Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

Báo chí đồng nai với việc tuyên truyền chủ trương, chính sách của đảng, nhà nước về tôn giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (515.68 KB, 102 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đồng Nai được xem là một trung tâm Công giáo ở Nam Bộ với hơn
900.000 tín đồ, chiếm 32,4% dân số tồn tỉnh và 8% giáo dân Công giáo của
cả nước. Lịch sử hình thành các cộng đồng giáo dân Cơng giáo ở Đồng Nai
gắn liền với các biến cố và nhiều cuộc chuyển cư trong nhiều giai đoạn lịch sử
từ thời nhà Nguyễn đến 1954. Phật giáo ở Đồng Nai cũng chiếm khoảng
19,05% dân số với 9 hệ phái ở Việt Nam, thâm nhập vào Đồng Nai khá sớm,
bám rễ trong đời sống tinh thần của người dân ở đây. Bên cạnh các tơn giáo
lớn, Đồng Nai cịn có các tơn giáo khác như đạo Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo,
Tin Lành, Hồi giáo v.v... và nhiều tín ngưỡng dân gian sinh hoạt chung trong
cộng đồng.
Tình hình hoạt động tơn giáo tại Đồng Nai trong nhiều năm qua và hiện
nay vừa có sự phát triển đa dạng vừa có những diễn biến phức tạp. Ngồi
những diễn biến nội tại, tơn giáo ở Đồng Nai cịn chịu ảnh hưởng bởi những
diễn biến tơn giáo của các tỉnh, thành trong cả nước và thế giới. Đặc biệt
những năm gần đây có nhiều vụ việc xảy ra trên địa bàn làm ảnh hưởng đến
tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và quốc phịng an ninh điển hình
như vụ tin đồn Đức mẹ “khóc” ở huyện Thống Nhất năm 2008, vụ giáo dân
đốt xe cảnh sát giao thông trên Quốc lộ 20 thuộc huyện Thống Nhất năm
2009, hay vụ tin đồn Đức mẹ “chảy máu mắt” ở thành phố Biên Hòa năm
2007… Bên cạnh đó, hiện nay cùng với sự phát triển của truyền thông và hệ
thống internet ở Việt Nam, đồng bào giáo dân ở Đồng Nai nhất là đồng bào
công giáo vốn có đời sống kinh tế khá ổn định nên việc tiếp cận internet đang
dần trở nên phổ biến. Vì thế, những năm gần đây, các báo chí chính thống của
Đảng và Nhà nước đứng trước sự cạnh tranh thông tin gay gắt của các luồng
thơng tin phi chính thống trên mạng.


2


Báo chí cách mạng có nhiệm vụ là tiếng nói của Đảng, Nhà nước và nhân
dân Việt Nam mang trong mình sứ mệnh tun truyền, phổ biến chính sách của
Đảng và Nhà nước; cổ vũ, biểu dương những nhân tố mới; đồng thời, là công cụ
định hướng dư luận, công cụ đấu tranh với những tư tưởng sai trái trong lĩnh vực
tơn giáo cả nước nói chung và địa bàn Đồng Nai nói riêng. Những năm qua, hệ
thống báo chí Đồng Nai gồm Báo Đồng Nai, Đài Phát thanh - Truyền hình Đồng
Nai, Báo Lao Động Đồng Nai, tạp chí Văn nghệ Đồng Nai và trang thông tin điện
tử của Báo Đồng Nai, Đài Phát thanh - Truyền hình Đồng Nai đã có những nỗ lực
trong việc tuyên truyền các chủ trương chính sách về tơn giáo của Đảng và Nhà
nước trên địa bàn bằng nhiều hình thức thể loại, trên các loại hình báo chí. Nhiều
nhân tố mới được biểu dương, nhiều vấn đề sai trái đã được định hướng, nhiều
chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước qua kênh báo chí đã đi vào thực tiễn
đời sống đồng bào giáo dân ở Đồng Nai.
Tuy nhiên, so với mong muốn, so với yêu cầu tuyên truyền trong tình
hình mới, những nỗ lực ấy vẫn còn hạn chế. Một trong những nguyên nhân
của sự hạn chế này là những người làm báo dù nhiệt tình song chưa được bồi
dưỡng kiến thức lý luận tôn giáo, chưa hiểu sâu sắc đường lối của Đảng và
chính sách của Nhà nước về lĩnh vực tơn giáo.
Phân tích và khảo sát nội dung thơng tin, hình thức thơng tin của hệ
thống báo chí ở Đồng Nai để chỉ ra những điểm tích cực và hạn chế nhằm đề
xuất các giải pháp nâng cao chất lượng tun truyền các chính sách về tơn
giáo trong tình hình hiện nay là vấn đề có ý nghĩa cấp thiết. Xuất phát từ lý
luận và thực tiễn đó, tác giả chọn đề tài “Báo chí Đồng Nai với việc tuyên
truyền chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về tôn giáo” làm đề tài
luận văn thạc sỹ triết học chun ngành tơn giáo học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Cho đến nay, có một số cơng trình nghiên cứu về tơn giáo học đề cập
đến yêu cầu tuyên truyền nhưng chỉ bàn đến như một giải pháp thành tố. Rải



