nơng nghiệp tỉnh Phú Thọ, góp phần làm rõ tiềm
năng, thế mạnh cũng như khó khăn trong phát triển nơng nghiệp của tỉnh.


5
- Phân tích thực trạng huy động vốn đầu tư phát triển nông nghiệp tỉnh
Phú Thọ, rút ra những hạn chế và nguyên nhân cần khắc phục.
- Đề xuất những phương hướng, giải pháp nhằm đẩy mạnh huy động
vốn đầu tư phát triển nông nghiệp tỉnh Phú Thọ.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.


6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
VỀ HUY ĐỘNG VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP
1.1. KHÁI QUÁT VỀ ĐẦU TƯ VÀ VỐN ĐẦU TƯ

1.1.1. Khái niệm đầu tư và vốn đầu tư
Đầu tư theo nghĩa rộng là quá trình bỏ vốn, bao gồm cả tiền, tài sản, để
đạt được mục tiêu nhất định nào đó, trong đó có mục tiêu kinh tế.
Trong hoạt động kinh tế, đầu tư có thể biểu hiện cụ thể hơn và mang
bản chất kinh tế, đó là hoạt động đầu tư nhằm mục tiêu lợi nhuận. Lợi nhuận
là một tiêu chuẩn cơ bản và chủ yếu của hoạt động đầu tư. Ở đây khơng có
khái niệm đầu tư không nhằm mục tiêu lợi nhuận.
Dựa trên quan điểm của quá trình tái sản xuất mở rộng, khái niệm đầu
tư có thể hiểu là q trình chuyển hố vốn thành các yếu tố cần thiết cho việc

tạo ra năng lực sản xuất và các yếu tố cơ bản, tiên quyết cho quá trình phát
triển sản xuất kinh doanh. Đầu tư là hoạt động mang tính thường xuyên, của
tất cả các quốc gia và là nền tảng của sự phát triển.
Hoạt động đầu tư có thể được thực hiện thơng qua nhiều nguồn vốn
trong và ngồi nước, trong đó đặc biệt lưu ý là nguồn vốn tích luỹ trong nước
của quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Vốn đầu tư là một bộ phận của nguồn lực biểu hiện dưới dạng giá trị
của các tài sản quốc gia được thể hiện bằng các tài sản hữu hình và vơ hình
nhằm sử dụng vào mục đích đầu tư để sinh lời. Đó là những chi phí bỏ ra làm
tăng tài sản cố định, tài sản lưu động, tài sản trí tuệ, nguồn nhân lực, nâng cao
mức sống dân cư và mặt bằng dân trí, bảo vệ mơi trường sinh thái trong một
thời gian nhất định.
Nguồn lực trên phải nằm trong một dự án đầu tư thì mới được gọi là
nguồn vốn đầu tư. Nếu không chúng mới chỉ là nguồn lực tích lũy và dự trữ


7
dưới dạng tiềm năng. Nói cách khác, vốn đầu tư phải là nguồn lực trong trạng
thái "động".
Khái niệm về vốn đầu tư được thể hiện làm rõ hơn qua những đặc
trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, vốn phải được biểu hiện bằng giá trị của những tài sản, điều
này có nghĩa là vốn phải đại diện cho một lượng giá trị có thực của tài sản (tài
sản hữu hình và vơ hình). Tài sản hữu hình là những tài sản có hình thái vật
chất cụ thể như nhà xưởng, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, nguyên vật
liệu... Tài sản vơ hình là những tài sản khơng có hình thái vật chất cụ thể. Tài
sản vơ hình rất phong phú và đa dạng như: vị trí kinh doanh, bản quyền, phát
minh sáng chế, nhãn hiệu hàng hóa, uy tín trong kinh doanh... Như vậy một
lượng tiền phát hành không vào lưu thơng, khơng có giá trị đảm bảo hoặc các
khoản nợ khơng có khả năng thanh tốn thì khơng thể được gọi là vốn.

Thứ hai, vốn phải được vận động nhằm mục đích sinh lời. Vốn là tiền
nhưng khơng phải mọi đồng tiền đều là vốn. Tiền chỉ là vốn ở dạng tiềm
năng, khi nào chúng được dùng vào đầu tư kinh doanh thì chúng mới biến
thành vốn. Tiền là phương tiện để trao đổi, lưu thơng hàng hóa cịn vốn là để
sinh lời, nó ln chu chuyển và tuần hồn. Q trình đầu tư là một q trình
vận động của vốn đầu tư. Cách vận động và phương thức vận động của tiền
vốn lại do phương thức đầu tư kinh doanh quyết định. Các phương thức đầu
tư có thể mô phỏng theo sơ đồ sau:
- Trường hợp đầu tư vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh:
TLSX
T-H

... SX... H’ - T’
SLĐ

- Trường hợp đầu tư vào lĩnh vực thương mại:
T - H - T’
- Trường hợp đầu tư mua cổ phiếu, trái phiếu, góp vốn liên doanh...:
T - T’


8
Ngoài sự phân biệt giữa vốn và tiền, cần phân biệt sự khác nhau giữa
vốn và tài sản. Vốn là biểu hiện bằng tiền của một bộ phận tài sản, nhưng
không phải mọi tài sản đều được gọi là vốn. Tài sản có nhiều loại: có loại do
thiên nhiên ban tặng, có loại do thành quả lao động của con người sáng tạo ra;
có loại là hữu hình, có loại là vơ hình. Những tài sản đó nếu được giá trị hóa
thành tiền và đưa vào đầu tư thì đều được gọi là vốn đầu tư. Những tài sản
này được gọi là tài sản hoạt động (để phân biệt với tài sản bất động, tức là tài
sản ở dạng tiềm năng).

