Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

Luận văn thạc sĩ xây dựng đảng-chất lượng sinh hoạt chi bộ ở các khu chế xuất, khu công nghiệp thành phố hồ chí minh giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (392.64 KB, 100 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời gian gần đây, vấn đề quản lý, giáo dục đảng viên, phịng
chống suy thối về mặt đạo đức, lối sống, phịng chống quan liêu, tham nhũng
đã trở thành vấn đề bức xúc. Trong các mặt hoạt động chi bộ thì sinh hoạt chi
bộ là vấn đề quan trọng, có ý nghĩa trong xây dựng Đảng vững mạnh về chính
trị, tư tưởng và tổ chức.
Chi bộ là tổ chức tế bào cơ bản của Đảng, là hạt nhân lãnh đạo chính
trị, là trường học giáo dục, rèn luyện đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn
mạnh: “Để lãnh đạo cách mạng thì Đảng phải mạnh, Đảng mạnh là do chi bộ
tốt” [49, tr.92]. Từ kinh nghiệm thực tiễn, Đảng ta yêu cầu phải nắm chắc
khâu trung tâm của công tác củng cố tổ chức cơ sở đảng là củng cố chi bộ.
Sinh hoạt chi bộ là một khâu quan trọng trong hoạt động của chi bộ. Chất
lượng sinh hoạt chi bộ đóng vai trò quyết định chất lượng của chi bộ. Với tư
cách là tế bào tổ chức cơ bản của Đảng, chất lượng sinh hoạt chi bộ thể hiện
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Chính vì vậy, cải tiến, nâng cao
chất lượng sinh hoạt chi bộ là mối quan tâm thường xuyên của Đảng, từ Trung
ương đến cơ sở.
Để đẩy mạnh việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đáp ứng nhu cầu của sự
nghiệp đổi mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đại hội đại biểu
tồn quốc lần thứ X của Đảng nêu rõ một trong những u cầu của cơng tác
kiện tồn và đổi mới hoạt động của tổ chức cơ sở đảng hiện nay là:
Mỗi tổ chức cơ sở đảng có trách nhiệm tổ chức và quy tụ sức
mạnh của toàn đơn vị hoàn thành nhiệm vụ chính trị được giao; làm
tốt cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng, quản lý và giám sát đảng
viên; đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực, suy thoái trong
Đảng. Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ đảng [22, tr.132].


2


Trong những năm qua, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban
Bí thư đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Nhiều tổ chức cơ sở đảng đã giữ vững và phát huy được vai trò hạt nhân
chính trị ở cơ sở, lãnh đạo cán bộ, đảng viên, quần chúng thực hiện chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và sự chỉ
đạo của cấp trên. Đồng thời thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ chính trị, cơng
tác chun mơn của địa phương, cơ quan, đơn vị.
Với sự phát triển của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và hội nhập kinh tế quốc tế, các loại hình doanh nghiệp phát triển nhanh, đa
dạng về quy mơ, lĩnh vực và hình thức sở hữu. Trong khi đó, việc xây dựng
và phát triển tổ chức đảng trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn
hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình hiện nay.
Việc thành lập và hoạt động của tổ chức cơ sở đảng tại doanh nghiệp đã
được các luật hiện hành quy định khá đầy đủ và rõ ràng. Trong thời gian
tới, chúng ta cần phải nâng cao hơn nữa trách nhiệm của các cấp, các ngành
và chỉ đạo thực hiện vận động, thuyết phục, khuyến khích các chủ doanh
nghiệp ngồi quốc doanh đồng tình ủng hộ, tạo điều kiện để thành lập tổ
chức cơ sở đảng và duy trì hoạt động. “Chú ý xây dựng tổ chức cơ sở đảng
trong các doanh nghiệp cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài, ở vùng sâu, vùng xa” [22, tr.132]. Các cấp ủy cần
tăng cường chỉ đạo xây dựng tổ chức đảng trong các doanh nghiệp ngồi
quốc doanh ở những nơi có đủ điều kiện. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI của Đảng xác định:
Tập trung củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu
của tổ chức cơ sở đảng, tạo sự chuyển biến rõ rệt về chất lượng hoạt
động của các loại hình cơ sở đảng, nhất là tổ chức đảng trong các
đơn vị sự nghiệp và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.



3
Kiện tồn tổ chức của hệ thống chính trị, bảo đảm sự lãnh đạo toàn
diện của Đảng ở cơ sở [25, tr.260].
Nghị quyết 22-NQ/TW Hội nghị lần 6 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa X ngày 2 tháng 2 năm 2008 khẳng định: “Nâng cao chất lượng,
đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức hoạt động của các loại hình tổ chức
cơ sở đảng theo hướng vừa mở rộng dân chủ, vừa tăng cường kỷ cương, kỷ
luật; khắc phục tính hình thức, đơn điệu trong sinh hoạt, bảo đảm tính lãnh
đạo, tính giáo dục, tính chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng”. Tổ chức cơ sở
đảng là nơi trực tiếp tiến hành các hoạt động xây dựng nội bộ, nơi trực tiếp
giáo dục, rèn luyện đảng viên, phân công công việc và quản lý đảng viên, và
cũng là nơi trực tiếp đưa đường lối, chính sách, nghị quyết của Đảng vào quần
chúng để thực hiện.
Chính vì thế, sinh hoạt của tổ chức cơ sở đảng có vai trị nhất định và
có tác dụng to lớn đối với cơng tác xây dựng nội bộ đảng, củng cố, tăng
cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, khẳng định và phát huy những mặt
mạnh, chỉ ra những khuyết điểm sai lầm của cán bộ, đảng viên và của tổ chức
cơ sở đảng. Sinh hoạt tổ chức cơ sở đảng cũng là diễn đàn dân chủ phát huy
tính sáng tạo của đảng viên để quyết định những chủ trương, giải pháp thực
hiện nhiệm vụ chính trị. Và qua đó, trình độ mọi mặt của từng đảng viên được
nâng lên, từng đảng viên trưởng thành hơn.
Do vậy, chất lượng sinh hoạt tổ chức cơ sở đảng là một trong những
yếu tố quyết định sức sống, sự tồn tại, phát triển của tổ chức cơ sở đảng.
Không tổ chức sinh hoạt hoặc tổ chức sinh hoạt với chất lượng thấp thì tổ
chức cơ sở đảng khơng thể hồn thành nhiệm vụ. Thực tiễn đã chứng
minh, tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh là những tổ chức cơ sở
đảng duy trì thành nền nếp sinh hoạt, có nội dung sinh hoạt phong phú,
thiết thực, hình thức sinh hoạt đa dạng, phù hợp với hồn cảnh, điều kiện
của đơn vị.



