Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Tài liệu .MỸ THUẬT ĐÔNG SƠN TRONG LĂNG MỘ NAM VIỆT VĂN ĐẾ (2000 NĂM TRƯỚC) doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.71 KB, 14 trang )


MỸ THUẬT ĐÔNG SƠN TRONG LĂNG MỘ NAM VIỆT VĂN ĐẾ (2000
NĂM TRƯỚC)

Những đồ đồng Đông Sơn trong mộ Nam Việt
Trong lăng mộ Triệu Muội một số lượng đồ đồng rất lớn đã
được chôn theo, ước khoảng 600 hiện vật gồm nhiều đồ được
dùng khi ông còn sống và một số đồ minh khí nhỏ. Về nhạc
khí: một bộ thanh đồng 14 thanh, một bộ nữa chung (chuông) 14 cái; một bộ câu
dược 14 cái có 8 cái khắc chữ “Văn Đế cửu niên”, đỉnh đồng 36 cái (đại bộ phận là
của Mỹ thuật Đông Sơn). Có một đỉnh kiểu dáng Việt cao 54,5cm khắc hai chữ
“Thái quan” là quan chịu nhiệm vụ lo ăn uống của nhà vua, trên miệng đỉnh cao,
gồ hai quai to hình vuông không có trang trí. Một đỉnh nhỏ hơn cao 42cm dáng hơi
khum trên miệng hai quai ở vai đỉnh cong lõm cao lên tạo dáng đỉnh cao và đẹp.
Ba chân nổi gồ choãi cong ra phía ngoài, phần đầu chân bám vào đỉnh đúc nổi
trang trí hoa văn dấu hỏi và hình học chữ U vuông, chân choãi vuông. Tạo dáng
đỉnh rất hài hòa, khoẻ. Bình đồng có 9 cái, có một cái mạ vàng dáng tỳ bà (củ
hành) có 3 vòng lõm, tạo bố cục phần đáy, thân, miệng. ở phần thân bình đúc nổi
mặt thú, hoa văn tròn xoáy ốc, riêng mũi nổi to gồ ra có 1 vòng tròn lớn đeo vào
làm hai quai xách. Một bình đồng dáng củ hành được bóp thành tứ diện, có nắp
cũng tứ diện, trên mỗi mặt diện nắp đúc nổi 4 thuỷ quái (dạng macara). Thân bình
có đúc nổi hai mặt thú có móc đồng ở mũi. Nói chung hình dáng của đỉnh, bình
đồng phong phú khác nhau, đặc biệt một bình đồng trang trí cao 55,5cm là sự giao
thoa văn hoá Tần Hán - Đông Sơn bằng những hình học tam giác, dấu hỏi xoáy
tâm, kết hợp với trang trí hình khuất khúc với đặc điểm hoạ tiết tỉ mỉ dầy đặc. Bình
có 4 quai ở trên phần vai gần cổ bình. Một đèn đồng rất đẹp, sang trọng dùng trong
cung đình gồm ba bộ phận: chân đèn một đĩa hình vành khăn có 3 chân đúc nổi
trang trí mặt linh thú. Thân đèn gồm: đĩa đựng dầu, đặt lọt trong đĩa chân đèn, hình
ba con rắn, từ ba phía uốn cong ngẩng cao đầu ngậm một vành ngọc làm bệ, bao
lấy một ống ngọc hình trụ có chân sâu xuống đĩa đựng dầu. Kiểu đèn rất độc đáo,
đã tìm thấy ở Việt Nam tương tự, ở giữa là hình tượng người, hiện lưu giữ ở bảo


tàng Guimet Paris. Các loại hộp hương (đốt trầm), trang trí hình học, các loại lò
nướng thịt v.v.