Thứ ba, vốn bao giờ cũng gắn liền với một chủ sở hữu nhất định,
khơng có khái niệm vốn vơ chủ. Chủ sở hữu vốn có thể là một chủ nhưng
cũng có thể là nhiều chủ như các cổ đơng là chủ sở hữu vốn trong các công ty
cổ phần. Tùy theo hình thức đầu tư mà người chủ sở hữu có thể đồng nhất
hoặc khơng đồng nhất với người sử dụng vốn. Ở đâu không xác định được rõ
chủ sở hữu của vốn và tài sản thì ở đó việc quản lý, sử dụng vốn sẽ kém hiệu
quả, gây ra lãng phí và tiêu cực.
Thứ tư, trong nền kinh tế thị trường, vốn là một loại hàng hóa đặc biệt.
Sở dĩ coi vốn là một loại hàng hóa, vì nó cũng có giá trị và giá trị sử dụng như
mọi loại hàng hóa khác. Giá trị sử dụng của vốn là để sinh lời. Nhưng vốn là
một loại hàng hóa đặc biệt khác với hàng hóa thơng thường, ở chỗ người bán
vốn không mất đi quyền sở hữu mà chỉ bán quyền sử dụng vốn. Người mua
nhận được quyền sử dụng vốn trong một khoảng thời gian nhất định và phải
trả cho người bán vốn một tỷ lệ nhất định tính trên số vốn đó, gọi là lãi suất.
Như vậy, lãi suất chính là giá cả của quyền sử dụng vốn.
Việc mua bán quyền sử dụng vốn được diễn ra trên thị trường tài
chính. Thị trường tài chính là nơi diễn ra các hoạt động mua bán quyền sử
dụng các nguồn tài chính thơng qua những phương thức giao dịch và các cơng
cụ tài chính nhất định, là tổng hòa các quan hệ cung và cầu về vốn. Thị trường
tài chính bao gồm hai bộ phận:


9
- Thị trường tiền tệ: là thị trường vốn ngắn hạn, nơi diễn ra các hoạt
động mua bán quyền sử dụng các nguồn vốn ngắn hạn. Thị trường tiền tệ diễn
ra chủ yếu thông qua hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại. Các
ngân hàng thương mại là chủ thể quan trọng nhất trong việc thu hút và cung
cấp các nguồn vốn ngắn hạn.
- Thị trường vốn: là nơi diễn ra các hoạt động mua bán quyền sử dụng
các nguồn vốn dài hạn. Thị trường vốn cung cấp tài chính cho các khoản đầu

tư dài hạn của Chính phủ, chính quyền địa phương, của các doanh nghiệp, các
hộ gia đình và các cá nhân. Thị trường vốn gồm có thị trường vay nợ dài hạn
và thị trường chứng khoán.
Chỉ khi nào có lợi tức thỏa đáng thì người sở hữu vốn mới bán quyền
sử dụng vốn của mình. Đây là một ngun lý có tính chất ngun tắc để thu
hút, huy động vốn trong cơ chế thị trường.
Thứ năm, đồng vốn có giá trị về mặt thời gian. Ở các thời điểm khác
nhau thì giá trị của vốn cũng khác nhau. Vì vậy, một vấn đề đặt ra là phải hiện
tại hóa hoặc tương lai hóa giá trị của vốn để làm cơ sở tính tốn và phân tích
hiệu quả đầu tư.
Thứ sáu, vốn phải được tích tụ và tập trung. Tích tụ vốn là việc tăng
số vốn cá biệt của từng doanh nghiệp, từng hộ sản xuất. Tập trung vốn là làm
tăng quy mơ vốn đơn vị tồn xã hội. Có tích tụ vốn mới có tập trung vốn. Tập
trung vốn sẽ biến những tác dụng nhỏ bé của từng khoản vốn tích tụ cá biệt
thành sức mạnh của nguồn vốn đầu tư của toàn xã hội.
Trong giai đoạn hiện nay, nhiều quốc gia đặc biệt là các nước đang
phát triển đang đứng trước những thiếu hụt về vốn cho đầu tư phát triển, do
chưa có tích luỹ hoặc mức độ tích luỹ thấp. Nước ta đang ở thời kỳ đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhu cầu vốn rất lớn, nhưng vốn trong nước còn
hạn hẹp nên phải huy động và đa dạng hóa các nguồn vốn, đặt biệt là bổ sung
nguồn vốn từ bên ngoài cho nhu cầu đầu tư phát triển.


10
1.1.2. Cơ cấu và mối quan hệ giữa các nguồn vốn đầu tư
Nguồn vốn đầu tư phát triển của xã hội được hình thành trên cơ sở
động viên các nguồn lực trong nước và ngồi nước, thơng qua các cơng cụ
chính sách, cơ chế, luật pháp. Nguồn vốn trong nước bao gồm: nguồn vốn từ
ngân sách nhà nước, nguồn vốn tín dụng (tín dụng nhà nước và tín dụng ngân
hàng), các nguồn vốn khác (vốn đầu tư của các doanh nghiệp, các tổ chức và

dân cư). Nguồn vốn ngoài nước gồm có: đầu tư trực tiếp nước ngồi, nguồn
vốn vay, viện trợ và các nguồn vốn khác.
1.1.2.1. Nguồn vốn trong nước
 Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước:
Ngân sách nhà nước được đặc trưng bằng sự vận động của các nguồn
tài chính gắn liền với q trình tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của
Nhà nước nhằm thực hiện các chức năng của Nhà nước trên cơ sở luật định.
Nó phản ánh các quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và các chủ thể khác trong xã
hội, phát sinh khi Nhà nước tham gia phân phối các nguồn tài chính quốc gia
theo ngun tắc khơng hồn trả trực tiếp là chủ yếu.
Nguồn vốn ngân sách nhà nước được hình thành từ tiết kiệm của
ngân sách nhà nước, đó là khoản chênh lệch giữa thu và chi của ngân sách
nhà nước. Thu của ngân sách nhà nước được thực hiện chủ yếu là từ thuế
và một phần nhỏ là các khoản thu từ phí, lệ phí và thu khác... Chi của ngân
sách nhà nước bao gồm: chi cho đầu tư phát triển và chi thường xuyên cho
quản lý hành chính, an ninh quốc phịng, sự nghiệp văn hóa, y tế, giáo dục
và đào tạo, nghiên cứu khoa học, thể dục thể thao và xã hội, chi các sự
nghiệp kinh tế... Xu hướng chi tiêu công cộng của Nhà nước có chiều
hướng ngày càng tăng lên, vì Nhà nước ngày càng phải đảm nhận việc cung
cấp nhiều hàng hóa công cộng hơn cho xã hội. Một quan hệ thường thấy
trong cân đối ngân sách quốc gia là có bội thu hoặc bội chi. Nếu bội thu


