Tải bản đầy đủ (.doc) (116 trang)

Chất lượng bí thư đảng ủy xã, phường, thị trấn ở tỉnh tây ninh trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (667.15 KB, 116 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc"
[41, tr.269], "Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”
[41, tr.273]. Trong q trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta ln khẳng định và
đánh giá cao vai trò đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ. Nghị quyết Hội nghị
lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) về chiến lược cán bộ
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã chỉ rõ: "Cán bộ
là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của
Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng
Đảng" [28, tr.66]. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng nhấn mạnh:
"Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ công tác cán bộ. Thực hiện tốt Chiến
lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa" [33, tr.261].
Trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong
đó có cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn, xây dựng nơng
thơn mới, địi hỏi phải có đội ngũ cán bộ lãnh đạo của hệ thống chính trị các
cấp có chất lượng tốt, đặc biệt là cấp xã. Bởi đây là đơn vị hành chính cấp
cuối cùng trong hệ thống hành chính 4 cấp ở nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh
từng nói "Cấp xã là gần gũi nhân dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã
làm được việc thì mọi cơng việc đều xong xi" [41, tr.371]. Nghị quyết Hội
nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về đổi mới và
nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở xã, phường, thị trấn, xác định:
Các cơ sở xã, phường, thị trấn là nơi tuyệt đại bộ phận nhân dân
cư trú và sinh sống. Hệ thống chính trị cơ sở có vai trị rất quan
trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường
lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại
đoàn kết toàn dân, phát huy quyền dân chủ của dân, huy động mọi



2
khả năng phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng
đồng dân cư [30, tr.89].
Do đó, đội ngũ cán bộ cấp xã, phường, thị trấn có vị trí, vai trị cực kỳ
quan trọng, góp phần quyết định đến mọi hoạt động của hệ thống chính trị và
các lĩnh vực của đời sống xã hội ở tại địa phương. Vì vậy, để đáp ứng được
yêu cầu của công cuộc đổi mới, cần phải nâng cao chất lượng cán bộ nói
chung, trong đó việc nâng cao chất lượng bí thư đảng ủy xã, phường, thị trấn
là vấn đề rất cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.
Trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm của Đảng về cán bộ và công tác cán bộ, trong những năm
gần đây, cấp ủy các cấp ở tỉnh Tây Ninh luôn quan tâm, chú trọng đến công
tác cán bộ. Là tỉnh biên giới, có vị trí chiến lược quan trọng nhưng xuất phát
điểm thấp, kinh tế - xã hội cịn nhiều khó khăn, song trong những năm qua,
với sự quan tâm chỉ đạo của các cấp uỷ đảng, đội ngũ bí thư đảng uỷ của các
xã, phường, thị trấn trong tỉnh đã có bước trưởng thành đáng kể, là nhân tố
quan trọng góp phần phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị,
quốc phịng và an ninh ở địa phương. Tuy nhiên, so với yêu cầu, nhiệm vụ
hiện nay và thời gian tới, đội ngũ cán bộ này còn bất cập về nhiều mặt: trình
độ (tốt nghiệp trung học cơ sở 2,11%; chưa qua đào tạo chuyên môn nghiệp
vụ 6,32%; nhiều cán bộ chưa được đào tạo chính quy về chuyên môn nghiệp
vụ, chủ yếu là đào tạo theo hình thức vừa làm, vừa học); một số cấp ủy cấp
huyện, thị chưa gắn quy hoạch với đào tạo, bồi dưỡng và bố trí sử dụng cán
bộ; trình độ, năng lực lãnh đạo của một số ít bí thư chưa đáp ứng được yêu
cầu, nhiệm vụ; công tác kiểm tra, giám sát đánh giá cán bộ của một số cấp ủy
chính quyền chưa thường xun... Những hạn chế trên, địi hỏi phải nâng cao
hơn nữa chất lượng bí thư đảng ủy xã, phường, thị trấn nhằm đáp ứng yêu cầu
trước mắt cũng như lâu dài cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Xuất phát từ thực tế đó, tơi chọn vấn đề “Chất lượng bí thư đảng ủy
xã, phường, thị trấn ở tỉnh Tây Ninh trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài



3
luận văn thạc sĩ chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam với mong
muốn góp phần nâng cao chất lượng bí thư đảng ủy xã, phường, thị trấn của
tỉnh Tây Ninh, đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong những năm tiếp theo.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Xuất phát từ vai trò tầm quan trọng của bí thư đảng ủy xã, phường, thị
trấn đã có nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu vấn đề này. Đến nay đã
có một số cơng trình, bài viết có liên quan đến vấn đề này như:
2.1. Sách, đề tài khoa học
- Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (1993), Xác định cơ cấu và
tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở xã, phường, thị trấn, (Đề tài
KX.05-11-06).
- PGS,TS Nguyễn Phú Trọng và PGS,TS Trần Xuân Sầm (2003), Luận
cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Nguyễn Dũng Sinh (2003), Vấn đề phẩm chất năng lực của đội ngũ
cán bộ, đảng viên trong điều kiện nền kinh tế nước ta chuyển sang kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đề tài khoa học KX 03 - 04 thuộc
chương trình KX 03 - xây dựng đảng trong điều kiện mới.
- Nguyễn Phú Trọng, Tô Huy Rứa, Trần Khắc Việt (đồng chủ biên)
(2006), Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ
đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;
- TS Nguyễn Minh Tuấn (2012), Tiếp tục đổi mới đồng bộ công tác cán
bộ thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
2.2. Luận văn, luận án
- “Chất lượng bí thư đảng ủy xã ở tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn hiện nay”,
Luận văn thạc sĩ của Giao Thị Châu, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí

Minh, năm 2005.


4
- “Xây dựng đội ngũ bí thư cấp xã của tỉnh Bạc Liêu trong giai đoạn
hiện nay”, Luận văn thạc sĩ của Lê Văn Tam, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, năm 2006.
- “Xây dựng đội ngũ bí thư đảng uỷ xã ở tỉnh Vĩnh Phúc trong giai
đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ của Trần Bích Nhuần, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2006.
- “Chất lượng bí thư đảng ủy xã ở tỉnh Kon Tum giai đoạn hiện nay”,
Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Văn Tấn, Học viện Chính trị - Hành chính quốc
gia Hồ Chí Minh, năm 2007.
- “Xây dựng phong cách người bí thư đảng ủy xã ở huyện Quảng Xương,
tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ của Trịnh Thăng
Sự, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2008.
- “Xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách xã, phường, thị trấn ở tỉnh
Cà Mau trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ của Phạm Anh Tuấn,
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2008.
- “Chất lượng bí thư đảng uỷ xã vùng có đơng đồng bào Chăm ở tỉnh
Ninh Thuận giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ của Trần Thị Hà Vân, Học
viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2008.
2.3. Các bài tạp chí
- Bùi Văn Tiếng (2010), "Tạo nguồn cán bộ lãnh đạo phường, xã ở Đà
Nẵng", Tạp chí Xây dựng Đảng, số 4.
- Hà Thư (2010), "Giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện mơ hình Bí
thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn", Tạp
chí Xây dựng Đảng, số 5;
- Trần Huy Toàn (2010), "Nâng cao chất lượng cán bộ cơ sở ở Lào
Cai", Tạp chí Xây dựng Đảng, số 6...

Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu trên đều đề cập tới nhiều khía
cạnh khác nhau của bí thư đảng uỷ xã, phường, thị trấn ở những địa phương


5
khác nhau, trong những khoảng thời gian khác nhau. Song, đến nay chưa có
cơng trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống, tồn diện về chất lượng bí
thư đảng uỷ xã, phường, thị trấn - một trong những chức danh quan trọng nhất
của cán bộ cấp cơ sở. Vì vậy, việc đi sâu nghiên cứu đề tài: “Chất lượng bí thư
đảng uỷ xã, phường, thị trấn ở tỉnh Tây Ninh trong giai đoạn hiện nay” là cần
thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về chất lượng bí
thư đảng uỷ xã, phường, thị trấn, đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên
nhân và đúc rút kinh nghiệm, luận văn đề xuất phương hướng và những giải
pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng bí thư đảng uỷ xã, phường, thị trấn ở
tỉnh Tây Ninh đến năm 2020.
3.2. Nhiệm vụ
- Luận văn làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về chất lượng bí
thư đảng uỷ xã, phường, thị trấn ở tỉnh Tây Ninh.
- Đánh giá thực trạng chất lượng bí thư đảng uỷ xã, phường, thị trấn ở
tỉnh Tây Ninh, chỉ rõ nguyên nhân và rút ra những kinh nghiệm cần thiết.
- Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao
chất lượng bí thư đảng uỷ xã, phường, thị trấn ở tỉnh Tây Ninh đến năm 2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là chất lượng bí thư đảng uỷ xã,
phường, thị trấn ở tỉnh Tây Ninh trong giai đoạn hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu chất lượng bí thư đảng uỷ xã, phường,
thị trấn ở tỉnh Tây Ninh từ năm 2005 đến nay; đề xuất phương hướng, giải
pháp nâng cao chất lượng bí thư đảng uỷ xã, phường, thị trấn từ nay đến
2020.


6
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng và xây dựng Đảng nói chung, đặc biệt là
những quan điểm, tư tưởng về cán bộ và công tác cán bộ.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa
Mác - Lênin, đồng thời sử dụng các phương pháp: lịch sử, lơgíc và phân tích,
tổng hợp, điều tra, khảo sát, tổng kết thực tiễn là chủ yếu.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Góp phần làm rõ quan niệm và tiêu chí đánh giá chất lượng bí thư
đảng ủy xã, phường, thị trấn ở tỉnh Tây Ninh.
- Đánh giá một cách trung thực và khách quan chất lượng bí thư đảng
uỷ xã, phường, thị trấn và công tác xây dựng đội ngũ bí thư đảng uỷ xã,
phường, thị trấn ở tỉnh Tây Ninh.
- Đề xuất các giải pháp chủ yếu, có tính khả thi nhằm góp phần nâng
cao chất lượng đội ngũ bí thư đảng uỷ xã, phường, thị trấn của tỉnh Tây Ninh,
đáp ứng yêu cầu phát triển ở địa phương trong giai đoạn hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Những kết quả nghiên cứu của luận văn có thể cung cấp thêm những
luận cứ khoa học cho các cấp uỷ đảng trong tỉnh thực hiện tốt công tác cán bộ
ở cơ sở trong giai đoạn hiện nay.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ việc nghiên

cứu, giảng dạy và học tập môn Xây dựng Đảng ở Trường Chính trị tỉnh Tây
Ninh và các Trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện, thị xã của tỉnh.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.


7
Chương 1
CHẤT LƯỢNG BÍ THƯ ĐẢNG ỦY XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN
Ở TỈNH TÂY NINH GIAI ĐOẠN HIỆN NAY - NHỮNG VẤN ĐỀ
CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN VÀ BÍ THƯ ĐẢNG ỦY XÃ, PHƯỜNG, THỊ
TRẤN Ở TỈNH TÂY NINH

1.1.1. Khái quát về xã, phường, thị trấn và các đảng bộ xã, phường,
thị trấn ở tỉnh Tây Ninh
1.1.1.1. Khái quát về xã, phường, thị trấn ở tỉnh Tây Ninh
- Khái quát về tỉnh Tây Ninh
+ Đặc điểm địa lý tự nhiên
Tây Ninh là một tỉnh thuộc miền Đơng Nam Bộ, có diện tích tự nhiên
là 4.049,2 km2, trong đó đất nơng nghiệp là 286.000 ha, chiếm 7,06% diện
tích tự nhiên. Trung tâm tỉnh lỵ là thị xã Tây Ninh, cách thành phố Hồ Chí
Minh 99 km, phía Đơng giáp tỉnh Bình Dương và Bình Phước, phía Nam giáp
thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Long An, phía Tây và phía Bắc giáp Vương
quốc Campuchia. Là một tỉnh có đường xuyên Á đi qua 3 huyện (Trảng Bàng,
Gị Dầu, Bến Cầu); có 2 cửa khẩu chính là cửa khẩu quốc tế Mộc Bài, Xa Mát
và nhiều cửa khẩu tiểu ngạch khác.
Tây Ninh có những di tích lịch sử gắn liền với truyền thống cách mạng
của dân tộc có thể đưa vào khai thác du lịch như: khu căn cứ Trung ương Cục

Miền Nam (huyện Tân Biên), khu di tích lịch sử miền Nam tại Bời Lời
(huyện Trảng Bàng). Tây Ninh cũng có di tích văn hố của tơn giáo có kiến
trúc đặc thù như Tồ thánh Tây Ninh (đạo Cao đài) đã được xếp hạng di tích
văn hố quốc gia. Cùng với cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ núi Bà Đen và lễ
hội “Hội yến Diêu trì cung” đã thu hút nhiều khách đến tham quan, du lịch
nhất là vào những ngày lễ hội của đạo Cao đài và có hồ Dầu Tiếng - một cơng


8
trình thuỷ lợi lớn nhất cả nước, là nguồn cung cấp nước dồi dào cho phát triển
nông nghiệp.
Dân số của Tây Ninh hiện nay là 1.075.341 người, bao gồm các dân tộc
Kinh, Chăm, Khơ me và Hoa, trong đó dân tộc Kinh chiếm 98,4%. Dân số
nông thôn là 907.431 người (chiếm tỷ lệ 84,39% dân số), dân số thành thị là
167.910 người (chiếm tỷ lệ 15,61% dân số). Mật độ dân số khơng đồng đều, ở
các vùng (huyện có số dân đơng nhất là Trảng Bàng, chiếm 14,28% dân số
tồn tỉnh; huyện có số dân ít nhất là Bến Cầu, chiếm khoảng 5,9%). Tỷ lệ tăng
dân số tự nhiên là 0,78%.
Về tơn giáo, trên địa bàn tỉnh hiện có 5 tôn giáo lớn là Cao đài, Phật
giáo, Công giáo, Hồi giáo và Tin lành. Đồng bào theo đạo chiếm 54% dân số
tồn tỉnh, trong đó đạo Cao đài có đơng tín đồ nhất, chiếm 40% dân số.
+ Đặc điểm kinh tế
Kinh tế của tỉnh Tây Ninh những năm gần đây có những bước tăng
trưởng khá. Trong những năm 2001-2005 tăng bình quân 14% và 2006-2010
là 14,2% Tổng sản phẩm GDP năm 2005 đạt 6.698,7 tỷ đồng; năm 2010 đạt
12.988,93 tỷ đồng. GDP bình quân đầu người tăng đáng kể, năm sau cao hơn
năm trước, năm 2010 đạt 30,2 triệu đồng, gấp 3 lần so với năm 2005, năm
2011 đạt 40,3 triệu đồng, năm 2012 đạt 42,17 triệu đồng.
Công nghiệp và xây dựng có tốc độ tăng trưởng khá nhanh, năm 2005
đạt 1.678,67 tỷ đồng, năm 2010 đạt 3.762,55 tỷ đồng, năm 2011 đạt 9.921,3

tỷ đồng, năm 2012 đạt 12.067 tỷ đồng. Cơng nghiệp chế biến nơng sản, khai
thác khống sản phát huy được khả năng và lợi thế, phù hợp với định hướng
phát triển của địa phương. Số lượng các dự án cơng nghiệp có vốn đầu tư
nước ngồi ngày một tăng, góp phần đưa giá trị sản xuất cơng nghiệp có vốn
đầu tư nước ngồi chiếm 46% tổng giá trị sản xuất cơng nghiệp trên địa bàn.
Điện khí hóa nông thôn được đẩy mạnh, tỷ lệ hộ dân sử dụng điện lưới quốc
gia đạt 100%.