Một trống đồng lớn loại I tìm thấy trong mộ, trên mặt trống chạm khắc trang trí
hình người nhẩy múa hóa trang, cầm khèn, đánh lục lạc, giã gạo, kho thóc.v.v đã
được minh hoạ lên bản dập phóng to trưng bày. Theo PGS TS Nguyễn Đỗ Bảo,
trống đồng này hoa văn trang trí giống trống đồng Ngọc Lũ ở Hà Nam khi ông đến
nghiên cứu mộ Triệu Muội ở Quảng Châu 1998. Thạp đồng Đông Sơn cũng rất
đẹp, có nhiều kiểu dáng, chạm khắc khác nhau, dùng trong nhiều công năng. Nhiều
họa tiết hình học phức hợp được trang trí mỹ thuật ở đẳng cấp cao, phục vụ cung
đình, nhà vua. Những di vật này có một giá trị lịch sử đặc biệt, đồ của vua Việt. Số
lượng thạp gồm 9 thạp hình thức mỹ thuật khác nhau. Có loại đồ đựng miệng loe
không có nắp, có loại thạp miệng khum có nắp và quai xách. Về trang trí có loại
đơn giản hình kỷ hà, hình xoắn, hình chữ S. Đặc biệt trên một chiếc thạp đồng cao
40,7cm được chạm cầu kỳ phức tạp như trống đồng và giống tương tự thạp Hợp
Minh ở Yên Bái, cũng như giống thạp Barbier – Mueller ở Thuỵ Sĩ như đã nói ở
trên. Trang trí thạp như sau: Thạp có nắp đậy, gờ miệng thạp cao lõm và phía
trong. Phía dưới miệng thạp một dải băng trang trí 5 dải trang trí ở giữa lớn nhất
hình vẽ hình học kép chữ S hai dải phía trên và dưới hình tam giác mảnh cao nổi,
phần tam giác âm nổi chấm tròn, dải băng trên cùng là chấm tròn nổi. Phần thân
thạp một băng trang trí hình 4 con thuyền từng đôi một bao quanh vòng thạp có độ
cao khoảng 13cm. Hình vẽ diễn tả từng đôi thuyền một nối nhau. Phía đầu thuyền
có chim bay chào đón, đầu thuyền cắm cờ, tiếp đến một người hoá trang mũ lông
chim mặc váy đang lái thuyền. Tiếp theo một chỉ huy đứng trên chòi cao (bục chỉ
huy có trang trí vòng tròn đồng tâm), một tay cầm cung, tay cầm tên. Tiếp đến một
người đội mũ lông trĩ, lông công dáng điệu đang “tra tấn” tay đang nắm tóc, tiếp
một người ghế gõ nhịp, một chiến binh cầm lao và cung, trang phục mũ, váy lông
chim đứng gần mũi thuyền cong cao với cột cờ, bên cạnh có con gà trống đậu.
Trang trí mạn thuyền có hai ngôi sao 5, 6 cánh, các dải băng có chấm tròn đồng
tâm, gần đầu thuyền có 4 trống đồng. Hình vẽ dưới thuyền hình rùa ngóc đầu trên
bánh lái, phía dưới có hình cá sống vây dài, đầu mũi thuyền hình cá. Nối tiếp

thuyền thứ hai xen giữa hai thuyền hình con chim trống bay đứng phía dưới con
chim mái đứng trên lưng rùa. Hình vẽ thuyền có 1 người lái cầm bánh lái, tiếp đến
1 người ngồi trên bục cao cầm cung tên đội mũ có ba lông chim, 1 võ sĩ đang tra
tấn, một người gõ nhịp, một người cầm cung tên, đầu thuyền không có gà, trang trí
đơn giản, kể cả mạn thuyền. Tiếp đến đôi thuyền sau trang trí và số người tương tự
thuyền đầu tiên, đầu thuyền đều có gà đậu. Đặc biệt ở thuyền thứ nhất tốp hai, một
chiến binh tay cầm rìu lưỡi xéo, một tay cầm đầu người. Toàn bộ hai đôi thuyền