11
ngân sách thì Nhà nước có nguồn tiết kiệm để hình thành nên vốn đầu tư
phát triển. Nhưng một vấn đề cần lưu ý là có thể trong trường hợp bội chi
ngân sách thì ngân sách nhà nước vẫn tiết kiệm một phần để dành cho đầu
tư phát triển, vì trong các khoản chi của Nhà nước có khoản chi cho đầu tư
phát triển. Điều này có nghĩa là muốn có tiết kiệm từ ngân sách nhà nước
thì tốc độ tăng chi đầu tư phát triển phải luôn lớn hơn tốc độ tăng chi

thường xuyên. Vấn đề không phải là bội chi ít hay nhiều mà là định hướng
đầu tư. Nhưng một thực tế là hầu hết các nước đang phát triển, tiết kiệm
của Chính phủ khơng phải là nguồn đầu tư chủ yếu, vì thường ngân sách
của các nước này nguồn thu rất hạn chế, mà nhu cầu chi tiêu thường xuyên
lại cao, nên Nhà nước chỉ có thể tập trung vốn đầu tư phát triển ở những
lĩnh vực thật sự thấy cần thiết.
Muốn tăng nguồn tích lũy của ngân sách nhà nước phải phấn đấu tăng
thu và tiết kiệm chi. Vốn đầu tư phát triển qua kênh ngân sách nhà nước, được
thể hiện qua hai phần: một phần vốn đầu tư xây dựng cơ bản tập trung của
Nhà nước, một phần từ nguồn kinh phí sự nghiệp kinh tế hàng năm.
 Nguồn vốn tín dụng nhà nước:
Là hình thức vay nợ của Nhà nước thông qua kho bạc, được thực
hiện chủ yếu bằng cách phát hành trái phiếu Chính phủ, do Bộ Tài chính
phát hành.
Trong trường hợp nhu cầu chi tiêu của ngân sách lớn, nhưng nguồn
thu lại không thể đáp ứng được. Để thỏa mãn nhu cầu này, Chính phủ thường
cân đối ngân sách bằng cách phát hành trái phiếu Chính phủ. Cũng có thể
Chính phủ tiến hành một dự án nào đó, nhưng khơng muốn sử dụng vốn ngân
sách, thì dự án này có thể được thực hiện bằng vốn vay dưới hình thức phát
hành trái phiếu Chính phủ. Ở nước ta hiện nay, trái phiếu Chính phủ có các
hình thức sau đây:


12
- Tín phiếu kho bạc: là loại trái phiếu ngắn hạn dưới một năm, được
phát hành với mục đích để bù đắp thiếu hụt tạm thời của ngân sách nhà nước
và tạo thêm công cụ của thị trường tiền tệ.
- Trái phiếu kho bạc: là loại trái phiếu có thời hạn một năm trở lên,
được phát hành nhằm mục đích huy động vốn theo kế hoạch ngân sách nhà
nước hàng năm đã được Quốc hội thông qua.

- Trái phiếu đầu tư: là loại trái phiếu Chính phủ có thời hạn một năm
trở lên, bao gồm các loại sau:
+ Trái phiếu huy động vốn cho từng cơng trình cụ thể thuộc diện ngân
sách đầu tư, theo kế hoạch đầu tư đã được Chính phủ phê duyệt nhưng chưa
được bố trí vốn ngân sách trong năm kế hoạch.
+ Trái phiếu huy động vốn cho Quỹ hỗ trợ phát triển theo kế hoạch tín
dụng đầu tư phát triển hàng năm được Chính phủ phê duyệt.
Đối với vốn đầu tư phát triển, hình thức tín dụng nhà nước có thể tác
động lên hai mặt: Chính phủ vay ngắn hạn tạo điều kiện cân đối ngân sách
đảm bảo kế hoạch đầu tư phát triển kinh tế và phát hành trái phiếu để đầu tư
cho một số dự án nào đó.
Hình thức tín dụng nhà nước tuy lãi suất khơng cao, nhưng có sự đảm
bảo của Nhà nước nên dễ huy động vốn. Nếu vận dụng tốt sẽ tạo ra nguồn
vốn đầu tư phát triển quan trọng.
 Nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước:
Hiện nay, ở các quốc gia đều tồn tại khu vực kinh tế nhà nước (trong
đó có doanh nghiệp nhà nước) vì nhiều lý do khác nhau: bảo đảm những
ngành, lĩnh vực then chốt, mũi nhọn, kinh doanh ở những lĩnh vực mà tư nhân
không đủ sức, đủ vốn hoặc khơng muốn làm vì hiệu quả kinh tế thấp, nhất là
ở những lĩnh vực như giao thông, thủy lợi, năng lượng, dịch vụ công cộng...
Vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước được hình thành từ rất
nhiều nguồn khác nhau: là nguồn vốn do ngân sách nhà nước cấp cho các


13
doanh nghiệp nhà nước lúc mới hình thành doanh nghiệp, tuy nhiên nguồn
vốn này có xu hướng giảm đáng kể cả về tỷ trọng và số lượng; nguồn vốn huy
động thông qua phát hành trái phiếu, cổ phiếu (đối với các doanh nghiệp nhà
nước đã thực hiện cổ phần hóa); tiền khấu hao cơ bản của tài sản cố định, lợi
nhuận tích lũy được phép để lại doanh nghiệp...

 Nguồn vốn tín dụng ngân hàng:
Các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính trung gian khác
như cơng ty tài chính, quỹ tín dụng nhân dân, cơng ty bảo hiểm... có vai trị
rất quan trọng trong việc huy động vốn đầu tư phát triển. Các tổ chức này có
ưu điểm là có thể thỏa mãn được mọi nhu cầu về vốn của các pháp nhân và
thể nhân trong nền kinh tế, nếu những đối tượng vay vốn chấp hành đầy đủ
những quy chế tín dụng. Sở dĩ các tổ chức này có thể thu hút, huy động nguồn
vốn bằng tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế với khối lượng lớn, bởi vì đã sử dụng
dưới nhiều hình thức huy động khác nhau rất phong phú và đa dạng. Mặt
khác, thời hạn cho vay cũng linh hoạt (bao gồm vay ngắn hạn, trung hạn và
dài hạn), tùy thuộc vào nhu cầu của người đi vay. Do nguồn vốn của các tổ
chức này huy động được có thời gian nhàn rỗi cũng khác nhau (tiền gửi khơng
kỳ hạn và có kỳ hạn) và là nguồn vốn bằng tiền nên có thể điều chỉnh giữa các
nguồn vốn với nhau để đáp ứng nhu cầu về thời gian của người đi vay. Phạm
vi cho vay cũng rộng, liên quan đến các chủ thể và các lĩnh vực khác nhau
trong nền kinh tế. Bởi vậy, trong lĩnh vực đầu tư phát triển thì vấn đề huy
động vốn qua tín dụng ngân hàng và các tổ chức tài chính trung gian là hình
thức khơng thể thiếu được trong nền kinh tế thị trường.
 Nguồn vốn đầu tư của khu vực dân doanh:
Nguồn vốn đầu tư của khu vực dân doanh được hình thức từ nguồn
tiết kiệm của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và tiết kiệm của dân cư.


