Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

PHÂN TÍCH NHÂN VẬT BÉ THU (CHIẾC LƯỢC NGÀ NGUYỄN QUANG DŨNG)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (92.05 KB, 4 trang )

“Chiếc lược ngà” là truyện ngắn xuất sắc của một cây bút gắn bó
nhiều với người dân miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ – nhà văn
Nguyễn Quang Sáng. Truyện đã đi vào khai thác sâu tình cha con thiêng
liêng, sâu nặng của anh Sáu và bé Thu trong nghịch cảnh chiến tranh đầy
rẫy những đau thương, mất mát. Đọng lại trong tâm hồn mỗi người đoc khi
cảm nhận câu chuyện này chính là những ấn tượng khó qn về nhân vật
bé Thu – cô bé tám tuổi đầy cá tính với tình u thương cha sâu sắc, mãnh
liệt.
Ra đời vào năm 1966, trong những năm tháng đói khổ, đau thương
nhất của đồng bào Nam bộ sau 30 năm chiến tranh, “Chiếc lược ngà” được
kể lại qua sự chứng kiến của bác Ba – người đồng đội của anh Sáu. Người
đã lặng lẽ theo dõi từ đầu đến cuối câu chuyện cảm động của cha con anh
Sáu, bé Thu. Bé Thu trong câu chuyện, như bao cô bé miền Nam khác, đều
thiếu thốn tình cha từ nhỏ do cuộc chiến tranh ác liệt. Khi anh Sáu ra đi,
em chưa đầy một tuổi, suốt tám năm trời, cha con em chỉ biết nhau qua
những tấm ảnh anh Sáu để lại trước khi ra đi. Lần về phép ba ngày của anh
Sáu là cơ hội hiếm hoi để hai cha con gặp gỡ nhau, bày tỏ tình phụ tử
thiêng liêng mà cao cả. Nhưng, nhà văn Nguyễn Quang Sáng lại đặt bé Thu
vào một tình huống đầy éo le: Vì một sự hiểu lầm trẻ con, Thu không chịu
nhận anh Sáu là ba, đến lúc nhận ra thì cũng là giây phút cha em lên
đường đi tập kết. Và lần gặp mặt ấy, là lần gặp mặt đầu tiên, duy nhất và
cũng là cuối cùng của hai cha con em. Thế nhưng, từ tình huống truyện
đầy éo le ấy, người đọc vẫn nhận ra những đặc điểm, cá tính riêng của
nhân vật bé Thu: Thu là một cô bé hết sức bướng bỉnh nhưng dễ thương và
đặc biệt có tình u cha sâu sắc, mãnh liệt đến vơ cùng. Tình u ấy được
thể hiện trong hai hoàn cảnh trái ngược nhau, trước và sau khi sự hiểu lầm
trong em được bà ngoại giải đáp.
Lúc chưa chịu nhận anh Sáu là cha, Thu là một cô bé hết sức trẻ con,
bướng bỉnh và đáo để đến nỗi làm anh Sáu đau lòng vì thái độ khước từ
mọi tình yêu thương của cha dành cho em. Khi em bỗng nghe thấy có ai đó
gọi những tiếng vọng lại to dần từ đầu ngõ, “con bé giật mình, trịn mắt


nhìn. Nó ngơ ngác, lạ lùng”. Lần đầu thấy một người đàn ông xa lạ
xưng ba, em đã vô cùng ngạc nhiên và sợ hãi, “mặt nó bỗng tái đi, rồi
vụt chạy, kêu thét: Má! Má!” để lại anh Sáu một mình “nhìn theo con,
nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai
cánh tay buông xuống như bị gãy”. Trong ba ngày anh Sáu ở nhà, anh
không dám đi đâu vì muốn ln được ở bên con, vỗ về, chăm sóc và bù
đắp lại sự thiếu thốn tình cảm trong suốt tám qua nhưng bé Thu lại tỏ ra
cứng đầu, không chịu nhận cha và cũng không chịu gọi anh một tiếng
“ba” dù chỉ một lần. Nhà văn đã xây dựng một loạt các chi tiết miêu tả
tâm lí, thái độ rất trẻ con, cố chấp của bé Thu. Khi má bắt kêu ba vào ăn
cơn, dọa đánh để cô bé gọi “ba” một tiếng, Thu chỉ nói trống khơng với


