Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Tài liệu TƯỢNG CHUỘT MỸ THUẬT TRÊN VÌ KÈO ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.64 KB, 8 trang )







TƯỢNG CHUỘT MỸ THUẬT TRÊN VÌ KÈO



1. Có thật không?
Vâng, quả đúng như vậy! ở các thế kỷ 17, 18, người Việt có tạc tượng chuột mà
chính xác hơn là chạm lộng và chạm nổi hình chuột trên vì kèo của nhiều ngôi đình
- đền (chỉ trừ có chùa). Và những chú chuột ấy bao giờ cũng thể hiện sự vui vẻ,
tinh nghịch. Hình tượng chuột không nổi bật nhưng cũng không phải là hiếm trên
các bức chạm gỗ cổ ở các đình - đền. Chúng tôi xin đơn cử vài ví dụ ở Đình Bảng
(Bắc Ninh) và đền thờ vua Lê Đại Hành (Hoa Lư, Ninh Bình).
2. Rồng, chuột và tín ngưỡng phồn thực
Cả hai đều hiện diện trong 12 con giáp. Rồng quá nổi tiếng vì quyền uy thần thánh
hóa. Chuột thì kém thế hơn rất nhiều nhưng thật kỳ lạ lại đứng đầu 12 con giáp.
Rồng oai phong, tối đa có 9 con (truyền thuyết Cửu long tử). Chuột gian xảo và
mắn đẻ vô giới hạn.
Rồng được tạc trên vì kèo của tất cả các đình làng Việt Nam mà bao giờ cũng nổi
bật vì các cụ ta xưa coi rồng là chúa tể muôn loài, tượng trưng cho vua, có thể hô
phong hoán vũ đem nước tưới cho đồng ruộng của cư dân nông nghiệp. Thế mà
bên cạnh hình tượng rồng nghiêm trang trên các đầu dư, kẻ bẩy, cốn, lá gió còn có
những chú rồng nghịch ngợm đùa vui khôn tả cùng muôn loài như lân, rùa,
phượng, nghê, cầy cáo, sóc và nhất là chuột.
Thì ra, theo truyền thuyết cổ, tồn tại bởi những lời thì thầm đồn thổi xưa xửa xừa
xưa rằng rồng là chúa tể, có oai phong nhưng cũng biết uốn éo điệu đà, buông lời
tán tỉnh và dan díu với muôn loài. Điều này rất hợp với tín ngưỡng phồn thực của


các làng Việt cổ (và lại có nét tương đồng với tính lẳng lơ của chúa tể các thần
trong thần thoại ấn Độ và Hy Lạp). Do đó mà ta thấy khá nhiều rồng đang vui vẻ
cùng các em chuột, sóc, lân, nghê tạc trên vì kèo đình làng. Đôi khi đó đây còn có
chuột, sóc nhí nhảnh chui ra, luồn vào, thậm chí giật kéo cả râu mà rồng vẫn cười
tươi hóa ra, đó là con ngoại hôn của rồng.
Đến đây, chắc có bạn đọc sẽ đặt câu hỏi: Phải chăng chúng tôi đang tán hươu, tán
vượn? Xin thưa rằng: Không! Chúng tôi từng được nghe các giáo sư danh tiếng
trong lĩnh vực văn hóa - nghệ thuật học luận bàn về đề tài nói trên trong buổi tổng
duyệt luận văn về hình tượng con rồng (của tiến sĩ Bùi Thị Thanh Mai) cuối năm
2007.
3. Quan hệ của người Việt và chuột
cách đây 3 - 4 thế kỷ
Hoàn toàn khác với ngày nay: thuở ấy nước ta làm gì có thành phố với đầy đủ hệ
thống cống rãnh, lòng lề đường, vỉa hè trồng cây xanh và cột điện Nước Việt thời
vua Lê chúa Trịnh chỉ có vài đô thị cổ, đậm chất làng xã, tự phát, thiếu quy hoạch,
lọt thỏm giữa trùng điệp ruộng lúa. Đến tận năm 1945, 95% dân ta vẫn còn là nhà
nông thì trước đó vài thế kỷ, thành phố chắc là bé lắm, khó lòng có chỗ dung thân
cho chuột cống cũng chẳng có rác thải ô nhiễm cho chuột xơi. Thời đó chắc chỉ
phổ biến chuột đồng và chuột nhắt, ăn thóc lúa, khoai sắn là chính. Và các cụ ta
xưa cũng dùng chuột làm thực phẩm. Đến nay vẫn còn các chợ chuột ở nhiều làng
Việt cũng như thói quen săn bắt và chế biến chuột đồng ở Đình Bảng (Bắc Ninh),
Vị Thủy (Thái Bình), Cổ Dũng (Hải Dương), Phù Dật (An Giang). Riêng làng
Đình Bảng còn có tục phải có đĩa thịt chuột ở mỗi mâm cỗ cưới. Các thơ, văn và
tranh dân gian cổ (Đám cưới chuột) của các cụ về đề tài chuột còn bộc lộ cái nhìn
dí dỏm chứ chưa hề coi chúng như kẻ thù tệ hại theo cái nhìn hiện nay (nhất là của
dân thành phố)
4. Những bức chạm trên vì kèo Đình Bảng
Xin đơn cử 2 bức. Thứ nhất là bức chạm lộng Chuột đùa với Rồng, gồm rồng mẹ
vui đùa với 2 rồng con. Các khúc rồng uốn lượn ngoắt ngoéo cuốn vào nhau với vô
số râu, ria, đao lửa mềm mại tỏa ngang tầng tầng lớp lớp tạo ra hiệu quả rất đông