14
- Đối với các doanh nghiệp ngồi quốc doanh (cơng ty cổ phần, công
ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân...): lợi nhuận sau thuế của các
doanh nghiệp này sẽ được chia làm hai phần: một phần chia cho các cổ đông
và một phần để lại cho doanh nghiệp. Khoản lợi nhuận không chia này là
khoản tiết kiệm của các doanh nghiệp để hình thành nên nguồn vốn đầu tư.
Bên cạnh đó, để tiến hành đầu tư các doanh nghiệp ngoài quốc doanh sử dụng

thêm cả phần vốn khấu hao tài sản cố định.
Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng có thể vay tín dụng ngân hàng hoặc
phát hành cổ phiếu đối với công ty cổ phần và phát hành trái phiếu để thu hút
vốn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, vay lẫn nhau giữa các doanh nghiệp
có vốn tạm thời nhàn rỗi, vay thông qua mua hàng trả chậm và vay thương mại
(thường được các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu áp dụng).
Theo xu hướng phát triển hiện nay, nguồn vốn này có chiều hướng gia
tăng vì ngày càng có nhiều doanh nghiệp ngồi quốc doanh ra đời, dưới nhiều
hình thức, quy mơ, lĩnh vực hoạt động khác nhau và phát triển với tốc độ
tương đối nhanh.
Trong giai đoạn hiện nay ở nước ta, các doanh nghiệp ngồi quốc
doanh thường được đầu tư với quy mơ doanh nghiệp vừa và nhỏ, thích hợp
với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của từng doanh nghiệp, nhưng lại rất linh
hoạt và hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh, đã có những đóng góp
quan trọng vào sự nghiệp cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
- Tiết kiệm của dân cư: phụ thuộc vào thu nhập và chi tiêu của mỗi hộ
gia đình. Thu nhập của các hộ gia đình lại phụ thuộc vào thu nhập có thể sử
dụng như tiền lương, tiền cơng, thu nhập từ sản xuất kinh doanh và các khoản
thu nhập khác (vay, mượn...).
Một khi thu nhập nhỏ hơn mức chi tiêu sẽ khơng có tiết kiệm, các hộ gia
đình phải vay mượn thêm để chi tiêu. Khi thu nhập có thể sử dụng vừa bằng mức
chi tiêu thì tiết kiệm bằng khơng. Nếu thu nhập lớn hơn mức chi tiêu thì mới có


15
tiết kiệm. Một xu hướng chung là các hộ gia đình có mức thu nhập cao hơn sẽ
tiết kiệm nhiều hơn (mức tiết kiệm ở thành thị lớn hơn ở nơng thơn) và những
nước phát triển cũng có tỷ lệ tiết kiệm cao hơn những nước kém phát triển.
Đối với nước ta hiện nay, do thu nhập của dân cư ở mức thấp, đặc biệt
ở nông thôn tỷ lệ hộ đói nghèo cịn cao, nên mức tiết kiệm trong dân cư rất

thấp, đây là vấn đề khó khăn trong việc thu hút và huy động vốn đầu tư. Tuy
nhiên, theo đà phát triển của đất nước, thu nhập của dân cư ngày càng tăng,
thì nguồn vốn này sẽ có xu hướng tăng lên.
Một vấn đề cần quan tâm trong việc nghiên cứu nguồn vốn tiết kiệm
là sự tách rời giữa những động cơ đưa đến tiết kiệm và đầu tư. Trong nền kinh
tế mức tiết kiệm và mức đầu tư mà ta mong muốn không phải ngẫu nhiên
bằng nhau, bởi vì nói chung tiết kiệm và đầu tư do những người khác nhau
thực hiện và vì những lý do rất khác nhau: đầu tư chủ yếu do các doanh
nghiệp tiến hành bằng nguồn vốn tích lũy, bằng nguồn vốn vay ngân hàng,
phát hành cổ phiếu, trái phiếu... Ngược lại, tiết kiệm chủ yếu do các hộ gia
đình, các cá nhân, các quỹ tập thể (hưu trí, bảo hiểm). Cá nhân mong muốn
tiết kiệm vì nhiều lý do: đề phịng khó khăn, dự phịng tài chính cho tương lai,
lãi suất cao thúc đẩy tiết kiệm hoặc do thói quen, tập quán... Trong khi đó thị
trường khơng phối hợp được nhanh chóng giữa tiết kiệm và đầu tư: nó khơng
tự động chuyển những thay đổi trong khoản tiết kiệm mong muốn của người
tiêu thụ thành những thay đổi trong đầu tư của người kinh doanh. Tức là,
khoản tiết kiệm chỉ được đưa ra đầu tư khi người đầu tư thấy có lợi.
Khoảng cách giữa tiết kiệm và đầu tư đòi hỏi Nhà nước phải có vai trị
điều tiết vĩ mơ thích hợp mới có thể có một chính sách huy động vốn có hiệu
quả. Cho đến nay, hầu hết các nhà kinh tế và hoạch định chính sách đều nhận
thấy rằng có tiết kiệm mới có đầu tư. Để tăng nguồn vốn trong nước thì phải
kích thích tăng trưởng kinh tế để tăng tiết kiệm và đầu tư. Tăng trưởng kinh tế
là điều kiện cần để có vốn đầu tư. Điều này rất quan trọng vì nếu tồn bộ số


