Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

Luận văn thạc sĩ luật học-áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án thừa kế theo pháp luật của tòa án nhân dân ở thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (506.39 KB, 107 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lao động có ích của mỗi người là nguồn gốc tạo ra của cải xã hội, song để
biến lao động thành một hoạt động tự giác, phát huy được tính năng động, sáng
tạo của người lao động thì xã hội phải quan tâm tới lợi ích của họ. Vì thế, chế
định quyền sở hữu nói chung và chế định quyền thừa kế nói riêng ra đời là một
trong những phương thức pháp lý cần thiết để bảo tồn và gia tăng tích lũy của
cải trong xã hội. Về mặt tâm lý, cá nhân khơng chỉ muốn mình có quyền năng
đối với khối tài sản của mình khi cịn sống, mà cịn muốn chi phối nó ngay cả
khi đã chết. Nhà nước đã cơng nhận quyền thừa kế của cá nhân đối với tài sản,
coi thừa kế là một trong những căn cứ xác lập quyền sở hữu. Điều này khơng chỉ
có tác dụng kích thích tính tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng mà còn tạo động
lực phát triển lòng say mê, kích thích sự quản lý năng động của mỗi con người,
tạo ra sự thi đua thầm lặng của mỗi cá nhân nhằm nhân khối tài sản của mình lên
bằng sức lực và khả năng sáng tạo mà họ có. Khi họ chết, các tài sản của họ để
lại sẽ trở thành di sản và được phân chia cho các thế hệ con cháu, và nếu như
con cháu chính là sự hóa thân của ơng bà, bố mẹ, là sự kéo dài nhân thân của
mỗi người thì sự chuyển dịch di sản theo chế định thừa kế chính là sự nối tiếp về
quyền sở hữu. Pháp luật công nhận quyền thừa kế của cá nhân đã đáp ứng một
phần mong mỏi của con người là tồn tại mãi mãi. Chính vì thế, pháp luật thừa kế
trên thế giới nói chung và pháp luật thừa kế ở Việt Nam nói riêng đã khơng
ngừng phát triển và hồn thiện.
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, sau Hiến pháp 1992, Bộ luật dân
sự chiếm vị trí đặc biệt quan trọng, tạo hành lang pháp lý cho các cá nhân khi
thực hiện quyền thừa kế, đã tạo chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của các
chủ thể khi tham gia quan hệ thừa kế, góp phần làm lành mạnh hóa các quan
hệ xã hội. Chế định quyền thừa kế trong BLDS 2005 đã kết tinh những thành


2


tựu của khoa học pháp lý nhân loại góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc,
kế thừa và phát huy những phong tục tập quán truyền thống tốt đẹp đã ăn sâu
vào tiềm thức và lưu truyền qua bao đời của dân tộc Việt Nam.
Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay đã tạo nên sự tăng trưởng kinh tế
nhanh, của cải vật chất dồi dào. Mức độ đơ thị hóa nhanh làm cho bộ mặt của đất
nước nói chung và của thành phố Đà Nẵng nói riêng thay đổi từng ngày. Bên
cạnh những yếu tố tích cực thì các tranh chấp về tài sản càng nhiều, trong đó có
các tranh chấp về thừa kế. Các vụ án về thừa kế có tính chất phức tạp hơn và tài
sản có giá trị lớn đòi hỏi Tòa án phải áp dụng pháp luật để giải quyết nhanh chóng,
đúng pháp luật. Trong những năm qua việc áp dụng pháp luật trong xét xử sơ
thẩm các vụ án thừa kế theo pháp luật đã giải quyết được những mâu thuẫn, bất
hịa trong gia đình, dịng tộc, góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Ở thành phố Đà Nẵng trong những năm qua, số vụ án về thừa kế gia
tăng đáng kể. Đối với loại án này mỗi vụ có nội dung đa dang và tính phức
tạp cũng khác nhau, nên việc áp dụng pháp luật để giải quyết các loại án này
gặp khơng ít khó khăn trong nhận thức vận dụng pháp luật cũng như những
khó khăn do khách quan mang lại. Tuy vậy, áp dụng pháp luật trong trong xét xử
sơ thẩm các vụ án thừa kế theo pháp luật ở Đà Nẵng trong thời gian qua đã đạt
được những kết quả đáng khích lệ, góp phần giải quyết các mâu thuẫn giữa các
thành viên trong gia đình, dịng tộc, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của
các đương sự, góp phần giữ gìn kỷ cương pháp luật, ổn định chính trị trật tự an
tồn xã hội. Thơng qua việc áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án
thừa kế theo pháp luật, ngoài việc đấu tranh với các hành vi trái pháp luật phát
sinh trong lĩnh vực thừa kế, cịn có ý nghĩa phổ biến tuyên truyền giáo dục ý
thức pháp luật cho nhân dân, giúp nhân dân tham gia thực hiện pháp luật, bảo vệ
pháp luật, tố giác những hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực thừa kế, đồng
thời qua thực tiễn áp dụng pháp luật trong trong xét xử sơ thẩm các vụ án thừa