3
rác cũng có nhiều cơng trình nghiên cứu về vai trị, tác động của báo chí đối
với vấn đề tơn giáo nhưng những cơng trình này đều tiếp cận ở khía cạnh báo
chí học. Ví dụ: Dự án “Khảo sát thực trạng cơng tác tun truyền về chính
sách tơn giáo và cơng tác tơn giáo của báo chí trong hệ thống chính trị thời kỳ
mới - những kiến nghị và giải pháp” do Ban Tơn giáo Chính phủ - Bộ Nội vụ tổ
chức; đề tài “Quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác tư tưởng, lý luận và
quản lý báo chí” (đề cương chuyên đề phục vụ lớp nâng ngạch giảng viên chính,
biên tập viên chính, phóng viên chính và tương đương năm 2012 của PGS.TS.
Nguyễn Văn Dững; luận văn thạc sĩ “Chất lượng công tác tư tưởng của Đảng
trong đồng bào Công giáo ở tỉnh Đồng Nai hiện nay” của tác giả Nguyễn Đăng
Hồi; “Báo chí với vấn đề tôn giáo trên địa bàn Hà Nội” (khảo sát trên báo Hà
Nội Mới, Đại Đoàn kết, Lao Động từ 2007 - 2010)” của ThS. Nguyễn Thị Nga,
bảo vệ tại Đại học KHXH-NV Hà Nội; “Chính sách tơn giáo của Đảng cộng
sản Việt Nam từ (1986-2010)” luận văn thạc sỹ lịch sử của Lương Thị Phương
Mai Đại học KHXH-NV Hà Nội; “Việc thực hiện chính sách tơn giáo đối với
đồng bào theo đạo tin lành ở Lâm Đồng”, luận văn thạc sĩ khoa học tơn giáo của
Lê Hồi Nam năm 2011; “Hiệu quả tuyên truyền điển hình tiên tiến trên hệ
thống đài truyền thanh cấp huyện ở tỉnh Hà Nam hiện nay”, luận văn thạc sĩ
khoa học chính trị của Bùi Hồng Phương (năm 2011)…
Một số cơng trình nghiên cứu khác đề cập đến nhận thức từ phương
diện truyền thông tôn giáo mà chủ thể truyền thông là chủ thể lãnh đạo, quản
lý xã hội có thể kể ra như: “Những vấn đề lý luận và thực tiễn tôn giáo ở VN”
(Đặng Nghiêm Vạn, 1998, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội), “Lý luận về tơn
giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam” (Nguyễn Đức Lữ chủ biên, 2008,
Nxb. Tôn giáo, Hà Nội), “Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam lý luận
và thực tiễn” (Đỗ Quang Hưng, 2008, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội), “Công tác tôn
giáo từ quan điểm Mác - Lê nin đến thực tiễn Việt Nam” (Ngơ Hữu Thảo,
2012, Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà Nội).



4
Các tác phẩm trên có nội dung đề cập sâu về vấn đề tơn giáo và chính
sách tơn giáo, như sự phát triển quan điểm, đường lối tôn giáo của Đảng và
Nhà nước ta từ 1945 đến nay; đề cập đến mối quan hệ giữa Nhà nước với tổ
chức giáo hội tôn giáo; nội dung, bối cảnh quốc tế của vấn đề tôn giáo ở Việt
Nam thế kỷ XX; chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng HCM về tôn giáo từ góc nhìn
lý luận. Cũng trong các sách này, nội dung về các phương hướng và giải pháp
giải quyết vấn đề tôn giáo, các tác giả cũng đề cập đến công tác truyền thông
tôn giáo của Đảng và Nhà nước, coi đó là một nội dung quan trọng của q
trình lãnh đạo, quản lý xã hội của Đảng và Nhà nước.
Tuy nhiên, các cơng trình trên đây, khi đề cập đến công tác tuyên
truyền vấn đề tôn giáo và hoạt động tơn giáo, vẫn đứng chủ yếu từ góc độ vai trị,
chức năng của các phương tiện truyền thơng đại chúng của Đảng và Nhà nước,
chưa đề cập đến vai trò của đối tượng được tuyên truyền là quần chúng tín đồ,
chức sắc tơn giáo trong q trình vận động ấy và cũng ít có tính ứng dụng.
Trong sách “Vài nét về hiện trạng truyền thông xã hội Việt Nam, Niên
Giám Giáo Hội Công giáo Việt Nam” (Nxb Tôn Giáo, Hà Nội, 2005) của linh
mục Nguyễn Ngọc Sơn, tác giả đã có cái nhìn duy tâm về nguồn gốc của
truyền thơng, khi cho rằng, truyền thông không chỉ là một nhu cầu tự nhiên
của con người mà còn là một mầu nhiệm siêu việt của người tín hữu muốn
bước theo Đức Giêsu Kitơ. Hoặc tác giả Hồng Thị Thùy Dương trong luận
văn “Hoạt động truyền thông về vấn đề tôn giáo trên báo in Việt Nam hiện
nay” đã cố gắng miêu tả mối quan hệ giữa đời sống báo chí và đời sống tơn
giáo ở nước ta từ việc phân tích thông điệp truyền thông trên báo Nhân dân và
báo Tuổi Trẻ. Qua đó, tác giả cũng góp phần nêu lên vai trị, nhiệm vụ, chức
năng của báo chí trong việc phản ánh chân thực và sinh động đời sống của
cộng đồng tín đồ, chức sắc các tơn giáo ở Việt Nam. Tuy nhiên, luận văn cũng
chỉ dừng lại ở kiến nghị những người có trách nhiệm trong các tơn giáo nên ý
thức được tầm quan trọng của truyền thông và ảnh hưởng của nó trong đời



5
sống cộng đồn cũng như cá nhân tín hữu, chưa có những đề xuất thực tiễn
cho cả đối tượng lẫn chủ thể truyền thông vốn rất phong phú hiện nay.
Hầu hết các cơng trình nghiên cứu có khảo sát thực tiễn đều thiên về
báo in, chưa có cơng trình nào nghiên cứu tồn diện các loại hình báo chí, đặc
biệt là phát thanh, truyền hình, báo mạng điện tử như một hệ thống ở một địa
phương đặc thù về vấn đề tơn giáo dưới góc độ tơn giáo học.
Vì thế, có thể nói, đây là luận văn đầu tiên khảo sát tình hình báo chí
như một hệ thống, một binh chủng trong công tác tư tưởng của Đảng ở một
địa bàn đặc thù và đề xuất các giải pháp liên quan đến cả vấn đề định hướng,
quản lý, tổ chức thực hiện thơng tin.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Từ việc phân tích thực trạng cơng tác tun truyền chủ trương, chính
sách của Đảng, Nhà nước về tơn giáo của báo chí Đồng Nai, luận văn đề xuất
một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả tuyên truyền của báo chí
Đồng Nai trong công tác này.
3.2. Nhiệm vụ
- Khái quát chung về báo chí Đồng Nai và chủ trương chính sách của
Đảng, Nhà nước về tơn giáo hiện nay.
- Phân tích thực trạng và những vấn đề đặt ra của báo chí Đồng Nai
trong việc tun truyền chủ trương, chính sách về tơn giáo.
- Đề ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của báo chí
Đồng Nai trong cơng tác tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước về tôn giáo.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các tác phẩm báo chí có nội dung
liên quan đến tun truyền chủ trương, chính sách về tơn giáo của Đảng và