9
Ngành dịch vụ cũng có tốc độ tăng trưởng cao năm 2005 đạt 2.457,86,
năm 2010 đạt 5.744,88, năm 2011 đạt 10.815 tỷ đồng, năm 2012 đạt 12.072,3
tỷ đồng. Kim ngạch xuất khẩu tăng trong giai đoạn 2001-2005 bình quân
34,3%/năm, giai đoạn 2006-2010 đạt 28%/năm. Kim ngạch xuất khẩu năm
2010 đạt 896,9 triệu USD, năm 2011 đạt 1.178 triệu USD, năm 2012 đạt
1.466,6 triệu USD. Kim ngạch nhập khẩu tăng giai đoạn 2001-2005 bình
quân 34,4%/năm và giai đoạn 2006-2010 là 24%/năm. Kim ngạch nhập
khẩu năm 2010 đạt 535,5 triệu USD, năm 2011 đạt 682,7 triệu đồng, năm
2012 đạt 869,3 triệu đồng. Hàng hoá xuất khẩu chủ yếu ở Tây Ninh là hàng
dệt - may, mủ cao su thành phẩm, sản phẩm plastic, giày thể thao, hạt điều
nhân, tinh bột mì… Các thị trường xuất khẩu chủ yếu là các nước thuộc
ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc; thị trường các nước Mỹ, Châu Âu từng
bước được mở rộng. Hàng hoá nhập khẩu chủ yếu là vật tư, thiết bị, nguyên
liệu phục vụ cho sản xuất.
Khu vực nông - lâm nghiệp - thuỷ sản có tốc độ tăng trưởng khá, trong
giai đoạn 2001-2005 đạt 9,1%/năm, giai đoạn 2006-2010 đạt 6,3%. Khu vực
nông - lâm nghiệp - thuỷ sản năm 2011 đạt 6.124,6 tỷ đồng, năm 2012 đạt
6.457,7 tỷ đồng. Kinh tế nơng thơn có nhiều tiến bộ, kinh tế trang trại tiếp tục
phát triển với hơn 2.400 trang trại nông - lâm thủy sản. Chất lượng sản xuất
hàng hóa ngày càng nâng lên; việc đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ

vào sản xuất được quan tâm, tỷ lệ cơ giới hóa trong nơng nghiệp đạt 50%.
+ Đặc điểm văn hoá, xã hội
Lĩnh vực văn hố xã hội có nhiều tiến bộ, an sinh xã hội được bảo đảm.
An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, các loại tội phạm, tệ
nạn xã hội, tai nạn giao thông giảm.
Sự nghiệp giáo dục, đào tạo tiếp tục phát triển. Cơ sở vật chất, trang
thiết bị giáo dục phổ thông không ngừng được đổi mới, đáp ứng được nhu cầu
dạy và học ở các cấp học. Chất lượng dạy và học từng bước được nâng lên.


10
Sự nghiệp chăm sóc sức khoẻ nhân dân có nhiều tiến bộ. Tỉnh đã
thực hiện tốt cơng tác phịng bệnh, chữa bệnh và khống chế các dịch bệnh
mới phát sinh. Mạng lưới y tế phát triển từ tỉnh đến tận xã, phường, thị
trấn, khu phố, ấp. Bệnh viện huyện, thị xã, tỉnh được nâng cấp, xây mới và
không ngừng được bổ sung trang thiết bị góp phần nâng cao chất lượng
khám, chữa bệnh. Xã hội hoá y tế đạt kết quả bước đầu, trên địa bàn tỉnh đã
có thêm 02 bệnh viện đa khoa tư nhân và nhiều phòng khám tư. Năm 2010,
toàn tỉnh đạt 6,5 bác sĩ, dược sĩ/vạn dân, năm 2011 đạt 6,8 bác sĩ, dược
sĩ/vạn dân. Số giường bệnh/ vạn dân đạt 20,8 giường. Tỷ lệ trẻ em dưới 5
tuổi bị suy dinh dưỡng giảm còn 17,2% (năm 2010) và 16,5% (năm 2011),
15,3% (năm 2012).
Chương trình giải quyết việc làm được đẩy mạnh. Quỹ giải quyết việc
làm của tỉnh được thành lập. Chương trình xố đói giảm nghèo được lồng
ghép với chương trình giải quyết việc làm, chương trình phát triển kinh tế - xã
hội vùng biên giới. Các chương trình mục tiêu quốc gia, kế hoạch phát triển
kinh tế xã hội của địa phương đã mang lại hiệu quả thiết thực, tạo điều kiện
giải quyết việc làm bình quân hàng năm cho 22.138 lao động. Tỷ lệ hộ nghèo
giảm xuống cịn 3%, trong đó hộ nghèo theo tiêu chuẩn của Trung ương cịn
1,5%. Phong trào “Tồn dân đồn kết xây dựng đời sống văn hóa” tiếp tục

được đẩy mạnh thực hiện. Trong nhiệm kỳ (2005 - 2010), toàn tỉnh đã xây
dựng thêm 6.449 căn nhà đại đoàn kết, nâng tổng số nhà đại đoàn kết đã xây
dựng lên 8.218 căn, với tổng số tiền trên 100 tỷ đồng; xây dựng và sửa chữa
505 căn nhà tình nghĩa với tổng kinh phí 11,6 tỷ đồng.
Trong những năm qua, với chỉ đạo của các ấp uỷ đảng và sự nỗ lực
nhân dân trong toàn tỉnh, kinh tế - xã hội tỉnh đã phát triển và đạt kết quả tiến
bộ, đời sống của nhân dân từng bước được cải thiện. Tuy nhiên phân hố giàu
nghèo cịn khá cao, đời sống của nhân dân vùng nông thôn, nhất là biên giới
cịn nhiều khó khăn.