này hình trang trí quen thuộc trong các trống đồng, thạp đồng đã tìm thấy ở Việt
Nam. Nắp thạp trang trí ngôi sao toả 14 cánh, nắp hơi cong hình nón. Thạp ở đây
là được lưu giữ trong mộ của Văn Đế Triệu Muội, đường đúc âm dương, nét vẽ rõ
ràng chứng tỏ kỹ thuật rất cao, còn óng màu đồng. Các hình trang trí đường nét,
phân mảng bố cục chặt chẽ, hình giống nhau về động tác nhưng cách diễn tả mỹ
thuật khác nhau về độ to nhỏ, cao thấp trong một bố cục sinh động. Những nghiên
cứu diễn tả được quan sát trên thạp và trên một bản dập in, một bản vẽ đồ hoạ
trong hai quyển sách: Báo cáo khảo cổ điền dã Trung Quốc (tập thượng), Nhà xuất
bản Văn hoá Bắc Kinh, năm 1991 và sách Mộ ông vua Nam Việt thời Tây Hán,
Bảo tàng lịch sử Quốc gia - Đài Loan, 1998. Đây là chiếc thạp được nhiều nhà sử
học, khảo cổ, mỹ thuật quan tâm, nặng 11kg500 có hai chiếc giống nhau. Một
chiếc tìm thấy ở Việt Nam. Thạp trang trí đỉnh cao về mỹ thuật thời Hùng Vương.
Một thạp đồng nữa lớn hơn cao 50cm phình bụng 46,5cm miệng 45,5cm trang trí
từ trên miệng xuống đáy gồm 3 dải băng lớn, hoa văn trang trí hình học, tam giác,
đường zích zắc chữ S, vòng tròn đồng tâm là những đặc điểm tuyệt đối Đông Sơn.
Với số lượng nhiều thạp đồng, nhiều đỉnh đồng, các đồ dùng đồng muội, bình bát,
khuy áo, lò nướng, chuông đồng v.v là sự nối tiếp phát triển từ Hùng Vương đến
Âu Lạc, Nam Việt là đỉnh cao, may mắn còn lưu giữ được để có thể nghiên cứu,
tìm hiểu tượng tận, nhiều loại hình trong một ngôi mộ trên hai ngàn năm trước, giải
toả nhiều nghi vấn, ẩn số trong lịch sử.
Gương đồng - Chuông đồng (nhạc khí): Gương đồng là loại đặc biệt trên một chục
cái nhiều loại to nhỏ khác nhau. Loại to nhất đường kính 28,5cm gồm có 3 khoen
đồng còn buộc các dải lụa. Cấu tạo gương có hai lớp, mặt gương đánh bóng nhẵn

để soi, vỏ mặt sau có pha thiếc cho mềm để dễ trang trí khi đúc. Kỹ nghệ đúc đồng
nổi tiếng của vùng Lĩnh Nam người Việt. Trang trí mặt sau của gương có nhiều
dạng: có loại hoa văn tròn, có loại hình học, có loại chữ [ ] (núi) chạy chéo đều
được trang trí nổi, chìm. Đặc biệt có một hình vẽ người mặc trang phục áo tay rộng
gồm một tốp phụ nữ 6 người (3 người đứng cạnh nhau, một người phía trước, hai
người đứng sau cùng đứng xem 2 võ sĩ cầm khiên đấu kiếm). Phía đối diện lại có 3
người đứng liền nhau cũng đứng xem, có một người búi tóc cao, còn tất cả đều
chải tóc, phía dưới chân có điểm hoa văn. Nửa vòng gương phía sau còn vẽ 1
người và một tốp 2 người cách quãng ra, tổng số là 14 người.
Hình nét người được khắc rất nét và lõm xuống. Hình trang trí trang phục phụ nữ
quý tộc trên gương là rất hiếm thấy, xiêm dài quét đất. Điều này cung cấp thông tin
quý giá về trang phục các phu nhân quý tộc nước ta trước đây hơn hai ngàn năm. ở
nước ta cũng phát hiện nhiều gương đồng trang trí tương tự.