Nhà nước trên báo Đồng Nai (cơ quan ngôn luận của Tỉnh Đảng bộ Đồng


6
Nai), báo Lao động Đồng Nai (cơ quan của Liên đoàn Lao động tỉnh Đồng
Nai), Đài Phát thanh - Truyền hình Đồng Nai, các trang thơng tin điện tử của
báo Đồng Nai, Đài PTTH Đồng Nai. Các tác phẩm báo chí được tập trung
nghiên cứu chủ yếu là các dạng tin, bài, phóng sự (báo in, phát thanh, truyền
hình), bút ký, phim tài liệu trên cả 2 mặt: nội dung thơng tin, hình thức tác phẩm.
Luận văn tập trung khảo sát nội dung của báo chí Báo chí Đồng Nai với
việc tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước về tôn giáo giai
đoạn từ năm 2003 đến tháng 8 năm 2013, tìm hiểu cơng tác tổ chức quản lý ở
các cơ quan báo chí đối với nội dung tuyên truyền về vấn đề tôn giáo.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn cịn là nhóm cơng chúng báo chí đặc
biệt: đồng bào có đạo (giáo dân, chức sắc tơn giáo) trong phạm vi toàn tỉnh.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở khoa học lý luận là chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước
về tơn giáo, đường lối của Đảng về phát triển sự nghiệp thơng tin - báo chí;
các tài liệu, giáo trình, sách tham khảo, báo và tạp chí trong và ngồi nước…
có liên quan đến nội dung lý luận tôn giáo và lý luận về vai trị báo chí.
Phương pháp nghiên cứu: Vận dụng phương pháp luận chung nhất của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử các phương pháp
nghiên cứu chuyên ngành tôn giáo học và liên ngành khoa học như lịch sử, xã
hội học, chính trị học để khảo sát, tổng hợp, phân tích lấy ý kiến và điều tra
bằng bảng hỏi.
Luận văn cũng sử dụng một số tư liệu thống kê, báo cáo của cơ quan
nhà nước ở Đồng Nai, và sử dụng một số tài liệu nghiên cứu của các tác giả
trong nước.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Đánh giá thực trạng hệ thống báo chí (báo in, báo nói, báo hình, báo

mạng) một địa phương đặc thù trong việc tuyên truyền chủ trương, chính sách


7
về tôn giáo hiện nay và đề ra một số giải pháp, kiến nghị cụ thể cho các nhóm
đối tượng liên quan (chủ thể truyền thông cũng như đối tượng tác động) nhằm
phát huy hiệu quả tuyên truyền chủ trương, chính sách tơn giáo trong thời
gian tới ở địa bàn tỉnh.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
7.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn sẽ cố gắng phác thảo tổng quan về tình tơn giáo tại tỉnh Đồng
Nai, một địa bàn đặc thù và qua đó, nhận diện nhu cầu thông tin và được
thông tin của bà con giáo dân. Bên cạnh đó, qua khảo sát, luận văn sẽ đánh
giá (định lượng và định tính) vai trị của báo chí Đồng Nai trong cơng tác
tun truyền các chủ trương, chính sách về tơn giáo của Đảng và Nhà nước,
đồng thời, đề ra các giải pháp đổi mới, cải tiến và nâng cao chất lượng công
tác này cho phù hợp với công tác truyền thông đa phương tiện hiện nay.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Thông qua việc đề ra một số giải pháp lãnh đạo, quản lý và tổ chức nội
dung thơng tin tun truyền về chủ trương, chính sách về tơn giáo, luận văn
hy vọng có những đóng góp có ý nghĩa thực tiễn trong cơng tác tư tưởng của
Đảng nói chung và cơng tác báo chí nói riêng.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.


8
Chương 1
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN-TƯ, TƯỞNG HỒ CHÍ

MINH VÀ CHỦ TRƯƠNG CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC
TA VỀ TÔN GIÁO TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI
1.1. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VÀ TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH VỀ TƠN GIÁO

1.1.1. Quan niệm duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lê nin về bản
chất, nguồn gốc, vai trò và phương pháp giải quyết vấn đề tôn giáo
Nếu chủ nghĩa duy vật lịch sử được coi là một trong ba phát minh quan
trọng nhất của chủ nghĩa Mác, thì những quan điểm về tơn giáo là một trong
những biểu hiện rõ nét nhất lập trường duy vật về lịch sử của học thuyết này.
Nó thể hiện thông qua các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về bản chất,
nguồn gốc và chức năng của tôn giáo. Trong khi các nhà duy tâm, thần học
cho rằng tơn giáo có nguồn gốc siêu nhiên, thế giới tự nhiên, xã hội loài người
cũng như toàn bộ hoạt động của mỗi cá nhân con người đều chịu sự chi phối,
điều khiển của các lực lượng siêu nhiên, thần thánh thì các nhà duy vật, vơ
thần đã có quan điểm hoàn toàn đối lập. L.Phoiơbắc - nhà triết học duy vật
người Đức, trong "Bản chất đạo Cơ đốc", đã khẳng định rằng, không phải
thần thánh sáng tạo ra con người mà con người sáng tạo ra thần thánh theo
hình mẫu của mình; Tuy nhiên, Phoiơbắc chưa chỉ ra được bản chất thực sự
của tơn giáo và ở khía cạnh này, ông vẫn chưa thoát khỏi quan điểm duy tâm
khi chỉ phê phán thứ tôn giáo hiện thời chứ không phê phán tơn giáo nói
chung, càng chưa hề đề cập đến sự phê phán những điều kiện hiện thực đã
làm nảy sinh tơn giáo. Thậm chí, ơng cịn cho rằng người ta vẫn rất cần một
thứ tôn giáo khác thay thế, đó là “tơn giáo tình u” để xố bỏ đi những áp
bức, bất công trong xã hội.
Kế thừa và vượt lên trên quan điểm của Phoiơbắc và các nhà duy vật
trước đó, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã đứng vững trên lập


9

trường duy vật lịch sử để lý giải vấn đề bản chất của tơn giáo. Theo đó, ý thức
xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết định. Mặc dù có
tính độc lập tương đối nhưng mọi hiện tượng trong đời sống tinh thần, xét đến
cùng, đều có nguồn gốc từ đời sống vật chất. Tôn giáo là một hiện tượng tinh
thần của xã hội và vì vậy, nó là một trong những hình thái ý thức xã hội, phản
ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định. Nhưng khác với
những hình thái ý thức xã hội khác, sự phản ánh của tôn giáo đối với hiện
thực là sự phản ánh đặc thù, đó là sự phản ánh “hoang đường”, "hư ảo" thế
giới khách quan. C.Mác và Ph.Ăngghen đã lột tả bản chất của tôn giáo, “tôn
giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo - vào đầu óc của con người - của
những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự
phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế mang hình thức những lực
lượng siêu trần thế” [48, tr.328].
Đứng vững trên lập trường duy vật lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã
luận giải rằng sự xuất hiện và tồn tại của tôn giáo xuất phát từ hiện thực
khách quan và nguồn gốc quan trọng nhất của tơn giáo chính là điều kiện
kinh tế - xã hội. Trong lịch sử tiến hố của mình, trước hết con người có
nhu cầu cải tạo tự nhiên để tạo ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao của mình. Nhưng do trình độ và khả năng cải tạo tự nhiên cịn
thấp kém, con người ln cảm thấy yếu đuối, bất lực trước các hiện tượng
tự nhiên và đã gắn cho tự nhiên những sức mạnh siêu nhiên. Đó chính là cơ
sở cho sự nảy sinh các hiện tượng thờ cúng. Đặc biệt, khi xã hội có sự phân
chia và áp bức giai cấp thì các mối quan hệ xã hội càng phức tạp, một bộ
phận người dân rơi vào tình thế cùng quẫn, bất lực trước các thế lực thống
trị. Thêm vào đó, những yếu tố tự phát, ngẫu nhiên, rủi ro bất ngờ nằm
ngoài ý muốn của con người gây ra cho họ sự sợ hãi, lo lắng, mất cảm giác
an tồn. Đó cũng là ngun nhân khiến người ta tìm đến và dựa vào sự che
chở của tơn giáo.