11
- Khái quát về các xã, phường, thị trấn ở tỉnh Tây Ninh - đặc điểm, vai trị
Tây Ninh có 08 huyện và 01 thị xã. Tồn tỉnh có 95 đơn vị hành chính
cấp xã (82 xã, 5 phường, 8 thị trấn), xã vùng nông thôn chiếm tỷ lệ cao nhất
trong tồn tỉnh, được bố trí đều khắp các huyện và thị (86,32%), gồm 524 ấp,
khu phố (trong đó có 29 ấp được tách ra tháng 6-2012).
+ Đặc điểm kinh tế
Đối với các xã, thị trấn của huyện (Trảng Bàng, Gị Dầu, Bến Cầu) phát
triển theo hướng cơng nghiệp, dịch vụ trên cơ sở đầu tư vào các khu, cụm
công nghiệp, khu kinh tế cửa khẩu Mộc Bài và các dịch vụ dọc theo đường
xuyên Á. Riêng một số xã ở huyện Trảng Bàng phát triển một số làng nghề,
sản phẩm có truyền thống lâu đời: làng rèn nơng cụ cầm tay; bánh tráng phơi
sương, nghề làm giường, ghế mây, tre, trúc và một số sản phẩm mới như:
muối tôm, bánh canh thịt heo là đặc sản nổi tiếng ở Tây Ninh.
Các xã thuộc huyện (Tân Biên, Tân Châu, Châu Thành, Dương Minh
Châu) có sự chuyển đổi mạnh mẽ cơ cấu cây trồng vật nuôi, ổn định vùng
nguyên liệu cây công nghiệp cho các nhà máy chế biến và thúc đẩy nhanh q
trình đơ thị hố nơng thơn trên cơ sở khai thác tốt lợi thế cửa khẩu, khu kinh
tế cửa khẩu Xa Mát và nhà máy ximăng Fico, đặc biệt là cao su được trồng

nhiều nhất ở đây.
Một số xã, phường, thị trấn (phường III, phường II, thị trấn Hồ Thành,
Ninh Sơn) có lợi thế về điều kiện tự nhiên. Các hoạt động thương mại từng
bước được hình thành và phát triển (siêu thị coopmart, siêu thị điện máy,
trung tâm thương mại …) và phát huy được tiềm năng du lịch (Toà thánh Cao
đài, núi Bà Đen, Long điền sơn).
Một số xã ở huyện Hoà Thành làm nghề tiểu thủ cơng nghiệp như: se
nhang, chằm nón, đúc gang, cần xé, nhơm, nghề mộc gia dụng. Hiện nay, Tây
Ninh có 11 khu công nghiệp và 15 cụm công nghiệp. Bên cạnh đó, các cơng
ty chế biến tinh bột mì, các cơng ty sản xuất gạch ngói ở các xã Phan, Long


12
Thành Nam, Trường Huệ, Hiệp Tân, cũng góp phần khơng nhỏ phát triển kinh
tế ở Tây Ninh.
+ Đặc điểm văn hố
Những năm gần đây, phong trào “Tồn dân đồn kết xây dựng đời sống
văn hoá” trên địa bàn tỉnh được đẩy mạnh; chất lượng hoạt động của các
Trung tâm Văn hoá, thể thao và Học tập cộng đồng được nâng lên một bước.
Năm 2012, tồn tỉnh có thêm 40 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn văn hoá; 92%
ấp, khu phố và 94,3% gia đình đạt chuẩn văn hố. Trung tâm Văn hoá, thể
thao và Học tập cộng đồng được củng cố, có 52,63% (50/95) trung tâm hoạt
động có hiệu quả.
Hiện nay, tồn tỉnh có 95/95 xã, phường, thị trấn đã được nhựa hố,
giao thơng đi lại thuận tiện, có trụ sở làm việc khang trang và được trang bị
đầu tư điện thoại và máy vi tính, kết nối mạng nội bộ. Tỉnh đã đầu tư 25 xã
điểm để xây dựng xã nông thôn mới. Trụ sở các trạm y tế xã, phường, thị trấn
được đầu tư theo hướng đạt chuẩn quốc gia; 100% trạm y tế xã, phường, thị
trấn đã có bác sĩ, 100% ấp có nhân viên y tế cộng đồng. 100% số xã có điện
lưới quốc gia.

+ Đặc điểm hệ thống chính trị, xã, phường, thị trấn
Xã, phường, thị trấn là đơn vị hành chính cấp cơ sở trong hệ thống
chính quyền 4 cấp của Nhà nước. Các tổ chức trong hệ thống chính trị xã,
phường, thị trấn có hai đặc trưng nổi bật: gần dân và là nơi thực hiện tất cả
các nghị quyết, chỉ thị của các tổ chức đảng, các chính sách, pháp luật của
Nhà nước, các chương trình, kế hoạch của chính quyền và các đoàn thể cấp
trên, đồng thời xây dựng và tổ chức thực hiện các nghị quyết, chương trình
cơng tác của cấp mình.
Hệ thống chính trị các xã, phường, thị trấn ở Tây Ninh được tổ chức
một cách chặt chẽ. Các tổ chức của hệ thống chính trị đó, bao gồm: Đảng bộ
cơ sở, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt


13
Nam, Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam, Hội Nông dân và Hội Cựu chiến binh. Ở mỗi ấp, khu phố có Ban cơng
tác Mặt trận, Chi đồn Thanh niên, chi hội: Phụ nữ, Nông dân, Cựu chiến
binh; đồng thời, hai năm, ủy ban nhân dân cấp xã, phường, thị trấn tổ chức
cho đại diện nhân dân bầu trực tiếp trưởng ấp, khu phố để quản lý, điều hành
cộng đồng dân cư.
+ Vai trị các xã, phường, thị trấn
Xã, phường, thị trấn nói chung và ở tỉnh Tây Ninh nói riêng có vai trò
hết sức quan trọng, là nơi trực tiếp tổ chức triển khai thực hiện đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong thực tiễn; làm cầu
nối giữa hệ thống chính trị với dân; nơi tiếp xúc và làm việc hàng ngày với
dân để nắm bắt và phản ánh tâm tư nguyện vọng của dân, tổ chức và vận động
nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước; là nơi tổ chức các phong trào quần chúng nhân dân, phát huy mọi
khả năng phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư,
nơi lưu giữ các giá trị truyền thống tốt đẹp của quê hương, vì vậy phải được

xem là nơi giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Truyền thống quý báu
của dân tộc sẽ được khơi dậy và phát huy từ xã, phường, thị trấn; xây dựng
đoàn kết, sức mạnh của dân tộc cũng phải bắt đầu từ xã, phường, thị trấn; sức
mạnh của quốc phịng tồn dân, chiến tranh nhân dân cũng bắt đầu từ xã,
phường, thị trấn. Muốn giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo
vệ vững chắc Tổ quốc cũng phải bắt đầu từ xã, phường, thị trấn … và ở đây
cũng là nơi đóng góp những kinh nghiệm quý báu giúp cho Đảng sửa đổi, bổ
sung và đề ra đường lối, chủ trương, chính sách phù hợp với thực tiễn.
Chính vì vậy, trong q trình lãnh đạo, Đảng ta luôn coi trọng cấp xã ,
phường, thị trấn và tăng cường xây dựng các xã, phường, thị trấn. Lý luận và
thực tiễn cũng đều khẳng định rằng, các xã, phường, thị trấn vững mạnh mới
góp phần quan trọng vào sự vững mạnh của địa phương. Ngược lại, các xã,