Theo Nguyễn Việt, khảo cổ học Việt Nam đã khai quật được những gương đồng
ghi rõ minh văn “Triệu thị tác kính”, “Lý thị tác kính”. Họ Triệu là một dòng họ
quý tộc ở nước ta đã từng nhiều lần chống Hán: Triệu Đà, thời Bắc thuộc Triệu
quốc Đạt và Triệu Thị Trinh (Triệu ẩu) vào thế kỷ II và Triệu Quang Phục thế kỷ
VI. Kính được chế tạo ở Việt Nam.
Các loại nhạc khí chuông đồng, thanh đồng
Trong mộ Văn đế Triệu Muội có một quả chuông nhỏ rất đặc biệt hình già nửa bán
cầu, cấu tạo hình khía múi khế (có thể là chuông tụng riêng của phu nhân). Ngoài
ra còn bốn loại chuông cổ đại khác nhau.
- Bộ Dũng chung 5 cái, cái cao nhất 49cm cái thấp nhất 38cm có trang trí ba dải
băng chữ nhật trong có 3 chấm tròn nổi. Ba dải băng chiếm già nửa thân chuông,
miệng dưới khoét lõm nhiều hình ô van. Cán chuông đặc phía trên hình con tiện ba
khấc, mặt chuông có tượng hổ (phong cách Hán).
- Bộ Nữu chung 14 cái trang trí tương tự dũng chung nhưng mặt trước không có
tượng hổ, quai chuông đúc hình chữ U úp ngược nên có rãnh ở giữa để treo
chuông. Nữu chung là sản phẩm Nam Việt, cái cao nhất 24,2cm, cái nhỏ nhất cao
11,4cm.

- Bộ thanh đồng 14 cái là những thanh dẹt hình chữ V có lỗ treo.
- Một câu điêu dáng cao có chữ I nổi cao khoảng gần 90cm thân hẹp trang trí vẩy
cá, miệng lõm sâu, cán chuông đặc chia hai khấc, đoạn ngắn ghép chuông chạm
vẩy cá, có con lươn nổi gồ bao quanh. Đoạn trên dài nhỏ dần vuốt cạnh bát giác,
đỉnh cán chuông có hình tròn vành khăn tạo lỗ thủng để treo, cán này dài khoảng
35cm. Dàn chuông nhạc khí cung đình này biểu hiện cho chúng ta thấy triều đình
Nam Việt đã sử dụng nghi lễ rất cao và phức tạp. Thời Lý ở nước ta khi vua ra
triều hoặc bãi triều cũng sử dụng hai loại chuông đánh 108 tiếng tương tự Nam
Việt.
- Một bộ câu dược 8 cái có khắc “Văn đế Cửu niên” là đồ đúc khi vua trị vì năm
thứ 9. Bộ câu dược có phong cách Nam Việt. Cái cao nhất 24cm, nhỏ nhất 11cm
(ký hiệu B96). Ngoài ra còn nhiều loại như chân đèn cao, đồ minh khí Trong mộ
Triệu Muội có rất nhiều đồ ngọc, nhưng có 130 món đồ ngọc là hàng thượng phẩm
trang sức quý giá như: Ngọc giác bôi là một khối ngọc được mài rũa hình sừng tê,
khắc nét chau chuột dùng để uống rượu. Một khối ngọc tạc rỗng, một nghiêng, một
trực diện mầu bích ngọc nhạt điểm ánh vàng trong là một tuyệt phẩm dài 18,9cm
cao 6,2cm, dầy 2,5cm. Ngọc giác bôi được tìm thấy trong địa cung nơi đặt quan tài
Văn đế dài 18,4cm, đường kính nhỏ nhất 6,7cm. Chiếc ly ngọc này tạo dáng hình
tù và này được chế tác rất công phu, ý tưởng “hoang dã” của cung đình được làm
