1
KHỐI 2
Câu 1. Trình bày những nội dung cơ bản, ý nghĩa lịch sử của Nghị quyết Hội nghị lần
thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương khóa II (tháng 1-1959) về cách mạng miền Nam
và Nghị quyết Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương khóa III (tháng 71973)? (5 điểm)
1. Nội dung cơ bản, ý nghĩa lịch sử của Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 BCH Trung
ương khóa II (tháng 1-1959) về Cách mạng miền Nam
a. Nội dung cơ bản:
Nghị quyết chỉ rõ hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam:
- Một là, mâu thuẫn giữa một bên là chủ nghĩa đế quốc xâm lược, giai cấp địa chủ phong
kiến và bọn tư sản mại bản quan liêu thống trị cả miền Nam và một bên là dân tộc Việt
Nam, nhân dân cả nước Việt Nam, bao gồm nhân dân miền Bắc và nhân dân miền Nam;
- Hai là, mâu thuẫn giữa con đường Xã hội chủ nghĩa với con đường tư bản chủ nghĩa ở
miền Bắc.
Hai mâu thuẫn này mang tính chất khác nhau, song chúng quan hệ biện chứng với nhau và
tác động mạnh mẽ lẫn nhau.
Từ 2 mâu thuẫn trên, Nghị quyết chỉ ra nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam trong
giai đoạn mới là: Tăng cường đoàn kết tồn dân, kiên quyết đấu tranh để giữ vững hịa
bình: Thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, hoàn thành nhiệm vụ
cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước; ra sức củng cố miền Bắc và đưa miền Bắc tiến
lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng một nước Việt Nam hồ bình, thống nhất, độc lập, dân chủ
và giàu mạnh; tích cực góp phần bảo vệ hồ bình ở Đơng Nam Á và thế giới.
Về cách mạng miền Nam, Nghị quyết phân tích tình hình xã hội miền Nam sau năm 1954
có hai mâu thuẫn cơ bản:
- Thứ nhất, mâu thuẫn giữa nhân dân miền Nam với bọn đế quốc xâm lược, chủ yếu là đế
quốc Mỹ;
- Thứ hai, mâu thuẫn giữa nhân dân miền Nam, trước hết, là nông dân với giai cấp địa chủ
phong kiến. Trong đó, mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc Mỹ xâm lược và tập đồn
thống trị Ngơ Đình Diệm là mâu thuẫn chủ yếu trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị đế
quốc và phong kiến, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực
hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, góp phần xây dựng một nước Việt Nam hồ
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
Nhiệm vụ trước mắt là đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc xâm lược và
gây chiến, đánh đổ tập đồn thống trị độc tài Ngơ Đình Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ;
Con đường phát triển cơ bản của cách mạng ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền
về tay nhân dân.
Nghị quyết dự báo: Đế quốc Mỹ là tên hiếu chiến nhất, nên trong bất kỳ điều kiện nào,
cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền Nam cũng có khả năng chuyển thành cuộc khởi nghĩa
vũ trang trường kỳ và thắng lợi cuối cùng nhất định về ta.
Nghị quyết xác định: Lực lượng cách mạng là giai cấp công nhân, nông dân, tiểu tư sản và
tư sản dân tộc, lấy liên minh công nông làm cơ sở.
2
Nghị quyết khẳng định: Sự tồn tại và trưởng thành của Đảng bộ miền Nam dưới chế độ
độc tài phát-xít là một yếu tố quyết định thắng lợi của phong trào cách mạng miền Nam.
Vấn đề là phải củng cố, xây đựng Đảng bộ miền Nam vững mạnh về chính trị, tư tưởng và
tổ chức.
b. Ý nghĩa lịch sử:
Một là, Nghị quyết có tầm quan trọng đặc biệt trong sự phát triển của cách mạng miền
Nam. Phản ánh đúng và giải quyết kịp thời yêu cầu của cách mạng miền Nam trong việc
khẳng định phương pháp đấu tranh dùng bạo lực cách mạng để tự giải phóng mình là đúng
đắn, phù hợp với tình thế cách mạng đã chín muồi, khi địch đã dùng bạo lực phản cách
mạng thẳng tay giết hại cán bộ và nhân dân ta.
Hai là, Nghị quyết đánh dấu bước trưởng thành của Đảng, thể hiện sâu sắc tinh thần độc
lập tự chủ, năng động sáng tạo trong đánh giá so sánh lực lượng giữa ta và địch, trong vận
dụng lý luận Mác - Lênin vào cách mạng miền Nam.
Ba là, Nghị quyết đã mở đường cho cách mạng miền Nam tiến lên, đã xoay chuyển tình
thế, dẫn đến cuộc "Đồng khởi" oanh liệt của tồn miền Nam năm 1960, làm tan rã hàng
loạt bộ máy kìm kẹp của chính quyền địch ở thơn xã, từng bước giành quyền làm chủ, tạo
tiền đề cho những bước phát triển tiếp theo của cách mạng miền Nam. Có thể nói, Nghị
quyết 15 là tiền đề quan trọng dẫn đến thắng lợi hoàn toàn của nhân dân ta trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
2. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 21 BCH trung ương khóa III (tháng 7-1973)
a. Nội dung cơ bản
Nghị quyết khẳng định: "cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta trở thành
cuộc đọ sức điển hình, thành tiêu điểm của cuộc đấu tranh vô cùng quyết liệt giữa cách
mạng và phản cách mạng trên thế giới; là cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ
Tổ quốc mang tính chất thời đại rất sâu sắc".
Về tình hình miền Nam sau Hiệp định Pari, Nghị quyết chỉ rõ: Mặc dù Mỹ đã rút quân
nhưng ở miền Nam vẫn chưa ngừng bắn, hoà bình chưa thật sự được lập lại: Ngụy quyền
Sài Gịn được Mỹ giúp đỡ tiếp tục làm công cụ để thực hiện chủ nghĩa thực dân mới ở
miền Nam Việt Nam. Chính sách cơ bản của đế quốc Mỹ ở Việt Nam vẫn là thực kiện "học
thuyết Nichxơn ", áp đặt chủ nghĩa thực dân mới kiểu Mỹ ở miền Nam, chia cắt lâu dài đất
nước ta".
Nghị quyết nhận định tình hình miền Nam có thể phát triển theo hai khả năng:
Một là, tích cực đấu tranh trên ba mặt trận chính trị, quân sự và ngoại giao buộc địch từng
bước thực hiện Hiệp định Pari;
Hai là, địch ngoan cố gây chiến, ta lại phải tiến hành chiến tranh cách mạng gay go, quyết
liệt để đánh bại địch, giành thắng lợi hoàn toàn.
Nghị quyết nhấn mạnh: Chúng ta hết sức tranh thủ khả năng thứ nhất và chuẩn bị sẵn sàng
cho khả năng thứ hai. Song, dù phát triển theo khả năng nào "Con đường của cách mạng
miền Nam là con đường bạo lực cách mạng. Bất kể trong tình hình nào, ta cũng phải nắm
vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công và chỉ đạo linh hoạt để đưa cách
mạng miền Nam tiến lên".
Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là: "tiếp tục thực hiện chiến lược cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân.... thực hiện một miền Nam Việt Nam hồ bình, độc lập, dân
chủ, trung lập, phồn vinh, tiến tới thống nhất nước nhà".
3
b. Ý nghĩa lịch sử:
Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 21 về thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước và nhiệm vụ của cách mạng miền Nam Việt Nam từng giai đoạn mới
là Nghị quyết cơ bản và quan trọng nhất kể từ sau Hiệp định Pari, trực tiếp chỉ đạo cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trong giai đoạn quyết định.
Trên cơ sở tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, bước đầu rút ra những kinh nghiệm chủ
yếu cho cách mạng miền Nam, Nghị quyết đã đề ra chủ trương, biện pháp cơ bản khi cách
mạng bước sang một giai đoạn mới, mở ra con đường đưa sự nghiệp giải phóng hồn tồn
miền Nam, thực hiện thống nhất đất nước tiến sang giai đoạn quyết định.
Trên cơ sở các phương hướng chính của Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 21, Bộ
Chính trị và Quân uỷ Trung ương cùng các đồng chí lãnh đạo chủ chốt trên các chiến
trường xác định thời cơ đã đến. Thống nhất kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam
trong vịng hai năm 1975, 1976. Dự kiến khả năng nếu thời cơ đến thì lập tức giải phóng
miền Nam trong năm 1975.
Thực hiện kế hoạch trên, ngay từ cuối năm 1974, ta kiên quyết phản công địch, chủ động
mở những cuộc tiến cơng mới nhằm hồn thiện thế trận, tạo điều kiện thực hiện các địn
tiến cơng chiến lược lớn, mở ra thời kỳ phát triển nhảy vọt của cuộc chiến tranh giải phóng
miền Nam, thống nhất nước nhà./.
Câu 2. Đồng chí trình bày sự cần thiết phải đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện ở đại
hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam? Theo đồng chí để tạo ra nguồn
nhân lực đáp ứng u cầu cơng nghiệp hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức trong
CHÍNH giai đoạn hiện nay, chúng ta cần tập trung vào những vấn đề nào? (5 điểm)
1. Sự cần thiết phải đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện ở đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức ở Việt Nam (Trong sách)
Thực tế lịch sử đã chứng minh, trong thời đại tồn cầu hố và hội nhập quốc tế, tất cả các
nước có xuất phát điểm thấp, muốn vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới khơng có con
đường nào khác ngồi việc thực hiện CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT. Đây chính là
xu thế khách quan của thời đại tồn cầu hố; đồng thời cũng là con đường “rút ngắn”
của q trình cơng nghiệp hoá theo hướng hiện đại nhằm chuyển nền kinh tế nông nghiệp
thành nền kinh tế công nghiệp - tri thức - và nền KTTT.
Việc đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở nước ta
được bắt nguồn từ các yêu cầu chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức là con đường tất yếu
của mọi quốc gia trong quá trình phát triển trong bối cảnh ngày nay.
Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là tất yếu đối với mọi quốc gia trên con đường trở thành
một xã hội hiện đại. Thêm vào đó, trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp và các
nền kinh tế phải đối mặt với cạnh tranh. Để tồn tại và phát triển, các chủ thể kinh tế phải
đổi mới cơng nghệ, tiết kiệm chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, phải sử dụng
và khai thác có hiệu quả các nguồn lực. Địi hỏi đó tất yếu thúc đẩy quá trình chuyển việc
4
sản xuất chủ yếu dựa vào công cụ lao động thủ cơng lên sản xuất bằng máy và lên trình độ
ngày càng cao hơn. Đây chính là q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Kinh tế thị trường ngày càng phát triển thì mức độ canh. tranh cũng ngày càng gay gắt
hơn. Việc tìm và tạo ra lợi thế cạnh tranh, tham gia phân công lao động trong nước và
quốc tế để tồn tại và phát triển là yêu cầu bắt buộc đối với mọi chủ doanh nghiệp và mọi
quốc gia. Trong bối cảnh đó, những lợi thế do những biến đổi chủ quan thông qua hoạt
động của con người ngày càng trở nên quyết định hơn so với lợi thế do phân bố ngẫu
nhiên về tài nguyên và vị trí của đất nước. Chính vì thế, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa tất
yếu ngày càng đạt trình độ cao hơn, hoạt động kinh tế có năng suất và hiệu quả cao hơn.
Thứ hai, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức là cách thức để
đất nước sớm ra khỏi tình trạng nghèo và kém phát triển.