3
kế theo pháp luật sẽ phát hiện ra những thiếu sót, bất cập của pháp luật về thừa
kế cũng như thủ tục tố tụng dân sự để đề xuất sửa đổi, bổ sung các điều khoản
cho phù hợp với thực tiễn trong từng giai đoạn cụ thể. Bên cạnh những mặt đã
đạt được, trong quá trình áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án thừa
kế của TAND nói chung và Tịa án các cấp ở thành phố Đà Nẵng nói riêng thì
vẫn cịn những hạn chế thiếu sót như: Có Tịa án cịn xem nhẹ thủ tục tố tụng,
xác định không đúng thời hiệu khởi kiện, bỏ sót các đương sự, án thừa kế cịn
tồn đọng, kéo dài, xác định di sản chưa chính xác, có vụ còn bị sửa, bị hủy gây
ảnh hưởng đến quyền lợi của các đương sự trong vụ án.
Góp phần hồn thiện các quy định của pháp luật qua thực tiễn xét xử tại
thành phố Đà Nẵng, tôi chọn đề tài: “Áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm
các vụ án thừa kế theo pháp luật của TAND ở thành phố Đà Nẵng” làm luận
văn thạc sĩ chuyên ngành Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật. Qua đề
tài này, tơi mong muốn góp phần nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong
xét xử sơ thẩm các vụ án thừa kế theo pháp luật của TAND nói chung và
TAND ở thành phố Đà Nẵng nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Áp dụng pháp luật trong việc xét xử sơ thẩm các vụ án nói chung và áp
dụng pháp luật trong việc xét xử sơ thẩm các vụ án thừa kế theo pháp luật nói
riêng đã được giới khoa học pháp lý và nhất là những người trực tiếp làm
cơng tác xét xử của ngành Tịa án quan tâm nghiên cứu. Đã có nhiều cơng
trình nghiên cứu, bài viết đề cập đến một số khía cạnh về những vấn đề liên
quan đến đề tài. Có thể kể đến một số cơng trình tiêu biểu sau:
- Nhóm các đề tài nghiên cứu dưới góc độ hồn thiện tổ chức bộ máy
và nguyên tắc xét xử của Tòa án.
+ Luận án tiến sỹ Luật học của Đỗ Thị Ngọc Tuyết, Những vấn đề lý
luận và thực tiễn về cải cách hệ thống tòa án Việt Nam theo định hướng xây
dựng Nhà nước pháp quyền, (năm 2005).



4
+ Luận án tiến sỹ Luật học của Lê Thị Hà, Phân cấp thẩm quyền giải
quyết tranh chấp dân sự trong hệ thống toà án ở Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay, (năm 2005).
- Nhóm các đề tài nghiên cứu dưới góc độ xét xử các vụ án dân sự
nói chung theo quy định của pháp luật
+ Luận án tiến sỹ Luật học của Nguyễn Cơng Bình, Bảo đảm quyền
bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân sự Việt Nam, (năm 2006).
+ Luận án tiến sỹ Luật học của Nguyễn Minh Hằng, Chế định chứng
minh trong tố tụng dân sự Việt Nam, (năm 2007).
+ Luận án tiến sỹ Luật học của Đào Xuân Tiến, Thủ tục xét lại bản án,
quyết định của tồ án đã có hiệu lực pháp luật trong tố tụng kinh tế, dân sự ở
Việt Nam, (năm 2009).
+ Những căn cứ xác định di sản thừa kế chia theo di chúc (sách chuyên
khảo) của tác giả Vũ Thị Lan Hương, Nxb. Hà Nội, (năm 2010).
+ Vị trí, vai trị Viện Kiểm sát trong tố tụng dân sự theo yêu cầu cải
cách tư pháp, của nhóm tác giả Khuất Văn Nga (chủ biên), Nguyễn Ngọc
Khánh, Nguyễn Minh Hằng, Nxb. Tư pháp, (năm 2008).
+ Pháp luật tố tụng dân sự và thực tiễn xét xử, của tác giả Tưởng Duy
Lượng, Nxb. Chính trị Quốc gia, (năm 2009).
- Nhóm các đề tài nghiên cứu giải quyết tranh chấp về thừa kế
+ Luận án tiến sỹ Luật học của Nguyễn Minh Tuấn, Cơ sở lý luận và thực
tiễn của những qui định chung về thừa kế trong Bộ luật Dân sự, (năm 2007)
+ Luận án tiến sỹ luật học của Trần Thị Huệ, Di sản thừa kế trong pháp
luật dân sự Việt Nam, (năm 2007).
+ Cuốn sách: Một số vấn đề về pháp luật Dân sự Việt Nam từ thế kỷ XV
đến thời Pháp thuộc của các tác giả Hoàng Thế Liên, Nguyễn Đức Giao,
Nguyễn Xuân Anh, Nxb. Chính trị Quốc gia, (năm 2008).
+ Cuốn sách: Luật thừa kế Việt Nam: Luật thừa kế hiện hành. Những

tình huống phân chia di sản cơ bản. Một số vấn đề bàn luận, của tác giả
Phùng Trung Tập, Nxb. Hà Nội, (năm 2010).


5
+ “Xác định thời điểm mở thừa kế khi giải quyết các trường hợp thừa
kế” của TS. Đoàn Đức Lương, Tạp chí TAND số 15 năm 2009.
+ “Những khó khăn vướng mắc trong việc thực hiện điều 679 BLDS về
quan hệ thừa kế giữa con riêng với bố dượng và mẹ kế” tạp chí TAND số 16
năm 2006 của Thái Cơng Khanh,.. và một số cơng trình nghiên khác.
Các cơng trình khoa học nói trên đã nghiên cứu, đề cập đến việc áp dụng
pháp luật nói chung và áp dụng pháp luật của Tịa án nói riêng trong một số
lĩnh vực cụ thể, trong đó có một số vấn đề liên quan đến xét xử sơ thẩm các vụ
án thừa kế. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có một cơng trình nào nghiên cứu
trực tiếp đến áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án thừa kế theo
pháp luật tại thành phố Đà Nẵng. Mặc dù vậy, các cơng trình khoa học đã được
cơng bố là tài liệu tham khảo có giá trị để nghiên cứu tồn diện và có hệ thống
việc áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm án thừa kế tại thành phố Đà Nẵng.
Trong luận văn này, tác giả mong muốn nghiên cứu một cách có hệ thống cả về
cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án
thừa kế theo pháp luật tại thành phố Đà Nẵng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nhiên cứu
Là việc áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án thừa kế theo
pháp luật của TAND ở thành phố Đà Nẵng.
* Phạm vi nghiên cứu
Với phạm vi là một luận văn thạc sỹ Luật học thuộc chuyên ngành Lý
luận và Lịch sử Nhà nước và Pháp luật, luận văn tập trung nghiên cứu những
vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án
thừa kế theo pháp luật của TAND ở thành phố Đà Nẵng.

Thời gian nghiên cứu từ năm 2005 đến năm 2010.