14
phường, thị trấn yếu kém, có nhiều vấn đề phức tạp thì địa phương khơng ổn
định, kinh tế - xã hội kém phát triển.
1.1.1.2. Đảng bộ xã, phường, thị trấn ở tỉnh Tây Ninh - Đặc điểm, vai
trò, chức năng, nhiệm vụ
- Đặc điểm các đảng bộ xã, phường, thị trấn
Hiện nay, 95 xã, phường, thị trấn có 95 đảng bộ cơ sở (xã: 82, phường:
05, thị trấn: 08). Tổng số chi bộ trực thuộc đảng bộ cơ sở: 1.159 chi bộ và 12
đảng bộ bộ phận trực thuộc đảng bộ cơ sở. Trong tổng số 524 ấp, khu phố đều
có chi, đảng bộ.
Loại hình chi bộ, đảng bộ trực thuộc đảng bộ xã, phường, thị trấn rất đa
dạng, bao gồm: ấp, khu phố: 524, trường học: 384, hợp tác xã: 07, doanh
nghiệp tư nhân: 05, quân sự: 95, công an: 13, cơ quan: 95, y tế: 48.
Đảng viên công tác ở xã, phường, thị trấn có 16.275 đồng chí, chiếm
54,83% tổng số đảng viên tồn tỉnh; trong đó đảng viên là nữ: 5.261 đồng chí,
có tơn giáo: 1.297 đồng chí, qn nhân xuất ngũ: 2.493 đồng chí, đảng viên

cịn tham gia sinh hoạt Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh: 2.671 đồng
chí, đảng viên được miễn cơng tác và sinh hoạt đảng: 1.468 đồng chí.
Qua kết quả phân loại đánh giá tổ chức cơ sở đảng (đảng bộ xã,
phường, thị trấn) từ năm 2006-2012 cho thấy: năm 2006, có 81 đảng bộ đạt
trong sạch vững mạnh, 14 đảng bộ hồn thành nhiệm vụ; năm 2007 có 54
đảng bộ đạt trong sạch vững mạnh, 36 đảng bộ hoàn thành nhiệm vụ, 05 đảng
bộ yếu kém; năm 2008 có 83 đảng bộ đạt trong sạch vững mạnh, 06 đảng bộ
hoàn thành nhiệm vụ, 06 đảng bộ yếu kém; năm 2009 có 86 đảng bộ đạt trong
sạch vững mạnh, 08 đảng bộ hoàn thành nhiệm vụ, 01 đảng bộ yếu kém; năm
2010 có 90 đảng bộ đạt trong sạch vững mạnh, 03 đảng bộ hoàn thành nhiệm
vụ, 02 đảng bộ yếu kém; năm 2011 có 95/95 đảng bộ đạt trong sạch vững
mạnh và hồn thành tốt nhiệm vụ; năm 2012 có 75 đảng bộ đạt trong sạch
vững mạnh (trong sạch vững mạnh tiêu biểu: 22 đảng bộ) và 17 đảng bộ hoàn
thành tốt nhiệm vụ, 01 đảng bộ hoàn thành nhiệm vụ, 02 đảng bộ yếu kém.


15
- Vai trò, chức năng, nhiệm vụ các đảng bộ xã, phường, thị trấn
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn
luyện, Người đã vận dụng sáng tạo học thuyết xây dựng Đảng của giai cấp
công nhân, của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam để
giải quyết đúng đắn những vấn đề đặt ra trong quá trình xây dựng Đảng, xác
định rõ vị trí nền tảng của tổ chức cơ sở đảng, Người nói: “Muốn làm nhà cho
tốt, phải xây dựng nền cho vững” [39, tr.139], “Chi bộ là nền móng của
Đảng”, “chi bộ tốt thì mọi việc sẽ tốt” [39, tr.492]. Điều lệ Đảng Cộng sản
Việt Nam (khoá XI) cũng khẳng định: “Tổ chức cơ sở đảng (chi bộ cơ sở,
đảng bộ cơ sở) là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở” [34, tr.35].
Đảng bộ xã, phường, thị trấn là hạt nhân chính trị, lãnh đạo thực hiện
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; lãnh
đạo thực hiện chức năng, quản lý hành chính Nhà nước và quản lý đô thị trên

địa bàn (phường, thị trấn); lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng hệ
thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, xây dựng nông thôn giàu đẹp, văn minh;
không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, động viên
nhân dân làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Để thực hiện chức năng là hạt nhân chính trị lãnh đạo các mặt hoạt
động trên địa bàn, các đảng bộ xã, phường, thị trấn trên địa bàn huyện, thị
cần phải thể hiện rõ vai trị là đội tiền phong chính trị của địa phương phải
có bản lĩnh, trí tuệ, sáng tạo, năng động, lãnh đạo xây dựng tổ chức và
hoạt động của bộ máy chính quyền thật sự trong sạch, đủ sức quản lý điều
hành, thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước đưa ra. Tiến hành kiểm tra, giám sát các hoạt động ở địa
phương, kịp thời chấn chỉnh uốn nắn những lệch lạc, khuyến khích và
phát triển những người có tài, có đức tuyển dụng đề bạt vào các tổ chức
trong hệ thống chính trị ở cơ sở. Chăm lo đào tạo đội ngũ cán bộ ở địa
phương, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên và kết nạp đảng viên mới,


16
thực hiện chế độ sinh hoạt đảng, tự phê bình và phê bình, kiểm tra đảng
viên chấp hành Điều lệ Đảng, giữ gìn kỷ luật và sự đồn kết thống nhất
trong Đảng; trực tiếp hoặc gián tiếp bầu các cơ quan lãnh đạo các cấp của
Đảng và tham gia xây dựng đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật
của Nhà nước, các nghị quyết của Đảng cấp trên.
Điều lệ Đảng do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng thông
qua đã quy định nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng (tại Điều 23):
1. Chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, đề ra chủ trương, nhiệm vụ chính trị của đảng bộ, chi bộ
và lãnh đạo thực hiện có hiệu quả.
2. Xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch, vững mạnh về chính trị,
tư tưởng và tổ chức; thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân

chủ; nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng, thực hiện tự phê bình
và phê bình, giữ gìn kỷ luật và tăng cường đồn kết thống nhất
trong Đảng; thường xuyên giáo dục, rèn luyện và quản lý cán bộ,
đảng viên, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, tính chiến
đấu, trình độ kiến thức, năng lực cơng tác; làm công tác phát
triển đảng viên.
3. Lãnh đạo xây dựng chính quyền, các tổ chức kinh tế, hành
chính, sự nghiệp, quốc phịng, an ninh và các đồn thể chính trị xã hội trong sạch, vững mạnh; chấp hành đúng pháp luật và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân.
4. Liên hệ mật thiết với nhân dân, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần
và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân; lãnh đạo nhân dân tham gia
xây dựng và thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật
của Nhà nước.
5. Kiểm tra, giám sát việc thực hiện, bảo đảm các nghị quyết, chỉ
thị của Đảng và pháp luật của Nhà nước được chấp hành nghiêm