ba: “Vơ ăn cơm! Cơm chín rồi”, “kêu rồi mà người ta không nghe”.
Hai tiếng “người ta” mà Thu thốt lên làm anh Sáu đau lịng đến mức
“khơng khóc được, chỉ khe khẽ lắc đầu cười”. Thậm chí, ngay cả khi
bị má đặt vào một hồn cảnh khó khăn để buộc bé nhận ba là chắt nước
nồi cơm to đang sôi, Thu cũng lại nối trống không với ba: “cơm sôi rồi,
chắt nước giùm cái”. Sự im lặng của anh Sáu và cả sự gợi ý của bác ba
đều như không thể làm cô bé gọi tiếng “ba” đơn sơ mà giản dị – tiếng gọi
mà mỗi đứa trẻ đều ghi nhớ và bập bẹ ngay từ những năm đầu tiên trong
cuộc đời mình. Và đỉnh điểm của sự kiên quyết chối từ ấy chính là chi tiết
gắp cái trứng cá trong một bữa cơm gia đình. Bằng lịng u thương của
người cha, anh Sáu gắp cái trứng cá ngon nhất vào chén cơm của Thu
nhưng cô bé lại bất thần hất nó ra khỏi chén cơm. Hành động thiếu kiên
nhẫn ấy của Thu đã làm cho anh Sáu vô cùng tức giận và bực bội. Nỗi đau
khổ suốt ba ngày trong anh như trào lên, anh đánh con và hét ầm lên:
“Sao mày cứng đầu quá vậy hả?”. Có lẽ, ở lứa tuổi ấy, nếu bị đánh như
vậy thì đánh lẽ ra Thu sẽ lăn ra khóc và giẫy đổ cả mâm cơm nhưng trái
lại, Thu đã khơng khóc, cúi gầm mặt lầm lì bỏ lại cái trứng cá vào chén

cơm và bỏ sang nhà bà ngoại, lúc đi cịn cố ý khua dây lịi tói cho thật to.
Những chi tiết rất bình thường mà tinh tế này đã chứng tỏ, nhà văn
rất thấu hiểu tâm lí trẻ con. Trẻ con vốn rất thơ ngây nhưng cũng đầy cố
chấp, ương ngạnh, nhất là khi có sự hiểu lầm, chúng sẽ kiên quyết chối từ
mọi tình cảm của người khác mà không cần cân nhắc, nhất là với một cô
bé cá tính, bướng bỉnh như Thu. Nhiều người khi đọc đến đây sẽ cảm thấy
giận em và thương cho anh Sáu. Nhưng thực ra, em vẫn là một cô bé hết
sức dễ thương và đáng yêu. Bởi nguyên nhân sâu xa của sự chối từ ấy vẫn
là tình yêu ba, tình u đến tơn thờ, đến trung thành tuyệt đối với người ba
trong tấm ảnh chụp chung với má. Anh Sáu không giống với người trong
ảnh bởi trên mặt anh khơng có vệt thẹo dài và lớn. Chiến tranh q tàn
khốc, em lại q nhỏ, khơng hiểu được tình cảnh éo le, khắc nghiệt của
chiến tranh nên em mới có những suy nghĩ như vậy. Hơn nữa, em đã phải
sống xa cha rất lâu, suốt tám năm. Tám năm trời sống trong vịng tay u
thương của má, Thu ln khao khát vịng tay u thương của ba. Thu
khơng thể đón nhận tình cảm ấy của anh Sáu đơn giản là chỉ vì, em khơng
tin đấy là cha của mình. Bên cạnh ấy, phải kể đến, người lớn, bà và mẹ Thu
cũng khơng kịp chuẩn bị tâm lí cho em. Những phản ứng ấy của Thu như
đã khẳng định: Thu là một cơ bé có cá tính vơ cùng mạnh mẽ, ln có sự
u ghét rạch rịi. Và có lẽ, chính những bản lĩnh hiếm thấy ấy của một cô
bé tám tuổi lại tạo điều kiện thuận lợi để cô bé trở thành một cô giao liên
đầy thông minh và dũng cảm sau này.
Thế nhưng, tình yêu ba trong Thu như đã trỗi dậy đến mãnh liệt vào
cái giâ phút bất ngờ nhất, không ai nghĩ đến: Giây phút anh Sáu phải lên
đường. Bằng sự quan sát tinh tế của mình, bác Ba là người đầu tiên nhận