6
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu để làm rõ cơ sở lý luận áp dụng pháp
luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án thừa kế, đồng thời trên cơ sở phân tích,
đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành và thực trạng áp dụng pháp
luật trong việc xét xử sơ thẩm các vụ án thừa kế của TAND ở thành phố Đà
Nẵng thời gian qua. Từ đó, đề xuất các quan điểm và giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án thừa kế của
TAND ở thành phố Đà Nẵng hiện nay.
* Nhiệm vụ luận văn
Để thực hiện được các mục đích nêu trên luận văn có các nhiệm vụ cụ
thể sau:
+ Xây dựng khái niệm áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án
thừa kế theo pháp luật, phân tích các đặc điểm, nội dung cũng như nêu lên các giai
đoạn áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án thừa kế theo pháp luật.
+ Đánh giá kết quả đạt được, những ưu điểm, hạn chế của hoạt động áp
dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án thừa kế theo pháp luật của
TAND ở thành phố Đà Nẵng và chỉ ra những nguyên nhân khách quan và chủ
quan của hạn chế nêu trên.
+ Đề xuất phương hướng và các giải pháp cụ thể nhằm đảm bảo việc áp
dụng pháp trong xét xử sơ thẩm các vụ án thừa kế theo pháp luật của TAND ở
thành phố Đà Nẵng.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về



7
Nhà nước và Pháp luật, trong đó có vấn đề áp dụng pháp luật trong xét xử sơ
thẩm các vụ án thừa kế theo pháp luật.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu của triết học Mác – Lênin
về duy vật biện chứng, duy vật lịch sử; phương pháp lịch sử và lôgic; phương
pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn; phương pháp phân tích, tổng hợp,
thống kê, so sánh.
6. Đóng góp về khoa học của luận văn
- Luận văn làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của hoạt động áp
dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án thừa kế theo pháp luật, làm rõ
những đặc thù của loại án này ở thành phố Đà Nẵng.
- Trên cơ sở đánh giá thực trạng, chỉ ra những bất cập trong hoạt động
áp dụng pháp luật và đề ra các giải pháp có tính khả thi nhằm đảm bảo cho
hoạt động áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án thừa kế theo pháp
luật của TAND ở thành phố Đà Nẵng có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu công cuộc
cải cách tư pháp.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn là cơng trình nghiên cứu đầu tiên về hoạt động áp dụng
pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án thừa kế theo pháp luật của TAND ở
thành phố Đà Nẵng. Góp phần nghiên cứu những vấn đề lý luận về áp dụng
pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án thừa kế theo pháp luật, làm phong
phú thêm những vấn đề lý luận trong lĩnh vực này.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp cơ sở lý luận và
cơ sở thực tiễn cho những người trực tiếp làm công tác áp dụng pháp luật
trong xét xử sơ thẩm các vụ án thừa kế theo pháp luật.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên
cứu giảng dạy, học tập trong các trường Đại học chuyên luật và không chuyên

luật, hệ thống các trường chính trị của Đảng, cho những người trực tiếp làm


8
công tác xét xử sơ thẩm các vụ án thừa kế theo pháp luật tại TAND nói chung
và TAND thành phố Đà Nẵng nói riêng.
8. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo luận văn
gồm 3 chương, 8 tiết.


9
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG XÉT XỬ
SƠ THẨM CÁC VỤ ÁN THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG XÉT XỬ SƠ
THẨM CÁC VỤ ÁN THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm áp dụng pháp luật
1.1.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật
Theo Cuốn danh từ pháp luật lược giải “Áp dụng pháp luật là đưa
những điều khoản của một đạo luật, một quy lệ áp dụng vào một trường hợp
cụ thể” [27, tr.90].
Áp dụng pháp luật là một trong những hình thức quan trọng của việc
thực hiện pháp luật. Đó chính là hoạt động của các cơ quan Nhà nước, nhân
viên Nhà nước có thẩm quyền tổ chức thực hiện pháp luật. Tạo điều kiện
thuận lợi để các chủ thể quan hệ pháp luật thực hiện được quyền và nghĩa vụ
pháp lý của mình theo quy định của pháp luật. Thơng qua hoạt động áp dụng
pháp luật bảo đảm cho pháp luật được tôn trọng, thi hành nghiêm chỉnh và

thống nhất. Các quyền của chủ thể được thực hiện và được bảo vệ trên thực
tế, các hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm được xử lý nghiêm minh. Có
thể nói, áp dụng pháp luật là hoạt động thực tiễn diễn ra hàng ngày trong các
cơ quan Nhà nước và chỉ do nhân viên nhà nước, cơ quan nhà nước có thẩm
quyền thực hiện.


10
Tính chất tổ chức thực hiện quyền lực Nhà nước của việc áp dụng pháp
luật thể hiện ở chỗ hoạt động này chỉ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền,
nhân viên nhà nước có thẩm quyền tiến hành, khơng theo ý chí của các chủ
thể mà theo quy định của pháp luật. Quyết định áp dụng pháp luật có hiệu lực
pháp luật và được Nhà nước bảo đảm thi hành. Chính vì vậy, áp dụng pháp
luật cịn là một hình thức thực hiện quyền lực Nhà nước, trong các lĩnh vực
của đời sống xã hội.
Từ phân tích trên, có thể nhận thấy áp dụng pháp luật là một hình thức
thực hiện pháp luật, trong đó Nhà nước thơng qua các cơ quan có thẩm quyền
hoặc nhà chức trách tổ chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện những quy
định của pháp luật hoặc tự mình căn cứ vào các quy định của pháp luật.
1.1.1.2. Đặc điểm áp dụng pháp luật
Áp dụng pháp luật có những đặc điểm cơ bản sau đây:
Một là, hoạt động áp dụng pháp luật chỉ do những cơ quan nhà nước
hay nhà chức trách có thẩm quyền tiến hành. Pháp luật quy định mỗi cơ quan
nhà nước hay nhà chức trách khác nhau, có thẩm quyền áp dụng pháp luật
khác nhau. Ví dụ như khi có di sản thừa kế để lại, những người thừa kế có
quyền thỏa thuận phân chia di sản, nếu khơng thỏa thuận được thì khởi kiện
tại Tịa án (Tịa án xét xử theo thẩm quyền); Cảnh sát giao thông thì có quyền
lập biên bản và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thơng; Kiểm
sát viên có quyền thực hành quyền cơng tố hoặc tự mình tiến hành một số
hoạt động điều tra trực tiếp,... Như vậy, pháp luật là cơ sở xuất phát điểm để