Nước ta tiến hành cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ trên thế giới đang diễn ra mạnh mẽ chưa từng có, các nước đang trong xu thế
tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế, chuyển mạnh lên kinh tế tri thức. Ở trong nước, tuy đã
có những phát triển tích cực, nhưng về cơ bản, chúng ta vẫn chưa thốt khỏi tình trạng
nước nghèo và kém phát triển. Đất nước vẫn phải đương đầu với những thách thức gay gắt
và những nhiệm vụ nan giải: Một mặt, tập trung giải quyết các vấn đề cơ bản đặt ra cho
nền kinh tế trong quá trình chuyển từ kinh tế nơng nghiệp lên trình độ của nền kinh tế cơng
nghiệp, như bảo đảm lương thực, thực phẩm, nhu cầu nước sạch, trường học, đi lại cho
người dân; mặt khác, phải nhanh chóng nắm bắt các xu thế phát triển hiện đại không
những chỉ để chống tụt hậu ngày càng xa hơn so với trình độ chung của thế giới, mà còn
phải thu hẹp khoảng cách với các nước phát triển khi bản thân họ đã có trình độ phát triển
cao hơn. Khi các yếu tố cho phát triển kinh tế - xã hội không chỉ đơn thuần là vốn, lao
động, tài ngun thiên nhiên mà cịn có thêm yếu tố tri thức với ý nghĩa ngày càng có vai
trị quan trọng, trực tiếp và quyết định, nếu khơng nhanh chóng nắm bắt và vận dụng được
tri thức mới thì sẽ không thể tránh khỏi sự tụt hậu, cách xa so với các nước phát triển.
Trong điều kiện đó, nước ta khơng thể bỏ lỡ cơ hội, mà phải tìm giải pháp bứt phá, tức là
phải khai thác “lợi thế nước đi sau” nhằm đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
phát triển kinh tế tri thức.
Chỉ có mạnh dạn đi vào phát triển kinh tế tri thức mới có khả năng đẩy nhanh tốc độ cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế. Đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với phát triển kinh tế tri thức còn là cần thiết để cải thiện và nâng cao mức sống người dân.
Thứ ba, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức là yêu
cầu bắt buộc để tạo lập cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; củng cố an ninh,
quốc phịng trong thời đại tồn cầu hóa.
Cơ sở vật chất - kỹ thuật của một phương thức sản xuất là toàn bộ các yếu tố vật chất của
lực lượng sản xuất tương ứng với trình độ kỹ thuật, cơng nghệ nhất định, dựa vào đó lực
lượng lao động của xã hội tiến hành sản xuất của cải. Trình độ phát triển của cơ sở vật chất
- kỹ thuật chính là tiêu thức dùng để xác định một thời đại kinh tế, phân biệt phương thức
sản xuất chứa đựng nó thuộc loại hình kinh tế - xã hội lịch sử nào.
Cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội là nền công nghiệp lớn, hiện đại với cơ cấu
kinh tế hợp lý, trình độ xã hội hóa cao, dựa trên nền tảng khoa học và cơng nghệ tiên tiến,
được hình thành có kế hoạch trên tồn bộ nền kinh tế quốc dân. Nó không chỉ kế thừa
những thành quả văn minh nhân loại đã đạt được trong chủ nghĩa tư bản, mà còn được
phát triển và hoàn thiện trên cơ sở những thành tựu mới nhất của khoa học và công nghệ,
tham gia tích cực và có hiệu quả vào phân cơng lao động và hợp tác quốc tế.
5
Đối với các nước đã qua giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản, bước vào xây dựng chủ
nghĩa xã hội, việc xác lập cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội được tiến hành
thông qua kế thừa, điều chỉnh và hoàn thiện cơ sở vật chất - kỹ thuật đã đạt được trong chủ
nghĩa tư bản theo yêu cầu của chế độ mới và phát triển nó lên trình độ cao hơn. Tạo lập cơ
sở vật chất - kỹ thuật để xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực là địi hỏi có tính bắt buộc
đối với tất cả các nước muốn quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
V.I.Lênin viết: “Cơ sở thực sự và duy nhất để làm tăng các nguồn dự trữ của chúng ta, để
xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa chỉ có thể là đại cơng nghiệp... khơng có một nền đại
cơng nghiệp tổ chức cao, thì khơng thể nói đến chủ nghĩa xã hội nói chung được, mà lại
càng khơng thể nói đến chủ nghĩa xã hội đối với một nước nơng nghiệp được...”.
Địi hỏi này càng trở nên cấp thiết đối với một nước có điểm xuất phát thấp như Việt Nam.
Con đường cơ bản để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, củng cố
tiềm lực quốc phòng, an ninh ở nước ta hiện nay tất yếu phải là đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Thứ tư, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức bắt
nguồn từ yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế sâu hơn, đầy đủ hơn.
Tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế là một xu hướng phát triển nổi trội hiện nay. Trong xu
hướng này, nhân loại đang đẩy nhanh việc đi đến một thị trường thế giới thống nhất, một
hệ thống tài chính tín dụng tồn cầu, phát triển, phân công lao động quốc tế hướng mạnh
theo chiều sâu, giao lưu khoa học và công nghệ giữa các nước ngày càng mở rộng. Hội
nhập kinh tế quốc tế thúc đẩy các doanh nghiệp và các quốc gia sẵn sàng hợp tác với nhau
đi cùng hưởng lợi do hợp tác mang lại.
Hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang tạo cơ hội cho sự phát triển nhảy vọt của nước đi sau,
nhưng nó cũng đặt ra khơng ít thách thức đòi hỏi mỗi nước phải biết lựa chọn giải pháp
phát triển. Đối với nước ta, để chủ động hội nhập sâu hơn, đầy đủ hơn với các thể chế kinh
tế tồn cầu, khu vực và song phương có hiệu quả, một địi hỏi mang tính bắt buộc là phải
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, Phải coi tri
thức là đòn bẩy làm tăng sức cạnh tranh của sản phẩm, của doanh nghiệp và của cả nền
kinh tế, thúc đẩy q trình hội nhập.
Ngồi những cần thiết nêu trên, việc đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức còn bắt nguồn từ vai trị của nó trong việc tạo ra những điều kiện cần
thiết về con người và khoa học, công nghệ để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế cho
phép khai thác và phát huy có hiệu quả các nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế, tạo khả
năng thỏa mãn ngày càng cao nhu cầu của mọi người dân. Thông qua quá trình này sẽ cải
thiện điều kiện của người lao động, giải phóng lao động nặng nhọc, lao động trong môi
trường độc hại, tạo điều kiện cho con người phát triển tự do, tồn diện. Đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức cịn đưa đến nhiều tác dụng cả
về kinh tế, chính trị và xã hội.
2. Theo đồng chí để tạo ra nguồn nhân lực đáp ứng u cầu cơng nghiệp hóa gắn với
phát triển kinh tế tri thức trong CHÍNH giai đoạn hiện nay, chúng ta cần tập trung
vào những vấn đề nào
Để tạo ta nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH gắn liền phát triển kinh tế tri thức, điều
tiên quyết là phải cơ cấu lại sản xuất công nghiệp theo hướng tăng hàm lượng khoa học
công nghệ và tỷ trọng giá trị nội địa trong sản phẩm. Đồng thời phải sử dụng tri thức mới
để chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn như cơng nghệ thơng
tin, khai khống, luyện kim, hóa chất, chế biến nông sản, năng lượng... và đẩy nhanh
6
CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn bằng cách đổi mới công tác đào tạo nhân lực, đưa tri
thức sản xuất, kinh doanh, tri thức khoa học công nghệ đến với người nông dân; sử dụng
công nghệ sinh học làm gia tăng giá trị các mặt hàng nơng-lâm-thủy sản.
Trong bối cảnh tồn cầu hóa, nước ta có được sự lựa chọn rộng rãi để tăng nhanh hàm
lượng khoa học công nghệ trong sản phẩm. Chúng ta cần phải đẩy mạnh việc sử dụng
những tri thức mới của nhân loại bằng nhiều hình thức khác nhau, như nhập khẩu trực tiếp
công nghệ; nhập khẩu công nghệ gián tiếp qua thu hút đầu tư; mua bằng sáng chế hay mời
chuyên gia nước ngoài vào làm việc. Nhưng điều quan trọng hơn, ngoài phần nhập
khẩu cơng nghệ cứng như nói ở trên, cần chủ động học hỏi và nhập khẩu những công nghệ
mềm như công nghệ quản lý, kinh nghiệm sử dụng nhân tài, đổi mới thể chế kinh tế... và
đổi cách cải tiến để thích nghi với điều kiện nước ta. Cơng nghệ và tri thức của nhân loại
sau một thời gian luôn bị thay thế bởi công nghệ và tri thức mới, do đó việc tiếp cận với
chúng là liên tục và khơng có điểm dừng. Đây là điều kiện để chúng ta rút ngắn quá trình
CNH-HĐH gắn với việc vận dụng tri thức mới vào tất cả các ngành kinh tế.
Như trên đã nói, chúng ta phải đồng thời lồng ghép 2 q trình là CNH-HĐH và phát triển
KTTT, do đó phải kết hợp các bước đi tuần tự với các bước phát triển nhảy vọt, với các đề
xuất sau:
Một là, xây dựng 2 trung tâm quốc gia về công nghệ cao ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh,
lấy đây là đầu tàu, là mơ hình tiêu biểu cho phát triển công nghệ của cả nước và là nơi thu
hút, nuôi dưỡng công nghệ và tri thức mới của nhân loại.
Hai là, đẩy nhanh quá trình xây dựng thị trường khoa học-công nghệ theo hướng mọi tri
thức, công nghệ đều được trao đổi, mua bán, chuyển giao thuận lợi trên thị trường, được
ni dưỡng bằng tinh thần cạnh tranh bình đẳng.
Ba là, sử dụng cơng cụ tín dụng và thuế nhằm khuyến khích các doanh nghiệp bỏ qua các
thế hệ cơng nghệ trung gian, đi thẳng vào các công nghệ tiên tiến, công nghệ cao.
Bốn là, tạo môi trường thuận lợi để các tập đồn xun quốc gia khơng chỉ đầu tư xây
dựng cơ sở sản xuất mà còn xây dựng cả cơ sở đào tạo tại chỗ nguồn nhân lực chất lượng
cao, thành thạo kỹ năng nghề nghiệp.
Năm là, khuyến khích du học sinh ra nước ngồi học tập và có chính sách đãi ngộ thích
đáng để thu hút số du học sinh này về nước làm việc hay lập nghiệp.
Sáu là, cần có một chiến lược phát triển khoa học-cơng nghệ với những bước đi thích hợp.
Ở giai đoạn đầu, hướng về sự tiếp cận, tiếp thu, chuyển giao cơng nghệ mới, trong đó ưu
tiên xây dựng các khu công nghệ cao cấp vùng để thu hút công nghệ mới. Hình thành một
số cơ sở nghiên cứu-ứng dụng đủ sức tiếp thu, cải tiến công nghệ và sáng tạo công nghệ
mới gắn sản xuất kinh doanh. Giai đoạn tiếp theo sử dụng cơ chế tài chính khuyến khích
đối tác nước ngoài hợp tác với cơ sở trong nước trong phát triển cơng nghệ mới. Trên nền
tảng đó, tạo ra năng lực nghiên cứu nội sinh giúp các nhà khoa học và cơ sở sản xuất trong
nước tiến tới vận dụng và làm chủ những công nghệ và tri thức mới của nhân loại.
7
Câu 3. Trình bày tác hại của tham nhũng, lãng phí và những giải pháp để phịng
chống tham nhũng, lãng phí có hiệu quả? (5 điểm) – Tự soạn, trong sách
1. Tác hại của tham nhũng, lãng phí
Tham nhũng và lãng phí là hai hành vi khác nhau: Tham nhũng là hành vi cố ý, cịn lãng
phí là hành vi thường là không cố ý. Tham nhũng là hành vi của những chủ thể đặc biệt,
lãng phí là hành vi của bất cứ người nào trong xã hội. Tuy nhiên, tham nhũng và lãng phí
đều có tác hại rất lớn, gây tổn thất về nguồn lực và nhất là gây mất niềm tin của nhân dân
với lực lượng lãnh đạo xã hội, làm tổn hao nguồn vốn trong nhân dân và phá hủy mơi
trường sống.