10
Cắt nghĩa về nguồn gốc kinh tế - xã hội của tôn giáo, Ph.Ăngghen viết:
“Trong những thời kỳ đầu của lịch sử chính những lực lượng thiên nhiên là
những cái trước tiên được phản ánh như thế, và trong quá trình phát triển hơn
nữa thì ở những dân tộc khác nhau, những lực lượng thiên nhiên ấy đã được
nhân cách hóa một cách hết sức nhiều vẻ và hết sức hỗn tạp... Nhưng chẳng
bao lâu, bên cạnh những lực lượng thiên nhiên lại cịn có cả những lực lượng
xã hội tác động - những lực lượng này đối lập với con người, một cách cũng
xa lạ lúc đầu cũng không thể hiểu được đối với họ, và cũng thống trị họ với
cái vẻ tất yếu bề ngoài giống như bản thân những lực lượng tự nhiên vậy” [49,
tr.450]. Bàn về vấn đề này, V.I.Lênin cũng khẳng định: “Sự bất lực của giai
cấp bị bóc lột trong cuộc đấu tranh chống bọn bóc lột tất nhiên đẻ ra lịng tin
vào cuộc đời tốt đẹp ở thế giới bên kia, cũng giống y như sự bất lực của người
dã man trong cuộc đấu tranh chống thiên nhiên đẻ ra lòng tin vào thần thánh,
ma quỷ và những phép màu” [40, tr.375].
Như vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tôn giáo có nguồn
gốc từ trong hiện thực và phản ánh chính hiện thực đó. Trong “Phê phán
triết học pháp quyền” của Hêghen, C.Mác đã viết: “Sự nghèo nàn của tôn
giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng chống
sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức,
là trái tim của thế giới khơng có trái tim, cũng như nó là tinh thần của những
trật tự khơng có tinh thần. Tơn giáo là thuốc phiện của nhân dân” [48, tr.570].
Luận điểm trên của C.Mác đã thể hiện rõ nguồn gốc, bản chất, chức năng của
tôn giáo trên lập trường duy vật lịch sử. Với C.Mác, tôn giáo như là “vầng
hào quang” ảo tưởng, là những vịng hoa giả đầy màu sắc và đẹp một cách
hồn mỹ, là ước mơ, là niềm hy vọng và điểm tựa tinh thần vô cùng to lớn
cho những số phận bé nhỏ, bất lực trước cuộc sống hiện thực. Vì, trong cuộc
sống hiện thực, khi con người bất lực trước tự nhiên, bất lực trước các hiện
tượng áp bức, bất cơng của xã hội thì họ chỉ cịn biết “thở dài” và âm thầm,



11
nhẫn nhục chịu đựng. Cũng trong cuộc sống hiện thực ấy, họ khơng thể tìm
thấy “một trái tim” để u thương, che chở nên phải tìm đến một “trái tim”
trong tưởng tượng nơi tơn giáo. Trái tim đó chở che và tiếp thêm sức mạnh
cho họ để họ có thể vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống.
Với luận điểm “tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”, C.Mác không
chỉ muốn khẳng định tính chất “ru ngủ” hay độc hại của tơn giáo, mà cịn
nhấn mạnh đến sự tồn tại tất yếu của tôn giáo với tư cách một thứ thuốc giảm
đau được dùng để xoa dịu những nỗi đau trần thế khi mà con người bất lực
trước hiện thực khổ đau. Đó chính là lý do để lý giải tại sao người ta hướng
tới, hy vọng và coi tôn giáo như chiếc “phao cứu sinh” cho cuộc sống của
mình, cho dù đó chỉ là hạnh phúc ảo tưởng, chỉ là “sự đền bù hư ảo”.
Như vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác, tôn giáo mặc dù là sự
phản ánh hoang đường, hư ảo hiện thực, là một hiện tượng tiêu cực trong xã
hội nhưng nó khơng phải khơng có những yếu tố tích cực. Đó là sự phê phán
cái xã hội đầy “xiềng xích”, đầy rẫy những áp bức, bất công và bạo lực, và
ước mơ tới một xã hội tươi đẹp, hạnh phúc mà hình ảnh tưởng tượng của nó
là " Thiên đàng ", "Niết bàn ".
Điều vĩ đại của C.Mác là bằng quan điểm duy vật lịch sử và tính cách
mạng trong học thuyết về tơn giáo của ơng chính là ở chỗ, trong khi các nhà
duy vật vô thần chỉ biết phê phán bản thân tơn giáo thì C.Mác lại khơng phê
phán tơn giáo mà phê phán chính cái hiện thực đã làm nảy sinh tôn giáo, tức
là phê phán sự áp bức, bất công, bạo lực… trong xã hội đã đẩy con người phải
tìm đến với tơn giáo và ru ngủ mình trong tơn giáo. C.Mác đã chỉ rõ tôn giáo
là một hiện tượng tinh thần có nguyên nhân từ trong đời sống hiện thực nên
muốn xố bỏ tơn giáo, khơng có cách nào khác là phải xoá bỏ cái hiện thực đã
làm nảy sinh ra tôn giáo. Mác đã khẳng định rằng, muốn xố bỏ tơn giáo và
giải phóng con người khỏi sự nơ dịch của tơn giáo thì trước hết phải đấu tranh
giải phóng con người khỏi những thế lực áp bức bất cơng, nâng cao trình độ