4
Hiện nay, chất lượng sinh hoạt của một số tổ chức cơ sở đảng khá thấp,
đặc biệt là các tổ chức cơ sở đảng trong các doanh nghiệp tư nhân, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi. Tình trạng sinh hoạt chi bộ thất thường khá
phổ biến, nội dung và hình thức sinh hoạt của nhiều chi bộ chậm cải tiến, hiệu
quả thấp làm cho sinh hoạt chi bộ trở nên xơ cứng về hình thức, thiếu thiết
thực về nội dung, tính chiến đấu, vai trị lãnh đạo của chi bộ bị giảm sút, kết
quả lãnh đạo chưa cao. Rõ ràng, ở những nơi đó, sinh hoạt tổ chức cơ sở đảng
chưa thực sự trở thành nơi phát huy trí tuệ của đảng viên tìm chủ trương, giải
pháp thực hiện nhiệm vụ chính trị, khơng đủ sức giải quyết những vấn đề bức
thiết nảy sinh tại doanh nghiệp.
Xuất phát từ tình hình và những u cầu của cơng tác xây dựng Đảng,
là một giảng viên trường Cán bộ thành phố Hồ Chí Minh, tơi chọn nghiên cứu
đề tài “Chất lượng sinh hoạt chi bộ ở các khu chế xuất, khu cơng nghiệp
thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp với
mong muốn làm rõ thực trạng và tìm ra một số giải pháp nâng cao chất lượng
sinh hoạt chi bộ ở các khu chế xuất, khu cơng nghiệp trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Chất lượng sinh hoạt chi bộ là vấn đề mà Đảng ta rất quan tâm, được đề
cập trong nhiều văn kiện của Đảng trong các thời kỳ. Nhiều nhà nghiên cứu
và hoạt động thực tiễn cũng đã nghiên cứu và có các cơng trình, bài viết về
chất lượng sinh hoạt chi bộ, cụ thể như:
2.1. Nhóm các luận văn, luận án
- Nguyễn Văn Quý (2005): “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của tổ chức đảng trong doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở các khu chế
xuất, khu công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay”,
luận văn thạc sĩ khoa học chính trị. Luận văn đề cập đến tính cấp thiết phải
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng trong các
doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi; đặc biệt là



5
phân tích vị trí, vai trị của chi bộ trong việc xây dựng lực lượng chính trị. Tuy
nhiên, tác giả chưa đề cập nhiều đến việc tổ chức sinh hoạt chi bộ ở khu chế
xuất, khu công nghiệp.
- Huỳnh Ngọc Thành (2005): “Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của các chi bộ ấp ở huyện Hóc Mơn, thành phố Hồ Chí Minh hiện nay: Thực
trạng và giải pháp”, luận văn thạc sĩ khoa học chính trị. Luận văn đã phân
tích thực trạng, những thuận lợi, khó khăn và những giải pháp để nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các chi bộ ấp, trong đó có đề cập khá
chi tiết một số giải pháp nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ.
- Đặng Thùy Dương (2005): “Nâng cao chất lượng tổ chức đảng trong
các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hóa tại thành phố Hồ Chí Minh giai
đoạn hiện nay”, luận văn thạc sĩ khoa học chính trị.
- Ngơ Tùng Chinh (2005): “Nâng cao chất lượng tổ chức đảng ở các
đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc Tổng cơng ty địa ốc Sài gịn trong giai đoạn
hiện nay”, luận văn thạc sĩ khoa học chính trị. Luận văn
- Hồ Ngọc Đăng (2005): “Chất lượng tổ chức cơ sở đảng trong các
doanh nghiệp nhà nước ở Đảng bộ Tổng cơng ty xây dựng Sài Gịn hiện nay:
Thực trạng và giải pháp”, luận văn thạc sĩ khoa học chính trị.
2.2. Nhóm các bài viết báo, tạp chí
- Cao Ngọc Hải, Học viện Hải quân: “Nâng cao chất lượng xây dựng
nghị quyết lãnh đạo của chi bộ”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 11, 2010.
- Hồng Văn Uyển: “Để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ” Tạp chí
Xây dựng Đảng, số 8, 2008.
- Minh Tuấn & Thanh Liêm: “Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ:
vấn đề là ở cấp ủy hay đảng viên?”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 9, 2009.
- Nguyễn Phương Đông: “Giải pháp nâng cao chất lượng sinh hoạt chi
bộ” Tạp chí Xây dựng Đảng, số 9, 2007.



6
- Nguyễn Minh Chung: “Xây dựng, củng cố tổ chức đảng trong doanh
nghiệp ngoài quốc doanh ở thành phố Hồ Chí Minh”, Tạp chí Xây dựng
Đảng, số 5, 2009.
- Trần Thơng, Học viện Chính trị qn sự Bắc Ninh: “Tự phê bình và phê
bình ở các tổ chức cơ sở đảng hiện nay”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 4, 2008.
- Trường Sơn: “Đổi mới sinh hoạt chi bộ doanh nghiệp ngồi quốc
doanh: chú trọng vai trị người đứng đầu?”, báo Sài Gịn Giải phóng, số ra
ngày 21 tháng 5 năm 2009.
Nhìn chung, các cơng trình, bài viết trên đã bàn về vấn đề chất lượng
sinh hoạt chi bộ ở nhiều góc độ khác nhau và đã làm sáng tỏ một số vấn đề lý
luận, thực tiễn của việc nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ nói chung và
sinh hoạt chi bộ trong doanh nghiệp ngồi quốc doanh nói riêng. Tuy nhiên,
về vấn đề “chất lượng sinh hoạt chi bộ ở các khu chế xuất, khu công nghiệp”
vẫn chưa có cơng trình nào đi sâu nghiên cứu một cách hệ thống, tồn diện.
Chính vì vậy, khi thực hiện đề tài này cần phải dày cơng nghiên cứu vì đây là
vấn đề mới.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Làm rõ cơ sở lý luận và thực trạng sinh hoạt chi bộ ở các khu chế xuất,
khu công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn hiện nay. Trên cơ sở đó,
đề xuất các giải pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ ở các
khu chế xuất, khu cơng nghiệp, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng.
3.2. Nhiệm vụ
- Xác định đặc điểm, quan niệm và tiêu chí đánh giá chất lượng sinh
hoạt của các chi bộ ở các khu chế xuất, khu công nghiệp.
- Đánh giá đúng thực trạng chất lượng sinh hoạt của các chi bộ ở các khu

chế xuất, khu công nghiệp, xác định nguyên nhân và rút ra những kinh nghiệm.


7
- Đề ra phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng sinh hoạt của
các chi bộ ở các khu chế xuất, khu công nghiệp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Chất lượng sinh hoạt của các chi bộ ở các khu chế xuất, khu cơng
nghiệp thành phố Hồ Chí Minh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung khảo sát, nghiên cứu tình hình, chất lượng sinh hoạt
chi bộ trong các khu chế xuất, khu công nghiệp từ năm 2006 đến năm nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về xây dựng
tổ chức cơ sở đảng, và các kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học, các vị
lãnh đạo.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp phân tích,
tổng hợp, thống kê, so sánh, điều tra xã hội học.
6. Đóng góp và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
6.1. Đóng góp
Làm rõ cơ sở lý luận và thực trạng sinh hoạt chi bộ ở các khu chế xuất,
khu cơng nghiệp thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn hiện nay. Đồng thời đề
xuất một số giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ ở các khu
chế xuất, khu công nghiệp.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các giảng
viên khoa Xây dựng Đảng trường Cán bộ thành phố Hồ Chí Minh và cho cấp


8
ủy, bí thư cơ sở đảng trong việc tổ chức sinh hoạt chi bộ trong các khu chế
xuất, khu công nghiệp.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.