17
chỉnh; kiểm tra, giám sát tổ chức đảng và đảng viên chấp hành Điều
lệ Đảng.
Đảng uỷ cơ sở nếu được cấp uỷ cấp trên trực tiếp uỷ quyền thì được
quyết định kết nạp và khai trừ đảng viên [34, tr.39 - 41].
Trên cơ sở nhiệm vụ chung của tổ chức cở sở đảng do Điều lệ Đảng
quy định, Ban Chấp hành Trung ương đã quy định cụ thể nhiệm vụ của các
đảng bộ xã, phường, thị trấn tại Quy định 94, 95-QĐ/TW, ngày 03/3/2004,
nêu rõ: Lãnh đạo nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng;
lãnh đạo công tác tư tưởng; lãnh đạo công tác tổ chức, cán bộ; lãnh đạo chính
quyền; lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; lãnh đạo xây
dựng tổ chức đảng thực hiện công tác kiểm tra, giám sát.
Trong hoạt động thực tiễn, những nhiệm vụ trên có mối liên hệ chặt chẽ

và tác động lẫn nhau khơng được xem nhẹ nhiệm vụ nào. Qua đó, nếu các
đảng bộ xã, phường, thị trấn xác định được những vấn đề trọng tâm để tập
trung lãnh đạo thực hiện, đây là khâu then chốt để khai thác hết tiềm năng thế
mạnh của mỗi xã, phường, thị trấn trong xu thế mới; xu thế hội nhập kinh tế
quốc tế. Vì vậy, yêu cầu đặt ra với các đảng bộ là trong hoạt động phải đảm
bảo cho đảng bộ thật sự là người đại diện trong khối liên minh công nông trí ở
địa phương, tập hợp đồn kết lực lượng cơng - nơng và đội ngũ trí thức để xây
dựng Đảng, xây dựng chính quyền và xây dựng địa bàn xã, phường, thị trấn
ngày một phát triển bền vững. Để thực hiện sự lãnh đạo của mình, các đảng
bộ xã, phường, thị trấn cần khai thác triệt để tiềm năng, lợi thế của địa
phương; tạo điều kiện thuận lợi khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân trên
địa bàn phát triển, chú trọng đến các hộ sản xuất kinh doanh giỏi làm giàu
chính đáng; quan tâm đào tạo nghề, giải quyết việc làm, áp dụng tiến bộ khoa
học vào sản xuất. Tập trung cơng tác xóa đói giảm nghèo phấn đấu giảm đến
mức thấp nhất số hộ nghèo, khó khăn. Phát huy quyền làm chủ tập thể của
nhân dân, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, tạo động lực mạnh mẽ động


18
viên sức người, sức của, xây dựng địa phương phát triển tồn diện. Lãnh đạo
xây dựng chính quyền thực sự là chính quyền của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân; phát huy hiệu lực, hiệu quả hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế văn hóa - xã hội, an ninh - quốc phòng, tạo niềm tin trong nhân dân, thực hiện
tốt các chính sách xã hội, chính sách tơn giáo, chính sách dân tộc.
Như vậy, các đảng bộ xã, phường, thị trấn cần phải có sự lãnh đạo
chính quyền cơ sở thật tốt, bao gồm lãnh đạo xây dựng tổ chức bộ máy và
lãnh đạo hoạt động của chính quyền, có như thế chính quyền mới tổ chức thực
hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị mà nghị quyết đảng bộ đề ra.
1.1.2. Bí thư đảng ủy xã, phường, thị trấn ở tỉnh Tây Ninh hiện nay
- Đặc điểm, vai trò, nhiệm vụ
1.1.2.1. Đặc điểm đội ngũ bí thư đảng ủy xã, phường, thị trấn

Bí thư đảng uỷ xã, phường, thị trấn là các chức danh được bầu cử ở đại
hội đảng bộ xã, phường, thị trấn; một số trường hợp bí thư kiêm chủ tịch Hội
đồng nhân dân, hoặc bí thư đồng thời là chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp
(với nhiệm vụ là chủ tịch Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cũng do Hội
đồng nhân dân cùng cấp bầu ra), vì vậy địi hỏi ở họ khơng chỉ có phẩm chất
chính trị, năng lực và uy tín tiêu biểu mà cịn phải có phẩm chất đạo đức, lối
sống trong sạch, lành mạnh và đặc biệt là có phong cách giản dị, gần dân,
lắng nghe và tôn trọng ý kiến của dân.
Theo Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV ngày 16/01/2004 của Bộ trưởng
Bộ Nội vụ về việc ban hành quy định tiêu chuẩn cụ thể chức danh đối với cán
bộ công chức xã, phường, thị trấn, so với tiêu chuẩn đó đội ngũ bí thư đảng
uỷ xã, phường thị trấn ở tỉnh Tây Ninh còn một số chưa đảm yêu cầu (về trình
độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ, quản lý nhà nước). Mặc dù, họ chưa đạt
chuẩn theo quy định nhưng do đặc điểm cụ thể ở địa phương và thực tiễn họ
cũng được sự tín nhiệm của cán bộ, đảng viên, nhân dân và hồn thành được
nhiệm vụ do đó mà vẫn bố trí họ làm bí thư đảng uỷ xã.


19
Nhìn chung, đội ngũ bí thư đảng uỷ xã, phường thị trấn ở tỉnh Tây Ninh
xuất thân chủ yếu từ nông dân, sinh ra và trưởng thành trên mảnh đất Tây
Ninh. Các đồng chí bí thư đảng uỷ (nguồn tại chỗ) trưởng thành từ các đoàn
thể của xã, phường, thị trấn. Các đồng chí bí thư (nguồn tăng cường) đã trải
qua q trình hoạt ở các cơ quan chun mơn và các cơ quan tham mưu giúp
việc của huyện, thị uỷ. Vì vậy, có thể nói họ là những người gương mẫu, đầu
tàu, có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, có năng lực.
Thực tế đa số bí thư đảng uỷ xã, phường, thị trấn ở tỉnh Tây Ninh đều
nắm vững Cương lĩnh, Điều lệ, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước, nghị quyết, chỉ thị của cấp trên, xác định rõ nhiệm vụ
trọng tâm và giải quyết có hiệu quả cơng việc đột suất; nắm chắc và sát tình

hình đảng bộ, tổ chức đảng trực thuộc và nhân dân trên địa bàn, có năng lực
chủ trì tốt các cuộc hội nghị ban chấp hành đảng bộ, ban thường vụ đảng uỷ
và lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện thắng lợi các nghị quyết đã đề ra.
1.1.2.2 Vai trị, nhiệm vụ, quyền hạn của bí thư đảng ủy xã, phường,
thị trấn
- Vai trị của bí thư đảng ủy xã, phường, thị trấn
Theo các văn bản quy định của Đảng hiện nay, bí thư cấp ủy nói chung,
bí thư đảng uỷ xã, phường, thị trấn nói riêng là người chịu trách nhiệm cao
nhất trong cấp ủy về mọi kết quả hoạt động của cấp ủy, tổ chức đảng trước
cấp ủy cấp trên và trước đảng bộ xã, phường, thị trấn. Căn cứ vào thực tế và
theo quy chế hoạt động của nhiều cấp ủy hiện nay, bí thư cấp ủy nói chung, bí
thư đảng ủy xã, phường, thị trấn nói riêng có vai trị đặc biệt quan trọng. Bí
thư là người đứng đầu cấp ủy, tổ chức cơ sở đảng, là hạt nhân chính trị, trung
tâm đồn kết của tập thể cấp ủy, tổ chức đảng. Bí thư có trách nhiệm chủ trì
các cuộc họp của ban chấp hành, ban thường vụ và chỉ đạo việc chuẩn bị xây
dựng nghị quyết của đảng bộ, của ban chấp hành, ban thường vụ và tổ chức
chỉ đạo thực hiện thắng lợi các nghị quyết đó; điều hành mọi mặt công tác của