Tham nhũng có đặc trưng là chỉ xuất hiện trong hoạt động của nhà nước, bản chất là hành
vi có tính nguy hiểm cho xã hội, do đó ngay cả hành vi có mức độ ít nghiêm trọng nhất thì
tham nhũng cũng đã gây tác hại lớn. Tham nhũng xuất hiện và gây hậu quả xấu ở mọi lĩnh
vực của xã hội mà nhà nước có hoạt động hướng tới. Tham nhũng gây ra nhiều tác hại đối
với khơng chỉ nhà nước - nơi nó xuất hiện và tồn tại, mà người dân và cả xã hội đều phải
gánh chịu. Tác hại lớn nhất, bao trùm nhất của tham nhũng chính là tới một mức độ nhất
định, tham nhũng sẽ làm suy yếu sức mạnh lãnh đạo, quản lý xã hội của lực lượng chính
trị cầm quyền, kìm hãm sự phát triển kinh tế dẫn đến nghèo đói, gây mất ổn định chính trị
- xã hội. Chúng ta có thể thấy rõ một số tác hại lớn mà tham nhũng, lãng phí gây ra:
Tham nhũng, lãng phí trước hết gây thất thốt vốn, tài sản của nhà nước, suy giảm
sức mạnh kinh tế của nhà nước và của từng người dân. Vốn, tài sản của nhà nước là
đối tượng chủ yếu của tham nhũng. Thất thoát lớn vừa ở số lượng vốn, tài sản bị chủ thể
tham nhũng chiếm đoạt, vừa do nguồn vốn, tài sản được đầu tư không hợp lý, hoặc đầu tư
không đủ dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn, tài sản không đạt yêu cầu, thậm chí phải đầu tư
nhiều lần mà vẫn không đạt yêu cầu, phải tổ chức thực hiện lại từ đầu. Vì có tham nhũng,
nguồn lực kinh tế của nhà nước bị thâm hụt, hoạt động kinh tế nhà nước thiếu hiệu quả tất
yếu dẫn đến suy giảm sức mạnh kinh tế của nhà nước. Trong thời kỳ xây dựng, phát triển
đất nước thì bên cạnh chức năng bảo vệ đất nước, chức năng tổ chức quản lý kinh tế, thực
hiện chính sách xã hội có ý nghĩa sống còn với nhà nước. Sức mạnh kinh tế suy giảm là
một trong những tiền đề cho việc nhà nước suy yếu toàn diện.
8
Tham nhũng làm suy yếu sức mạnh hành chính của nhà nước. Tham nhũng ảnh hưởng
xấu đến quá trình xây dựng chính sách, pháp luật, gây tác hại đối với tổ chức bộ máy cũng
như làm suy giảm khả năng quản lý kinh tế, xã hội của nhà nước. Tham nhũng góp phần
quan trọng vào việc làm suy giảm vai trị của pháp luật. Những chính sách, pháp luật được
xây dựng và ban hành trong tình trạng bị tham nhũng sẽ ln bị lợi ích cục bộ chi phối nội
dung. Chính sách, pháp luật sẽ mất đi tính khoa học và dân chủ. Tham nhũng cũng làm
quá trình tổ chức bộ máy nhà nước không tuân thủ các nguyên tắc như dân chủ, pháp chế,
tính kinh tế, cơng khai hóa, v... vì thế bộ máy thường cơng kềnh, thiếu hiệu quả, tiếp tục
sinh ra quan liêu. Bên cạnh đó, tham nhũng xuất hiện trong hoạt động thường ngày của
nhà nước, góp phần gây ra tình trạng bộ máy nhà nước vận hành thiếu thống nhất, không
thông suốt, kém hiệu lực, ít hiệu quả. Đồng thời, tình trạng đó lại tiếp tục trở thành điều
kiện để tham nhũng nảy sinh tồn tại, hoành hành.
Một số nhà nghiên cứu khẳng định: “Tham nhũng chứa đựng những mầm mống phi nhà
nước và vận dụng những hệ thống quyền lực coi thường nền dân chủ”. Tham nhũng vừa
làm suy yếu sức mạnh hành chính của nhà nước, vừa chủ động tìm kiếm và tạo ra thêm
những quyền lực phái sinh từ quyền lực nhà nước. Đây là một tiền đề quan trọng xuất hiện
sự liên minh giữa tham nhũng và tội phạm có tổ chức. Trong tình trạng này, quyền lực nhà
nước bị vơ hiệu hóa, nhà nước mất uy tín trước nhân dân, còn nền dân chủ và an ninh xã
hội bị đe dọa nghiêm trọng.
Tham nhũng, lãng phí làm mất danh dự, uy tín, thể diện của quốc gia trước thế giới
(cụ thể như: các nhà tài trợ, các đối tác, tổ chức quốc tế đặt quan hệ với quốc gia đó).
Tham nhũng gây thiệt hại về nhân sự. Một mặt, tham nhũng góp phần tạo ra tình trạng
nguồn nhân lực trong cơ quan nhà nước vừa kém chất lượng, vừa được phân bổ không
khoa học, hiếu hiệu quả. Mặt khác, những người làm cho nhà nước đều có năng lực, trình
độ nhất định và thường dày dạn kinh nghiệm do có thời gian công tác lâu dài cho nhà
nước. Các vụ tham nhũng bị phát hiện, xử lý thường khiến nhà nước khơng chỉ phải loại
bỏ những người có năng lực và kinh nghiệm công tác, mà trong khá nhiều trường hợp, nhà
nước phải xử lý, loại bỏ những người giữ vị trí then chốt từ thấp đến cao trong bộ máy nhà
nước. Để có nhân sự bổ sung cho những vị trí cơng tác này khơng phải là cơng việc dễ
dàng, lại đòi hỏi nhiều thời gian.
Tác hại nghiêm trọng nhất mà tham nhũng, lãng phí gây ra với nhà nước là làm suy
giảm uy tín của nhà nước trước nhân dân, tạo ra mâu thuẫn giữa nhân dân với chính
quyền. Từ đó, nhà nước mất dần vai trị thống trị cả về kinh tế và chính trị đối với xã hội.
Đây là tiền đề cho mất ổn định chính trị - xã hội, là nguy cơ sụp đổ thể chế. Chức năng
quan trọng nhất của nhà nước là quản lý xã hội, duy trì xã hội trong vịng trật tự, bảo vệ
các quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân. Nhưng mục tiêu của tham nhũng lại chính là
chiếm đoạt tài sản của nhà nước, tài sản và các lợi ích hợp pháp khác của cơng dân. Vậy là
khi xuất hiện tham nhũng, không những nhà nước không hồn thành nhiệm vụ bảo vệ lợi
ích hợp pháp của nhân dân mà còn làm thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của nhân
dân. Mất tín nhiệm trước nhân dân là điều đáng lo ngại nhất đối với nhà nước (và tất nhiên
là đối với lực lượng chính trị cầm quyền)
Trong kinh tế, lãng phí là nguyên nhân sâu xa và cũng đồng thời là hậu quả của khủng
hoảng. Hoạt động sản xuất theo phương thức tư bản tạo ra nhiều hàng hóa, buộc hình
thành xã hội tiêu dùng, để đến lượt mình, xã hội tiêu dùng kích thích sản xuất. Nhưng xã
hội tiêu dùng có mặt trái là tiêu dùng cả những thứ khơng có nhiều giá trị sử dụng, gây ra
lãng phí của cải vật chất chung của xã hội. Bên cạnh đó, nền sản xuất tư bản chạy theo lợi
9
nhuận, sản xuất khơng có kế hoạch chung, khơng có sự điều tiết ở tầm vĩ mô nên thường
xuyên gây ra khủng hoảng thừa song hành cùng khủng hoảng thiếu. Đây là thực tế đã được
các nhà kinh tế học chỉ ra nhiều thế kỷ qua.
Tham nhũng, lãng phí có tác hại hết sức to lớn với không chỉ Nhà nước mà ngay cả mỗi
người dân và toàn xã hội. Hiện nay, tình hình tham nhũng, lãng phí ở Việt Nam đang diễn
biến hết sức phức tạp cũng tác động tiêu cực tới nhiều mặt của đời sống xã hội trên nhiều
lĩnh vực, gây thất thoát tài sản đất nước, làm - trở nỗ lực đổi mới, kìm hãm sự phát triển
của đất nước. Tác hại to lớn của tham nhũng mà Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ ra chính là
tham nhũng gây tổn hại nghiêm trọng đến mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với
nhân dân; làm xói mịn niềm tin u của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ; làm
tổn thương, băng hoại giá trị đạo đức truyền thống, làm méo mó bản sắc văn hóa dân tộc,
khoét sâu khoảng cách giàu nghèo, phân cực xã hội; làm giảm uy tín của nước ta trên
trường quốc tế. Tham nhũng, lãng phí thực sự là “quốc nạn”, một trong những nguy cơ lớn
đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ ta, kéo lùi sự phát triển và thậm chí làm hủy hoại
đất nước.
2. Giải pháp để phịng chống tham nhũng, lãng phí có hiệu quả
Để khắc phục tệ lãng phí, nhất là lãng phí tài sản cơng, tài ngun quốc gia, cần thực
hiện một số giải pháp sau:
Một là, tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, trong đó cần tăng
cường những tính chất XHCN trong thực tế, như: dân chủ, công bằng xã hội, tiến bộ xã
hội,…
Hai là, tăng cường quản lý nhà nước về tài sản công theo hướng gắn trách nhiệm với
quyền hạn và nghĩa vụ; trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu; rà sốt, hồn thiện
các quy định, văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, điều hành bảo đảm cơng khai, minh
bạch, góp phần xố bỏ cơ chế "xin - cho", "duyệt - cấp"; ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng,
tiêu cực, "lợi ích nhóm", "sân sau", trục lợi trong quản lý, sử dụng ngân sách, tài sản công,
cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, vốn đầu tư, đất đai, tài ngun, khống sản, tài chính,
ngân hàng, thuế, hải quan, phân bổ, quản lý và sử dụng biên chế... Đẩy mạnh xã hội hóa,
tách cung ứng dịch vụ cơng và quản lý sản xuất kinh doanh ra khỏi chức năng quản lý nhà
nước nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước...
Ba là, nâng cao ý thức chấp hành luật của người đứng đầu, người có thẩm quyền và người
thực thi nhiệm vụ; đồng thời tăng cường sự giám sát của Mặt trận và các đoàn thể quần
chúng và nhân dân đối với cơ quan nhà nước và đội ngũ công chức, viên chức. Sắp xếp lại
bộ máy, tinh giản biên chế gắn với cải cách chế độ công vụ, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức và đổi mới chính sách tiền lương. Thực hiện tốt chính sách nhà ở
nhằm tạo động lực cho cán bộ, công chức theo hướng nhiều chủ thể tham gia, hạn chế tối
đa việc sử dụng ngân sách nhà nước.
Bốn là, tiếp tục thực hiện tốt Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; đồng thời, đẩy
mạnh cải cách hành chính, rà sốt, sửa đổi, hoàn thiện các quy định nhằm tăng cường quản
lý chặt chẽ cán bộ, đảng viên; khắc phục tình trạng ăn uống, chè chén, "liên hoan", "gặp
mặt" không lành mạnh,... Coi lãng phí cũng nghiêm trọng như tham ơ, tham nhũng và có
chế tài mạnh, xử lý nghiêm mọi biểu hiện lãng phí.
Năm là, tiếp tục thực hiện và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tăng
cường biểu dương những cơ quan, tổ chức và cá nhân thực hiện tốt thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí
10
Câu 4. Đồng chí phân tích tính cấp thiết phải chuyển đổi mơ hình tăng trưởng
kinh tế ở Việt Nam hiện nay? (5 điểm)
Với cơng cuộc đổi mới tồn bộ nền kinh tế Việt Nam trong những năm qua, đặc biệt
là ưu tiên phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam đã có
những kết quả nhất định không chỉ trên lĩnh vực kinh tế mà cịn cả lĩnh vực văn hóa, xã
hội… Với việc nhận thức đầy đủ, hoàn chỉnh về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và chủ trương đổi mới mơ hình tăng trưởng các ngành, lĩnh vực kinh tế đã đưa
nước ta thoát ra khỏi một nước có nền kinh tế kém phát triển và có vị thế và tiềm lực như
ngày nay. Với mục tiêu phát triển nhanh, bền vững đất nước trong giai đoạn tới Việt Nam
cần thiết phải chuyển đổi mơ hình tăng trưởng kinh tế vì những lý do sau:
1. Thứ nhất, xuất phát từ hạn chế, yếu kém của mơ hình tăng trưởng kinh tế theo chiều
rộng ở Việt Nam giai đoạn 1991 – 2010.