9
Chương 1
CHẤT LƯỢNG SINH HOẠT CHI BỘ Ở KHU CHẾ XUẤT,

KHU

CÔNG NGHIỆP - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN
VÀ THỰC TIỄN
1.1. KHU CHẾ XUẤT, KHU CÔNG NGHIỆP Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH

1.1.1. Khái niệm khu chế xuất, khu cơng nghiệp
Các doanh nghiệp ngồi quốc doanh phần lớn tập trung ở các khu chế
xuất, khu công nghiệp. Theo Luật đầu tư 1996 và Quy chế Khu chế xuất, khu
công nghiệp ban hành kèm theo Nghị định số 36/CP ngày 24 tháng 4 năm
1997, khu công nghiệp là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện
dịch vụ cho sản xuất cơng nghiệp, do Chính phủ hoặc Thủ tướng chính phủ
quyết định thành lập. Khu cơng nghiệp phải có ranh giới địa lý xác định,

khơng có dân cư sinh sống. Hiện nay, các khu cơng nghiệp có vị trí đặc biệt
quan trọng trong sự phát triển của các nước khối ASEAN, vì nó vừa kích
thích xu hướng sản xuất hướng ra xuất khẩu, vừa động viên phát triển sản
xuất thay thế hàng nhập khẩu và chế biến nguyên liệu thô trong nước, tạo việc
làm mới.
Khu chế xuất là loại đặc khu kinh tế có diện tích tương đối nhỏ, có
hàng rào phân cách về địa lý trong một quốc gia, khơng có dân cư sinh sống
nhằm thu hút các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu và các dịch
vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu. Khu chế xuất được hưởng nhiều ưu đãi, nhất
là ưu đãi về thuế và thủ tục hải quan, song đòi hỏi phải xuất khẩu gần như
toàn bộ sản phẩm. Đối với nước ta, khu chế xuất là khu công nghiệp chuyên
sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định,
khơng có cư dân sinh sống, do Chính phủ hoặc Thủ tướng chính phủ quyết
định thành lập. Điều hành, quản lý hoạt động chung của khu công nghiệp, khu


10
chế xuất thường do một ban quản lý các khu chế xuất, khu công nghiệp chịu
trách nhiệm.
1.1.2. Đặc điểm các khu chế xuất, khu cơng nghiệp tại thành phố
Hồ Chí Minh
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, lực lượng
lao động ở doanh nghiệp ngoài quốc doanh đang tăng lên rất nhanh, chiếm số
lượng ngày càng lớn. Những năm gần đây, do nhận thức được sự cần thiết và
vai trò của tổ chức đảng trong doanh nghiệp nên khơng ít chủ doanh nghiệp
ngồi quốc doanh đã đồng ý thành lập tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp
của mình; về phần mình tổ chức đảng thường xuyên quan tâm củng cố, phát
triển ngày càng nhiều công nhân ưu tú vào Đảng, góp phần phát huy vai trò
tiên phong của đảng viên trong sản xuất, kinh doanh, đem lại lợi ích cho
doanh nghiệp, Nhà nước và người lao động.

Khu chế xuất, khu công nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh trong thời
gian qua đã tăng nhanh về số lượng doanh nghiệp với quy mơ ngày càng lớn,
góp phần vào tăng trưởng công nghiệp, đẩy mạnh sản xuất tăng nguồn hàng
xuất khẩu, từng bước phát triển theo quy hoạch, đẩy nhanh tốc độ đơ thị hóa.
Thành phố Hồ Chí Minh có 15 khu chế xuất, khu cơng nghiệp với
tổng diện tích quy hoạch 3.560 ha và 1 khu cơng nghệ cao. Trong đó, 12
khu chế xuất, khu cơng nghiệp hiện hữu đang hoạt động, 2 khu công công
nghiệp đang triển khai hạ tầng (khu công nghiệp Phong Phú và Tân Phú
Trung) và 1 khu công nghiệp đang làm quy hoạch (khu công nghiệp Phú
Hữu). Từ năm 2006 đến năm 2010 tổng vốn đầu tư đạt 2.352,12 triệu USD.
Tổng vốn đầu tư nước ngoài thu hút đạt 1.124,66 triệu USD, chiếm 18%
vốn đầu tư nước ngoài của Thành phố trong lĩnh vực cơng nghiệp; Vốn đầu
tư nước ngồi bình quân là 2,83 triệu USD/dự án; tổng vốn đầu tư trong
nước đạt thu hút đạt 1.227,46 triệu USD, vốn đầu tư trong nước bình quân
là 4,45 triệu USD/dự án.


11
Tính đến ngày 30 tháng 6 năm 2010, tại các khu chế xuất, khu cơng
nghiệp thành phố có 1.023 dự án đầu tư còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư
đăng ký là 5,48 tỷ USD. Trong đó, đầu tư nước ngoài 480 dự án (chiếm
41,35%) vốn đầu tư đăng ký là 2,95 tỷ USD; 723 dự án đầu tư trong nước
(chiếm 58,65%) với vốn đầu tư đăng ký là 2,53 tỷ USD. Tổng diện tích
đất cho thuê lũy kế đạt 1.190,48 ha/1.609 ha đất thương phẩm được phép
cho thuê của 13 khu chế xuất, khu công nghiệp đang hoạt động, đạt tỷ lệ
lấp đầy 74%.
Xuất khẩu tại các khu chế xuất, khu công nghiệp thành phố tăng
13%/năm, riêng năm 2009 kim ngạch xuất khẩu ước đạt 2.700 triệu USD,
giảm 13% so với năm 2008, do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế thế giới.
Tổng kim ngạch xuất khẩu trong 5 năm (2006 - 2009) ước đạt 10.820 triệu

USD, chiếm 13% kim ngạch xuất khẩu của thành phố. Tuy nhiên, nếu so với
giá trị hàng hóa nhập khẩu phục vụ sản xuất thì trong 5 năm qua tại các khu
chế xuất, khu công nghiệp thành phố liên tục xuất siêu đạt 1.855 triệu USD,
tạo ra nguồn ngoại tệ khá lớn cho thành phố, góp phần làm gia tăng GDP
thành phố.
Tình hình thu hút đầu tư tại Khu Nam Thành phố được duy trì khá tốt,
các chỉ tiêu về thu hút đầu tư nhìn chung đều đạt, vượt kế hoạch đề ra. Tổng
vốn đầu tư thu hút thực hiện trên địa bàn Khu Nam Thành phố 5 năm là
813,423 triệu USD. Đến cuối năm 2009 có 144 dựa án đầu tư nước ngoài
được cấp phép và giấy chứng nhận đầu tư, với tổng số vốn đăng ký đạt
2.781,41 triệu USD, riêng các dự án của công ty liên doanh Phú Mỹ Hưng có
tổng số vốn đăng ký đạt 1.402,69 triệu USD (chiếm 50,43% tổng số vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài đăng ký trên địa bàn Nam thành phố). Tổng số vốn
đầu tư nước ngoài trực tiếp thực hiện đạt 506 triệu USD, lũy kế đến ngày
07/6/2010 tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện ước đạt 977 triệu
USD. Về thu hút đầu tư trong nước: Tổng vốn đầu tư trong nước 5 năm đăng