11
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cán bộ cơng chức có thẩm quyền áp
dụng pháp luật thực hiện chức năng của mình. Việc áp dụng pháp luật được
xem là sự tiếp tục thực hiện ý chí của Nhà nước được thể hiện trong pháp luật.
Hai là, hoạt động áp dụng pháp luật phải được tiến hành theo các thủ
tục pháp lý chặt chẽ. Do tầm quan trọng và tính chất phức tạp của việc áp
dụng pháp luật, chủ thể bị áp dụng pháp luật có thể được hưởng những lợi ích
rất lớn hoặc chịu những hậu quả bất lợi nghiêm trọng nên pháp luật luôn xác
định rõ ràng cơ sở, điều kiện, trình tự, quyền và nghĩa vụ của chủ thể trong
quá trình áp dụng pháp luật. Bởi vậy, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền,
người có thẩm quyền trong quá trình áp dụng pháp luật phải tn thủ nghiêm
chỉnh các quy định có tính thủ tục đó. Thủ tục được tiến hành khơng đúng sẽ
dẫn đến việc áp dụng pháp luật khơng chính xác. Chẳng hạn, trong vụ án thừa
kế Tòa án chỉ căn cứ vào lời khai của các đương sự, giấy khai sinh nên bỏ sót
người thừa kế, di sản thừa kế, . . .
Ba là, áp dụng pháp luật là hoạt động điều chỉnh cá biệt, cụ thể đối với
những quan hệ xã hội nhất định. Đối tượng của hoạt động áp dụng pháp luật
là những quan hệ xã hội cần đến sự điều chỉnh cá biệt trên cơ sở những mệnh
lệnh chung trong quy phạm pháp luật. Bằng hoạt động áp dụng pháp luật,
những quy phạm pháp luật nhất định được cá biệt hóa vào những trường hợp
cụ thể của đời sống xã hội. Chẳng hạn, khi giải quyết vụ án thừa kế, các quy
định của pháp luật (hàng thừa kế, thừa kế thế vị) được áp dụng, xác định
chính xác người thừa kế theo pháp luật.


12
Bốn là, áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính sáng tạo. Tính sáng
tạo trong việc áp dụng pháp luật khơng có nghĩa là áp dụng pháp luật tùy tiện

mà là sự vận dụng cho phù hợp với những vụ án cụ thể, những tình tiết cụ thể.
Những tình huống dự liệu qui định trong các quy phạm pháp luật chỉ là những
dấu hiệu chung nhất, có tính khái qt cao. Trong khi đó những tình huống, sự
kiện pháp lý diễn ra trong thực tế lại hết sức phong phú, đa dạng nên hoạt
động áp dụng pháp luật có tính thực tiễn cao và địi hỏi sự vận dụng linh hoạt,
đúng pháp luật. Các trường hợp pháp luật chưa quy định hoặc quy định chưa
rõ thì có thể vận dụng sáng tạo bằng cách áp dụng tương tự pháp luật để giải
quyết nhưng việc vận dụng phải phù hợp với quy định chung của pháp luật.
Để làm được điều đó người áp dụng pháp luật khơng thể máy móc, rập khn
mà địi hỏi phải có ý thức pháp luật cao, chun mơn nghiệp vụ vững vàng, có
kiến thức tổng hợp, có kinh nghiệm cuộc sống phong phú.
Như vậy, áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính tổ chức, thể hiện
quyền lực Nhà nước, được thực hiện thông qua những cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền, nhà chức trách nhằm cá biệt hóa những qui phạm pháp luật vào
các trường hợp cụ thể đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể.
Hình thức thể hiện chính thức và chủ yếu của hoạt động áp dụng pháp
luật là văn bản áp dụng pháp luật. Văn bản áp dụng pháp luật được thể hiện
trong những hình thức xác định như bản án, quyết định,... Trong lĩnh vực xét
xử, văn bản áp dụng pháp luật là bản án, các quyết định của Tịa án. Hình


13
thức thể hiện chính thức của hoạt động áp dụng pháp luật là văn bản áp dụng
pháp luật.
Văn bản áp dụng pháp luật có một số đặc điểm sau:
Một là, văn bản áp dụng pháp luật do những cơ quan (nhà chức trách,
tổ chức) có thẩm quyền ban hành và được bảo đảm thực hiện bằng cưỡng chế
nhà nước. Trong giải quyết các tranh chấp thừa kế thì thẩm quyền giải quyết
được pháp luật quy định là Tòa án nhân dân, không thực hiện tự nguyện áp
dụng biện pháp cưỡng chế.

Hai là, văn bản áp dụng pháp luật có tính chất cá biệt, chỉ áp dụng một
lần đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể trong những trường hợp xác định.
Chẳng hạn, quyết định xử phạt vi phạm hành chính, bản án của Tịa án phải
xác định một đối tượng cụ thể, áp dụng một lần như anh A được thừa kế 500
m2 đất, B được thừa kế 600 triệu đồng.
Ba là, văn bản áp dụng pháp luật phải hợp pháp và phù hợp với thực
tế, phải phù hợp với luật và dựa trên những quy phạm pháp luật cụ thể, nếu
khơng phù hợp thì văn bản áp dụng pháp luật sẽ bị đình chỉ hoặc hủy bỏ.
Bốn là, văn bản áp dụng pháp luật được thể hiện trong những hình
thức pháp lý xác định như: bản án, quyết định,... Trong hoạt động xét xử của
Tòa án là các quyết định (ví dụ như quyết định cơng nhận sự thỏa thuận của
đương sự, quyết định cơng nhận hịa giải thành, quyết định đình chỉ giải quyết
vụ án) hoặc bản án (như bản án chia di sản thừa kế, bản án giải quyết yêu cầu
thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại,...).