1.1. Hạn chế của mơ hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam giai đoạn 1991 – 2010
Tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào gia tăng các nguồn lực truyền thống. Trong giai đoạn
1991 - 2010, tăng trưởng kinh tế Việt Nam dựa đáng kể vào mở rộng các đầu vào, mà cụ
thể là vốn và lao động. Trong nhiều năm đóng góp của yếu tố vốn vào tăng trưởng kinh tế
ở mức cao. Chẳng hạn, mức đóng góp của vốn là 63% vào các năm 1997-1999, tăng lên
68% trong thời kỳ 2000-2007, thậm chí cịn lên tới gần 84,1% vào năm 2009. Tương tự, số
lượng lao động tham gia hoạt động kinh tế cũng tăng mạnh, song có đóng góp giảm dần
vào tăng trưởng kinh tế. Như vậy, tăng trưởng kinh tế dựa chủ yếu vào gia tăng số lượng
vốn đầu tư, khai thác tài nguyên.
Tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào các ngành nông nghiệp, công nghiệp. Trong giai
đoạn 1991 – 2010, hai ngành nông nghiệp, công nghiệp luôn chiếm tới trên 60% GD, phần
đóng góp của khu vực dịch vụ, thương mại chỉ ở mức 37-38%. Tỷ lệ của ngành dịch vụ
thấp hơn nhiều so với một số nước trong khu vực như: Singapor: 65%, Philippin 53,5%,
Thái Lan 50%.... Có thể thấy trong giai đoạn này, sự phát triển nền kinh tế Việt Nam dựa
quá nhiều khu vực I, gồm các ngành nơng, lâm, ngư nghiệp và khai thác khống sản. Khu
vực cơng nghiệp chế tạo tuy đã có sự phát triển nhưng chủ yếu là gia công, sử dụng nhiều
lao động phổ thông.
Tăng trưởng kinh tế lấy doanh nghiệp nhà nước làm động lực trọng tâm trong khi khu vực
này hoạt động kém hiệu quả. Số liệu thống kê năm 2009 cho thấy, doanh nghiệp nhà nước
chiếm 37,2% nguồn vốn kinh doanh, 44,8% giá trị tài sản cố định và đầu tư dài hạn nhưng
chỉ tạo ra 25% doanh thu, 37% lợi nhuận trước thuế và 20% giá trị sản xuất công nghiệp.
Tương tự, năm 2010, doanh nghiệp nhà nước nắm khoảng 70% tổng tài sản cố định toàn bộ
nền kinh tế quốc dân, chi phối 30% vốn đầu tư toàn xã hội, 60% tín dụng ngân hàng thương
mại, 50% vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, 70% nguồn vốn ODA. Với nguồn lực lớn như
vậy nhưng doanh nghiệp mới chỉ đóng góp vào GDP từ 37% – 39% và chỉ tạo công ăn việc
11
làm cho khoảng 4,4% lao động và năng suất lao động thấp hơn khu vực tư nhân từ 10% –
14%.
Cơ cấu đầu tư bất hợp lý, hiệu quả đầu tư thấp nhất là đầu tư công. Tỷ lệ vốn đầu tư so với
GDP của Việt Nam thuộc loại cao, chỉ đứng sau Trung Quốc. Trong thập niên cuối của thế
kỷ XX, tỷ lệ này ở mức từ 32 đến 34%. Sang thập niên đầu của thế kỷ XXI tỷ lệ này tăng
mạnh, luôn ở mức trên 40%, riêng năm 2007 lên tới 46,5%. Trong đó, đầu tư của khu vực
nhà nước ln chiếm tỷ trọng cao nhưng tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế này vào
GDP lại khơng tương xứng.
Thể chế điều hành nền kinh tế nhiều bất cập. Việt Nam bước vào thời kỳ đổi mới, mở cửa
và cải cách loại bỏ chế độ quan liêu bao cấp và kế hoạch hóa tập trung, song vai trị của
Nhà nước đối với nền kinh tế vẫn còn mang nặng tính quản lý hành chính. Cùng với đó
các chính sách kinh tế vĩ mô của Việt Nam không ổn định, thiếu thực tế, không nhất quán
và cách thức làm chính sách kinh tế vĩ mơ thường xuất phát từ quan điểm của người quản
lý. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến sự khơng bình đẳng giữa các thành phần kinh tế,
làm cho nền kinh tế bất ổn và kém hiệu quả.
1.2. Những hạn chế đó gây nên hệ quả của mơ hình tăng trưởng kinh tế theo chiều
rộng ở Việt Nam đó là:
Nền kinh tế kém hiệu quả, sự hoạt động không hiệu quả của nền kinh tế Việt Nam biểu
hiện ở hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào của tăng trưởng kinh tế như: hiệu quả sử dụng
vốn đầu tư, hiệu quả sử dụng lao động hay năng suất lao động…
Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế yếu, điều này thể hiện ở năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp trong nước thấp. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn và trên doanh thu của nhiều
doanh nghiệp trong nước đều thấp hơn lãi suất vay ngân hàng. Khả năng cạnh tranh của
hầu hết các hàng hóa của Việt Nam trên thị trường trong nước và thế giới đều rất yếu. Do
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và của sản phẩm yếu nên năng lực cạnh tranh của
nền kinh tế cũng không mấy khả quan.
Mất cân đối vĩ mô trầm trọng. Mất cân đối giữa tiết kiệm của nền kinh (chiếm khoảng
30% GDP) tế so với tổng đầu tư (khoảng 40%), mất cân đối giữa thu và chi ngân sách.
Tăng trưởng kinh tế chưa đi cùng với giải quyết tốt các vấn đề xã hội và môi trường.
Thành tựu xóa đói giảm nghèo chưa thực sự vững chắc, số người có mức thu nhập cận trên
của chuẩn nghèo còn khá cao, khả năng tái nghèo lớn. Một mặt trái của mơ hình tăng
trưởng theo chiều rộng của Việt Nam giai đoạn 1991 – 2010 là sự suy thối mơi trường
nghiêm trọng.
2. Thứ hai, xuất phát từ xu hướng đổi mới mơ hình tăng trưởng sau khủng hoảng tài
chính và suy thối kinh tế tồn cầu.
Đổi mới mơ hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam để thích ứng, phù hợp với những thay
đổi của bối cảnh quốc tế và khu vực. Khủng khoảng kinh tế thế giới năm 2008-2009 là
cuộc khủng khoảng kinh tế, khủng khoảng của các nhà băng, khủng khoảng tín dụng hay
cuộc khủng khoảng "phi vật chất"...Có những ngày, những tuần, hàng loạt ngân hàng
tuyên bố phá sản, bị mua lại hoặc bị kiểm sốt đặc biệt. Từ khi khủng hoảng kinh tế tồn
cầu xảy ra năm 2008, Việt Nam chìm trong vịng xốy tăng trưởng chậm khi các thị trường
xuất khẩu lớn bị ảnh hưởng, sức mua trong nước giảm. Vì vậy, chính phủ các nước đều
nghiên cứu và xác định cần phải đổi mới mơ hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu, bền
vững, dựa vào tri thức, công nghệ sạch, thân thiện mơi trường, ứng phó với biến đổi khí
hậu.
3. Thứ ba, xuất phát từ yêu cầu chủ động, thích ứng trong hội nhập kinh tế quốc tế
12
Hội nhập quốc tế, tham gia ngày càng sâu rộng vào tồn cầu hóa, nhất là giai đoạn hiện
nay là thời điểm nhiều hiệp định thương mại đa phương, song phương có hiệu lực, nhất là
các hàng rào thuế quan của hàng loạt hàng hóa giảm mạnh. Các doanh nghiệp Việt Nam
phải chịu sức ép cạnh tranh tăng lên từ các doanh nghiệp và hàng hóa nước ngồi. Khả
năng thích ứng với hội nhập quốc tế của doanh nghiệp Việt Nam chưa cao. Nhằm đạt mục
tiêu trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại tất yếu phải chuyển đổi mơ hình tăng
trưởng kinh tế.
Với những u cầu cấp thiết đó, Việt Nam cần khắc phục những khó khăn để chuyển đổi
mơ hình tăng trưởng kinh tế từ chiều rộng sang kết hợp tăng trưởng theo chiều rộng với
tăng trưởng theo chiều sâu và chú trọng tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu nhằm đạt được
nhiều kết quả hơn nữa trong phát triển kinh tế.
Tại Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, Đảng ta đã nhận thức những hạn chế của vấn đề đổi
mới mơ hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong những năm gần đây như: Đổi mới
mơ hình tăng trưởng cịn chậm, phát triển nơng nghiệp vẫn còn những yếu tố thiếu bền
vững, tăng trưởng chưa vững chắc; phát triển công nghiệp chưa đáp ứng được u cầu
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, thiếu tính bền vững, chưa tạo ra được ngành cơng nghiệp
trong nước có năng lực cạnh tranh cao, chưa có ngành cơng nghiệp đóng vai trị dẫn dắt;
chất lượng dịch vụ cịn thấp, chuyển dịch cơ cấu ngành dịch vụ còn chậm, xuất khẩu dịch
vụ vẫn còn hạn chế, chưa khắc phục được thâm hụt trong cán cân xuất, nhập khẩu; phát
triển ngành xây dựng chưa tương xứng với tiềm năng; liên kết vùng còn lỏng lẻo, thu ngân
sách chưa bền vững, cơ chế phân cấp quản lý kinh tế, quản lý ngân sách còn thiếu đồng
bộ, thiếu các cơ chế giám sát hiệu quả.
Văn kiện Đại hội XIII cũng đã đưa ra mục tiêu của mơ hình tăng trưởng kinh tế giai đoạn tiếp theo:
Tiếp tục đẩy mạnh đổi mới mơ hình tăng trưởng kinh tế, chuyển mạnh nền kinh tế sang mơ hình tăng
trưởng dựa trên tăng năng suất, tiến bộ KHCN.
Cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo, phát triển các ngành, lĩnh vực,
doanh nghiệp trên nền tảng ứng dụng KHCN.
Phát triển sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, sản phẩm cơng nghệ cao, thân thiện với môi trường
Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển các loại thị trường.
Trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng cũng chỉ ra một số mục tiêu cụ thể đạt được khi chuyển đổi mơ
hình tăng trưởng trong nhiệm kỳ như: Chỉ số phát triển con người HDI: ở nhóm trung bình cao của thế
giới. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 6,5 -7%/ năm. GDP bình quân năm 2025 đạt 4.700 – 5.000 USD.
Đóng góp của yếu tố năng suất các nhân tố tổng hợp TFP đạt 45%. Tuổi thọ trung bình đạt 74,5 tuổi. Lao
động qua đào tạo đạt 70%. Có 10 bác sĩ và 30 giường bệnh/ 1 vạn dân. Tham gia bảo hiểm y tế đạt 95%.
Sử dụng nước sạch của dân cư thành thị là 95-100%, nông thôn là 93 -95%. Thu gom và xử lý chất thải
rắn đạt 90%. Khu cơng nghiệp, khu chế xuất có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn là 92%.
Cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng bị xử lý đạt 100%. Tỷ lệ che phủ rừng đạt 42 %.
Như vậy, với việc nhìn thẳng vào những khuyết điểm, hạn chế và đưa ra những mục tiêu cụ thể trong giai
đoạn 2020-2025 Đảng ta nhấn mạnh việc cần thiết phải đổi mới mơ hình tăng trưởng một cách cụ thể và
đồng bộ hơn nhằm phát triển nền kinh tế hướng tới sự bền vững góp phần sớm thực hiện được mục tiêu
Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh.
Câu 5. Trình bày tác hại của tham nhũng, lãng phí và những giải pháp chủ yếu để phịng
chống tham nhũng, lãng phí có hiệu quả?