12
ký ước đạt 9.331,13 tỷ VNĐ (tương đương 492,408 triệu USD), ước thực hiện
đạt 5.825,67 tỷ VNĐ (tương đương 307,423 triệu USD), lũy kế đến ngày
07/6/2010 tổng số vốn đầu tư trong nước đạt 19.850,13 tỷ VNĐ, ước thực
hiện đạt 9.665 tỷ VNĐ.
Khu chế xuất, khu công nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh thu hút ngày
càng nhiều cơng nhân. Số lượng công nhân, tăng nhanh đáng kể trong những
năm qua, đặc biệt là công nhân từ các tỉnh khác nhập cư vào Thành phố, đặt
ra cho Chính quyền thành phố hàng loạt vấn đề về quản lý xã hội.
Hiện nay có gần 250.000 người lao động tại các khu chế xuất, khu công
nghiệp và 13.000 lao động đang làm việt tại Khu cơng nghệ cao. Nhìn chung,
đời sống vật chất và tinh thần của công nhân được cải thiện, nâng lên đáng kể.

Ở một số doanh nghiệp, cùng với việc phát triển mở rộng sản xuất, doanh thu,
lợi nhuận tăng cao, chủ doanh nghiệp đã quan tâm đến việc tăng thu nhập, xây
dựng nhà ở và các cơng trình cơng cộng phục vụ nhu cầu sinh hoạt văn hóa
tinh thần của cơng nhân. Tuy nhiên, vẫn cịn một số giới chủ đề cao lợi ích cá
nhân, lợi ích kinh tế và lợi ích trước mắt, sùng bái đồng tiền, dùng mọi thủ
đoạn lách luật, vi phạm pháp luật Việt Nam, sẵn sàng chà đạp lên nhân phẩm,
danh dự của cơng nhân, thậm chí bất chấp sự có mặt của các tổ chức chính trị
- xã hội. Một bộ phân công nhân chỉ quan tâm đến tiền lương, thu nhập và
dùng mọi cách kể cả bất hợp pháp để có nhiều tiền. Những giá trị chính trị tinh thần như ý thức chính trị, giai cấp, tình cảm dân tộc, thậm chí danh dự
bản thân, nhiều khi khơng được người lao động quan tâm một cách thỏa đáng.
Họ không muốn tham gia các tổ chức chính trị - xã hội, hoặc có tham gia chỉ
là hình thức; họ chỉ quan tâm đến lợi ích trước mắt, khơng quan tâm đến lợi
ích lâu dài, lợi ích của giai cấp cơng nhân.
Sự phát triển của các khu chế xuất, khu công nghiệp tại thành phố Hồ
Chí Minh góp phần tạo điều kiện cho cơng nhân tham gia vào q trình phát
triển kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, từ đó phát sinh khả năng


13
phân hóa giàu nghèo, phân cực tiền lương, thu nhập giữa các bộ phận công
nhân ở các ngày càng gia tăng.
Kinh tế thị trường đòi hỏi nâng cao năng lực cạnh tranh, mà vấn đề
quyết định của nó là sự sáng tạo ra “cái mới” có chất lượng cao hơn, thời gian
đi tới người tiêu dùng nhanh hơn. Việc đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm
và sản xuất công nghệ trở thành ngành sản xuất chủ đạo, theo đó kinh tế tri
thức xuất hiện là tất yếu. Điển hình như Khu Cơng nghệ cao tính đến năm
2010 đã cấp phép đầu tư 45 dự án với tổng vốn đầu tư 1,94 tỷ USD. Đã thu
hút được 5 nhà đầu tư thuộc các tập đồn cơng nghệ cao hàng đầu thế giới
như: Intel, Jabil (Hoa Kỳ), Nidec (Nhật Bản), Sonion (Đan Mạch), Datalogic
(Italy). Lĩnh vực đầu tư tập trung vào các ngành: công nghệ thông tin - viễn

thông và vi điện tử, cơng nghệ sinh học, cơ khí chính xác - tự động hóa, đào
tạo, dịch vụ cơng nghệ cao… Tổng doanh thu từ hoạt động sản xuất đạt 1.072
tỷ USD, trong đó giá trị xuất khẩu đạt 537 tỷ USD, nộp ngân sách 120 tỷ
đồng/ năm. Do đó, khi tham gia vào kinh tế tri thức, cơng nhân có điều kiện
tiếp cận khoa học và công nghệ ngày càng sâu. Tuy nhiên, cũng từ đây phát
sinh khoảng cách thu nhập giữa các bộ phận công nhân ngày càng gia tăng.
Một bộ phận cơng nhân có thu nhập khá cao, có tích lũy, có cổ phiếu, song
một bộ phận khơng nhỏ cơng nhân có thu nhập rất thấp. Bình qn thu nhập
giữa người thu nhập cao nhất với người thu nhập thấp nhất hàng chục lần. Bộ
phận công nhân thu nhập cao thường là cơng nhân có trình độ chun môn tay
nghề cao, công nhân làm cán bộ quản lý ở các doanh nghiệp có doanh thu lớn.
Nhưng khơng ít cơng nhân sống ở mức nghèo, thậm chí khơng đủ trang trải
cho nhu cầu tối thiểu của bản thân và gia đình. Cơng việc của họ rất bấp bênh,
khơng có nhà ở, đơi khi lợi ích hợp pháp, chính đáng bị giới chủ xâm phạm.
Khu chế xuất, khu công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh cịn thiếu vắng
những khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung phát triển các ngành cơng
nghiệp tiên tiến, hiện đại và có hàm lượng khoa học và công nghệ cao.


14
Kết quả điều tra của Ban Quản lý các khu chế xuất, khu công nghiệp
(Heppza) phối hợp với Sở Khoa học cơng nghệ thành phố Hồ Chí Minh tiến
hành tại các khu chế xuất, khu công nghiệp trên địa bàn thành phố đã cho thấy
hầu hết các doanh nghiệp đều có trình độ lạc hậu. Cụ thể là trong số 429/830
doanh nghiệp thì chỉ có vỏn vẹn 3 doanh nghiệp trong tổng số doanh nghiệp
được khảo sát đạt trình độ tiên tiến.
Các khu chế xuất, khu cơng nghiệp đạt trình độ công nghệ tiên
tiến chỉ chiếm số lượng rất nhỏ: khoảng 2% ở các khu công nghiệp
Vĩnh Lộc và Tân Tạo, 1% ở khu cơng nghiệp Tân Bình. Do nhiều
doanh nghiệp có trình độ cơng nghệ lạc hậu nên tỷ lệ doanh nghiệp