từ một khối ngọc trong mờ được tách ra chạm bong ở phần cuối tạo cho mọt phong
cách độc đáo như đồ dùng đeo của một tù trưởng miền núi. Ngọc giác bôi được các
chuyên gia đánh giá là “duy nhất”, “không có cái thứ hai” ở Việt Nam cũng như
trên toàn cõi thời Tần Hán và sau này. Một âu ngọc màu vàng đồng trong mờ, cao
7,7cm chỗ phình rộng nhất 9,8cm hình ô van, phần nắp đỉnh có một khoen vòng
tròn chạm vặn thừng chui qua núm nắp. Đây là một khối ngọc nguyên được tỉa dần
tách ra, vòng tròn chuyển động tự nhiên như cầm, trang trí là những hình khuất
khúc, dấu hỏi có phong cách Hán Việt. Đồ trang sức ngọc có luồn dây đeo rất
phong phú kiểu dáng và người đeo có thể sắp đặt thay đổi khi xâu dây đeo. Trong
những miếng ngọc trang trí này có hai tượng ngọc vũ nữ dáng múa, rất mỹ lệ để
đeo lộ diện ở giữa ngực người khi đeo. Một tượng ngọc vũ nữ dáng múa quỳ, một

tay đưa sau hông, 1 tay sau gáy tóc búi lệch, áo chéo vạt thắt lưng to bản, dáng
người cong mông, ưỡn ngực chuyển động, nét mặt hơi thô, mắt mở to, tóc rẽ ngôi
không cài trâm. Có một pho tượng độc đáo trông đơn giản và rất Việt Nam trong
bộ váy áo hoa văn điểm đơn giản ở gấu xiêm và tay áo. Tượng cao 3,5cm mầu
ngọc vàng đồng. Những bức tượng ngọc và đồ trang sức có các hình vũ nữ có các
kiểu áo, xiêm, đầu tóc khác nhau đã cung cấp những giá trị thông tin tuyệt đối về
trang phục cung đình Việt những thế kỷ trước công nguyên. Một đại ngọc bích
hình tròn đường kính 33,4cm là đồ ngọc tinh diệu về chạm khắc, được đặt liên kết
trên đầu của một ti lũ ngọc y của vua Triệu Muội. Một hộp ngọc hình trụ cao 14cm
đường kính 8,6cm. Một cốc ngọc có nắp cao 16cm, có bọc những thanh đồng mạ
vàng có hình phượng ở nắp. Một số mảnh ngọc để đeo và dắt kiếm khi nối với thắt
lưng. Có 47 đồ ngọc đặt ở địa cung quanh quan tài Triệu Muội còn ngoài ra không
thể kể hết được vì sự phong phú của các đồ ngọc. Bộ ngọc y gồm 2291 miếng kết
lại đã kể ở trên, không nhắc lại.
Các loại đồ gồm sứ trong mộ Triệu Muội:
Người ta đã tìm thấy 371 món đồ gốm sứ gồm nhiều thể loại gồm thạp gốm, hũ
gốm, âu gốm, ang gốm, phần lớn đều có nắp. Hũ gốm không men cao nhất 53cm
miệng 28cm thân rộng nhất 46,5cm, có rất nhiều loại gốm sành già lửa mầu tím
sẫm, ba chân cao nắp đậy miệng hoa văn vặn thừng, có vấu, nhiều ang có nắp, có
chân chẽ ra, thấp, mầu vàng đồng, nhiều ang có nắp đậy không chân (đồ đựng thức
ăn) có nhiều mầu khác nhau, hoa văn có nhiều loại đường sóng, hình học, chấm
tròn chéo kiểu Đông Sơn.