(giống câu 3)
13
Câu 6. Đồng chí hiểu thế nào là chủ động và tích cực hội nhập quốc tế? Nêu quan
điểm hội nhập quốc tế theo tinh thần nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ
Chính trị về hội nhập quốc tế? (5 điểm)
- Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là hồn tồn chủ động quyết định đường lối, chính
sách hội nhập kinh tế quốc tế, không để rơi vào thế bị động; Phân tích lựa chọn phương
thức hội nhập đúng, dự báo được những tình huống thuận lợi và khó khăn khi hội nhập
KTQT
- Tích cực hội nhập kinh tế quốc tế là khẩn trương chuẩn bị, điều chỉnh, đổi mới bên trong
từ phương thức lãnh đạo, quản lý đến hoạt động thực tiễn; từ TW đến CS, khẩn trương XD
lộ trình, kế hoạch, hồn chỉnh hệ thống PL; nâng cao năng lực cạnh tranh...
Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế là tiền đề, điều kiện quan trọng để nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN phát triển trong bối cảnh hội nhập quốc tế
Đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại và đầu tư, mở rộng thị trường (trong nước
và ngoài nước)
Khi thác hiệu quả các cơ chế hợp tác quốc tế, các nguồn lực bên ngồi (như vốn, khoa học
– cơng nghệ, kinh nghiệm quản lý, tổ chức vận hành nền kinh tế thị trường hiện đại)
Nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Xây dựng và phát triển lợi thế quốc gia
trong kinh tế đối ngoại thích nghi với sự thay đổi xu hướng phát triển của nền kinh tế thế
giới
Tìm kiếm và mở rộng các đối tác, đặc biệt là các đối tác chiến lược, đối tác lớn.
* Quan điểm hội nhập quốc tế theo tinh thần nghị quyết số 22-NQ/TW ngày
10/4/2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế?
Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở giữ vững đường lối đối ngoại độc lập tự
chủ, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì hịa bình, hợp tác và phát triển, chính sách đối ngoại
rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế; quán triệt và vận dụng sáng tạo các
bài học kinh nghiệm và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn được tổng kết trong Cương lĩnh;
đồng thời chú trọng một số quan điểm sau:
- Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế là định hướng chiến lược lớn của Đảng nhằm thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo
của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Mọi cơ chế, chính sách phải phát huy tính chủ
động, tích cực và khả năng sáng tạo của tất cả các tổ chức, cá nhân, khai thác hiệu quả các
tiềm năng của toàn xã hội, của các tầng lớp nhân dân, bao gồm cả cộng đồng người Việt
Nam đang sinh sống và làm việc ở nước ngồi vào cơng cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Hội nhập quốc tế trên cơ sở phát huy tối đa nội lực; gắn kết chặt chẽ và thúc đẩy q
trình hồn thiện thể chế, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, hiện đại hóa kết cấu hạ tầng,
nâng cao sức mạng tổng hợp và năng lực cạnh tranh quốc gia; gắn kết chặt chẽ với việc
tăng cường mức độ liên kết giữa các vùng, miền, khu vực trong nước.
14
- Hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội
nhập kinh tế và góp phần tích cực vào phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng, bảo đảm an
ninh quốc gia, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, thúc đẩy phát triển văn hóa, xã
hội; hội nhập trong các lĩnh vực phải được thực hiện đồng bộ trong một chiến lược hội
nhập quốc tế tổng thể với lộ trình, bước đi phù hợp với điều kiện thực tế và năng lực của
đất nước.
- Hội nhập quốc tế là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh; kiên định lợi ích quốc gia, dân
tộc; chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống, khơng để rơi vào thế bị động, đối
đầu; không tham gia vào các tập hợp lực lượng, các liên minh của bên này chống bên kia.
- Nghiêm chỉnh tuân thủ các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia đi đơi với chủ động,
tích cực tham gia xây dựng và tận dụng hiệu quả các quy tắc, luật lệ quốc tế và tham gia
các hoạt động của cộng đồng khu vực và quốc tế; chủ động đề xuất sáng kiến, cơ chế hợp
tác trên nguyên tắc cùng có lợi; củng cố và nâng cao vai trò trong cộng đồng khu vực và
quốc tế, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến
bộ xã hội trên thế giới.
Câu 7. Trình bày quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước về hoạch định và thực
hiện chính sách xã hội ở Việt Nam hiện nay? Liên hệ việc thực hiện chính sách xã hội
của Đảng và Nhà nước nhằm giải quyết các vấn đề xã hội ở cơ sở? (5 điểm)
Trang 157 – 164
1. Một số quan điểm cơ bản về hoạch định và thực hiện chính sách xã hội
15
1.1. Quan điểm Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ
- Chính sách xã hội phản ảnh quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nước Việt Nam.
Theo quy định của Điều lệ Đảng và Hiến pháp năm 2013, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực
lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Trong khi đó, việc hoạch định và thực hiện hệ thống
chính sách pháp luật là một nội dung cơ bản trong hoạt động của Nhà nước và xã hội. Do
vậy, việc hoạch định và thực hiện hệ thống chính sách xã hội phải đảm bảo nguyên tắc
Đảng lãnh đạo, phản ánh và thể hiện được quan điểm, đường lối của Đảng liên quan đến
chính sách xã hội và giải quyết các vấn đề xã hội của đất nước trong từng giai đoạn, thời
kỳ.
Ngay từ năm 1986, mở đầu cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước Đảng đã chỉ rõ: Trình độ
phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội, nhưng mục tiêu xã
hội lại là mục đích của các hoạt động kinh tế. Tại Đại hội VII (1991), Đảng đã nêu lên
định hướng lớn: Chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to lớn
phát triển mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong xây dựng xã hội chủ nghĩa. Trên cơ
sở định hướng ấy, Đảng đã chính thức khẳng định một số quan điểm chỉ đạo việc kết hợp
hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội. Tại Đại hội VIII (1996),
Đảng đã bổ sung: Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay
trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển; đề ra những quan điểm chỉ đạo việc
hoạch định và thực hiện hệ thống chính sách xã hội, đó là: Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế phải và
luôn gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội. Thứ hai, thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân
phối theo lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn
lực khác vào kết quả sản xuất kinh doanh và phân phối thơng qua phúc lợi xã hội, đi đơi với chính sách
điều tiết hợp lý, bảo vệ quyền lợi của người lao động. Thứ ba, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đối với
tích cực xóa đói, giảm nghèo, thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển, về mức sống giữa các vùng,
các dân tộc, các tầng lớp dân cư. Thứ tư, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc “uống nước nhớ
nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa”, ... Thứ năm, các vấn đề chính sách xã hội đều được giải quyết theo tinh thần
“xã hội hóa”.
Đại hội lần thứ IX của Đảng nhấn mạnh: Thực hiện các chính sách xã hội, hướng vào phát
triển và lành mạnh hóa xã hội, thực hiện công bằng trong phân phối, tạo động lực mạnh
mẽ phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, thực hiện bình đẳng trong các quan
hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp và các chính sách xã hội được tiến
hành theo tinh thần xã hội hóa, đề cao tinh thần trách nhiệm của chính quyền các cấp, huy
động các nguồn lực trong nhân dân, các tổ chức xã hội.
Đồng thời, tại các Đại hội IX, X, XI, XII, Đảng Công Việt Nam liên tục khẳng định nhiệm
vụ, mục tiêu của từng lĩnh vực cụ thể cần tập trung giải quyết trong những năm tới là: Giải
quyết việc làm là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của chính sách xã hội; tiền lương và thu
nhập; xóa đói, giảm nghèo; đền ơn đáp nghĩa; uống nước nhớ nguồn;, … Nhằm khơng
ngừng hồn thiện quan điểm về hoạch định và thực hiện chính sách xã hội, tại Hội nghị
Trung ương 5 khóa XI, Đảng đưa ra 4 quan điểm mang tính định hướng trong hoạch định
và thực hiện hệ thống chính sách xã hội: Một là, chính sách xã hội có vai trị đặc biệt quan
trọng, là mục tiêu, là động lực để phát triển nhanh và bền; phải được đặt ngang tầm với
chính sách kinh tế và thực hiện đồng bộ với phát triển kinh tế, phù hợp với trình độ phát
triển và khả năng nguồn lực. Hai là, chính sách xã hội phải được thực hiện đồng bộ, có
trọng tâm, trọng điểm; ưu tiên chính sách đối với người có cơng; bảo đảm mức sống tối
thiểu và hỗ trợ kịp thời người có hồn cảnh khó khăn. Ba là, tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị và truyền thống tốt đẹp, tương thân,
tương ái của dân tộc ta. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong xây dựng và tổ chức thực hiện
các chính sách xã hội, đồng thời huy động sự tham gia mạnh mẽ của toàn xã hội. Bốn là,
16
xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển phù hợp, có chương trình hành động cụ thể, khả
thi và tổ chức thực hiện quyết liệt, đồng thời làm tốt công tác tuyên truyền, tạo đồng thuận
cao trong xã hội.
1.2. Quan điểm giai cấp
- Tính liên minh cơng - nơng - trí thức: Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Hiến pháp
năm 2013 và hệ thống pháp luật của Việt Nam đều quy định: Việc xây dựng nhà nước và
phát triển xã hội Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa là dựa trên nền tảng liên
minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
- Đảm bảo lợi ích của các giai cấp, tầng lớp xã hội: Trong Hiến pháp năm 2013 và các
văn bản Đảng và Nhà nước khẳng định: Xã hội Việt Nam là một xã hội đa dạng nhiều giai
cấp, tầng lớp, dân tộc và tôn giáo. Giữa các giai cấp, tầng lớp, dân tộc và tơn giáo đều có
quyền bình đẳng về cơ hội phát triển và đảm bảo về lợi ích.
1.3. Quan điểm phát triển
Quan điểm phát triển đòi hỏi chúng ta khi nhận thức sự vật phải xem xét nó trong sự vận
động, biến đổi, phải phân tích các sự vận động phức tạp của sự vật, tìm ra khuynh hướng
phát triển cơ bản của chúng để cải biên sự vật phục vụ cho nhu cầu của con người. Phát
triển được diễn ra theo 3 hình thức từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn
thiện đến hoàn thiện. Khuynh hướng chung của thế giới tự nhiên - xã hội là luôn phát triển
theo hướng cái mới thay thế cái cũ, cái sau tiến bộ hơn cái trước. Do đó, chúng ta phải có
quan điểm phát triển trong q trình hoạch định, thực hiện chính sách xã hội.
1.4. Quan điểm hệ thống
Hệ thống là một tập hợp những mối tương tác giữa các bộ phận theo thời gian. Sử dụng
quan điểm hệ thống trong hoạch định và thực hiện chính sách xã hội sẽ giúp chúng ta hiểu
là mọi sự việc ln có mối tương quan nhiều chiều, phi tuyến tính, chúng do tác động
nhiều yếu tố: xã hội, văn hóa, kinh tế, nhân văn, vv chi phối. Do vậy, cần có cái nhìn hệ
thống trong hoạch định và thực hiện chính sách xã hội nhằm giải quyết vấn đề xã hội một
cách tổng thể, toàn diện; trong mối liên hệ lẫn nhau chứ khơng phải cục bộ, phiến diện; chỉ
khi đặt chính sách xã hội và phân tích, giải quyết vấn đề xã hội đặt trong mối liên hệ tồn
hệ thống thì mới tìm được giải pháp hữu hiệu, hài hịa và bền vững.
1.5. Quan điểm khoa học
Nguyên tắc này đòi hỏi:
- Về nội dung các quy định của chính sách xã hội phải được xây dựng trên cơ sở những
thành tựu khoa học mới nhất,
- Về hình thức bố cục, cấu trúc, cách thức trình bày các nội dung văn bản chính sách, ...
phải mang tính khoa học.
Xây dựng chính sách xã hội trên cơ sở khoa học chính là điều kiện để đảm bảo hiệu lực và
hiệu quả thực tế của các văn bản, quy định của chính sách xã hội.
2. Liên hệ việc thực hiện chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước nhằm giải quyết
các vấn đề xã hội ở cơ sở?