12
nhận thức cho người dân và xây dựng một xã hội khơng cịn tình trạng người
bóc lột người, đó là xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Trên lập trường duy vật lịch sử, chủ nghĩa Mác - Lênin đã kịch liệt
phản đối những hành vi cực đoan, tấn công trực diện vào tôn giáo một cách
thô bạo. Bản thân tôn giáo khơng có tội và vì vậy, khơng nên phê phán tôn
giáo mà cần phê phán cái hiện thực đã làm nảy sinh tôn giáo. Việc phê phán
tôn giáo không thể được tiến hành trực diện mà cần “làm cho con người thoát
khỏi ảo tưởng, để con người tư duy, hành động, xây dựng tính hiện thực của
mình với tư cách một con người vừa thoát khỏi ảo tưởng và đạt đến tuổi có lý
trí; để con người vận động xung quanh bản thân mình, nghĩa là vận động
xung quanh cái mặt trời thật sự của mình. Tơn giáo chỉ là cái mặt trời ảo
tưởng, nó vận động xung quanh con người chừng nào con người còn chưa bắt
đầu vận động xung quanh bản thân mình” [48, tr.576]. Như vậy, theo quan
điểm của C.Mác, tôn giáo chỉ thật sự mất đi khi con người ta tự nhận thức
được về bản thân mình, từ bỏ những ảo tưởng thần thánh để quay trở về với
cuộc sống hiện thực.
Phê phán các nhà duy vật vơ thần trước đó, chủ nghĩa Mác - Lênin
khẳng định, thật sai lầm nếu cho rằng sẽ đánh tan được những thiên kiến tôn
giáo chỉ bằng tuyên truyền, giáo dục hay mệnh lệnh hành chính. Tơn giáo là
một hình thái ý thức xã hội nên về nguyên tắc, nó chỉ thay đổi khi bản thân
tồn tại xã hội được thay đổi, nó chỉ được giải quyết khi bản thân hiện thực nảy
sinh tôn giáo được cải tạo.
Tuy vậy các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê nin không hề coi
nhẹ công tác tuyên truyền tư tưởng, C.Mác chỉ rõ: Tư tưởng căn bản không
thể thực hiện được cái gì hết. Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con
người sử dụng lực lượng thực tiễn. Trong Lời nói đầu Góp phần phê phán triết
học pháp quyền của Hêghen, C.Mác một lần nữa khẳng định: “Vũ khí của sự

phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng


13
vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ
trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng” [48,
tr.580] Như vậy chủ nghĩa Mác - Lê nin đã chỉ rõ mối quan hệ biện chứng
giữa tinh thần, tư tưởng với hoạt động vật chất của con người. Chính chủ tịch
Hồ Chí Minh cũng nhiều lần nhắc nhở cán bộ làm công tác tuyên truyền của
Đảng là "lý luận không gắn với thực tiễn là lý luận suông, thực tiễn khơng có
lý luận soi đường là thực tiễn mù quáng" [60, tr.396].
Lênin còn chỉ rõ thái thái độ của những người cộng sản đối với tôn
giáo, đồng thời nêu lên phương pháp tuyên truyền cho chủ nghĩa vô thần khoa
học. Ông khẳng định rằng, đối với nhà nước phải coi tôn giáo là việc của tư
nhân: “Giáo hội và nhà nước hồn tồn tách khỏi nhau; đó là điều mà giai cấp
vơ sản xã hội chủ nghĩa địi nhà nước và giáo hội hiện đại phải thực hiện” [39,
tr.171], nghĩa là thế quyền phải hoàn toàn tách khỏi thần quyền, các giáo hội
không được can thiệp vào công việc của nhà nước cịn chính quyền nhà nước
khơng can thiệp vào công việc nội bộ thuần tuý của các tôn giáo. Nhưng,
Đối với Đảng của giai cấp vô sản xã hội chủ nghĩa, tôn giáo không
phải là một việc tư nhân. Đảng ta là một tổ chức gồm những chiến sĩ
tiên phong và giác ngộ đấu tranh giải phóng giai cấp công nhân.
Một tổ chức như thế không được thờ ơ trước tình trạng thiếu giác
ngộ, dốt nát hoặc mê muội mà biểu hiện là những tín ngưỡng tơn
giáo [39, tr.172].
Điều ấy địi hỏi mỗi đảng viên phải tích cực tham gia tuyên truyền cho
chủ nghĩa vô thần khoa học. Bởi vì, như Lênin đã nói: “Đối với chúng ta, đấu
tranh tư tưởng không phải là việc của tư nhân, mà là một việc của toàn đảng,
của toàn thể giai cấp vô sản” [39, tr.173]. Nhưng Người cũng nhắc nhở rằng,
việc tuyên truyền chủ nghĩa vô thần khoa học và đấu tranh chống tơn giáo

phải có bước đi, phương pháp thích hợp, tránh khuynh hướng tả khuynh trong
vấn đề này. Lênin viết:


14
Đối với chúng ta, sự thống nhất của cuộc đấu tranh thực sự cách
mạng đó của giai cấp bị áp bức để sáng tạo nên một cảnh cực lạc
trên trái đất, là quan trọng hơn sự thống nhất ý kiến của những
người vô sản về cảnh cực lạc trên thiên đường. Bởi vậy, trong cương
lĩnh của chúng ta, chúng ta không tuyên bố và chúng ta không nên
tuyên bố chủ nghĩa vô thần của chúng ta; bởi vậy, đối với những
người vơ sản nào cịn giữ những tàn tích nào đó của những thiên
kiến cũ của mình, thì chúng ta không cấm và cũng không nên cấm
họ gần gũi Đảng ta [39, tr.174].
Ông nhấn mạnh: “Sự tuyên truyền của Đảng Dân chủ- Xã hội về chủ
nghĩa vô thần phải phục vụ nhiệm vụ cơ bản của đảng, phải phục vụ việc phát
triển cuộc đấu tranh giai cấp của quần chúng bị bóc lột chống bọn bóc lột”
[40, tr.516]. Lênin thường xuyên nhắc nhở những người cộng sản phải hết sức
thận trọng, khéo léo, tế nhị trong việc giải quyết vấn đề có liên quan đến tơn
giáo, tránh những việc làm có tính chất mệnh lệnh, hành chính, thơ bạo,
khơng được xúc phạm đến niềm tin tôn giáo của quần chúng mà phải dùng
biện pháp tuyên truyền, giáo dục, cảm hóa, thuyết phục họ. Người viết:
Đấu tranh chống lại các thành kiến tơn giáo thì phải cực kỳ thận
trọng; trong cuộc đấu tranh này, ai làm tổn thương đến tình cảm tơn
giáo, người đó sẽ gây thiệt hại lớn. Cần phải đấu tranh bằng tuyên
truyền, bằng giáo dục. Nếu hành động thô bạo, chúng ta sẽ làm cho
quần chúng tức giận; hành động như vậy sẽ càng gây thêm chia rẽ
trong quần chúng về vấn đề tôn giáo, mà sức mạnh của chúng ta là ở
sự đoàn kết. Nguồn gốc sâu xa nhất của các thành kiến tôn giáo là
cùng khổ và dốt nát; chính cái tệ ấy là cái mà chúng ta cần phải đấu

tranh [41, tr.221].
Nghĩa là cần phải tăng cường đầu tư phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội,
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho quần chúng có đạo.