vui. Đáng chú ý là tay rồng mẹ cắp nách một chú chuột trong khi chuột ta vui vẻ
ngước nhìn rồng, cong mông, vẫy đuôi như hòa vui với nhịp điệu của cả nhà rồng.
Bức thứ hai chạm nổi Chuột đùa với phượng và lân gồm một con lân đang túm
đuôi chuột nhưng lại ngoảnh mặt đi cười đắc chí; phía tận cùng bên phải có một
chuột nữa đang vờn đuôi và cánh phượng.
Như ta đã biết, Đình Bảng có niên đại gốc là 1738, được coi là điển hình nhất của
đình làng cổ Việt Nam, lại được bảo tồn gần như nguyện vẹn đến ngày nay. Đình
ra đời giữa 3 thế kỷ vàng của nghệ thuật dân gian Việt Nam (16, 17, 18) và đạt đến
đỉnh cao cổ điển của nghệ thuật chạm khắc gỗ. Cả hai bức chạm đều còn rất nét,
tạo hình mềm mại, tinh tế, Đặc biệt bức chạm lộng còn tạo được nhiều lớp nông
sâu xen kẽ hết sức uyển chuyển. Thoạt nhìn, ta tưởng như rất rối rắm nhưng đây là
bố cục có trọng tâm: đầu rồng mẹ chính giữa, nổi cao hơn hẳn; mọi đao lửa đều
chĩa ngang sang hai bên; thần thái 3 rồng 1 chuột đều tươi vui. Còn bức chạm nổi
cho thấy một con phượng trang trí điển hình với những đường cong tuyệt mỹ; cạnh
đó, tạo dáng con chuột rất sinh động, mềm mại mà hướng bò trên xuống rón rén
thật đúng là của chuột.
Cả hai bức chạm đều bố cục chặt, khoảng hở hợp lý, cái hữu hình xen với vô hình
(khoảng trống) thật nhịp nhàng, ăn ý, những đường lượn phân phối có trọng tâm và
tỏa ra hầu khắp bề mặt một cách đầy biến hóa.
5. Bức chạm trên vì kèo đền vua Lê ở Hoa Lư
Đền thờ vua Lê Hoàn có khá nhiều bức chạm hình tượng chuột trên vì kèo. Chúng
tôi đơn cử bức chạm nổi, tạm đặt tên là Chuột múa đôi: hai chú chuột xinh xắn ở
thế đối xứng đang nghển cổ, cong đuôi nhảy nhót. Lối bố cục của bức này mang
tính đăng đối, còn gọi là đối xứng giả: tưởng như các họa tiết dàn đều hai bên
nhưng thực ra không phải vậy, ví dụ như 2 chiếc đuôi đều vẫy cùng hướng.
Điểm khác biệt là mầu sắc: các bức chạm ở hai đền Đinh, Lê (Hoa Lư) xưa từng
được tô màu, mà nay, đầu thế kỷ 21 mới được tô lại, chỉ tiếc là mầu hiện đại tươi
quá (mà mầu xanh cô ban chưa chắc đã được sử dụng hồi thế kỷ 17).
6. Lời kết
Điêu khắc dân gian Việt Nam rõ ràng đã vươn tới đỉnh cao ở ba thế kỷ vàng 16, 17,

18. Tay nghề mộc điêu luyện của những người thợ vô danh đã truyền cảm mãnh
liệt vào từng thớ gỗ. Chuột, rồng, lân, phượng đều hết sức sinh động, uyển chuyển
thậm chí tươi hơn hớn. Các chú chuột tuy rất bé nhỏ nhưng được bắt dáng ngộ
nghĩnh và rất chuột. Sự xuất hiện của các chú làm cho những bức chạm gỗ náo
nhiệt và dí dỏm hẳn lên.
Không như chúng ta ngày nay, người Việt hồi đó nhìn chuột bằng con mắt khác:
đứng đầu 12 con giáp (đáng được tôn trọng) và là nguồn thức phẩm ngon, rẻ, sẵn
(hấp dẫn).

×