* Thành tựu
Từ nhiều năm qua, Đảng ủy và UBND xã Đại Hưng luôn quan tâm xây dựng và tổ chức
thực hiện các chính sách xã hội, coi đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển bền
vững, ổn định chính trị - xã hội. Nhờ hệ thống pháp luật và chính sách phát triển các lĩnh
vực xã hội ngày càng được bổ sung và hồn thiện. Nên diện thụ hưởng chính sách ngày
càng mở rộng, mức hỗ trợ được nâng lên; Nguồn lực đầu tư phát triển các lĩnh vực xã hội
ngày càng lớn, được tăng cường đầu tư từ ngân sách nhà nước và các nguồn lực xã hội
17
khác. Các lĩnh vực xã hội trên địa bàn xã Đại Hưng đã đạt được nhiều thành tựu quan
trọng, nhất là giảm nghèo, tạo việc làm, ưu đãi người có công, giáo dục và đào tạo, y tế,
trợ giúp người có hồn cảnh đặc biệt khó khăn, cơng tác gia đình và bình đẳng giới. Đời
sống vật chất và tinh thần của người có cơng, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số được
cải thiện, góp phần củng cố lịng tin của nhân dân và sự ổn định chính trị - xã hội.
* Tồn tại
Tuy nhiên, lĩnh vực xã hội vẫn còn nhiều hạn chế, một số mặt yếu kém kéo dài, chậm được
khắc phục. Tạo việc làm và giảm nghèo chưa bền vững, tỷ lệ hộ cận nghèo, tái nghèo cịn
cao. Mức trợ cấp ưu đãi người có cơng còn thấp. Chất lượng giáo dục và đào tạo chưa đáp
ứng yêu cầu phát triển; kết quả phổ cập giáo dục ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn
thấp (Làng Yều); chất lượng cơng tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe chưa đáp ứng được yêu
cầu của nhân dân, nhất là đối vùng dân tộc thiểu số (Làng Yều); tỷ lệ trẻ em suy dinh
dưỡng còn cao và giảm chậm; vệ sinh, an toàn thực phẩm chưa được kiểm sốt chặt chẽ.
Ðời sống của một bộ phận người có công, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số vẫn cịn
rất khó khăn, chưa bảo đảm được mức tối thiểu các dịch vụ xã hội cơ bản, nhất là về nhà ở
và sử dụng nước sạch.
* Giải pháp
1. Tiếp tục quán triệt, nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cán bộ, nhất là người đứng đầu
cơ quan, tổ chức và nhân dân về chính sách xã hội; tiếp tục bám sát các quan điểm, mục
tiêu, nhiệm vụ và giải pháp đã nêu trong Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 1/6/2012 của
BCH Trung ương Đảng khóa XI và Nghị quyết số 70/NQ-CP ngày 1/11/2012 của Chính
phủ.
2. Tập trung triển khai thực hiện tốt Pháp lệnh Ưu đãi người có cơng với cách mạng; thực
hiện đầy đủ, kịp thời các chính sách, chế độ đối với người có cơng. Đẩy mạnh thực hiện
phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, “Uống nước nhớ nguồn”, “xã phường làm tốt công tác
thương binh liệt sỹ và người có cơng”, huy động mọi nguồn lực trong xã hội, cộng đồng
để cùng Nhà nước chăm lo tốt hơn đời sống vật chất, tinh thần của người có cơng và thân
nhân của họ. Đầu tư xây dựng, sửa chữa, tôn tạo, nâng cấp nghĩa trang liệt sỹ, các cơng
trình ghi công liệt sỹ.
3. Quan tâm tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động bằng các chính sách hỗ trợ
phát triển sản xuất, tạo việc làm, học nghề, đưa lao động đi làm việc tại nước ngồi, trong
đó ưu tiên người nghèo, người dân tộc thiểu số thuộc các xã nghèo, thơn bản đặc biệt khó
khăn.
4. Triển khai thực hiện hiệu quả các cơ chế chính sách đối với hộ nghèo, hộ cận nghèo, các
đối tượng bảo trợ xã hội theo quy định hiện hành.
5. Tăng cường quản lý nhà nước về công tác bảo hiểm xã hội nhằm thực hiện hiệu quả
chính sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến chính sách,
pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm xã hội tự nguyện; khuyến
khích nơng dân, người lao động tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện.
6. Quan tâm hỗ trợ phát triển giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, đặc biệt đối với
đông bào dân tộc thiểu số (Làng Yều). Thực hiện các chế độ hỗ trợ giáo dục đối với thanh
niên, thiếu niên thuộc hộ nghèo, hộ dân tộc thiểu số để bảo đảm phổ cập giáo dục bền
vững. Nâng cao hiệu quả các chính sách về nước sạch và vệ sinh mơi trường nơng thơn
trên địa bàn tỉnh gắn với Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới;
18
Câu 8. Nêu và phân tích các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cơ
quan, đơn vị đồng chí đang cơng tác? (5 điểm)
Nhằm khơng ngừng nâng cao trình độ, năng lực và chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, cơng chức,
xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở trong sạch, vững mạnh, góp phần thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội, Nghị quyết số 20-NQ/TU, ngày 20/12/2021 của Tỉnh ủy Quảng Nam về
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công tác cán bộ và kiện toàn tổ chức bộ máy giai
đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030, Công văn số 915-CV/TU, ngày 05/4/2022 về
đánh giá hằng tháng đối với cán bộ, công chức, viên chức. Đề án số 10-ĐA/TU ngày
30/03/2022 của Tỉnh ủy Quảng Nam. Trên cơ sở Đề án, và chỉ đạo trực tiếp của Phòng
giáo dục và đào tạo huyện Đại lộc, việc quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ,
công chức hằng năm của trường THCS Quang Trung được thực hiện một cách chủ động,
nề nếp và đạt chất lượng, hiệu quả. Hằng năm, trường dành riêng nguồn kinh phí cho đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ viên chức. Bố trí ngân sách để chi hỗ trợ cho đối tượng cán
bộ, công chức được cử đi đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn chuyên môn. Hoạt động sinh hoạt
giao lưu về công tác chuyên môn với các trường trong cụm, huyện cũng được đẩy mạnh,
tạo điều kiện cho cán bộ, cơng chức có điều kiện giao lưu, học hỏi kinh nghiệm, nâng cao
nghiệp vụ sư phạm. Qua gần 1 năm thực hiện Nghị Quyết 20/NQ-TU, nhà trường đã cử 1
giáo viên tham gia học nâng chuẩn từ trình độ cao đẳng lên trình độ đại học, 1 giáo viên
tham gia học lớp trung cấp chính trị, 1 giáo viên tham gia học khóa bồi dưỡng cán bộ quản
lý nhà nước về giáo dục, tổ chức được 4 lượt sinh hoạt chuyên đề cấp cụm, huyện tại
trường. Ngoài ra trong năm học qua, nhà trường đã tạo điều kiện để 100% giáo viên tham
gia giao lưu sinh hoạt chuyên mơn tại các trường trong huyện trung bình 2 lần/mơn/năm
Nhờ vậy, chất lượng đội ngũ cán bộ, viên chức trong nhà trường tăng lên rõ rệt, đến
nay, tỷ lệ cán bộ, viên chức đạt chuẩn là 100%, số giáo viên có bằng trung cấp chính trị là
03 người, có chứng chỉ quản lý nhà nước về giáo dục là 04 người; trường có 04 giáo viên
là giáo viên cốt cán trong Hội đồng bộ môn của Sở giáo dục Quảng Nam và Phòng giáo
dục Đại lộc.
Bác Hồ đã từng chỉ rõ: “Không phải vài ba tháng hoặc vài ba năm mà đào tạo được
một cán bộ tốt. Cần phải công tác, đấu tranh, huấn luyện lâu năm mới được”. Do đó, bên
cạnh việc đào tạo, bồi dưỡng qua trường lớp, việc đào tạo cán bộ, công chức qua hoạt
động thực tiễn cũng được lãnh đạo nhà trường quan tâm chỉ đạo. Công tác này được thực
hiện liên tục trong quá trình sử dụng cán bộ, viên chức. Hàng năm, mỗi cán bộ viên chức
đều có tự đánh giá xếp loại viên chức, được tập thể nhà trường góp ý bổ sung những thiếu
sót, hạn chế của mỗi người để phấn đấu đạt mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ, viên chức
có trình độ chun mơn và lý luận chính trị đạt chuẩn, nhiệt tình, trách nhiệm, tâm huyết,
gắn bó với nhân dân, với trường lớp và với học sinh; có phẩm chất đạo đức tốt, tin tưởng
vào đường lối lãnh đạo của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.
Nhìn một cách tổng thể, đến nay, đội ngũ cán bộ, viên chức ở trường THCS Quang
Trung đã được được chuẩn hoá, đã đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Đội
ngũ cán bộ, viên chức được đào tạo, bồi dưỡng đã giúp họ trưởng thành hơn về mọi mặt.
Tuy nhiên, do yếu tố khách quan, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của nhà trường chưa
thực sự gắn quy hoạch vị trí việc làm với đào tạo, bồi dưỡng, một số trường hợp chuyên
ngành đào tạo khơng đúng với quy hoạch vị trí việc làm. Việc bố trí cơng tác cịn có
trường hợp chưa thật sự hợp lý, vẫn cịn tình trạng bố trí cán bộ làm công tác chuyên môn,
nghiệp vụ không đúng chuyên ngành: có trường hợp chun ngành kế tốn lại được bố trí
19
công tác thiết bị, giáo viên chuyên ngành mỹ thuật lại bố trí dạy mơn nghệ thuật (theo
chương trình mới gồm âm nhạc và mỹ thuật), giáo viên chuyên ngành vật lý lại bố trí dạy
mơn tin học... Để khắc phục những tồn tại trên và nâng cao chất lượng công tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, viên chức ở trường THCS Quang Trung, thời gian đến nhà trường sẽ tập
trung thực hiện tốt một số giải pháp sau:
Một là, tiếp tục quán triệt nhận thức sâu, kỹ Nghị quyết số 20-NQ/TU, ngày
20/12/2021 của Tỉnh ủy Quảng Nam về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công tác cán
bộ và kiện toàn tổ chức bộ máy giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030, xây dựng
bổ sung quy hoạch cán bộ viên chức giai đoạn 2022-2025 định hướng đến năm 2030. Trên
cơ sở quy hoạch cán bộ đó, sẽ điều chỉnh, bổ sung quy hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ giai
đoạn 2025-2030.
Trên cơ sở quy hoạch các chức vụ lãnh đạo, quản lý và quy hoạch vị trí việc làm của đội
ngũ giáo viên, nhân viên, nhà trường sẽ xác định được những vị trí việc làm cịn khuyết
cán bộ hoặc cán bộ có chuyên ngành, năng lực khơng phù hợp từ đó sẽ có kiến nghị, đề
xuất cấp trên có kế hoạch phân bổ nguồn nhân lực; định hướng và hỗ trợ, tạo điều kiện cho
giáo viên, nhân viên tham gia các khóa học đào tạo bồi dưỡng chuyên ngành phù hợp với
vị trí việc làm.
Hai là, đổi mới nội dung, hình thức, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Trang bị, nâng
cao kiến thức, kỹ năng, phương pháp công tác cho đội ngũ nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ,
viên chức chuyên nghiệp, có phẩm chất tốt và đủ năng lực, tận tụy với công việc.
Hằng năng, nhà trường sẽ căn cứ vào kết quả xếp loại viên chức, xếp loại chuẩn nghề
nghiệp của giáo viên, nhân viên để tổ chức cho giáo viên đăng ký tự bồi dưỡng về những
vấn đề nghiệp vụ mà mình cịn hạn chế (về phương pháp, kỹ thuật dạy học, về ứng dụng
công nghệ thông tin trong dạy học...). Những giáo viên trong cùng nhóm bộ mơn sẽ tổ
chức các buổi sinh hoạt chun mơn để thảo luận góp ý xây dựng cho nhau, và cuối cùng
là nhận xét, đánh giá lẫn nhau về kết quả đạt được sau thời gian tự bồi dưỡng. Kết quả
đánh giá có sự theo dõi và nhận xét, xác nhận của tổ trưởng chuyên môn. Nhà trường sẽ tổ
chức thanh tra, kiểm tra hoạt động sư phạm đối với giáo viên và có nhận xét đánh giá cụ
thể.