15
Tuyệt đối khơng được nóng vội, chủ quan trong việc giải quyết vấn đề
tôn giáo. Về vấn đề này, V.I.Lênin đã nhấn mạnh:
Những lời tuyên chiến ầm ĩ với chủ nghĩa duy tâm, những mệnh
lệnh ngăn cấm tín ngưỡng, tơn giáo là những hành vi dại dột, vơ
chính phủ, làm cho kẻ thù lợi dụng để kích động tình cảm tơn giáo
của tín đồ, làm cho họ ngày càng gắn bó với tơn giáo, xa lánh thậm
chí đi đến chống lại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đương
nhiên, như vậy khơng có nghĩa là coi nhẹ việc giáo dục chủ nghĩa vô
thần khoa học, thế giới quan duy vật cho tồn dân, trong đó có
những tín đồ tơn giáo, việc làm đó góp phần nâng cao trình độ kiến
thức cho tồn dân [40, tr.511].
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tơn giáo
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho thế hệ sau những di sản tư tưởng
q báu, trong đó có vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo. Những lời di huấn, các bài
viết, những cử chỉ, hành động cũng như phong cách ứng xử của Người đối
với các tơn giáo nói chung và đối với tín đồ, giáo sĩ, nhà tu hành của đạo
Cơng giáo nói riêng là những bài học q báu. Tư tưởng đồn kết tơn giáo hồ
hợp dân tộc và tơn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tự do khơng tín
ngưỡng là nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết lương giáo, đồn kết các tơn giáo
với nhau nằm trong chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Người. Đồn kết theo
tư tưởng Hồ Chí Minh là đồn kết rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân, không
phân biệt dân tộc, giai cấp, tơn giáo... Đồn kết là một chiến lược lâu dài chứ
không phải là một thủ đoạn chính trị nhất thời. Năm 1955, phát biểu trong hội

nghị Mặt trận Liên Việt, Người khẳng định: “Đoàn kết của ta khơng những
rộng rãi, mà cịn đồn kết lâu dài. Đồn kết là một chính sách dân tộc, khơng
phải là một thủ đoạn chính trị. Ta đồn kết để đấu tranh cho thống nhất và
độc lập của Tổ quốc; ta cịn phải đồn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài,


16
có đức, có sức, có lịng phụng sự Tổ quốc và phụng sự nhân dân thì ta phải
đồn kết với họ” [59, tr.438]. Đoàn kết là một tư tưởng lớn, bao trùm của Hồ
Chí Minh, chính nhờ vậy mà Người đã quy tụ, tập hợp được toàn dân tham
gia kháng chiến và kiến quốc thắng lợi. Trong đó, đồn kết giữa những người
cộng sản với những người có tín ngưỡng tơn giáo, giữa những người có tín
ngưỡng, tơn giáo khác nhau và giữa những người có tín ngưỡng với những
người khơng có tín ngưỡng là một bộ phận quan trọng trong tư tưởng đại
đồn kết dân tộc của Hồ Chí Minh.
Nhờ nêu cao tinh thần đoàn kết lương giáo, hoà hợp dân tộc nên Hồ Chủ
tịch đã tập hợp xung quanh mình nhiều giáo sĩ, giáo dân hết lịng phấn đấu
cho sự nghiệp cứu nước, kiến quốc, từ đó xố dần những định kiến, mặc cảm
do lịch sử để lại và âm mưu chia rẽ của kẻ địch.
Để đoàn kết lương giáo, Người cịn ln nhắc nhở đồng bào và chiến sĩ
cả nước phải quan tâm, chăm sóc cho cuộc sống vật chất và tinh thần của đồng
bào các tôn giáo. Lúc nào trong tâm tưởng của Người cũng trăn trở bởi một điều
là làm sao để “các cấp uỷ phải thật quan tâm đến phần đời và phần đạo của đồng
bào công giáo” [63, tr.83], làm thế nào để “sản xuất ngày càng phát triển, phần
xác ta được ấm no thì phần hồn cũng được yên vui” [60, tr.285].
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng,
tơn giáo và khơng tín ngưỡng, tơn giáo; đồng thời chống âm mưu lợi dụng
tín ngưỡng, tơn giáo
Tự do tín ngưỡng, tơn giáo và khơng tín ngưỡng, tôn giáo là một trong
những quan điểm quan trọng trong tư tưởng của Hồ Chí Minh về tơn giáo. Tư

tưởng đó được thể hiện nhất quán cả trong lý luận và hoạt động thực tiễn của
Người, và đã trở thành nguyên tắc nền tảng xuyên suốt trong chính sách đối
với tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta. Tư tưởng đó đã thâm nhập sâu rộng
vào quần chúng nhân dân nói chung, cán bộ, đảng viên nói riêng.
Cơ sở xuất phát của tư tưởng Hồ Chí Minh về tự do tín ngưỡng, tơn
giáo là: tơn trọng đức tin của mỗi người. Hồ Chí Minh nói: “Tất cả mọi