đạt mức độ tự động hóa hồn tồn cũng chỉ chiếm 25%, bán tự
động chiếm 60%; có đến 10% các doanh nghiệp tại các khu chế
xuất, khu công nghiệp mua lại thiết bị với giá trị kỹ thuật chỉ còn
dưới 50% [8].
Đánh giá 15 năm phát triển các khu công nghiệp, nhiều nghiên cứu đã
chỉ ra:
Các địa phương chưa hình thành được những khu cơng
nghiệp mũi nhọn, làm động lực thúc đẩy phát triển các mặt hàng
chủ lực có tính cạnh tranh cao trên thị trường trong và ngồi
nước. Điều đó có nghĩa là khu cơng nghiệp chưa thực sự phát huy
vai trò đầu tàu trong thu hút đầu tư với chuyển giao công nghệ
tiên tiến, hiện đại [50].
Nhìn chung, từ năm 2006 đến nay, doanh nghiệp các khu chế xuất, khu
công nghiệp, khu công nghệ cao thành phố, đặc biệt là các doanh nghiệp có tổ
chức đảng, cũng như các dự án đầu tư trên địa bàn khu Nam thành phố hầu
hết đều hoạt động có hiệu quả, duy trì được tốc độ tăng trưởng cao, năng lực
của các doanh nghiệp được nâng lên. Với sự hỗ trợ kịp thời của Chính phủ, sự
cố gắng của doanh nghiệp, doanh nghiệp đã từng bước đứng vững và phục hồi


15
sau khủng hoảng kinh tế, tài chính thế giới, khơng để xảy ra các biến động
lớn, tham gia đóng góp về ngân sách nhà nước, góp phần thực hiện chỉ tiêu
của thành phố. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế khu chế xuất, khu công
nghiệp đang được tập trung thực hiện và có một số kết quả bước đầu đáng
khích lệ: Quan điểm thu hút đầu tư, phát triển kinh tế đi đôi với bảo vệ môi
trường, đảm bảo môi trường sống cho người lao động, dân cư gần khu chế
xuất, khu công nghiệp, khu công nghệ cao được quán triệt; các hoạt động văn
hóa - xã hội có nhiều tiến bộ, gắn phát triển kinh tế với thường xuyên chăm lo
giải quyết các vấn đề xã hội được cả hệ thống chính trị quan tâm. Chất lượng

cuộc sống của người lao động từng bước được cải thiện; chính trị xã hội ổn
định góp phần thu hút đầu tư trên địa bàn; Hiệu lực, hiệu quả quản lý xã hội
của bộ máy nhà nước tại các cơ quan Ban Quản lý các khu chế xuất - khu
công nghiệp thành phố, Ban Quản lý khu Công nghệ cao thành phố, Ban
Quản lý khu Nam thành phố, công ty mẹ - con tiếp tục được nâng lên, thực
hiện khá tốt nhiệm vụ.
1.1.3. Tổ chức cơ sở đảng ở khu chế xuất, khu cơng nghiệp ở thành
phố Hồ Chí Minh
Ngày 15 tháng 8 năm 1997, Đảng bộ cơ sở khu chế xuất và khu công
nghiệp trực thuộc Thành ủy được thành lập theo Quyết định số 379/QĐ-TU
trên cơ sở sắp xếp lại Đảng bộ Khối kinh tế Đối ngoại. Đến tháng 5 năm
2005, Đảng bộ các khu chế xuất, khu công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh
được thành lập với 14 tổ chức cơ sở đảng (trong đó có 4 đảng bộ cơ sở, 10 chi
bộ cơ sở), 385 đảng viên. Đến tháng 10 năm 2005, Đảng bộ đã tổ chức Đại
hội Đảng bộ lần thứ I (nhiệm kỳ 2005 - 2010) với tổng số 443 đảng viên. Qua
5 năm thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ, đến nay, tồn Đảng bộ có 27
chi bộ, đảng bộ cơ sở (trong đó có 7 đảng bộ cơ sở, 20 chi bộ cơ sở) với 738
đảng viên sinh hoạt, phát triển được 311 đảng viên mới, trong đó 184 đảng
viên thuộc các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.


16
Là đảng bộ cấp trên cơ sở trực thuộc Thành ủy, chịu sự lãnh đạo, chỉ
đạo trực tiếp và thường xuyên của Ban Thường vụ Thành ủy, nên Đảng bộ các
khu chế xuất, khu cơng nghiệp Thành phố có chức năng lãnh đạo, chỉ đạo,
kiểm tra, giám sát các cơ sở đảng trực thuộc đảm bảo hồn thành nhiệm vụ
chính trị, công tác tổ chức cán bộ của đơn vị và các nhiệm vụ khác theo qui
định của Điều lệ Đảng; phát huy vai trị hạt nhân chính trị, xây dựng tổ chức
Đảng trong sạch vững mạnh gắn với việc xây dựng đơn vị và các tổ chức
chính trị - xã hội ở địa bàn hoạt động vững mạnh; lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức

thực hiện tốt nghị quyết của Đại hội Đại biểu Đảng bộ các khu chế xuất, khu
cơng nghiệp.
Cán bộ, đảng viên trong đảng bộ có trình độ văn hóa và chun mơn
nghiệp vụ cao, được đảm nhiệm các công việc quan trọng trong các doanh
nghiệp như: phịng nhân sự, kế tốn, kế hoạch, phịng cải tiến chất lượng,
quản lý chất lượng sản phẩm, kỹ thuật, xuất nhập khẩu… bên cạnh đó số đảng
viên đang tham gia vào ban chấp hành các đoàn thể cũng khá nhiều và phần
lớn đều làm tốt vai trò lãnh đạo các hoạt động đồn thể trong doanh nghiệp,
được đơng đảo người lao động và chủ doanh nghiệp tín nhiệm.
Sự tồn tại và hoạt động của các tổ chức cơ sở đảng trong các khu chế
xuất, khu công nghiệp Thành phố đã tác động tích cực đến chủ doanh
nghiệp trong sản xuất kinh doanh theo định hướng xã hội chủ nghĩa, góp
phần hạn chế những hoạt động không lành mạnh của chủ doanh nghiệp như
trốn lậu thuế, không ký hợp đồng lao động, khơng tn thủ pháp luật….
Chương trình cải cách hành chính tiếp tục được đẩy mạnh, thực hiện cơng
khai các thủ tục hành chính, quy trình giải quyết cấp phép đầu tư tại các
Ban Quản lý với cơ chế “Một cửa tại chỗ”, triển khai tiếp nhận hồ sơ vào
sáng thứ bảy theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho doanh nghiệp giao dịch và giải quyết các thủ tục hành chính.
Bên cạnh đó, cơng tác phịng chống tham nhũng, lãng phí được duy trì