ra sự thay đổi của Thu trong “vẻ mặt sầm lại buồn rầu”, “đơi mắt như
to hơn, nhìn với vẻ nghĩ ngợi sâu xa”. Điều đó cho thấy, trong tâm hồn
của một đứa trẻ nhạy cảm như Thu đã có ý thức về cái cảm giác chia li,

giây phút này khiến em thèm biểu lo tình yêu với ba hơn bao giờ hết,
nhưng sự ân hận về những gì mình đã làm với ba khiến em ngại ngùng,
không dám bày tỏ. Để rồi tình yêu ba trào dâng mãnh liệt trong em vào
đúng khoảnh khắc ba nhìn em lần cuối với cái nhìn đầy trìu mến và một
giọng nói ấm áp: “thôi, ba đi nghe con!”. Đúng vào lúc ấy, không ai ngờ
tới, kể cả anh Sáu, Thu bỗng thốt lên một tiếng kêu thét: “Ba…a…a…a!”.
“Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và ruột gan mọi
người nghe thật xót xa”. Con bé nói, khóc trong niềm xúc động, ân hận
đến dâng trào. Có thể nói, nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã khắc họa hình
ảnh, tâm lí nhân vật vơ cùng ấn tượng, hợp với tâm lí của trẻ thơ. Vậy vì
sao mà bé Thu lại thay đổi nhanh đến vậy? Đó là bởi trong đêm về ngoại,
được nghe giải thích về vết thẹo trên mặt ba, bé đã hiểu được vì sao ba lại
phải mang trên mặt vết thẹo xấu xí đó, mọi nghi ngờ trong bé như đã được
giải tỏa. Và cũng chính vết thẹo xấu xí ấy đã càng khơi gợi nhiều hơn trong
em lòng căm thù giặc sâu sắc, niềm tự hào và kiêu hãnh về người cha thân
yêu đã phải chiến đấu nơi chiến trường xa suốt bao năm nay. Khi đã hiểu rõ
qua lời kể của bà, trong Thu như nảy sinh sự nuối tiếc sâu xa: “Nghe bà
kể, nó nằm im và thỉnh thoảng thở dài như người lớn”. Tuy thời gian
có ngắn ngủi, nhưng bao nỗi nhớ thương, ân hận và nuối tiếc như dồn nén
đồng thời cùng một lúc như sóng trong tâm trí con bé. Thế nên, em mới có
đủ can đảm để bật lên tiếng kêu xúc động, xót xa, như xé lịng người:
“Ba…a…a…a!”.
Đó là một tiếng “ba” đơn sơ mà giản dị, tiếng “ba” bật lên từ bao kìm
nén, chờ đợi và khắc khoải, như nhịp đạp mạnh mẽ từ trái tim của người
con gái thân yêu. Đi liền với tiếng gọi thân thương ấy là những cử chỉ vồ
vập, cuống quýt trong nỗi ân hận của Thu: chạy xơ tới, nhảy thót lên,
dang hai tay ôm lấy cổ ba, hôn ba cùng khắp, hôn tóc, hơn cổ, hơn
vai, hơn cả vết thẹo dài trên má, khóc trong tiếng nấc, kiên quyết
khơng cho ba đi,… Cảnh tượng ấy như càng tơ đậm thêm tình u mãnh
liệt, nỗi khát khao tình phụ tử mà Thu dành cho người ba thân yêu của