17
người đều có quyền nghiên cứu một chủ nghĩa. Riêng tôi, tôi đã nghiên cứu
Chủ nghĩa Mác. Cách đây 2000 năm, Đức Chúa Giê su đã nói là ta phải yêu
mến các kẻ thù của ta. Điều đó đến bây giờ vẫn chưa thực hiện được” [56,
tr.272]. Và Người nhấn mạnh rằng: “Tín đồ Phật giáo tin ở Phật, tín đồ Gia Tô
tin ở Đức Chúa Trời; cũng như chúng ta tin ở đạo Khổng. Đó là những vị chí
tơn nên chúng ta tin tưởng” [56, tr.148].
Người đã chỉ ra rằng mặc dù thế giới quan của người cách mạng khác
với thế giới quan tơn giáo, song khơng vì vậy mà đối đầu, nghi kỵ nhau;
ngược lại, phải tôn trọng đức tin của mỗi người.
Dù với tư cách là Chủ tịch Đảng, người đứng đầu Chính phủ, hay với tư
cách là một cơng dân, Hồ Chí Minh ln thể hiện là một con người mẫu mực
trong việc tôn trọng tự do tín ngưỡng tơn giáo của quần chúng nhân dân.
Năm 1945, chỉ sau một ngày đọc Tuyên ngôn độc lập ở Quảng trường Ba
Đình, trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ lâm thời (3-9-1945),
Hồ Chủ tịch đã phát biểu”Tơi đề nghị Chính phủ ta tun bố: Tín ngưỡng tự
do Lương Giáo đoàn kết” [56, tr.9].
Năm 1946, Hiến pháp đầu tiên ghi nhận “Nhân dân có quyền tự do tín
ngưỡng”. Chính cương của Mặt trận liên việt, điều thứ 7 điểm 1: “Tơn trọng
quyền tự do tín ngưỡng, tự do thờ cúng của mọi người”. Chính cương của
đảng Lao động Việt Nam, điều 8 cũng ghi nhận: “Tôn trọng và bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng của mọi người dân”. Tất cả những văn bản ấy đều có

sự chỉ đạo trực tiếp của Hồ Chủ tịch.
Năm 1951, trước luận điệu xuyên tạc của kẻ địch, Hồ Chủ tịch thấy cần
phải nói rõ để tránh sự hiểu lầm của tín đồ các tơn giáo. Trong buổi kết thúc
buổi lễ ra mắt của Đảng Lao động Việt Nam, Người phát biểu: “Chúng tơi xin
nói thêm hai điểm, nói rõ để tránh mọi sựcó thể hiểu lầm: Một là vấn đề tơn
giáo, thì Đảng Lao động Việt Nam hồn tồn tơn trọng quyền tự do tín
ngưỡng của mọi người” [58, tr.184].


18
Năm 1955, khi hồ bình lập lại ở mìên Bắc, ngày 8-3-1955, một lần nữa
Người khẳng định chính sách nhất quán lâu dài của Đảng và Nhà nước “
“Hiến pháp đã ghi rõ chính sách tự do tín ngưỡng. Chính phủ nhất định làm
đúng như vậy. Phải vạch trần những luận điệu xuyên tạc của bọn đế quốc và
bè lũ tay sai hòng lừa dối, chia rẽ đồng bào như chúng thường nói Chính phủ
cấm đạo và nhiều điều vơ lý khác.
Đến ngày 14-6-1955, Hồ Chủ tịch đã ký Sắc lệnh 234/SL về vấn đề tôn
giáo gồm 5 chương và 16 điều rất chi tiết và cụ thể về quyền tự do tín
ngưỡng, tơn giáo của nhân dân. Sắc lệnh này được đồng bào có đạo nhiệt liệt
hoan nghênh và ủng hộ [58, tr.39-41].
Hồ Chí Minh là người mácxít chân chính theo quan điểm duy vật,
nhưng khơng ai tìm được dù là một biểu hiện rất nhỏ của sự bài xích, chế giễu
với một tơn giáo nào bất kỳ. Ngược lại, Hồ Chí Minh đã tiếp cận tơn giáo, coi
nó như một di sản văn hố của lồi người, và tìm thấỷ ở đấy những mặt tích
cực nhất định, những nhân tố hợp lý để kế thừa, tiếp thu những giá trị nhân
bản, nhân văn của tôn giáo. Người đã đúc kết một cách sâu sắc những giá
trị đạo đức của các tôn giáo lớn, Người viết: "Chúa Giêsu dạy: Đạo đức
là bác ái. Phật Thích Ca dạy: Đạo đức là từ bi. Khổng tử dạy: Đạo đức là
nhân nghĩa" [56, tr.225]. Trong mỗi tơn giáo, tín ngưỡng đều có những
hạt nhân triết học hợp lý, giá trị nhân văn, như đức "từ bi" của Phật giáo,

lòng "nhân nghĩa" của đạo Cao Đài và Phật giáo Hòa Hảo, tư tưởng "bác
ái" của đạo Kitô, truyền thống uống nước, nhớ nguồn, hun đúc lịng tự
hào, tự tơn dân tộc của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, là mẫu số chung điểm tương đồng giữa văn hố, đạo đức, tín ngưỡng, tơn giáo với văn
hố dân tộc. Đó cũng chính là chân lý giá trị mà nhân loại cũng như dân
tộc ta ln hướng tới.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh muốn làm tốt công tác tôn giáo, phải ra
sức tuyên truyền, giải thích cho đồng bào tín đồ các tơn giáo hiểu rõ chính


19
sách của Đảng và Chính phủ để họ tự giác thực hiện và đấu tranh chống âm
mưu lợi dụng tôn giáo của địch. Người thường xuyên nhắc nhở cán bộ, đảng
viên: “Khi đi phát động quần chúng, cán bộ phải hết sức chú ý đến điều đó.
Sai một ly đi một dặm, nơi nào dân cũng tốt, lương cũng như giáo; nhưng vì
có cán bộ khơng biết tổ chức, khơng biết giải thích tun truyền, lại tự tư tự
lợi, khơng cảnh giác nên đã để cho bọn phản động chui vào các đồn thể rồi
phá hoại”.
Muốn thực hiện tốt cơng tác tơn giáo, theo Hồ Chí Minh, cần phải
nghiên cứu sâu sắc tình hình thực tế, hiểu rõ phong tục, tập qn, truyền
thống tín ngưỡng, tơn giáo của nhân dân để gây cảm tình với quần chúng.
Người cho rằng muốn làm tốt công tác tôn giáo, phải kiên nhẫn và phải thực
sự “ba cùng” (cùng sống, cùng ăn, cùng làm việc) với nhân dân. Phải biết
nhẫn nại. “Nói với người nghe một lần người ta khơng hiểu thì nói đến hai
lần, ba lần... về đức tính này phải học theo những người đi truyền giáo”.
Công tác tôn giáo phải được xem như một nghệ thuật để thuyết phục,
cảm hoá quần chúng có đạo, phải biết cách vận động, tổ chức, tập hợp họ lại.
Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc nhở cán bộ, đảng viên: “Phải nhớ rằng đại
đa số đồng bào Công giáo cũng là nông dân nghèo khổ, cũng bị bóc lột tàn tệ,
cũng muốn có cơm ăn, ruộng cày. Nếu ta kiên nhẫn thật sự cùng với họ, khéo
giác ngộ và tổ chức họ thì nhất định làm được” [57, tr.48].