16
thu nhập đều sử dụng cho tiêu dùng thì sẽ khơng có nguồn tiết kiệm. Song có
tiết kiệm mà khơng bỏ vào đầu tư lại đem cất trữ thì nguồn tiết kiệm chỉ là
nguồn tiềm năng, nguồn vốn "chết" mà thôi.
Đối với những nước đang phát triển như nước ta, nguồn vốn trong nước

chưa thể thỏa mãn nhu cầu cho đầu tư phát triển, nhất là trong điều kiện hạ tầng
kinh tế - xã hội còn thấp như hiện nay. Để tăng cường hoạt động đầu tư, góp phần
thúc đẩy nền kinh tế đất nước ngày càng phát triển thì điều quan trọng hàng đầu là
phải thực hiện chính sách nền kinh tế mở, trên cơ sở cân nhắc các điều kiện và khả
năng có liên quan đến mối quan hệ kinh tế đối ngoại, phải có sự hịa nhập về
khơng gian kinh tế, xóa bỏ hàng rào địa lý. Có như vậy mới thực hiện thắng lợi
các mục tiêu phát triển kinh tế và các yêu cầu về đầu tư phát triển. Không ngừng
đẩy mạnh khả năng tăng nhanh việc tạo vốn cho toàn bộ nền kinh tế, tranh thủ
triệt để các nguồn vốn từ ngoài nước, đồng thời phát triển mạnh mẽ thị trường vốn
nhằm thực hiện tốt quá trình giao lưu vốn giữa các thành phần kinh tế.
Với tình hình thực tế ở nước ta cho thấy, việc khai thác các nguồn vốn
trong nước có thể nhiều khi cịn gặp khó khăn, thì nguồn vốn ngồi nước là
rất quan trọng và hết sức cần thiết.
1.1.2.2. Nguồn vốn ngoài nước
Trong giai đoạn đầu của các nước đang phát triển mức thu nhập còn
thấp nên khả năng tiêu dùng cũng như khả năng tích lũy ở mức thấp. Trong
khi đó lại cần khoản vốn đầu tư lớn để hồn chỉnh kết cấu cơ sở hạ tầng và
xây dựng các cơng trình quan trọng nhằm phát triển kinh tế. Mặt khác, ở giai
đoạn này hàng hóa xuất khẩu chủ yếu là hàng nơng sản và cơng nghiệp tiêu
dùng có giá trị chưa cao. Trong khi đó hàng hóa nhập khẩu là những máy
móc thiết bị, dây chuyền cơng nghệ hiện đại có giá trị cao, nên cán cân thanh
tốn thường bị thâm hụt. Các nước đang phát triển luôn phải đối mặt với một
vấn đề thiếu hụt ngoại tệ.


17
Nguồn vốn ngồi nước góp phần tích cực để giải quyết hai vấn đề nan
giải nêu trên, đồng thời với xu hướng quốc tế hóa, tồn cầu hóa đời sống kinh
tế - xã hội, quan hệ giao lưu kinh tế và khoa học kỹ thuật phát triển sôi động
đã trở thành nhu cầu bức xúc của tất cả các nước trên thế giới. Mỗi nước dù

nhỏ hay lớn đều có thể và cần phải tham gia vào phân công lao động trong
khu vực và quốc tế để tận dụng những khả năng to lớn của nền kinh tế thế
giới về di chuyển các luồng tài chính, mở rộng thị trường, chuyển giao cơng
nghệ, kinh nghiệm quản lý... từ đó xuất hiện nhu cầu đầu tư và nhu cầu nhận
đầu tư.
Ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, vấn đề thu hút các nguồn vốn ngồi
nước và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này để phát triển kinh tế, thực hiện sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là hết sức quan trọng và cần thiết.
Nguồn vốn đầu tư ngoài nước tại Việt Nam hiện nay gồm các nguồn chủ yếu sau:
 Vốn thuộc các khoản vay nước ngồi của Chính phủ và các nguồn
vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA):
Đây là nguồn vốn hết sức quan trọng, vì nguồn vốn vay lớn, lãi suất
khơng cao, có một số ưu đãi, do vậy thường đầu tư vào các lĩnh vực kết cấu
hạ tầng, xóa đói giảm nghèo, phát triển nơng nghiệp, nơng thơn, văn hóa, giáo
dục, đơ thị là những lĩnh vực khả năng thu hồi vốn chậm, ít có khả năng sinh
lời... Nguồn vốn này được quản lý thống nhất theo Luật ngân sách nhà nước
và theo hướng dẫn quản lý vốn nước ngồi của Chính phủ và các bộ, ngành.
Mặc dù tình hình kinh tế của thế giới cịn gặp nhiều khó khăn, nhưng nhờ
chính sách đối ngoại tốt, mà các nhà tài trợ nước ngoài vẫn tiếp tục ủng hộ
Việt Nam. Kể từ khi nối lại quan hệ với các nhà tài trợ từ tháng 11.1993, Việt
Nam đã nhận được sự cam kết viện trợ vốn ODA của nhiều quốc gia và tổ
chức quốc tế. Từ 1993 đến cuối 2010, tổng số vốn ODA được các nhà tài trợ
cam kết dành cho VN đạt tới hơn 64 tỉ USD. Tổng số vốn đã được giải ngân
đạt trên 28 tỉ USD chiếm trên 43% tổng vốn ODA cam kết; riêng giai đoạn


18
2006- 2010, tổng số giải ngân đạt hơn 12,5 tỉ USD, chiếm trên 40% tổng vốn
ODA cam kết [39].
 Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI):

Là những khoản đầu tư do những tổ chức và cá nhân người nước ngoài đưa
vào một nước để sản xuất kinh doanh hoặc để góp vốn liên doanh với các tổ chức,
cá nhân trong nước theo quy định của pháp luật về đầu tư tại nước đó. Đây là
nguồn vốn lớn có ý nghĩa quan trọng, vì một mặt cũng giống như nguồn vốn
ODA, vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài tạo điều kiện cho nước sở tại có thể thu
hút được kỹ thuật và công nghệ tiến tiến, kinh nghiệm quản lý kinh doanh của
nước ngoài. Mặt khác, FDI gắn trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn với bản
thân phía nước ngồi, về phía chủ nhà khơng làm tăng gánh nặng nợ nước ngồi.
Tùy theo từng nước mà có những hình thức đầu tư trực tiếp nước
ngồi khác nhau. Ở Việt Nam, có các hình thức: Doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài, Doanh nghiệp liên doanh, Hợp đồng hợp tác kinh doanh, Hợp
đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT), hợp đồng xây dựng chuyển giao - kinh doanh (BTO), hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT)
nhằm khuyến khích thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Theo Tổng cục Thống kê, trong giai đoạn 2006 - 2010, Việt Nam đã thu
hút 7.804 dự án được cấp giấy phép đầu tư (nhiều hơn giai đoạn 2001 - 2005 hơn
1.700 dự án) với tổng số vốn đăng ký trên 146,78 tỷ đô la Mỹ. Vốn đầu tư thực
hiện được gần 44,63 tỷ đô la Mỹ, chiếm 30,4% tổng số vốn đăng ký.
Tính từ 1988 đến 2010, tổng vốn FDI đăng ký là 213,03 tỷ USD,
trong đó vốn thực hiện là 77,95 tỷ USD. Tuy vốn FDI đầu tư vào nơng
nghiệp khơng nhiều nhưng cũng có tác động tích cực nhất định đến phát
triển nông nghiệp [28, tr.86].
Hoạt động thu hút FDI tại Việt Nam thời gian qua đã đóng góp tích
cực vào việc thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất


19
nước. FDI là nguồn vốn rất quan trọng bổ sung cho vốn đầu tư phát triển,
đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế, là một trong những điều kiện quyết định
đến sự thành cơng của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
 Viện trợ của các tổ chức phi chính phủ (NGO):

Trước đây, viện trợ của các tổ chức phi Chính phủ chủ yếu là cho các
nhu cầu nhân đạo như nhu cầu cung cấp thuốc men, lương thực, quần áo cho
nạn nhân bị thiên tai, dịch bệnh, địch họa...Hiện nay, hình thức viện trợ này đã
thay đổi chính sách chuyển dần từ viện trợ nhân đạo sang hỗ trợ cho việc phát
triển các cơng trình cơ sở hạ tầng có quy mơ vừa và nhỏ. Nếu chúng ta biết
tranh thủ, khai thác các dự án của NGO thì có tác dụng tốt đối với các cơng
trình có quy mơ vừa và nhỏ ở nơng thơn, tạo điều kiện thúc đẩy nông nghiệp,
nông nghiệp phát triển.
 Vốn của những người Việt Nam sinh sống ở nước ngồi:
Có trên 2 triệu người Việt Nam hiện đang sinh sống ở nước ngồi, với
lực lượng đơng đảo đội ngũ trí thức, nhà khoa học trong đó có nhiều người là
chuyên gia giỏi về các lĩnh vực khoa học và công nghệ, quản lý kinh
doanh...Đây là một tiềm năng lớn cần phải được quan tâm khai thác. Riêng về
khối lượng ngoại tệ, hàng hóa gửi từ nước ngồi về nước hàng năm có hàng tỷ
đơ la Mỹ, đây cũng là một nguồn vốn lớn, góp phần khơng nhỏ vào việc đáp ứng
nhu cầu về vốn đầu tư ngày càng tăng lên trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
Từ khi Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới theo hướng mở cửa, hội
nhập quốc tế, chính sách của Nhà nước đối với người Việt Nam ở nước ngồi
đã có những thay đổi lớn. Một số người Việt Nam ở nước ngoài đã trực tiếp
đầu tư xây dựng cơ sở kinh tế ở Việt Nam. Nếu như từ những năm 1993-1998,
lượng kiều hối gửi về Việt Nam chỉ đạt dưới 500 triệu USD / 1 năm thì giai
đoạn 1999-2001 đạt hàng năm từ 1.200 triệu USD đến 1.800 triệu USD. Từ
2007 đến 2010 lượng kiều hối đạt trên 5 tỷ USD / 1 năm [28, tr.94].
1.1.2.3. Mối quan hệ giữa các nguồn vốn đầu tư


20
Giữa các nguồn vốn đầu tư có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó:
- Nguồn vốn trong nước giữ vai trị quyết định phát triển kinh tế, ln

chiếm tỷ lệ lớn trong cơ cấu nguồn vốn đầu tư của toàn xã hội. Đây là nguồn vốn
cơ bản đảm bảo cho sự tăng trưởng kinh tế một cách liên tục. Nếu phát huy được
nội lực nguồn vốn trong nước thì sẽ có được thế chủ động trong việc điều hành
nền kinh tế và ổn định các chính sách kinh tế, đảm bảo phát triển bền vững. Nguồn
vốn trong nước là nguồn vốn đối ứng nhằm tạo cơ sở cho nguồn vốn nước ngồi
hoạt động có hiệu quả; đóng vai trị định hướng cho dịng đầu tư nước ngồi chảy
vào các ngành, các lĩnh vực cần thiết. Nguồn vốn trong nước được huy động để đầu
tư ban đầu tạo cơ sở hạ tầng căn bản chủ động cho việc thu hút, tiếp nhận nguồn
vốn nước ngoài. Nếu huy động và sử dụng hiệu quả nguồn vốn trong nước sẽ góp
phần tạo môi trường đầu tư hấp dẫn đối với nguồn vốn nước ngồi.
- Nguồn vốn nước ngồi đóng vai trị quan trọng, có tác động tích cực tới
nguồn vốn trong nước: Nguồn vốn nước ngoài hỗ trợ cho những thiếu hụt về
vốn trong nước, đặc biệt là trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển, khi mà
nguồn vốn trong nước còn rất hạn chế. Đây cũng là nguồn cung ứng ngoại tệ cho
hoạt động mua sắm máy móc thiết bị, chuyển giao công nghệ, phân công lao
động xã hội, tạo điều kiện cho tăng năng suất lao động, gia tăng sản lượng của
nền kinh tế. Nguồn vốn nước ngoài có ảnh hưởng làm gia tăng nguồn vốn trong
nước thơng qua tạo công ăn việc làm cho nguồn lao động dư thừa, giải quyết thất
nghiệp, tăng thu nhập cho công nhân, từ đó tăng tiêu dùng, tăng tích luỹ, tăng
nguồn vốn trong nước.
Như vậy, nếu sử dụng tốt thì vốn đầu tư nước ngoài về ngắn hạn là đáp
ứng vốn đầu tư phát triển, về dài hạn sẽ góp phần gia tăng nguồn vốn tích luỹ
trong nước. Tuy nhiên, nếu như việc sử dụng và quản lý nguồn vốn nước ngồi
khơng tốt thì cũng có tác động tiêu cực tới nguồn vốn trong nước:


21
+ Việc thu hút nguồn vốn nước ngồi ln tiềm ẩn nguy cơ làm gia tăng
nợ nước ngoài và gia tăng sự phụ thuộc vào nền kinh tế nước ngoài nhất là đối
với nguồn ODA;