Thắt lưng và gấm vóc trong mộ Triệu Muội
Có 7 bộ. Đai lưng dài 18,4cm hình cong có gắn ngọc quý. Thắt lưng được chế tác
với kỹ thuật tinh xảo, chắc để gắn, đeo ấn kiếm, túi hương liệu. Đầu khoá thắt lưng
có nhiều loại móc khác nhau hình tượng đầu rồng, đầu rùa, đầu rắn, đầu nhạn
những dạng đai lưng này tương tự như đã tìm thấy ở Việt Nam về hình thức nhưng
cao cấp hơn là đỉnh ngọc, mạ vàng, chạm khắc tinh mỹ. Các loại vải lụa, gấm vóc
trong mộ Triệu Muội rất phong phú về chủng loại, nhiều về số lượng được xếp
riêng ở căn phòng phía tây. Trong phòng này còn có đồ thêu, the mỏng Những

loại tơ lụa này khi xuất thổ (rời khỏi đất) đều bị mủn nát thành bụi có độ dày tới
2,30cm ước tính khoảng 100 xấp vải chồng lên nhau khoảng 700 lớp. Nhiều đồ tuỳ
táng cũng được quấn vải. Trong mộ còn có 5 chiếc ngà voi, chiếc lớn nhất dài
126cm được đặt chồng lên nhau cao 57cm như vậy đường kính của mỗi chiếc ngà
voi khoảng 12cm. Ngà voi là đặc sản của nước ta (Giao Châu), đến đầu thế kỷ XX
vẫn còn đôi cặp ngà dài 130cm được tướng Bảy Viễn trưng bày ở miền Nam, hiện
nay để ở Bảo tàng Lịch sử. Ngoài ra còn nhiều đồ dùng bằng ngà, số lượng ngọc
trai tổng cộng nặng 4117grams, đường kính từ 0,4cm đến 1,1cm. Đặc biệt người ta
còn tìm thấy ấn đồng, một to, một nhỏ dùng để in hoa lên vải lụa làm mẫu thêu.
Thợ thêu dùng mẫu in lên để hoa văn khớp đúng vị trí và bằng nhau được in đánh
dấu trước. Hai mẫu này người ta đã phát hiện ở Trường Sa trong ngôi mộ ở Mã
Vương đôi nổi tiếng. Trong một hộp bạc hình trụ cao 12cm để trong quan tài nặng
572,6gr, chứa 10 hộp con đựng các viên thuốc có nguồn gốc từ nước Ba Tư cổ đại
từ 550 TCN đến 330 TCN đây là các loại thuốc được coi là linh đan do người ả
Rập bào chế. Ngoài ra còn một số đồ bạc, chạm khắc có phong cách Tây á chứng
tỏ Nam Việt có giao thương buôn bán với nhiều vương quốc vùng Ba Tư. Người ta
đã không quên chôn theo cả hộp đựng mực nho để khi vua về bên kia thế giới ghi
chép.
Một vài suy nghĩ ở lăng mộ Văn đế.
Lăng mộ Triệu Muội ngẫu nhiên phát hiện là vua Nam Việt thứ hai, sau hơn hai
ngàn năm, là một dấu mốc lịch sử vô cùng quan trọng. Nhiều sự việc còn mơ hồ,
được cho là truyền thuyết đã bị hoá giải. Những sự kiện lịch sử, nền văn minh kỹ
thuật, nghệ thuật như đồ sắt thép, áo giáp, chiến xa, tượng ngọc, kiến trúc v.v đã
không còn nổi một chữ nào ghi chép còn lại. Tất cả lịch sử nước Việt chỉ còn lại
truyền ngôn. Đến thế kỷ IV thời Bắc Nguỵ, còn gọi là hậu Nguỵ, lịch đạo nguyên
mới viết được vài dòng ít ỏi về An Dương Vương và Triệu Vũ Đế, chuyện Mỵ
Châu với thái tử Trọng Thuỷ trong tác phẩm Thuỷ kinh chú sớ. Sự việc được viết
lại sớm nhất lại sau 7 thế kỷ. Nước ta sau 10 thế kỷ bị đô hộ tới thế kỷ XIII nhà sử
học Lê Văn Hưu mới viết lại những thời kỳ lịch sử này (1272). Sách cũng không
còn, bị nhà Minh thu đốt, huỷ hoại hết. Ngày nay phát hiện những di vật trong mộ

Triệu Văn Đế là những bằng chứng văn hoá lịch sử vật thể, của một vương triều
Nam Việt cổ đại.