14
Năm là, văn bản áp dụng pháp luật là một yếu tố của sự kiện pháp lý
phức tạp, mà thiếu nó nhiều quy phạm pháp luật khơng thể thực hiện được.
Nhiều quy phạm pháp luật chỉ là những quy định trên giấy nếu không được
vận dụng để giải quyết các mâu thuẫn, xung đột phát sinh trong đời sống xã
hội. Do đó, quy phạm pháp luật phải phù hợp với thực tế, thơng qua cơ quan
có thẩm quyền hoặc người có thẩm quyền thì các xung đột, mâu thuẫn được
giải quyết bằng các quyết định (quyết định xử phạt vi phạm hành chính, bản
án của Tịa án).
Như vậy, văn bản áp dụng pháp luật là văn bản pháp lý cá biệt, mang
tính quyền lực do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà chức trách hoặc
các tổ chức xã hội được trao quyền ban hành trên cơ sở những quy phạm pháp
luật, nhằm xác định những quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể của các cá nhân,
tổ chức hoặc xác định những biện pháp trách nhiệm pháp lý đối với chủ thể vi

phạm pháp luật.
1.1.1.3. Các trường hợp cần áp dụng pháp luật
Hoạt động áp dụng pháp luật được tiến hành trong các trường hợp sau:
Trường hợp thứ nhất, khi quyền và nghĩa vụ cụ thể của chủ thể không
mặc nhiên phát sinh nếu thiếu sự can thiệp của nhà nước. Ví dụ: Nam nữ yêu
nhau muốn trở thành vợ chồng hợp pháp thì phải được cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn; Kể từ khi được Ủy ban
nhân dân cấp xã cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hơn thì mới trở thành vợ
chồng hợp pháp, đồng thời lúc này mới phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ


15
và chồng. Thỏa thuận phân chia di sản thừa kế là bất động sản phải được đăng
ký theo quy định của pháp luật tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thì mới
phát sinh quyền và nghĩa vụ đối với tài sản.
Trường hợp thứ hai, khi xảy ra tranh chấp về quyền chủ thể và nghĩa vụ
pháp lý giữa các bên tham gia vào quan hệ pháp luật mà các bên đó khơng tự
giải quyết được. Ví dụ tranh chấp về di sản thừa kế, tranh chấp về hàng thừa
kế,.. .
Trường hợp thứ ba, khi cần áp dụng các biện pháp cưỡng chế của Nhà
nước do các chế tài pháp luật quy định đối với những chủ thể có hành vi vi
phạm pháp luật. Ví dụ: Những người có hành vi vi phạm trật tự an tồn giao
thơng đường bộ và đường thủy thì sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính,...
Trường hợp thứ tư, trong một số quan hệ pháp luật mà Nhà nước thấy
cần thiết phải tham gia để kiểm tra, giám sát hoạt động của các bên tham gia
quan hệ đó hoặc Nhà nước xác nhận tồn tại hay không tồn tại một số vụ việc,
sự kiện thực tế. Chẳng hạn, Tịa án tun bố khơng cơng nhận vợ chồng đối
với nam nữ sống chung với nhau khơng có đăng ký kết hơn hoặc đăng ký kết
hơn tại cơ quan khơng có thẩm quyền,.. .
1.1.2. Khái niệm áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm vụ án

thừa kế theo pháp luật Việt Nam
1.1.2.1. Khái niệm thừa kế và vụ án thừa kế
Theo Từ điển Tiếng Việt thì thừa kế “là sự chuyển dịch tài sản của
người chết cho những người còn sống” [62, tr.32], theo di chúc hoặc theo
pháp luật. Thừa kế là một quyền cơ bản của mỗi công dân.


16
Quyền thừa kế của cá nhân là quyền dân sự được pháp luật ghi nhận
bao gồm quyền hưởng thừa kế và quyền để lại thừa kế theo di chúc hoặc theo
pháp luật. Như vậy, quyền thừa kế của cá nhân là quyền để lại tài sản của
mình theo di chúc hoặc cho những người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản
theo di chúc hoặc theo pháp luật. Pháp luật quy định mọi cá nhân đều bình
đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác, trên cơ sở tôn trọng
quyền sở hữu tài sản của cá nhân đối với thu nhập hợp pháp, của cải để dành,
nhà ở, tư liệu sản xuất hoặc tư liệu tiêu dùng, ...Mọi cá nhân đều có quyền để
lại tài sản thuộc sở hữu của mình thơng qua việc lập di chúc hoặc để lại thừa
kế cho những người thừa kế theo pháp luật. Bên cạnh quyền để lại tài sản theo
pháp luật cũng quy định bình đẳng về quyền thừa kế theo di chúc hoặc theo
pháp luật. Quy định của pháp luật dân sự nhằm xóa bỏ những tàn tích lạc hậu
do xã hội phong kiến để lại (bất bình đẳng trong việc hưởng di sản thừa kế,
trong việc để lại di sản), đảm bảo quyền thừa kế được thực hiện trên thực tế,
cũng cố và phát triển tình đồn kết, thương yêu trong nội bộ gia đình.
Thừa kế gắn liền với quan hệ sở hữu, đây là hai phạm trù kinh tế có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Với tư cách là phạm trù kinh tế, thừa kế xuất
hiện ngay trong giai đoạn phát triển sơ khai của xã hội loài người. Dưới chế
độ cộng sản nguyên thủy, thừa kế chỉ đơn thuần là một quan hệ xã hội, nó
được xác lập để thực hiện việc dịch chuyển tài sản của người chết cho người
sống dựa trên cơ sở huyết thống hoặc các tập quán, thói quen của các thị tộc,
bộ lạc. Khi Nhà nước ra đời, quan hệ này được điều chỉnh bằng pháp luật,

pháp luật trở thành công cụ quan trọng để bảo vệ các quyền sở hữu tài sản của
những người đã chết cho những người cịn sống.
Ở các nước mặc dù có sự qui định khác nhau về pháp luật thừa kế, song
phần lớn đều thống nhất rằng thừa kế là việc dịch chuyển tài sản của người
chết cho người còn sống. Theo qui định của pháp luật dân sự Việt Nam, thừa
kế là sự truyền lại tài sản của người đã chết cho người khác theo di chúc hoặc