+ Nguồn vốn nước ngoài di chuyển vào trong nước làm tăng thu nhập
của vốn nước ngoài trên thị trường trong nước và làm giảm thu nhập của nguồn
vốn trong nước (Về thực chất đây là việc tái phân phối thu nhập của vốn trong
nước cho vốn nước ngoài);
+ Nguồn vốn nước ngoài được đầu tư khá nhiều vào khai thác tài nguyên,
dẫn đến làm giảm khả năng phát triển lâu dài của nguồn vốn trong nước;
+ Tình trạng lũng đoạn thị trường của nhà đầu tư nước ngồi và cạnh
tranh khơng cân sức giữa doanh nghiệp trong nước với và doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngồi có thể làm phá sản doanh nghiệp trong nước và gây thất
nghiệp, ảnh hưởng trực tiếp đến huy động nguồn vốn trong nước;
+ Làm chảy máu chất xám từ khu vực đầu tư từ nguồn vốn trong nước
sang khu vực có vốn đầu tư nước ngồi.
Giữa các loại nguồn vốn trong nhóm nguồn vốn trong nước và nước
ngồi cũng có mối quan hệ tác động qua lại, hỗ trợ lẫn nhau. Ví dụ, để hồn
thiện mơi trường đầu tư nông nghiệp, nông thôn như phát triển kết cấu hạ tầng,
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, khuyến khích người dân bỏ vốn đầu tư
phát triển nông nghiệp, nhà nước cần quan tâm phát triển giao thông, tạo thuận
lợi cho giao lưu hàng hóa, đồng thời đưa tiến bộ khoa học công nghệ vào sản
xuất, đầu tư thủy lợi, hỗ trợ phòng chống dịch bệnh để giúp người dân giảm
thiểu rủi ro, yên tâm bỏ thêm vốn vào phát triển nông nghiệp…
1.1.3. Mối quan hệ giữa huy động và sử dụng vốn đầu tư
Huy động và sử dụng vốn đầu tư có mối quan hệ mật thiết, khăng khít
với nhau:


22
- Huy động vốn đầu tư là cơ sở của sử dụng vốn đầu tư; chỉ khi đã thực
hiện được q trình huy động thì mới có thể có được nguồn vốn để tham gia
vào hoạt động đầu tư duy trì và tái sản xuất mở rộng nền kinh tế.
Huy động vốn đầu tư là đầu vào, là nguồn cung của vốn đầu tư. Chỉ khi

huy động lượng vốn đầu tư đáp ứng yêu cầu thì quá trình đầu tư mới có thể
thực hiện và lượng vốn đầu tư đó được đem vào sử dụng cho mục tiêu phát
triển. Huy động vốn rất cần thiết cho hoạt động đầu tư, nếu huy động được ít
vốn sẽ làm cho hoạt động đầu tư khó thực hiện. Tuy nhiên, huy động được
nguồn vốn quá nhiều, vượt quá nhu cầu hiện tại thì vừa làm giảm đi tiêu dùng
trong nền kinh tế, gây tác động xấu cho tăng trưởng kinh tế, vừa gây khó khăn
trong việc sử dụng, hấp thụ, giải ngân nguồn vốn. Khi đó việc kiểm sốt vốn
đầu tư và hoạt động đầu tư sẽ khó khăn, hoạt động đầu tư tràn lan thiếu hiệu
quả dễ gây ra thất thoát, lãng phí.
- Sử dụng vốn đầu tư là kết quả, mục tiêu cho huy động vốn đầu tư.
Khi đã có sự tích tụ và tập trung vốn đến một mức nhất định thơng qua q
trình huy động vốn thì nhà đầu tư đã có thể tiến hành hoạt động đầu tư. Vốn
đầu tư được sử dụng hiệu quả thì khả năng huy động nó càng lớn.
Khi biết được nhu cầu về sử dụng vốn đầu tư giúp chúng ta xác định
được khối lượng vốn cần huy động. Khi nhu cầu sử dụng vốn lớn thì cần có
những chính sách khuyến khích để tăng cường huy động vốn đáp ứng đủ yêu
cầu. Việc sử dụng vốn đạt hiệu quả sẽ làm tăng thêm niềm tin của nhà đầu tư
về khả năng sinh lời của số vốn họ bỏ ra. Có nghĩa là khi vốn đầu tư được sử
dụng càng hiệu quả thì khả năng huy động của nó càng lớn. Do đó đối với các
nguồn vốn đầu tư phải xác định yếu tố hiệu quả là yêu cầu về mặt chất lượng
của việc huy động vốn trong lâu dài. Nếu việc sử dụng vốn thiếu hợp lý
khơng chỉ gây thất thốt, lãng phí, thiếu niềm tin ở nhà đầu tư mà cịn là
nguyên nhân lớn thúc đẩy lạm phát trong nước dễ đưa nền kinh tế vào tình


23
trạng khó khăn ảnh hưởng lớn tới việc huy động nguồn vốn cho hoạt động
đầu tư mới.
1.2. ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ, CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VỐN ĐẦU
TƯ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM


1.2.1. Đặc điểm vốn và huy động vốn đầu tư phát triển nông
nghiệp ở Việt Nam
Vốn đầu tư phát triển nông nghiệp ở nước ta có những đặc trưng bắt
nguồn từ đặc điểm của nền sản xuất nơng nghiệp trong nước, đó là:
- Tính chất sản xuất nhỏ, tự cung, tự cấp và đầu tư phân tán. Kinh tế
nông nghiệp Việt Nam chủ yếu là sản xuất nhỏ, tự cấp, tự túc, ruộng đất manh
mún và chưa chun mơn hóa. Cơ cấu sản xuất chưa định hình rõ nét, đang
từng bước biến đổi theo hướng thị trường. Các khoản vốn đầu tư nhỏ, thiếu
đồng bộ và thiếu tầm nhìn dài hạn, phần lớn các hộ đầu tư nhờ vào nguồn vốn
tự có của mình. Các chủ thể sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thơn phần
lớn là các hộ gia đình, sản xuất kinh doanh theo phương thức truyền thống, kỹ
thuật giản đơn, đa số chưa được đào tạo về chuyên môn quản lý, kỹ thuật.
Hầu hết các hộ, cơ sở sản xuất tự bỏ vốn đầu tư mua sắm vật tư sản xuất như
giống cây, con, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y, trả cơng lao
động (nếu có th lao động); cải tạo đồng ruộng, xây dựng chuồng trại chăn
nuôi… Đặc điểm này hạn chế quan hệ với các tổ chức tín dụng và liên doanh,
liên kết với các doanh nghiệp ở nông thôn.
Đối với đầu tư xây dựng, do kết cấu hạ tầng kinh tế, kỹ thuật ở nông
thôn chưa phát triển, địa bàn rộng nên thường đòi hỏi những khoản đầu tư
lớn. Trong điều kiện khả năng tự tích lũy thấp, những dự án phát triển kết cấu
hạ tầng thường phải trông chờ vào các nguồn từ ngân sách nhà nước; đóng
góp của dân chỉ đáp ứng được một phần các cơng trình nhỏ như xây dựng
thủy lợi nội đồng, đường, thơn, bản …
- Tính chất mùa vụ của sản xuất đã ảnh hưởng đến nhu cầu vốn đầu tư
và tiết kiệm. Nhu cầu đầu tư lao động theo mùa vụ và quy mô sản xuất của