Ba là, gắn công tác đào tạo, bồi dưỡng với quy hoạch, bố trí sử dụng cán bộ. Những
cán bộ được đào tạo, bồi dưỡng về chuyên ngành nào sử dụng đúng chuyên môn để phát
huy kiến thức được học. Mạnh dạn sử dụng cán bộ, công chức trẻ, có triển vọng phát triển
đã được đào tạo đủ chuẩn chức danh.
Trước hết nhà trường sẽ bố trí cán bộ, giáo viên, nhân viên có chuyên ngành, năng lặc phù
hợp với các vị trí việc chủ chốt, cần thiết cho hoạt động của nhà trường. Những trường
hợp chuyên ngành chưa phù hợp, nhà trường sẽ vận động, tạo điều kiện và hỗ trợ để họ
tham gia các khóa đào tạo bồi dưỡng với hình thức phù hợp với điều kiện cụ thể (từ xa, tại
chức, vừa học vừa làm)
Những cán bộ được quy hoạch giữ các chức vụ lãnh đạo và dự nguồn cán bộ lãnh đạo sẽ
được cử đi học các khóa học trung cấp chính trị, quản lý giáo dục để đảm bảo cho cán bộ
có năng lực ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ mới.
Bốn là, thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát đối với cán bộ. Kịp thời phát huy
những ưu điểm, khắc phục nhược điểm, có những góp ý điều chỉnh phù hợp.
Kiểm tra giám sát là công việc được nhà trường xác định là công việc thường xuyên, liên
tục. Việc kiểm tra giám sát phải thực chất, nghiêm túc, không xê xoa hay làm cho có lệ,
khơng nể nang, né tránh. Khơng xoi mói, “vạch lá tìm sâu” khi kiểm tra nhưng Góp ý chân
20
thành, thẳn thắn với những hạn chế mà cán bộ, giáo viên mắc phải. Từ đó giúp cán bộ,
giáo viên khắc phục những nhược điểm và phát huy những ưu điểm vốn có để năng lực
chun mơn ngày càng được nâng lên, đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ.
Năm là, thực hiện nghiêm túc công tác đánh giá đánh giá cán bộ viên chức, xếp loại chuẩn
nghề nghiệp hàng năm đối với giáo viên. Coi đây là nhiệm vụ quan trọng và là cơ sở để
thực hiện công tác nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ viên chức trong nhà trường.
Cuối mỗi năm học, nhà trường tổ chức nghiêm túc việc đánh giá xếp loại cán bộ viên chức
và chuẩn nghề nghiệp giáo viên. Việc đánh giá xếp loại được tiến hành đúng quy trình. Từ
cá nhân tự nhận xét, đánh giá đến tổ chuyên môn nhận xét đánh giá, và cuối cùng là nhà
trường nhận xét đánh giá. Trong khi tổ chuyên môn nhận xét đánh giá sẽ tổ chức cho từng
giáo viên trình bày bản tự nhận xét để giáo viên trong tổ góp ý nhận xét bổ sung, tiêu chí
nào cần được nâng lên, tiêu chí nào cần hạ xuống và có lí do, minh chứng cụ thể. Cuối
cùng là lãnh đạo nhà trường sẽ căn cứ vào nhận xét đánh giá của mình, đối chiếu với theo
dõi của nhà trường để đưa ra kết quả nhận xét đánh giá cuối cùng.
Dưới sự điều hành của Chủ tịch cơng đồn, lãnh đạo nhà trường cũng phải thực hiện tự
nhận xét đánh giá trước hội đồng sư phạm sau đó giáo viên trong tổ sẽ đưa ra nhận xét
đánh giá đối với từng thành viên lãnh đạo. Việc đánh giá đảm bảo khách quan, dân chủ và
chính xác, đem lại sự hài lịng đối với tồn hội đồng sư phạm nhà trường.
Thiết nghĩ, thực tiễn rất sinh động, đặc thù của mỗi địa phương, mối cơ quan khác
nhau và việc vận dụng vào thực tiễn cũng khác nhau, nhưng dù thế nào đi nữa việc đào
tạo, bồi dưỡng là yếu tố quan trọng để người cán bộ, cơng chức ngày càng phát huy hơn
vai trị của mình trong công tác. Với trách nhiệm cụ thể của Cấp uỷ Chi bộ, của lãnh đạo
nhà trường và đội ngũ cán bộ hiện nay, chắc chắn công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ viên
chức của nhà trường sẽ có bước phát triển mới, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới là thực
hiện tốt chương trình giáo dục phổ thơng mới 2018; của thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước./.
Câu 9. Đồng chí trình bày khái quát nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam cấp xã? Liên hệ thực tế về hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam tại xã, phường, thị trấn nơi đồng chí đang sinh sống hoặc công tác? (5 điểm).
1. Khái quát nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã
1.1. Phối hợp và thống nhất hành động giữa các thành viên trong Mặt trận
Phối hợp và thống nhất hành động giữa các thành viên không chỉ là phương thức hoạt
động mà còn là nguyên tắc làm việc của Mặt trận. Phương thức này được thực hiện từ
Trung ương đến cơ sở, trên các lĩnh vực hoạt động của Mặt trận về chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội, an ninh - quốc phòng, đối ngoại nhân dân và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của nhân dân. Nội dung phối hợp và thống nhất hành động giữa các thành viên cơ sở cụ
thể như sau:
1.1.1. Phối hợp trong tổ chức và thực hiện các phong trào, các cuộc vận động
- Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nơng thơn mới, đơ thị văn minh” với mục
đích khơng ngừng củng cố và phát huy khối đoàn kết toàn dân tộc, tạo nên sức mạnh tổng
21
hợp góp phần hồn thành các mục tiêu xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh và giảm
nghèo bền vững với 5 nội dung trọng tâm là:
+ Đoàn kết tham gia phát triển kinh tế, tích cực giúp nhau giảm nghèo bền vững, nâng cao
đời sống, khuyến khích làm giàu chính đáng.
+ Đồn kết xây dựng đời sống văn hóa, chăm lo sự nghiệp giáo dục, phát triển nguồn nhân
lực, chăm sóc sức khỏe nhân dân; xây dựng gia đình văn hóa; phát huy truyền thống đền
ơn, đáp nghĩa, tương thân, tương ái.
+ Đoàn kết tham gia bảo vệ mơi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, xây dựng cảnh quan
mơi trường sáng, xanh, sạch, đẹp.
+ Đồn kết chấp hành pháp luật, bảo đảm trật tự an toàn xã hội.
+ Đồn kết phát huy dân chủ, tích cực tham gia giám sát và phản biện xã hội, góp phần
xây dựng hệ thống chính trị cơ sở trong sạch, vững mạnh.
Mỗi nội dung của cuộc vận động đều có những việc làm, những hoạt động cụ thể. Mặt trận
Tổ quốc các cấp cần đẩy mạnh công tác truyền thông, hiệp thương, phân công trách nhiệm
cụ thể để tổ chức thực hiện cuộc vận động phù hợp với khu vực nông thôn, khu vực đô thị,
với từng địa bàn dân cư; gắn việc thực hiện cuộc vận động này với những phong trào thi
đua yêu nước do Trung ương và các địa phương phát động.
- Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”.
+ Cuộc vận động nhằm phát huy mạnh mẽ lịng u nước, ý chí tự lực, tự cường, tự tôn
dân tộc, xây dựng văn hóa tiêu dùng của người Việt Nam và sản xuất ra nhiều hàng hóa
Việt Nam có chất lượng, sức cạnh tranh cao, đáp ứng yêu cầu tiêu dùng trong nước và xuất
khẩu.
+ Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của mình, Mặt trận Tổ quốc các cấp triển khai cụ thể
các nhiệm vụ, giải pháp để t. hiện cuộc vận động, huy động sự tham gia của cả hệ thống trị
và toàn xã hội.
- Tổ chức Ngày hội đoàn kết toàn dân tộc vào ngày 18/11 hằng năm.
+ Ngày hội đại đoàn kết toàn dân tộc được tổ chức tập trung khu dân cư vào dịp kỷ niệm
ngày thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam (18-11), nhằm tuyên truyền, giáo
dục về truyền thống cách mạng vẻ vang của Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam, về vai
trị, vị trí của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, góp phần đẩy mạnh cuộc vận động “Tồn dân đồn kết xây dựng nơng thơn mới,
đơ thị văn minh” và các cuộc vận động khác.
+ Thành phần tham dự gồm đại diện các hộ gia đình, lãnh đạo Đảng, chính quyền, Mặt
trận, các đồn thể, các vị chức sắc tơn giáo, các nhân sĩ, trí thức đang làm việc, sinh sống ở
khu dân cư. Chương trình ngày hội tùy khả năng và sáng tạo của mỗi khu dân cư gồm hai
phần: phần lễ với nội dung chủ yếu là ôn lại lịch sử truyền thống của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, báo cáo kết quả thực hiện cuộc vận động “Tồn dân đồn kết xây dựng nơng
thơn mới, đơ thị văn minh” và các cuộc vận động khác, khen thưởng, đăng ký thi đua;
phần hội là các hoạt động giao lưu văn hóa, thể thao, trị chơi dân gian truyền thống của
địa phương.
1.1.2. Trong công tác xây dựng củng cố chính quyền, thể hiện quy chế dân chủ ở cơ sở
- Giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử cán bộ công chức nhà nước.
22
Tập trung triển khai, tổ chức thực hiện hai nghị quyết liên tịch là:
+ Nghị quyết liên tịch số 09/2008/NQLT-CP-UBTWMTTQVN ngày 17-4-2008 của Chính
phủ và Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hướng dẫn thi hành các Điều 11,
Điều 14, Điều 16, Điều 22 và Điều 26, Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, trong đó quy định “hai năm 1 lần trong mỗi nhiệm kỳ
của Hội đồng nhân dân cấp xã, Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng
cấp tổ chức lấy phiếu tín nhiệm đối với Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân và Chủ
tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã”.
+ Nghị quyết liên tịch số 05/2006/NQLT-CP-UBTWMTTQVN ngày 21-4-2006 của Chính
phủ và Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ban hành Quy chế Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam giám sát cán bộ, công chức ở khu dân cư”.
- Tham gia giải quyết khiếu nại, tố cáo ở địa phương:
+ Chỉ đạo ban thanh tra nhân dân tổ chức tiếp công dân, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo
của công dân để chuyển đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, giải quyết.
+ Phối hợp với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo ở địa phương.
+ Giám sát việc thi hành pháp luật về khiếu nại, tố cáo của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền.
1.2. Phối hợp với chính quyền - Căn cứ pháp lý: Phối hợp giữa Mặt trận với chính quyền
đã được quy định trong Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa hội chủ nghĩa Việt Nam,
trong các nghị quyết của Đảng, tron Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, trong các đạo luật
và văn bản pháp quy của Nhà nước.
- Nội dung phối hợp gồm các lĩnh vực như: xây dựng, giám sát và bảo vệ chính quyền;
tham gia xây dựng các chủ trương, chính sách; chăm lo, bảo vệ lợi ích chính đáng của các
tầng lớp nhân dân; thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng.
Để việc phối hợp đạt hiệu quả thiết thực, cần xây dựng quy chế phối hợp công tác giữa Ủy
ban Mặt trận với Ủy ban nhân dân và Hội đồng nhân dân. Ban Thường trực Mặt trận Tổ
quốc cấp xã cần khắc phục tình trạng tự ti, ỷ lại, chủ động đề xuất với chính quyền những
việc cần phối hợp, xây dựng kế hoạch phối hợp và yêu cầu chính quyền tạo điều kiện
thuận lợi để cùng nhau thực hiện đạt hiệu quả thiết thực.
1.3. Hướng dẫn hoạt động tự quản của nhân dân thông qua Ban Công tác Mặt trận ở
khu dân cư
Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cấp xã hướng dẫn Ban Công tác Mặt trận ở
khu dân cư tổ chức, thực hiện các hoạt động tự quản của nhân dân theo những nội dung
sau:
- Phối hợp với trưởng thôn triệu tập và chủ trì hội nghị thơn. làng, ấp, bản 6 tháng hoặc bất
thường gồm toàn thể cử tri hoặc chủ hộ gia đình. ..