17
thường xuyên; tổ chức bộ máy, chất lượng đội ngũ cán bộ cơng chức theo
chuẩn hóa, chun mơn cao.
Tổ chức cơ sở đảng ở một số doanh nghiệp đã thể hiện được vai trò
trong giải quyết mâu thuẫn về lợi ích giữa chủ doanh nghiệp với người lao
động nhờ vậy, từ giữa năm 2008 đến nay, tình hình ngưng việc tập thể tại
các doanh nghiệp trong khu chế xuất, khu công nghiệp giảm đáng kể về quy
mô và số lượng. Ba chương trình trọng điểm cùng thực hiện đồng bộ:

chương trình kiểm tra, thanh tra doanh nghiệp vi phạm pháp luật lao động
được duy trì thường xuyên; chương trình chăm lo đời sống vật chất và tinh
thần cho công nhân và chương trình xây dựng lực lượng chính trị, nâng chất
hoạt động đồn thể ở cơ sở, vai trị của cơng đồn cơ sở trong việc phát hiện
mâu thuẫn giữa hai bên được kịp thời. Chính vì vậy, một số chủ doanh
nghiệp đã công khai thừa nhận sự tồn tại và vai trị tích cực của tổ chức cơ
sở đảng trong doanh nghiệp, họ cho rằng dựa vào bí thư chi bộ, dựa vào tổ
chức cơ sở đảng sẽ có thể giải quyết những vấn đề trong doanh nghiệp đạt
hiệu quả hơn.
1.2. CHẤT LƯỢNG SINH HOẠT CHI BỘ Ở CÁC KHU CHẾ XUẤT, KHU
CÔNG NGHIỆP

1.2.1. Sinh hoạt chi bộ
1.2.1.1. Khái niệm
- Chi bộ.
Điều 21, Chương V, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam [21] quy định:
“Tổ chức cơ sở đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của
Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở. Ở xã, phường, thị trấn có từ 3 đảng viên
chính thức trở lên lập tổ chức cơ sở đảng (trực thuộc cấp ủy cấp huyện)...
Ở cơ quan, doanh nghiệp, hợp tác xã, đơn vị sự nghiệp, đơn vị quân
đội, công an và các đơn vị khác có từ 3 đảng viên chính thức trở lên, lập tổ
chức đảng (tổ chức cơ sở đảng hoặc chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở); cấp ủy


18
cấp trên trực tiếp xem xét, quyết định việc tổ chức đảng đó trực thuộc cấp ủy
cấp trên nào cho phù hợp…”.
Như vậy, trong hệ thống tổ chức đảng hiện nay có hai loại hình chi bộ:
+ Chi bộ cơ sở là tổ chức cơ sở đảng chưa đủ số lượng đảng viên để lập
đảng bộ cơ sở.

+ Chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở.
Theo thói quen, có nơi gọi loại hình thứ hai là chi bộ nhỏ, chi bộ
thường, chi bộ dưới cơ sở, chi bộ dưới đảng ủy bộ phận… Nhưng cách gọi
đúng và thống nhất đối với loại hình chi bộ này là chi bộ trực thuộc đảng ủy
cơ sở hoặc chi bộ trực thuộc đảng ủy bộ phận.
- Sinh hoạt.
Theo Từ điển tiếng Việt, “sinh hoạt” có nhiều nghĩa.
Là danh từ, sinh hoạt có nghĩa: Những hoạt động thuộc về đời sống
hàng ngày của một người hay một cộng đồng. Ví dụ: sinh hoạt gia đình, tư
liệu sinh hoạt. Hoặc những hoạt động tập thể của một tổ chức. Ví dụ: sinh
hoạt câu lạc bộ [68, tr.920].
Là động từ, sinh hoạt có nghĩa: Sống cuộc sống riêng hàng ngày. Ví dụ:
sinh hoạt giản dị. Hoặc họp để tiến hành những hoạt động tập thể. Ví dụ: lớp
đang sinh hoạt văn nghệ [68, tr.920].
Từ những định nghĩa trên, có thể thấy sinh hoạt chi bộ là một hoạt động
tập thể của chi bộ. Trong quá trình tồn tại và phát triển, chi bộ có nhiều hình
thức hoạt động như: đại hội chi bộ, họp chi bộ thường kỳ hàng tháng hoặc đột
xuất, học nghị quyết, nghe thời sự, hội thi, đi tham quan, học tập kinh
nghiệm... Theo nghĩa rộng, có thể coi sinh hoạt chi bộ bao gồm tất cả các hoạt
động đó. Tuy nhiên, theo cách hiểu thông thường trong thực tế, sinh hoạt chi
bộ chủ yếu bao gồm các cuộc họp thường kỳ hàng tháng hoặc đột xuất của chi
bộ để thông tin, thảo luận, quyết định những hoạt động lãnh đạo và xây dựng
nội bộ.


19
Về bản chất, sinh hoạt chi bộ phải là một hội nghị lãnh đạo và xây
dựng nội bộ của toàn thể đảng viên trong chi bộ có tính chất thường xuyên,
định kỳ.
Mục đích của sinh hoạt chi bộ là để tổ chức thực hiện nhiệm vụ của

chi bộ, tạo sự đồn kết thống nhất từ ý chí đến hành động, thể hiện vai trị
hạt nhân lãnh đạo chính trị.
Nội dung và cũng là nhiệm vụ chủ yếu của sinh hoạt chi bộ là quán
triệt đường lối, chủ trương của Đảng; thảo luận và đề ra nhiệm vụ, chủ
trương, biện pháp lãnh đạo của chi bộ; bàn bạc và quyết nghị những vấn đề
xây dựng nội bộ đảng.
Trách nhiệm tổ chức sinh hoạt chi bộ là: chi ủy, cấp ủy cấp trên, đội
ngũ đảng viên, trong đó trước hết và trực tiếp là bí thư chi bộ, chi ủy.
Như vậy, sinh hoạt chi bộ là hoạt động rất quan trọng của chi bộ, đồng
thời là nguyên tắc tổ chức và biện pháp có liên quan mật thiết đến nhiệm vụ
xây dựng, củng cố chi bộ, nâng cao vai trò và tác dụng to lớn đối với năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của chi bộ, đảng bộ, đảm bảo cho chi bộ và mỗi
đảng viên thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình.
- Chất lượng.
Chất lượng là khái niệm được sử dụng rộng rãi trong đời sống, nhưng
tùy theo góc độ xem xét mà người ta có định nghĩa khác nhau. Theo triết học
duy vật biện chứng, chất là tính quy định bản chất của sự vật. Tính quy định
đó giúp phân biệt sự việc này với sự việc khác. Chất lượng được xem xét
trong mối quan hệ biện chứng với số lượng, sự tác động biện chứng này tạo
cho sự vật tồn tại, vận động, phát triển không ngừng.
Theo Đại từ điển Tiếng Việt, “chất lượng” được hiểu là: “1- Cái làm
nên phẩm chất, giá trị của một con người, sự vật. 2- Cái tạo nên bản chất sự
vật, làm cho sự vật này khác với sự vật kia...” [68, tr.331].