Những di vật khảo cổ phản ánh rõ nét trình độ văn minh từ sinh hoạt đến nghi chế,
âm nhạc, trang phục, khi nhà vua còn sống với các hoàng hậu cung phi và những
người hầu. Ngôi mộ đã cung cấp nhiều thông tin quý giá về một thời phát triển mọi
mặt, giao lưu với ả Rập xa xôi, quan hệ văn hoá, ngoại giao độc lập với nhà Hán.
Trải qua 5 đời từ Triệu Vũ Đế, Văn Đế, Minh Vương, ái Vương, Thuật Dương
Vương. Từ năm 207 đến 112 trước công nguyên, phát triển kéo dài 95 năm, cho
đến khi bị nhà Hán tiêu diệt, xoá sạch mọi dấu tích. Sau hơn hai ngàn năm do sự
ngẫu nhiên thành phố Quảng Châu muốn xây một khách sạn 6 tầng nên bạt ngọn
núi Tương Cương mới phát hiện ra. Những di vật trong mộ Nam Việt còn có một
số lượng nhỏ đồ Hán, đồ Ba Tư, cho chúng ta thấy có sự giao thoa mỹ thuật Việt
Hán, trang sức đồ ngọc và đồ gốm. Một số hoa văn, chất liệu gốm do khảo cổ tìm
được ở nước ta được cho là Hán, từ ngôi mộ Văn Đế đã cho thấy đây chính là gốm
Việt ở vùng Lĩnh Nam và Thanh Hoá. Những bộ áo giáp sắt vẩy cá có trang trí nửa
phía dưới bụng hình quả trám, cổ vuông rộng, bao vòng thân phù hợp với khí hậu
người Việt nóng ẩm. Cách trang trí tấm bình phong có tượng linh thú, tượng lực sĩ,
tượng chim trĩ cắm lông công, lông chim trĩ toả dài, trang phục các tượng vũ nữ có
một phong cách riêng của người Việt. Lăng mộ Nam Việt Văn đế cho chúng ta một
nhận thức mới, có cơ sở để khảo cứu. Ta có cơ sở so sánh sự khác biệt trong nghệ
thuật đồ đồng, vũ khí, gốm sứ, tương đương về thời gian mà trước đấy chỉ suy
đoán hoặc nhận định sai, tất cả đều quy là Hán. Trung Quốc phát hiện năm 1996
chiếc ấn của vua Điền Việt (Vân Nam) có dòng chữ “Điền Vương chi ấn” do nhà
Hán ban cho năm 109 TCN, có quy cách 2,4cmx2,4cm là loại ấn của các phiên
vương do nhà Hán ban cho có núm ấn hình con kỳ lân. Ngược lại cùng thời gian
này, ấn vàng của Văn đế Triệu Muội có quy cách lớn hơn nhiều 3,1cm. Núm ấn
hình rồng cuốn chữ S phong cách Đông Sơn, mặt ấn khắc “Văn đế hành tỉ”. Kèm
theo chiếc ấn vàng khắc hai chữ “Thái tử” đoán là của Trọng Thuỷ vẫn to hơn ấn
Điền Vương, hình dạng cũng khác nhau, núm hình rùa vàng, có quy cách
2,6cmx2,4cm.

Từ những dẫn chứng trên, chúng ta có thể nhận định rằng, tổ chức quy chế triều
nghi có nhiều khác biệt Nam Bắc. Nam Việt và Tây Hán là hai nền văn hoá khác
nhau, nhưng đã có sự tiếp biến văn hoá ở giai đoạn đầu trong buổi bình minh của
lịch sử và mỹ thuật. Ngôi mộ phát hiện cụ thể, làm tan biến nhiều huyền thoại, có ý
nghĩa lịch sử, là cầu nối, có cơ sở vững chắc, đi ngược lại quá khứ thời gian nhà
nước Âu Lạc, Văn Lang với văn hoá Đông Sơn phát triển của thiên niên kỷ trước
công nguyên. Đó là ý nghĩa lịch sử to lớn mà chúng ta hướng tới nghiên cứu.

×