20
đảng uỷ, đảng bộ từ xây dựng nội bộ đảng đến lãnh đạo các lĩnh vực của đời
sống xã hội trên địa bàn, lãnh đạo các tổ chức trong hệ thống chính trị, xã hội
trên địa bàn; cần phải nắm vững những nhiệm vụ trọng tâm của cấp uỷ và trực
tiếp chỉ đạo và kiểm tra việc tổ chức thực hiện. Đồng thời, bí thư là người đại
diện cho cấp ủy, đảng bộ để báo cáo, làm việc, trả lời với cấp uỷ cấp trên về
những vấn đề liên quan đến hoạt động của đảng ủy, của đảng bộ.
Cùng với tập thể đảng ủy, bí thư đảng uỷ xã, phường, thị trấn là người
trực tiếp lãnh đạo tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, nghị quyết của
Đảng, của cấp uỷ cấp trên, nghị quyết đại hội đảng bộ cùng cấp và chính sách,
pháp luật của Nhà nước; là người chịu trách nhiệm cao nhất trước cấp uỷ cấp

trên, trước nhân dân về kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị của đảng bộ cơ
sở. Bí thư đảng ủy xã, phường, thị trấn còn là người để nhân dân trực tiếp bày
tỏ, phản ánh tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của mình đối với Đảng hoặc là để
tìm sự động viên, giúp đỡ lúc khó khăn, với vai trị đó, cũng có thể nói rằng,
bí thư đảng ủy là nơi gởi gắm niềm tin của nhân dân ở địa phương.
Đối với bí thư đảng uỷ xã, phường, thị trấn kiêm chủ tịch Hội đồng
nhân dân cùng cấp và một số đồng chí bí thư đồng thời là chủ tịch Uỷ ban
nhân dân cùng cấp, ngoài việc là người lãnh đạo, điều hành cơng tác của
đảng uỷ, cịn phải điều hành hoạt động của Hội đồng nhân dân, công việc
của Uỷ ban nhân dân, chịu trách nhiệm cá nhân và thực hiện nhiệm vụ
thuộc chức năng lĩnh vực quản lý của mình. Như vậy, đối với các đồng chí
bí thư đảng uỷ xã, phường, thị trấn kiêm chủ tịch Hội đồng nhân dân, một
số đồng chí đồng thời là chủ tịch Uỷ ban nhân dân vừa là người lãnh đạo
(đứng đầu cấp uỷ ở đảng bộ xã, phường, thị trấn) vừa là người điều hành
hoạt động Hội đồng nhân dân, công việc của Uỷ ban nhân dân (theo quy
định của Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003).
Với mơ hình này, thẩm quyền và trách nhiệm của bí thư đảng uỷ ở địa
phương càng lớn. Bởi vì:


21
Với trách nhiệm là chủ tịch Hội đồng nhân dân: là người chịu trách
nhiệm về hoạt động của Hội đồng nhân dân, có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn theo Hiến pháp, luật và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, chịu
trách nhiệm trước cấp uỷ cùng cấp, trước nhân dân và cơ quan nhà nước cấp trên.
Với trách nhiệm là chủ tịch Uỷ ban nhân dân: là người chịu trách
nhiệm chính tồn bộ cơng tác chính quyền nhà nước ở địa phương; có trách
nhiệm tổ chức thực hiện nghiêm túc các mặt công tác do cấp trên chỉ đạo,
chương trình cơng tác của đảng uỷ về mặt chính quyền đúng pháp luật; xây
dựng kế hoạch công tác của uỷ nhân dân ở địa phương, từng thời gian báo cáo

cấp uỷ cùng cấp và Hội đồng nhân dân cùng cấp, phân công nhiệm vụ cụ thể
cho từng thành viên của Uỷ ban nhân dân; chịu trách nhiệm trước đảng bộ,
nhân dân và cấp trên về quản lý, sử dụng tài chính, ngân sách của Uỷ ban
nhân dân.
Vì vậy, với trách nhiệm là người đứng đầu ở cơ sở, địi hỏi bí thư đảng
uỷ xã, phường, thị trấn phải nêu cao vai trò trách nhiệm cá nhân trong việc
thực hiện nghị quyết, chủ trương của đảng uỷ, gương mẫu trong mọi hoạt
động, chấp hành nghiêm chỉnh Điều lệ Đảng và pháp luật của Nhà nước. Bí
thư đảng uỷ xã, phường, thị trấn phải có phẩm chất đạo đức tốt, có phong
cách làm việc dân chủ khoa học, gần gũi cán bộ, đảng viên và nhân dân, có
năng lực tổ chức thực hiện tốt thì địa phương mới mạnh, mọi hoạt động mới
đi vào nền nếp theo đúng đường lối quan điểm của Đảng, chính sách pháp
luật của Nhà nước.
- Nhiệm vụ, quyền hạn của bí thư đảng ủy xã, phường, thị trấn
Bí thư đảng ủy xã, phường, thị trấn, trước hết phải nắm vững, vận dụng
đúng đắn, sáng tạo và lãnh đạo tổ chức thực hiện có hiệu quả đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, cùng với tập thể ban
thường vụ đảng ủy và cấp ủy xác định được nhiệm vụ chính trị của địa
phương mình một cách sát thực và đúng hướng, trọng tâm là khai thác được


22
tiềm năng, thế mạnh của địa phương nơi mình phụ trách, lãnh đạo việc
chuyển đổi cơ cấu kinh tế; tìm "đầu ra" cho các sản phẩm của nông dân; ứng
dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất; tạo điều kiện để phát triển sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ, tạo thêm việc làm; tích cực xố đói, giảm nghèo… Đi
đơi với việc phát triển kinh tế, phải quan tâm lãnh đạo tốt việc phát triển y tế,
giáo dục, các vấn đề văn hoá - xã hội, xây dựng ấp, khu phố văn hoá, kiên quyết
xoá bỏ các tệ nạn, điều chỉnh các tập tục lỗi thời, xóa bỏ tệ nạn mê tín dị đoan,
giữ vững ổn định về an ninh, chính trị, trật tự an tồn xã hội ở địa phương.

Bí thư đảng ủy xã, phường, thị trấn có trách nhiệm trực tiếp trong việc
chăm lo xây dựng và chỉnh đốn Đảng ở ngay tại đảng bộ của mình: xây dựng
đảng bộ trong sạch, vững mạnh về tư tưởng, chính trị và tổ chức; đổi mới và
nâng cao chất lượng nội dung sinh hoạt và hoạt động của cấp uỷ, của đảng bộ,
của các chi bộ trực thuộc; thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ
trong lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động của cấp uỷ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách; thực hiện tốt chế độ tự phê bình và phê bình, giữ gìn sự đồn kết thống
nhất trong cấp ủy và trong đảng bộ; nâng cao chất lượng đảng viên; củng cố,
kiện toàn tổ chức bộ máy, chăm lo, xây dựng quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ, trước hết là cán bộ lãnh đạo ở cơ sở; lãnh đạo, chỉ đạo, tổ
chức kiểm tra việc tổ chức thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của cấp trên, của
đảng bộ, của ban chấp hành đảng bộ và ban thường vụ đảng uỷ; xây dựng và
thực hiện tốt quy chế làm việc của cấp ủy cơ sở; gần gũi, lắng nghe ý kiến
đóng góp của quần chúng; chỉ đạo việc tổ chức cho các đoàn thể tham gia góp
ý, phê bình cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng và tham gia vào công tác xây
dựng Đảng.
Bí thư đảng uỷ kiêm chủ tịch Hội đồng nhân dân và bí thư đồng thời là
chủ tịch Uỷ ban nhân dân. Ngồi cơng tác Đảng, bí thư đảng uỷ kiêm chủ tịch
Hội đồng nhân dân còn phải chịu trách nhiệm lãnh đạo Hội đồng nhân dân
quyết sách những vấn đề lớn của địa phương; duy trì cơng tác tiếp xúc cử tri