- Thảo luận và quy định các công việc của khu dân cư về xây dựng cơ sở hạ tầng, giải
quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, đoàn kết tương trợ, giúp đỡ nhau trong sản xuất và
đời sống, những vấn đề văn hóa - xã hội, vệ sinh môi trường, an ninh trật tự, an toàn xã hội
phù hợp với pháp luật của Nhà nước.
- Bàn biện pháp thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân xã, các quyết định của Ủy
23
ban nhân dân xã thực hiện nghĩa vụ công dân, nghĩa vụ cấp trên giao và các quy định của
khu dân cư.
- Thảo luận góp ý kiến vào các báo cáo kết quả cơng tác và tự phê bình, kiểm điểm của
trưởng thôn, của Chủ tịch Hội đồng nhân dân và Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã.
- Tổ chức hướng dẫn nhân dân bầu, miễn nhiệm trưởng thôn theo Thông tư liên tịch số
01/TTLT-BNV-UBTWMTTQVN ngày 12-5-2005 giữa Ban Thường trực Ủy ban Trung
ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Bộ Nội vụ.
- Phối hợp với trưởng thôn để cử thành viên ban thanh tra nhân dân, thành lập và hướng
dẫn hoạt động của các tổ chức tự quản ở khu dân cư như: ban hòa giải, ban an ninh, bảo vệ
sản xuất, ban kiến thiết. Các tổ chức này đều do dân bầu.
- Tham gia vào việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước làng, bản, thôn, ấp, cụm
dân cư.
1.4. Vận động các cá nhân tiêu biểu - Đối tượng vận động.
Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cấp xã cần chủ trì việc phối hợp giữa các tổ
chức thành viên và chính quyền cùng cấp trong công tác tuyên truyền, vận động các nhân
sĩ, trí thức tiêu biểu, các chức sắc tơn giáo, người tiêu biểu trong các dân tộc thiểu số, các
công thương gia, những người cao tuổi, thân. nhân người Việt Nam định cư ở nước ngồi.
- Hình thức và biện pháp vận động.
Hình thức vận động tiếp xúc cá nhân, hội thảo, tọa đàm, trao đổi ý kiến, vừa vận động
thuyết phục, vừa quan tâm yêu cầu chính đáng của những cá nhân tiêu biểu.
Biện pháp vận động trong tiếp xúc phải tỏ thái độ đúng mực, tôn trọng và lắng nghe, ghi
nhận những đề xuất kiến nghị, động viên những người tiêu biểu thực hiện các nhiệm vụ
công tác Mặt trận. Cần chú ý động viên và phát huy vai trị, tác dụng tích cực của những
cá nhân có uy tín ở địa phương cơ sở.
2. Liên hệ thực tiễn:
Đại Hưng là xã khó khăn của huyện Đại lộc phía Tây giáp xã Ka-Giăng huyện Đơng
Giang, phía Đơng giáp xã Đại Lãnh, phía nam giáp xã Đại Sơn, dân số tồn xã tính đến
năm 2019 là 6.912 người; được phân bổ 07 thơn trong đó có 1 thơn (Yều) là đồng bào dân
tộc Cơ-Tu, đội ngũ cán bộ cơng chức, viên chức, trí thức, cơng nhân, người lao động và
hội viên của các tổ chức đoàn thể Nhân dân, đồng bào các tôn giáo, bà con quê hương Đại
Hưng đang sinh sống, làm ăn và học tập ở mọi miền tổ quốc …. Là lực lượng đông đảo,
ngày càng lớn mạnh về số lượng, ổn định về chất lượng và tiên phong xung kích trên
nhiều lĩnh vực trong công tác, tổ chức, xây dựng phong trào thi đua lao động, sản xuất,
ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, phát triển kinh tế văn hóa – xã hội, đóng góp tích cực
vào cơng cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới của
Đảng trên quê hương mục tiêu “ Dân giàu, Nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh”.
Trong năm 2021, UBMTTQVN xã đã xây dựng kế hoạch và đạt được những kết quả sau:
1. Nâng cao hiệu quả tuyên truyền, vận động, tập hợp các tầng lớp nhân dân, củng cố
và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
24
- Ngay từ đầu năm, BTT UBMTTQVN xã đã xây dựng kế hoạch cụ thể về công tác tuyên
truyền, vận động nhân dân hưởng ứng thực hiện tốt các chủ trương của Đảng, CS-PL của
Nhà nước, hưởng ứng các ngày lễ, kỷ niệm trọng đại của đất nước;
- Phối hợp với các tổ chức thành viên tuyên truyền kỷ niệm 91 năm Ngày Thành lập Đảng
Bộ tỉnh Quảng nam; 46 năm Ngày giải phóng Quảng Nam; 131 năm Ngày Sinh nhật Bác;
và chào mừng cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 20212026.
- Tổ chức tuyên truyền về cuộc bầu cử Đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp bằng
bằng hình thức 06 chuyến xe lưu động, tuyên truyền phòng chống dịch Covid – 19, tuyên
truyền về Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XIII của Đảng bằng nhiều hình thức.
- Xây dựng kế hoạch lồng ghép triển khai thực hiện chỉ thị 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của
Bộ Chính trị về Đẩy mạnh “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh” chuyên đề năm 2021 gắn với thực hiện NQ TW 4 (khóa XII) trong hệ thống Mặt
Trận và các tầng lớp nhân dân.
- BTT UBMT xã đã ký kết với Đài truyền thanh xã trong việc kịp thời thông tin tuyên
truyền các hoạt động của Mặt Trận xã đến các tầng lớp nhân dân trên địa bàn.
- Đã lồng ghép tuyên truyền vận động nhân dân tại 07/07 thơn cam kết giữ gìn an ninh trật
tự, mơi trường, phịng chống rác thải nhựa, phân loại rác thải tại nguồn đảm bảo thực hiện
tốt công tác môi trường trong thời gian đến.
2. Phát huy tinh thần sáng tạo và tự quản của nhân dân, triển khai các cuộc vận động,
các phong trào thi đua yêu nước.
2.1. Kết quả triển khai thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đồn kết xây dựng nơng thơn
mới, đơ thị văn minh”:
Ban thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam xã phối hợp với UBND xã xây dựng kế hoạch
liên tịch tiếp tục chỉ đạo nâng cao chất lượng cuộc vận động đồng thời phối hợp với Ban
chỉ đạo phong trào “Toàn dân đồn kết xây dựng đời sống văn hóa” xã. Đồng thời ban
hành kế hoạch, văn bản hướng dẫn để khu dân cư thơn Mậu Lâm xây dựng mơ hình khu
dân cư nông thôn mới kiểu mẫu gắn với nội dung “5 đoàn kết, 3 trong sạch”. Đẩy mạnh
phong trào xây dựng “Gia đình văn hóa”, “Khu dân cư văn hóa”, “Tộc họ văn hóa” gắn
với cơng tác bảo vệ môi trường ở từng khu dân cư.
2.2. Kết quả vận động, cứu trợ:
Ngay đầu năm, Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam đã xây dựng kế hoạch tổ chức
thực hiện NĐ 64/2008 của chính phủ, đồng thời, ra quyết định củng cố Ban cứu trợ, phân
phối và sử dụng các nguồn đóng góp tự nguyện hỗ trợ nhân dân, kịp thời khắc phục do
thiên tai đúng quy định.
2.3. Công tác tiếp nhận ủng hộ và phân bổ ủng hộ phòng, chống dịch Covid - 19:
Phối hợp với các tổ chức thành viên tổ chức vận động nhân dân quyên góp nhu yếu phẩm
như gạo, củ, quả, nước mắm, dầu, mì chính, cá khơ… nhằm hỗ trợ cho bà con tại Thành
phố Hồ Chí Minh để góp phần giải quyết phần nào khó khăn trong giai đoạn thực hiện Chỉ
thị 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về các biện pháp cấp bách phòng chống dịch
Covid-19. Kết quả đã vận động được 4 tấn gạo, hơn 01 tấn củ quả các loại và nhu yếu
phẩm cần thiết.
25
2.5. Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên
dùng hàng Việt Nam”:
Mặt trận Tổ quốc xã đã phối hợp với các tổ chức thành viên cùng cấp tuyên truyền vận
động nhân dân ý thức trong việc mua sắm hàng hóa phải ưu tiên dùng hàng hóa thương
hiệu Việt.
2.6. Thực hiện các chương trình phối hợp:
Ủy ban MTTQ Việt Nam xã đã phối hợp với Ủy ban nhân dân xã, các tổ chức thành viên
xây dựng kế hoạch và tiếp tục tuyên truyền phổ biến sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân
về Chỉ thị 48 ngày 22/10/2010 của Bộ chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với công tác phịng chống tội phạm trong tình hình mới ở cộng đồng khu dân cư; Nghị
quyết 09/CP về chương trình phịng chống tội phạm, phòng chống ma túy, mại dâm, HIV.
Thường xuyên duy trì và kiểm tra việc thực hiện cam kết Khu dân cư, Tổ đồn kết, hộ gia
đình khơng có tội phạm, khơng ma túy và tội phạm ma túy và cam kết đảm bảo ATGT.
3/ Những hạn chế, khó khăn :
Bên cạnh những kết quả đã đạt được trong nhiệm kỳ qua, chúng ta cần rút ra những mặt
hạn chế, khó khăn:
Cơng tác tun truyền vận động chưa được kịp thời và thường xuyên; chưa sâu sát địa bàn
thơn, tỷ lệ tập hợp vận động Nhân dân cịn thấp; Công tác phối hợp giữa Mặt trận và các
tổ chức thành viên chưa đồng bộ, Một bộ phận cán bộ làm cơng tác Mặt trận - hội đồn
thể tinh thần trách nhiệm chưa cao, chưa nắm bắt kịp thời tình hình đời sống, tâm tư,
nguyện vọng và dư luận xã hội của các tầng lớp Nhân dân để tham mưu cho Đảng ủy,
UBND xã có các giải pháp lãnh chỉ đạo kịp thời. Ban công tác Mặt trận, Các cuộc vận
động , các phong trào do Mặt trận phát động đặc biệt là cuộc vận động “Toàn dân đoàn
kết xây dựng nông thôn mới" chưa đạt yêu cầu nhiệm vụ đề ra.
2.3. Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm khắc phục những hạn chế yếu kém trong hoạt
động của tổ chức Mặt trận tại địa phương trong thời gian tới
* Thứ nhất: Quán triệt sâu sắc các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng và tư
tưởng Hồ Chí Minh về vai trị, vị trí của Mặt trận trong khối đại đoàn kết toàn dân; cấp
ủy Đảng thực hiện đúng tư cách vừa là thành viên vừa là lãnh đạo Mặt trận ; chính quyền
thực hiện có hiệu quả qui chế phối hợp công tác với UBMT cùng cấp, là nhân tố quyết
định hiệu quả cho công tác Mặt trận trong giai đoạn mới.
* Thứ hai: Củng cố niềm tin của các tầng lớp Nhân dân vào chủ trương đường lối chính
sách của Đảng, Pháp luật Nhà nước; vào phẩm chất đạo đức,lối sống và năng lực, hiệu
quả công tác của cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị Mặt trận phải thực hiện tốt vai
trị đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của Nhân dân; là cầu nối giữa
Đảng, Nhà nước và Nhân dân.
* Thứ ba: Xây dựng và thực hiện có hiệu quả quy chế phối hợp giữa HĐND-UBNDUBMTTQVN xã. Nâng cao hiệu quả các chương trình phối hợp và thống nhất hành động
giữa UBMT và các Tổ chức thành viên. Phát huy vai trò trách nhiệm của Uỷ viên
UBMTTQVN xã, thành viên của tổ tư vấn , người có uy tín trong các tơn giáo...
* Thứ tư: Uỷ viên ủy ban MTTQVN xã phải không ngừng nâng cao tính chủ động, sáng
tạo trong hoạt động, bám sát nhiệm vụ chính trị ở địa phương cũng như hướng dẫn của