mình. Cả hai cha con anh đã đợi chờ trong tám năm chỉ để có vài phút
ngắn ngủi này. Vậy nguyên nhân nào đã ngăn cách tình phụ tử cao đẹp ấy
của hai cha con anh Sáu trong suốt tám năm nay? Có lẽ, đó chính là chiến
tranh. Chiến tranh đã như đã để lại dấu ấn, vết tích trên da thịt con người.
Vết thẹo của bom đạn như trở thành vết thẹo theo thời gian, trở thành vết
thương lịng khơng thể xóa nhịa. Chi tiết vết thẹo đã thực sự trở thành một
chi tiết độc đáo trong truyện của Nguyễn Quang Sáng, nó như đã nhắc
nhở, phê phán, tố cáo tội ác của chiến tranh phi nghĩa, và hậu quả mà nó
gây ra.


Có lẽ, chưa từng có cuộc chia ly nào cảm động đến thế! Anh Sáu ra đi
chẳng biết bao giờ sẽ trở lại bơi ra tập kết ở miền Bắc hay ở lại chiến
trường ác liệt thì cái chết cũng ln ln rình rập anh. Trong niềm xúc
động, lưu luyến, xao xuyến đến dâng trào trước khi đi, anh đã hứa sẽ mua
cho Thu một chiếc lược – món quá nhỏ mà bất cứ em bé gái nào cung ao
ước có được.
Chứng kiến cảnh chia tay giữa hai cha con, xung quanh khơng ai cầm được
nước mắt, bác Ba cịn “bỗng thấy khó thở như có bàn tay ai nắm chặt
trái tim mình”, khơng muốn cái khoảnh khắc đẹp của tình phụ tử, tình
cha con bị cắt đi. Và cũng bắt đầu từ chi tiết này, chiếc lược ngà bước vào câu chuyện,
trở thành một chứng nhân âm thầm cho tình cha con thiêng liêng, bất tử.
Có thể nói, “Chiếc lược ngà” mang một cốt truyện hay và đầy ý nghĩa cùng nghệ thuật
kể chuyện tinh tế và tài tình. Nguyễn Quang Sáng đã thể hiện tài năng của mình bằng việc
xây dựng hai tình huống đặc biệt, sắp xếp tình huống bất ngờ chặt chẽ, gây hứng thú cho
người đọc. Truyện cịn được kể ở ngơi thứ nhất, dước góc nhìn của bác Ba – đồng đội của
nhân vật chính, chứng kiến tồn bộ diễn biến của câu chuyện. Điều này khiến cho sự việc
trong truyện trở nên khách quan hơn, tin cậy và mang tính xác thực hơn, tạo điều kiện cho
người đọc bày tỏ niềm đồng cảm, sẻ chia trước nỗi đau, niềm hạnh phúc của nhân vật. Việc sử
dụng thành công các yếu tố kể, miêu tả nội tâm nhân vật và sử dụng các chi tiết, hình ảnh chọn

lọc, đắt giá đã tạo nên giá trị nhân văn cao đẹp cho tác phẩm, tạo nên sức cuốn hút đối với
người đọc đến cả những trang cuối cùng.
Có một nhà văn đã từng nói “khơng có gì nghệ thuật vươn tới hơn là tình yêu thương cao
đẹp của con người”. Và thành công lớn nhất của nhà văn Nguyễn Quang Sáng trong truyện
ngắn “Chiếc lược ngà” chính là ơng đã đem đến cho ta cảm xúc mãnh liệt về tình người. Tình
cha con thiêng liêng, bất tử sáng lên trong hoàn cảnh chiến tranh đau thương, khốc liệt.

(1966)



×