17
theo quy định của pháp luật và “Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và
quyền thừa kế của công dân” [35, tr.11].
Theo qui định của pháp luật dân sự Việt Nam, cá nhân có quyền lập di
chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế
theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật (Điều 631,
BLDS 2005). Thừa kế được chia làm hai dạng là thừa kế theo pháp luật và
thừa kế theo di chúc.
Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình
tự thừa kế do pháp luật quy định (Điều 674, BLDS năm 2005).
Thừa kế theo pháp pháp luật phát sinh trong các trường hợp sau đây:
Một là, khơng có di chúc, nghĩa là người có tài sản không định đoạt
bằng việc lập di chúc.
Hai là, di chúc khơng hợp pháp, trong trường hợp này người có tài sản có
lập di chúc nhưng di chúc vi phạm các điều kiện có hiệu lực do pháp luật quy
định như thiếu sự tự nguyện (bị cưỡng ép, đe dọa), nội dung trái pháp luật, đạo
đức xã hội, hoặc không đủ tư cách chủ thể,...
Ba là, những người thừa kế theo di chúc đều chết trước hoặc chết cùng
thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di
chúc khơng cịn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Bốn là, những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc
khơng có quyền hưởng di sản hoặc từ chối quyền hưởng di sản.

Trường hợp thuộc một trong các trường hợp trên những người thừa kế
không thỏa thuận được về cách giải quyết và yêu cầu Tịa án giải quyết thì
phát sinh vụ án thừa kế theo pháp luật tại Tòa án. Các dạng tranh chấp thừa kế
theo pháp luật cũng rất đa dạng và phong phú, có thể dưới dạng yêu cầu chia
di sản do người chết để lại; yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản
do người chết để lại; yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ
quyền thừa kế của người khác, ...


18
Các tranh chấp thừa kế được Tòa án thụ lý, giải quyết theo đơn khởi
kiện của những người có quyền thừa kế hoặc những người có quyền lợi và
nghĩa vụ liên quan. Do đó, chủ thể khởi kiện gồm những người có quyền thừa
kế theo pháp luật, người có liên quan đến di sản. Việc khởi kiện của các chủ
thể là căn cứ để Tòa án xem xét, thụ lý theo quy định của pháp luật và làm
phát sinh vụ án thừa kế theo pháp luật tại Tòa án.
Từ phân tích trên có thể đưa ra khái niệm vụ án thừa kế theo pháp luật:
Là các tranh chấp về di sản thừa kế, tranh chấp về thực hiện nghĩa vụ tài sản
do người chết để lại, tranh chấp về quyền thừa kế của những người thừa kế
theo pháp luật và những tranh chấp khác được Tòa án nhân dân thụ lý giải
quyết trên cơ sở đơn khởi kiện của các chủ thể.
1.1.2.2. Khái niệm áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án
thừa kế theo pháp luật
Về cơ quan có thẩm quyền áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các
vụ án thừa kế theo pháp luật. Ở mỗi quốc gia, hệ thống Tòa án được tổ chức
và hoạt động theo những nguyên tắc nhất định, nội dung của những nguyên
tắc này được quy định tuỳ thuộc vào đặc điểm, điều kiện lịch sử của từng
nước mà trước hết phụ thuộc vào bản chất của Nhà nước. Ở nước ta, Tòa án là
cơ quan thực hiện chức năng nhân danh Nhà nước xét xử các vụ án thừa kế.
Về thủ tục xét xử theo thủ tục tố tụng dân sự bao gồm xét xử sơ thẩm

và xét xử phúc thẩm các vụ án thừa kế theo pháp luật. Xét xử sơ thẩm vụ án
thừa kế theo pháp luật là một giai đoạn tố tụng của quá trình tố tụng theo
nguyên tắc hai cấp xét xử. Xét xử sơ thẩm vụ án thừa kế theo pháp luật là giai


19
đoạn độc lập của quá trình tố tụng dân sự mà kết quả cuối cùng là ban hành
các phán quyết đúng pháp luật và phù hợp với những tình tiết của vụ án. Do
nhận thức chưa đầy đủ về nguyên tắc xét xử hai cấp nên cịn có sự nhận thức
sai lầm giữa hai cấp xét xử thành hai lần xét xử nên cho rằng: Xét xử sơ thẩm
là xét xử lần thứ nhất (lần đầu) do Tòa án được giao thẩm quyền thực hiện
theo quy định của pháp luật. Trong cuốn Từ điển có giải nghĩa: Sơ thẩm là xét
xử lần đầu vụ án dân sự. Tòa án cấp huyện, Tịa án cấp tỉnh có thẩm quyền sơ
thẩm những vụ án sơ thẩm thuộc thẩm quyền của Tòa án. Có tác giả cho rằng:
Thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử, một vụ án được xét xử lần thứ nhất (xét
xử sơ thẩm) có thể được xem xét lại một lần nữa theo trình tự phúc thẩm.
Nhận thức trên khơng phù hợp với mục đích, ý nghĩa của xét xử sơ thẩm và
tạo ra tâm lý có xét xử lần đầu thì tất yếu phải có xét xử lần thứ hai. Pháp
luật không cho phép những người làm công tác xét xử suy nghĩ rằng vụ án
mà mình giải quyết sẽ được xét xử lại lần thứ hai. Nếu ý thức như vậy có
nguy cơ dẫn đến thiếu cẩn trọng trong khi xét xử sơ thẩm và trông chờ vào
Tòa án cấp trên. Trong một số trường hợp các Thẩm phán đã khơng tập trung
vì cho rằng: Bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chắc chắn bị kháng
cáo hay bị kháng nghị nên dẫn đến coi nhẹ xét xử sơ thẩm, vi phạm các quy
định của pháp luật trong hoạt động xét xử ở cấp sơ thẩm, ỷ lại vào cấp phúc
thẩm.