24
từng hộ, trang trại, cơ sở chế biến... Các hộ cần tiền đầu tư vào đầu vụ mới và

thời kỳ chăm sóc cây trồng, và chỉ có các khoản thu vào cuối vụ.
Vào vụ thu hoạch, hoạt động tín dụng nông nghiệp chủ yếu phục vụ
cho việc các doanh nghiệp, tư thương thu mua, tiêu thụ nông sản. Khách hàng
vay vốn lúc này không phải là các hộ nông dân và doanh nghiệp trực tiếp
sản xuất nông nghiệp mà chủ yếu là các tổ chức, cá nhân hoạt động thượng
mại, thu mua nơng sản hàng hóa. Tín dụng nơng nghiệp một mặt cung cấp
vốn để các cơ sở này mở rộng khả năng thu gom và dự trữ nông sản hàng
hóa, mặt khác có thể thu hút vốn nhàn rỗi của nơng dân có được do tiêu thụ
hàng nơng sản.
- Tính rủi ro cao, hiệu quả đầu tư thấp và chưa ổn định. Hoạt động sản
xuất nông nghiệp diễn ra ở vùng nông thôn rộng lớn, điều kiện tự nhiên khó
khăn, lệ thuộc vào thời tiết, kết cấu hạ tầng chưa phát triển; sản phẩm mang
tính mùa vụ, dễ hư hỏng, dễ bị ảnh hưởng của dịch bệnh… Từ khi nền nơng
nghiệp Việt Nam chuyển sang sản xuất hàng hóa gắn với hội nhập kinh tế
quốc tế, thì càng phụ thuộc vào sự thay đổi thường xuyên của quan hệ cung cầu, giá cả nông sản trên thị trường quốc tế. Những yếu tố này làm cho các
hoạt động sản xuất kinh doanh ở nông thôn và sản xuất nông nghiệp kém hấp
dẫn đối với các nhà đầu tư. Mặt khác, sản xuất nơng nghiệp thường có tỷ suất
lợi nhuận thấp, mức thu nhập và tiết kiệm không cao nên nguồn vốn đầu tư
thường thấp hơn các khu vực khác của nền kinh tế.
- Tính gắn kết giữa hoạt động sản xuất nông nghiệp và các khâu bảo
quản, chế biến nông sản chưa cao. Sản xuất nông nghiệp là một chuỗi các
hoạt động liên kết với nhau từ khâu chuẩn bị các yếu tố đầu vào đến thu
hoạch, bảo quản, tiêu thụ. Vì vậy, có lúc nhu cầu vốn rất cao nhưng có lúc vốn
lại nhàn rỗi và phân tán ở nhiều chủ thể tham gia quá trình này. Do đó, cần có
sự điều chỉnh mức cung ứng vốn để giúp giải tỏa phần vốn dư thừa và cung
ứng kịp thời phần vốn còn thiếu.


25
- Do những khó khăn riêng, nơng nghiệp, nơng thơn là khu vực không

hấp dẫn đầu tư nhân trong và ngồi nước. Tính đến cuối năm 2010, cả nước
có hơn 213 tỷ USD vốn FDI đăng ký, nhưng vốn đăng ký đầu tư phát triển
nông nghiệp (bao gồm cả lâm nghiệp và thủy sản) chỉ có 4,379 tỷ USD. Trong
khi đó nguồn vốn đầu tư từ ngân sách, vốn doanh nghiệp nhà nước còn rất
hạn chế [28, tr.86].
Theo yêu cầu của sản xuất hàng hóa, nhu cầu về vốn của các hộ, các
nông, lâm, ngư trại rất lớn mà bản thân họ không thể tự giải quyết được. Thực
tế ở các vùng phát triển sản xuất hàng hoá cho thấy, vốn tín dụng cho các hộ
sản xuất nơng nghiệp thường chiếm từ 50-60% tổng dư nợ của hệ thống ngân
hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn. Các hộ đã có thể sử dụng vốn vay
cùng với vốn tự có đầu tư thâm canh, tăng năng suất, tăng giá trị cây trồng vật
nuôi. Nhiều hộ và trang trại đã mạnh dạn đầu tư vào ứng dụng tiến bộ khoa
học kỹ thuật, chuyển đổi cây trồng vật ni, nhờ đó sản lượng lương thực,
thực phẩm hàng hóa nước ta khơng ngừng tăng trong những năm vừa qua.
1.2.2. Vai trò của vốn đầu tư phát triển nơng nghiệp
Vốn đầu tư có vai trò quan trọng đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế,
nhất là đối với các nước đang phát triển như Việt Nam. Có thể thấy rõ thơng qua
mơ hình kinh tế Harrod - Domar, mơ hình tăng trưởng kinh tế rất nổi tiếng được
sử dụng khá phổ biến trên thế giới để phân tích sự phát triển kinh tế:
Mơ hình này được hai nhà kinh tế học Roy Harrod và Evsey Domar
nêu ra từ những năm 1940 của thế kỷ XX - đã chỉ ra mối quan hệ giữa hệ số
gia tăng tư bản - đầu ra (ICOR) và tỷ lệ đầu tư như sau:
g 

s
k

Trong đó:
g: Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế (GDP)



×