20
Dù mỗi lĩnh vực có liên quan khác nhau, phương pháp đánh giá khác
nhau về chất lượng, nhưng đều có điểm chung, đó là: chất lượng của đối
tượng đánh giá là tổng hợp các yếu tố liên quan đến bản chất đối tượng đó,
làm nên tác dụng, giá trị của đối tượng. Nói đến chất lượng là phải nói tới hai

yếu tố: thứ nhất, đó là tổng hợp những phẩm chất, tính chất (thuộc tính) tạo
nên cái giá trị của một con người, một sự vật, hiện tượng; thứ hai, những
phẩm chất đó đáp ứng đến đâu những yêu cầu đã đặt ra. Nói đến chất lượng là
nói đến tốt hay xấu, đạt hay không đạt một chuẩn mực nào đó.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, “chất lượng” biểu thị những thuộc
tính của sự vật, chỉ rõ nó là cái gì, tính ổn định tương đối của sự vật phân biệt
nó với các sự vật khác. Chất lượng là đặc tính khách quan của sự vật. Chất
lượng biểu hiện ra bên ngồi qua các thuộc tính [65, tr.419] Nó là cái liên kết
các thuộc tính của sự vật lại là một, gắn bó với sự vật như một tổng thể, bao
qt tồn bộ sự vật và khơng tách khỏi sự vật. Sự vật trong khi vẫn còn là bản
thân nó thì khơng thể mất đi chất lượng của nó. Sự thay đổi chất lượng kéo theo
sự thay đổi của sự vật về căn bản. Chất lượng của sự vật bao giờ cũng gắn liền
với tính quy định về số lượng của nó và khơng thể tồn tại ngồi tính quy định ấy.
Mỗi sự vật bao giờ cũng là sự thống nhất của chất lượng và số lượng.
Như vậy khái niệm “chất lượng” hàm chứa trong nó tính chỉnh thể,
tổng hợp các thuộc tính cấu thành nên phẩm chất, giá trị của một con người,
một sự vật. Trong chừng mực nào đó, khái niệm “chất lượng” đồng nghĩa với
cái đẹp, cái thật và cái văn hóa.
Khái niệm về chất lượng có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận. Muốn
nhận thức một cách khoa học về sự vật, hiện tượng, trước hết phải xác định
tính quy định về bản chất của sự vật, hiện tượng, nghĩa là nêu rõ những đặc
điểm vốn có của sự vật, hiện tượng; những đặc điểm phân biệt sự vật, hiện
tượng này với sự vật, hiện tượng khác. Chừng nào mà chưa xác định được
chất lượng của sự vật thì khơng thể phản ánh quy luật phát triển của sự vật.


21
Chất lượng của sự vật và hiện tượng không phải là vĩnh viễn. Chủ nghĩa duy
vật biện chứng cho rằng, vấn đề quá độ từ trạng thái chất lượng này sang
trạng thái chất lượng khác, liên hệ mật thiết với vấn đề thay đổi về số lượng

của sự vật. Hai mặt chất và lượng của sự vật thống nhất với nhau.
Chất lượng luôn gắn liền với sự vật, hiện tượng nhằm nêu rõ thực chất
của sự vật, hiện tượng đó. Chẳng hạn như chất lượng của tổ chức đảng A, tổ
chức đảng B; chất lượng công tác đảng viên; chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng
viên; chất lượng sinh hoạt chi bộ...
Vận dụng những quan niệm trên, có thể quan niệm như sau: Chất
lượng sinh hoạt chi bộ trong khu chế xuất, khu công nghiệp là sự tổng hợp
của các yếu tố làm cho sinh hoạt chi bộ phát huy tác dụng và đạt được mục
tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra. Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ thực chất
là nâng cao chất lượng lãnh đạo của chi bộ đảng.
1.2.1.2. Quan niệm về chi bộ và sinh hoạt chi bộ
Ngay từ những ngày đầu của phong trào cộng sản và công nhân quốc
tế, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Biến mỗi chi bộ của mình thành
trung tâm và hạt nhân của các hiệp hội công nhân” [47, tr.348]
Sau khi Đảng Cộng sản Nga trở thành đảng cầm quyền, V.I.Lênin viết:
Những chi bộ ấy liên hệ chặt chẽ với nhau và với Trung ương
Đảng phải trao đổi kinh nghiệm lẫn cho nhau, phải làm cơng tác cổ
động, phải thích nghi với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, với tất
cả mọi loại và mọi tầng lớp quần chúng lao động, những chi bộ ấy
phải thông qua công tác mn hình, mn vẻ đó mà rèn luyện bản
thân mình, rèn luyện đảng, giai cấp, quần chúng một cách có hệ
thống [45, tr.279]
Lãnh tụ Hồ Chí Minh, người trực tiếp tổ chức và lãnh đạo Đảng ta đã
nhấn mạnh, các chi bộ, đảng bộ cơ sở dù được thành lập ở loại hình đơn vị cơ
sở nào trong xã hội đều có vai trị là “nền móng” của Đảng, Người khẳng


22
định: “Muốn làm nhà cho tốt thì phải xây nền cho vững, muốn thực hiện kế
hoạch tốt phải chăm lo củng cố chi bộ” [48, tr.266]. Trong Di chúc, đoạn nói

về Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh có viết: “Thực hành dân chủ rộng rãi, thường
xuyên tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự
đoàn kết và thống nhất của Đảng…”. Phê bình và tự phê bình là một trong
những nội dung thường xuyên của sinh hoạt chi bộ. Do vậy, có thể nói việc
nâng cao chất lượng sinh hoạt của chi bộ có tầm quan trọng đặc biệt trong
cơng tác xây dựng Đảng.
Để khắc phục những thiếu sót, khuyết điểm trong sinh hoạt chi bộ,
ngày 30 tháng 3 năm 2007, Ban Bí thư ra Chỉ thị số 10-CT/TW về “Nâng cao
chất lượng sinh hoạt chi bộ”. Chỉ thị nêu rõ: “Thông qua sinh hoạt chi bộ, làm
cho mọi đảng viên nâng cao ý thức trách nhiệm, tích cực học tập, tu dưỡng
rèn luyện và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, thực hiện tốt bốn nhiệm vụ đảng viên
và nhiệm vụ cụ thể do cấp trên và chi bộ giao; cấp ủy nắm chắc tình hình
đảng viên, có biện pháp cụ thể để xây dựng chi bộ trong sạch, vững mạnh,
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, của chi
bộ và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên”.
1.2.1.3. Vai trị, tính chất sinh hoạt chi bộ
Phần lớn hoạt động của đảng bộ cơ sở được diễn ra ở chi bộ, vì vậy chi
bộ có vai trị rất quan trọng đối với hoạt động của đảng bộ ở cơ sở. Chi bộ có
trong sạch vững mạnh thì đảng bộ cơ sở mới vững mạnh và hồn thành xuất
sắc nhiệm vụ. Vì thế, củng cố, nâng cao chất lượng các chi bộ là vấn đề
thường xuyên, trọng yếu của các đảng bộ cơ sở, trong đó nâng cao chất lượng
sinh hoạt chi bộ là việc làm không thể thiếu.
Thực tế chứng minh, những chi bộ trong sạch, vững mạnh là những chi
bộ duy trì thành nền nếp sinh hoạt chi bộ, có nội dung sinh hoạt phong phú,
thiết thực, tác động thực hiện nhiệm vụ chính trị bằng vai trị tiên phong,


23
gương mẫu của đảng viên, hình thức sinh hoạt của chi bộ đa dạng, có chất
lượng tốt.