20
Xét xử sơ thẩm vụ án thừa kế theo pháp luật là một giai đoạn độc lập

trong quá trình tố tụng dân sự, do đó tiếp cận việc áp dụng pháp luật trong
giai đoạn tố tụng này dưới nhiều góc độ khác nhau:
- Với tính chất là một giai đoạn tố tụng, áp dụng pháp luật trong xét xử
sơ thẩm vụ án thừa kế theo pháp luật là việc Tòa án có thẩm quyền xem xét
giải quyết và ban hành các văn bản áp dụng pháp luật. Giai đoạn này được tính
từ khi Tịa án thụ lý vụ án và kết thúc bằng bản án hay quyết định sơ thẩm của
Tịa án. Hiện nay cịn có ý kiến cho rằng áp dụng pháp luật của Tòa án để giải
quyết các vụ án thừa kế ngay từ khi nhận được đơn khởi kiện (xem xét, quyết
định thụ lý). Theo chúng tôi, đây chỉ là thủ tục mang tính chất hành chính - Tư
pháp mà chưa phát sinh quan hệ tố tụng. Việc thụ lý vụ án thừa kế theo pháp
luật do Tịa án có thẩm quyền thực hiện khi có đầy đủ các điều kiện thụ lý, chứ
không phải hồ sơ vụ án do Viện kiểm sát chuyển sang và được Tòa án quyết
định thụ lý như đối với vụ án hình sự. Thời điểm kết thúc giai đoạn sơ thẩm
được xác định từ thời điểm Tòa án cấp sơ thẩm ban hành các phán quyết bao
gồm: Các quyết định (ví dụ như quyết định công nhận sự thỏa thuận của các
đương sự, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án) hoặc khi Tòa án ban hành bản
án sơ thẩm về giải quyết vụ án. Ý kiến thứ nhất cho rằng áp dụng pháp luật
trong giai đoạn sơ thẩm kết thúc khi Tịa án ban hành các bản án, quyết định
có hiệu lực pháp luật; trường hợp bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo
hoặc kháng nghị thì thời điểm Tịa án có thẩm quyền chấp nhận kháng cáo
hoặc kháng nghị. Ý kiến thứ hai cho rằng giai đoạn áp dụng pháp luật trong


21
giải quyết sơ thẩm vụ án kinh tế kết thúc ngay sau khi bản án, quyết định sơ
thẩm được ban hành (bắt đầu của giai đoạn phúc thẩm). Chúng tôi cho rằng, ý
kiến thứ hai là có căn cứ, bởi vì kết quả cuối cùng của giai đoạn sơ thẩm là ban
hành bản án hay quyết định nên sau đó dù các đương sự hay Viện kiểm sát có
đồng ý hay phản đối cũng khơng cịn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
cấp sơ thẩm. Tòa án cấp sơ thẩm không thể ban hành các quyết định áp dụng

pháp luật được nữa mà chỉ tiến hành các thủ tục chuyển lên cấp trên.
- Với tính chất là các hoạt động tố tụng, áp dụng pháp luật trong xét xử
sơ thẩm vụ án thừa kế theo pháp luật được cấu thành bởi các hoạt động tố tụng
như: Áp dụng pháp luật trong khởi kiện và thụ lý vụ án thừa kế theo pháp luật,
áp dụng pháp luật trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án thừa kế theo pháp luật
(trong đó gồm nhiều hoạt động tố tụng khác nhau như cung cấp chứng cứ của
đương sự dưới các hình thức khác nhau, hoạt động thu thập đánh giá chứng cứ
của Tòa án, hòa giải vụ án thừa kế theo pháp luật ,...) và các hoạt động áp dụng
pháp luật trong tố tụng tại phiên tịa sơ thẩm.
- Với tính chất là một chế định của pháp luật tố tụng dân sự, áp dụng
pháp luật trong xét xử sơ thẩm vụ án thừa kế theo pháp luật bao gồm áp dụng
pháp luật để xác định nhiều vấn đề như: áp dụng pháp luật để xác định thẩm
quyền giải quyết của Tòa án; áp dụng pháp luật để xác định các cơ quan tiến
hành tố tụng, đương sự, các chủ thể khác tham gia tố tụng và địa vị pháp lý
của các chủ thể trong giai đoạn sơ thẩm; áp dụng pháp luật về trình tự, thủ tục
thụ lý, chuẩn bị xét xử sơ thẩm và phiên tòa sơ thẩm.


22
Từ những phân tích trên có thể hiểu: Áp dụng pháp luật trong xét xử sơ
thẩm vụ án thừa kế theo pháp luật bao gồm những hành vi tố tụng của Tòa
án, của Viện kiểm sát và các chủ thể tham gia tố tụng khác nhằm xác định các
tình tiết có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án thừa kế theo pháp luật, xác
định quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ tranh chấp, áp dụng các
quy phạm pháp luật tương ứng để ban hành bản án hay các quyết định giải
quyết vụ thừa kế theo pháp luật có căn cứ, đúng pháp luật.
1.1.2.3. Đặc điểm của áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm vụ án
thừa kế theo pháp luật
Đặc điểm của áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án thừa kế
theo pháp luật cũng xuất phát trên cở sở các đặc điểm chung của áp dụng

pháp luật. Bên cạnh đó, xuất phát từ khái niệm áp dụng pháp luật trong xét xử
sơ thẩm vụ án thừa kế theo pháp luật cho phép đưa ra một số đặc điểm sau:
Một là, áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm vụ án thừa kế theo pháp
luật là hành vi của Tòa án, của Viện kiểm sát và các chủ thể tham gia tố tụng
xác định những tình tiết có ý nghĩa của vụ án, lựa chọn những quy phạm pháp
luật tương ứng để đưa ra những phán quyết có căn cứ.
Hai là, hoạt động áp dụng pháp luật chủ yếu do Tòa án tiến hành. Tòa
án nhân danh quyền lực nhà nước xem xét việc kiện đòi chia di sản thừa kế,
yêu cầu thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại, xác định hàng thừa
kế,... Sự tham gia của Viện kiểm sát chủ yếu là kiểm sát hoạt động tư pháp
hoặc tham gia phiên tòa sơ thẩm đối với những vụ án do Tòa án tiến hành thu
thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản cơng, lợi ích cơng cộng,