23
cũng như hoạt động của hội đồng nhân dân, các tổ đại biểu Hội đồng nhân
dân có hiệu quả, đúng luật định; bí thư đồng thời là chủ tịch Uỷ ban nhân dân
còn phải chịu trách nhiệm lãnh đạo Uỷ ban nhân dân thực hiện chức năng
quản lý nhà nước trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội ở cơ sở.
Có thể nói rằng, bí thư đảng ủy cấp xã, phường, thị trấn là người chủ
trì, điều khiển tất cả mọi mặt công tác, các lĩnh vực hoạt động của đảng bộ,
của đảng ủy xã, phường, thị trấn; trực tiếp nắm và chỉ đạo thực hiện các vấn

đề trọng yếu, các khâu trung tâm của nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hố, xã
hội, an ninh, quốc phịng, chăm lo xây dựng Đảng và các tổ chức trong hệ
thống chính trị ở cơ sở trong sạch, vững mạnh. Ngồi ra, trong công tác và
sinh hoạt hàng ngày, họ phải giải quyết nhiều mối quan hệ rất phức tạp. Đó là
quan hệ công việc, quan hệ xã hội, quan hệ họ hàng … tất cả các mối quan hệ
đó đều địi hỏi phải được giải quyết thấu tình, đạt lý. Do vậy, yêu cầu đối với
đồng chí bí thư đảng ủy ngày càng nặng nề hơn, họ phải vừa "đủ tâm", vừa
"đủ tầm" để đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ mới.
Như vậy, bí thư đảng uỷ xã, phường, thị trấn phải quan tâm tới mọi vấn
đề liên quan tới sự ổn định và phát triển của địa phương, của đảng bộ. Không
một lĩnh vực nào đồng chí bí thư khơng quan tâm và khơng phải chịu trách
nhiệm cá nhân.
1.2. CHẤT LƯỢNG BÍ THƯ ĐẢNG ỦY XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN Ở TỈNH
TÂY NINH - QUAN NIỆM VÀ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ

1.2.1. Quan niệm về chất lượng bí thư đảng ủy xã, phường, thị trấn
ở tỉnh Tây Ninh
- Quan niệm về “chất lượng”
Theo Đại từ điển tiếng Việt: "Chất lượng" được hiểu là: "1- Cái làm
nên phẩm chất, giá trị của con người, sự vật. 2- Cái tạo nên bản chất sự vật,
làm cho sự vật này khác với sự vật kia…" [70, tr.331].
Theo Từ điển Triết học:


24
Chất lượng (chất) là tính quy định bản chất của sự vật, tính quy định
những đặc điểm và tính cách vốn có của sự vật; do tính quy định đó,
sự vật là sự vật như nó đang tồn tại chứ khơng phải là sự vật nào khác;
tính quy định đó phân biệt sự vật ấy với sự vật khác [43, tr.150-153].
Như vậy, chất lượng hàm chứa trong nó tính chỉnh thể, tổ hợp các thuộc

tính, cấu thành nên phẩm chất, giá trị của một con người, một sự vật.
Khái niệm về chất lượng có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận. Muốn
nhận thức một cách khoa học sự vật, hiện tượng, trước hết phải xác định tính
quy định về bản chất của sự vật, hiện tượng, nghĩa là nêu rõ những đặc điểm
vốn có của sự vật hiện tượng, những đặc điểm phân biệt những sự vật, hiện
tượng này với những sự vật, hiện tượng khác. Chừng nào mà chưa xác định
được chất lượng của sự vật thì khơng thể nêu lên quy luật phát triển của sự
vật. Chất lượng của sự vật và hiện tượng không phải là vĩnh viễn, nó cũng
biến hóa. Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng, vấn đề quá độ từ trạng thái
chất lượng này sang trạng thái chất lượng khác, liên hệ mật thiết với vấn đề
thay đổi về số lượng của các sự vật và q trình. Khơng có tính quy định về
số lượng của sự vật thì khơng có chất của sự vật. Hai mặt chất và lượng của
sự vật thống nhất với nhau.
Chất lượng luôn gắn liền với sự vật, hiện tượng, để nói lên thực chất
của sự vật, hiện tượng đó. Ví dụ, chất lượng của tổ chức đảng A, tổ chức đảng
B; chất lượng công tác tổ chức, cán bộ; chất lượng công tác đảng viên; chất
lượng cơng tác bảo vệ chính trị nội bộ Đảng,...
- Quan niệm về “chất lượng bí thư đảng ủy xã, phường, thị trấn ở tỉnh
Tây Ninh”
Từ cách tiếp cận về chất lượng nêu trên và căn cứ Hướng dẫn số 01HD/BTCTW, ngày 14/10/2006 (nay là Hướng dẫn số 07-HD/BTCTW, ngày
11/10/2011) của Ban Tổ chức Trung ương Đảng về đánh giá chất lượng tổ
chức cơ sở đảng và đảng viên, có thể quan niệm:


25
Chất lượng bí thư đảng uỷ xã, phường, thị trấn ở tỉnh Tây Ninh là sự
tổng hợp, tích hợp của các yếu tố đặc trưng, bản chất tạo nên phẩm chất, giá
trị, mức độ và khả năng hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao của
người bí thư.
1.2.2. Tiêu chí đánh giá chất lượng bí thư đảng ủy

xã, phường, thị trấn
Theo Đại từ điển tiếng Việt: Tiêu chí là đặc trưng, dấu hiệu làm cơ sở,
căn cứ để nhận biết, xếp loại các sự vật, các khái niệm [70, tr.1640]. Trên thực
tế khi xem xét, đánh giá một người hay một tập thể, trước tiên thường xem
xét, đánh giá việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ giao cho con người hay tập
thể đó đạt chất lượng, kết quả như thế nào. Đồng thời, xem xét thực trạng chất
lượng con người hay tổ chức đó thơng qua việc xem xét, đánh giá các yếu tố
tạo nên chất lượng đó. Nhằm đề ra chủ trương, giải pháp để giữ vững, tăng
cường hay nâng cao chất lượng hiện có, phải xem xét các hoạt động của các
tổ chức có trách nhiệm trong thời gian nhất định tạo nên chất lượng của một
con người hay một tập thể, chỉ ra ưu điểm, khuyết điểm, nguyên nhân và
những kinh nghiệm.
- Phẩm chất chính trị
Phẩm chất chính trị là một trong dấu hiệu đặc trưng, bản chất của người
cộng sản nói chung, đặc biệt là bí thư cấp ủy đảng nói riêng. Sự giác ngộ và
sự kiên định về lập trường, tư tưởng chính trị, mục tiêu, lý tưởng, nền tảng tư
tưởng của Đảng là yêu cầu hàng đầu của người bí thư. Do đó, bí thư đảng uỷ
xã, phường, thị trấn phải thực sự là người chiến sỹ tiên phong trong hoạt động
thực tiễn ở cơ sở, khơng dao động trước mọi khó khăn, thử thách, phải có khả
năng kiềm chế mọi tham vọng cá nhân, biết giải quyết và xử lý mọi công việc
ở địa phương một cách thấu tình, đạt lý, suốt đời phấn đấu vì mục tiêu lý
tưởng của Đảng; là người vững vàng, kiên định với sự nghiệp đổi mới, với
con đường mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn; luôn lấy Chủ


×