Sinh hoạt chi bộ là để quán triệt và triển khai thực đường lối, chủ
trương của Đảng đến đảng viên. Đường lối, chủ trương, chính sách cuối cùng
phải được đưa xuống chi bộ và thông qua sinh hoạt chi bộ để bàn bạc biến
thành chủ trương, biện pháp công tác cụ thể phù hợp với từng đơn vị, thành
phong trào hành động cách mạng hàng ngày của từng đảng viên và của quần
chúng. Kinh nghiệm lãnh đạo cách mạng của Đảng ta khẳng định: toàn bộ sức
chiến đấu của Đảng cuối cùng phải biểu hiện ở sức mạnh chi bộ trong việc
biến đường lối, chính sách của Đảng thành hành động của quần chúng, nhằm
thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ cách mạng. Thông qua chi bộ, bằng hình
thức sinh hoạt chi bộ, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước, chủ trương của tổ chức đảng cấp trên được truyền đạt một cách
tốt nhất đến đảng viên để thực hiện.
Sinh hoạt chi bộ là để thảo luận, đề ra phương hướng, nhiệm vụ, biện
pháp công tác của chi bộ. Mọi công tác của chi bộ đều được bắt đầu thảo
luận, lên kế hoạch, tổ chức thực hiện tại sinh hoạt chi bộ. Sinh hoạt chi bộ
cũng là dịp để thường xuyên kiểm tra, đánh giá kết quả, những ưu điểm,
khuyết điểm trong hoạt động của chi bộ.
Sinh hoạt chi bộ là để thơng tin tình hình chính trị, kinh tế, xã hội, nội
bộ, nâng cao nhận thức cho đảng viên. Qua sinh hoạt chi bộ với chế độ thông
tin nội bộ, đảng viên được thơng tin chính thức những vấn đề về tình hình thế
giới, trong nước, thành phố cho đến tình hình đơn vị, thơng qua đó nâng cao
nhận thức và thống nhất tư tưởng cho đội ngũ đảng viên.
Sinh hoạt chi bộ là để phản ánh tâm tư, nguyện vọng của quần chúng.
Sinh hoạt chi bộ mỗi tháng một lần để đảng viên phản ánh kịp thời tình hình
quần chúng, các ý kiến đóng góp, tâm tư, tình cảm, nguyện vọng chính đáng


24
của quần chúng để phản ánh lên tổ chức đảng cấp trên và làm cơ sở nhằm đề
ra các nhiệm vụ tiếp theo của chi bộ.

Sinh hoạt chi bộ là để thực hành dân chủ trong Đảng, là diễn đàn tư
tưởng của đảng viên, đồng thời cũng là nơi giáo dục, rèn luyện đảng viên về
bản lĩnh chính trị, tính chiến đấu, vai trò tiên phong, kỹ năng thuyết phục,
lãnh đạo, ý thức tổ chức, kỷ luật. Mỗi đảng viên trong chi bộ có một hồn
cảnh, điều kiện sống khác nhau, trình độ nhận thức cũng rất khác nhau... Do
đó thơng qua sinh hoạt chi bộ, đảng viên trình bày tâm tư, tình cảm, hồn
cảnh của mình để những đảng viên khác biết cùng chia sẻ, hoặc tìm biện pháp
giúp đỡ khắc phục khó khăn, động viên đảng viên phấn đấu vươn lên hoàn
thành nhiệm vụ. Ngoài ra, sinh hoạt chi bộ nhằm kịp thời biểu dương người
tốt việc tốt, giúp nhau nhận ra và sửa chữa thiếu sót, khuyết điểm; và bằng
việc thực hành yêu cầu đảng viên chấp hành đúng giờ giấc hội họp, thời gian
hồn thành cơng việc được giao, ý thức phục tùng kỷ luật của từng đảng viên
được tăng cường.
Sinh hoạt chi bộ là để phân công công tác cho đảng viên đồng thời
cũng là nơi kiểm tra công tác của đảng viên. Trong sinh hoạt chi bộ, tùy khả
năng và trình độ của đảng viên mà chi bộ phân công công tác cụ thể cho từng
đảng viên, qua đó phát huy vai trị và quản lý đảng viên chặt chẽ. Sinh hoạt
chi bộ góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên.
Sinh hoạt chi bộ là để tiến hành các hoạt động khác xây dựng chi bộ
như: thực hành các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng, củng cố khối đoàn
kết thống nhất từ ý chí đến hành động trong chi bộ, kết nạp đảng viên, đánh
giá phân loại đảng viên...
Tóm lại, sinh hoạt chi bộ là một khâu quan trọng trong hoạt động của
chi bộ và phải đảm bảo ba tính chất: tính lãnh đạo; tính giáo dục và tính
chiến đấu. Có thể khẳng định: chất lượng sinh hoạt chi bộ đóng vai trò quyết
định năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của chi bộ.


25
1.2.2. Tiêu chí đánh giá chất lượng sinh hoạt chi bộ ở các khu chế

xuất, khu cơng nghiệp
Tiêu chí là tính chất, dấu hiệu để dựa vào mà phân biệt một vật, một
khái niệm [67, tr.1047] Tiêu chí đánh giá chất lượng sinh hoạt chi bộ là dấu
hiệu, tính chất mà dựa vào đó có thể nhận biết, đánh giá được chất lượng sinh
hoạt chi bộ là tốt hay chưa tốt, đạt hay chưa đạt mục tiêu, yêu cầu.
Từ quan niệm về chất lượng sinh hoạt chi bộ cho thấy, để đánh giá chất
lượng sinh hoạt chi bộ ở các khu chế xuất, khu công nghiệp cần căn cứ vào
các tiêu chí chủ yếu sau:
1.2.2.1. Việc duy trì nền nếp sinh hoạt chi bộ
Đây là việc làm cần thiết để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ.
Muốn bảo đảm chất lượng sinh hoạt chi bộ, trước hết phải tổ chức thành nền
nếp. Điều lệ Đảng quy định: “chi bộ thường lệ mỗi tháng một lần, họp bất kỳ
khi cần thiết”. Duy trì nền nếp sinh hoạt chi bộ trước hết tạo cho đảng viên có
ý thức chấp hành Điều lệ Đảng, tôn trọng tổ chức. Nếu chi bộ thực hiện
khơng tốt nền nếp sinh hoạt chi bộ, vai trị lãnh đạo của chi bộ bị giảm sút,
công tác quản lý cán bộ, đảng viên thiếu chặt chẽ, công tác xây dựng đảng của
chi bộ không đạt được kết quả như mong muốn... Vì vậy, việc duy trì sinh
hoạt chi bộ thường xuyên là rất quan trọng, có tác dụng nhiều mặt, đặc biệt là
việc nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, góp phần nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của chi bộ.
1.2.2.2. Nội dung và hình thức sinh hoạt chi bộ
Nội dung phù hợp và thiết thực là dấu hiệu quan trọng để đánh giá chất
lượng sinh hoạt chi bộ. Để bảo đảm cho sinh hoạt chi bộ có chất lượng, chi ủy
hoặc bí thư chi bộ phải chọn đúng những vấn đề trọng tâm chi bộ cần thảo
luận, quyết định. Để có nội dung đúng đắn, thiết thực trong sinh hoạt chi bộ,
cần căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của chi bộ để xác định nội dung, phạm vi
trách nhiệm lãnh đạo của chi bộ; bám sát nhiệm vụ chính trị của chi bộ; kế



×