23
quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có một bên đương sự là người chưa thành niên,
người có nhược điểm về thể chất, tâm thần (đây là điểm khác biệt với xét xử
các vụ án hình sự). Áp dụng pháp luật không phải là hoạt động của cá nhân
công dân, cũng không phải là hoạt động xã hội hay của những tổ chức nghề
nghiệp như hòa giải tại cơ sở hay trọng tài giải quyết. Trong những trường
hợp cần thiết, bản án hay quyết định của Tòa nhân danh nhà nước được đảm
bảo thi hành bởi sự cưỡng chế hợp pháp của Nhà nước.
Ba là, việc xem xét, đánh giá và ra các phán quyết theo một trình tự,
thủ tục tố tụng dân sự nghiêm ngặt nên việc xét xử của Tòa án phải đảm bảo
về thẩm quyền, thời hiệu khởi kiện, các nguyên tắc tố tụng,...
Bốn là, xuất phát từ tính chất đặc trưng của vụ án thừa kế theo pháp
luật đó là việc tranh chấp giữa những người có quan hệ gần gũi, gắn bó với
nhau dựa trên cơ sở hôn nhân và huyết thống nên các đương sự trong vụ án
thừa kế bao gồm nhiều người (có những người vào thời điểm giải quyết đã
chết nên người thừa kế của họ tham gia tố tụng) nên triệu tập đương sự, hịa

giải gặp rất nhiều khó khăn vì vậy, vệc áp dụng pháp luật phải mềm dẻo, linh
hoạt vừa đảm bảo đúng pháp luật vừa đảm bảo lợi ích của các thành viên
trong gia đình.
Năm là, tranh chấp phổ biến trong các vụ án thừa kế là tranh chấp di
sản thừa kế, nhưng thông thường nhiều năm sau mới yêu cầu chia di sản do
những nguyên nhân khách quan hay chủ quan di sản khơng cịn như tình trạng
ban đầu dẫn đến việc xác định nhiều vấn đề phức tạp nảy sinh.


24
Quá trình áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm vụ án thừa kế theo
pháp luật bắt đầu từ thời điểm Tòa án thụ lý vụ án và kết thúc khi Tòa án ban
hành bản án dân sự sơ thẩm hay một trong các quyết định công nhận sự thỏa
thuận của đương sự, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án thừa kế,...
1.2. CÁC GIAI ĐOẠN VÀ NỘI DUNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG XÉT
XỬ SƠ THẨM CÁC VỤ ÁN THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT

Về phương diện lý luận, áp dụng pháp luật gồm có các giai đoạn (i)
Phân tích đánh giá đúng, chính xác các tình tiết hồn cảnh, điều kiện thực tế
của sự việc xảy ra; (ii) Lựa chọn quy phạm pháp luật phù hợp và phân tích
làm rõ nội dung, ý nghĩa của quy phạm pháp luật đối với trường hợp cần áp
dụng; (iii) Ban hành quyết định áp dụng pháp luật; (iv) Tổ chức thực hiện
quyết định áp dụng pháp luật đã có hiệu lực.
Khi xét xử sơ thẩm vụ án thừa kế, với ý nghĩa là một giai đoạn tố tụng
dân sự, các giai đoạn áp dụng pháp luật đó được thể hiện trong các giai đoạn
cụ thể như sau:
1.2.1. Áp dụng pháp luật trong khởi kiện và thụ lý vụ án thừa kế
theo pháp luật Việt Nam
Khởi kiện vụ án thừa kế theo pháp luật là việc những người nằm trong
hàng thừa kế, những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan u cầu Tịa án

có thẩm quyền xem xét phân chia di sản thừa kế theo pháp luật. Quyền khởi
kiện vụ án thừa kế theo pháp luật là quyền tố tụng đầu tiên của chủ thể tham
gia tố tụng dân sự với tư cách là nguyên đơn trong vụ kiện.


25
Quyền khởi kiện vụ án thừa kế theo pháp luật là quyền của công dân
được quy định trong Hiến pháp được cụ thể hóa trong BLDS 2005 về quyền
khởi kiện vụ án thừa kế của những người trong hàng thừa kế hoặc những
người có quyền lợi và nghĩa vụ có liên quan.
Theo qui định của Điều 161 Bộ luật tố tụng dân sự 2004, khi xét thấy
cần khởi kiện vụ án tranh chấp thừa kế theo pháp luật tại Toà án có thẩm
quyền để yêu cầu bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, thì cá nhân, cơ
quan, tổ chức làm đơn khởi kiện theo đúng quy định tại khoản 2 Điều 164, Bộ
luật tố tụng dân sự 2004. Để bảo đảm cho việc làm đơn khởi kiện đúng và
thống nhất, Toà án yêu cầu người khởi kiện làm đơn khởi kiện theo đúng mẫu
và ghi đầy đủ nội dung theo mẫu đơn khởi kiện (được ban hành theo qui định)
được niêm yết cơng khai tại trụ sở Tồ án.
Khởi kiện vụ án thừa kế do những người thuộc hàng thừa kế, người có
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan thực hiện trong trường hợp họ không thể thỏa
thuận được với nhau. Tuy nhiên, đối với một số trường hợp quyền yêu cầu
phân chia di sản thừa kế bị hạn chế. Trong trường hợp theo ý chí của người
lập di chúc hoặc theo thỏa thuận của tất cả những người thừa kế, di sản sẽ
được phân chia sau một thời hạn nhất định thì chỉ khi hết thời hạn đó di sản
mới đựơc chia. Trong trường hợp yêu cầu chia di sản thừa kế mà việc chia di
sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của bên vợ hoặc chồng cịn sống và
gia đình thì bên cịn sống có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần di sản mà
những người thừa kế được hưởng nhưng chưa chia di sản trong một thời hạn
nhất định, nhưng không quá 3 năm kể từ thời điểm mở thừa kế. Nếu hết thời



×