Như vậy, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, một trong những biện pháp quan
trọng để thực hiện chính sách tơn giáo là phải có sự kiên trì, bền bỉ, liên tục;
khơng được nóng vội, thơ bạo mà phải thật khéo léo, tế nhị; biết cách tổ chức,
hướng dẫn quần chúng tham gia kháng chiến, kiến quốc và chấp hành đúng
đường lối của Đảng và Nhà nước về vấn đề tơn giáo.
Phương pháp vận động đồng bào có đạo ở Người vừa ngắn gọn, giản
dị, dễ hiểu lại vừa chân thành, cởi mở, tế nhị đôi khi như những lời tâm sự
đầy sức thuyết phục. Điều đó đã giải toả được những băn khoăn, vướng mắc ở
bà con giáo dân. Người không bao giờ đem lý luận về chủ nghĩa duy vật, chủ


20
nghĩa vơ thần ra tun truyền với đồng bào có đạo, mà giáo dục họ ở mức độ
dễ tiếp nhận nhất, như giáo dục lòng yêu đất nước, quê hương, kính Chúa gắn
với u nước, trách nhiệm cơng dân với bổn phận dân Chúa.
1.2. CHỦ TRƯƠNG CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VỀ TÔN
GIÁO TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI

1.2.1. Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề tôn giáo
Ngay từ rất sớm, Đảng ta đã xác định, hoạt động tôn giáo và công tác
tôn giáo phải nhằm tăng cường đồn kết đồng bào các tơn giáo trong khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, thực
hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Hơn 80 năm qua,
cách mạng Việt Nam có nhiều chuyển biến, nhiều giai đoạn khác nhau. Trong
từng thời điểm lịch sử cụ thể, quan điểm của Đảng về tôn giáo luôn bám sát thực
tiễn, kịp thời phù hợp với tình hình mới. Vào năm 1990, trước những yêu cầu
mới, những vấn đề đang đặt ra đối với vấn đề tôn giáo và hoạt động tôn giáo,
Ngày 16 - 10 - 1990 Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 24 - NQ/TW về tăng cường
công tác tôn giáo trong tình hình mới, một văn bản thể hiện bước ngoặt trong đổi

mới tư duy lý luận của Đảng về tôn giáo và công tác tôn giáo. Nhận thức về vấn
đề tơn giáo có 3 quan điểm đột phá: Một là, tơn giáo là vấn đề cịn tồn tại lâu dài;
hai là, tín ngưỡng, tơn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân và ba
là, đạo đức tơn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới.
Về công tác tôn giáo, thể hiện 3 quan điểm: Một là, công tác tơn giáo vừa phải giải
quyết hợp lý nhu cầu tín ngưỡng chính đáng của quần chúng, vừa phải đấu tranh
chống địch lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng; hai là, nội dung cốt lõi của
công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng và ba là, công tác tơn giáo là
trách nhiệm của tồn bộ hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo.
Chỉ thị 37 của Bộ Chính trị bổ sung: phát huy các giá trị văn hóa, đạo
đức tốt đẹp của các tơn giáo, khuyến khích các hoạt động ích nước, lợi dân
của các tơn giáo.


21
Ngồi ra, các quan điểm cịn được thể hiện trong các văn kiện Đại hội
lần thứ VII, VIII, IX, X, XI, của Đảng
Nghị quyết Hội nghị BCHTW lần thứ 7 (khóa IX), tổng kết, bổ sung và
phát triển quan điểm đổi mới về tôn giáo và công tác tôn được thể hiện trong
5 quan điểm và một số chính sách cụ thể như sau:
Một là, tín ngưỡng, tơn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân
dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở nước ta. Thực hiện nhất qn chính sách tơn trọng và bảo đảm quyền tự do
tín ngưỡng, theo hoặc khơng theo một tơn giáo nào, quyền sinh hoạt tơn giáo
bình thường theo đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ
pháp luật, bình đẳng trước pháp luật.
Đây là quan điểm cơ bản, quan trọng, chỉ đạo chỉ đạo công tác tôn giáo
của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Được xây dựng dựa trên cơ sở khoa học
Mác xít về bản chất, nguồn gốc, tính chất, chức năng của tơn giáo và tổng kết
thực tiễn công tác tôn giáo trong thời kỳ đổi mới. Thể hiện sự đổi mới sâu sắc

trong tư duy lý luận và giải quyết vấn đề tín ngưỡng, tơn giáo của Đảng ta.
Thể hiện sự nhìn nhận một cách tồn diện của Đảng ta về tính đa diện, phong
phú, phức tạp của vấn đề tôn giáo (tôn giáo khơng chỉ là vấn đề triết học,
chính trị mà cịn là vấn đề lịch sử, nhận thức, văn hóa, đạo đức, lối sống và là
một thực thể xã hội)
Đảng, Nhà nước ta công khai thừa nhận tôn giáo là nhu cầu tinh thần
của một bộ phận nhân dân. Tín ngưỡng, tôn giáo hiện đang là nhu cầu tinh
thần của một bộ phận khá đông đảo trong nhân dân: Nước ta có khoảng 23
triệu đồng bào có đạo, chiếm khoảng 1/4 dân số cả nước và có trên 80% dân
số có đời sống tâm linh. Trong q trình đó, các tơn giáo đã và đang đang có
những biến đổi thích ứng với chế độ mới và đang biến động của thế giới, của
tồn cầu hóa và sự phát triển đi lên của đất nước.
Tín ngưỡng, tơn giáo đang và sẽ tồn tại lâu dài cùng dân tộc (thực chất
là làm rõ mối quan hệ giữa tơn giáo và dân tộc). Tín ngưỡng, tôn giáo đang và


22
sẽ tồn tại lâu dài cùng với chế độ XHCN ở nước ta (thực chất là làm rõ mối
quan hệ giữa tơn giáo và nhà nước). Tín ngưỡng, tơn giáo đang tồn tại lâu dài
cùng với những biến động của thế giới, của xu thế tồn cầu hố & sự phát
triển đi lên của đất nước (thực chất là làm rõ mối quan hệ giữa tôn giáo với
mọi mặt của đời sống xã hội). Phải tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, tơn giáo của quần chúng có đạo (thực chất là giải quyết vấn đề tôn
giáo). Đồng thời phải tôn trọng và bảo đảm quyền tự do khơng tín ngưỡng,
tơn giáo của nhân dân (thực chất là giải quyết vấn đề vơ thần). Tín đồ các tơn
giáo được sinh hoạt tơn giáo bình thường theo đúng pháp luật. Các tôn giáo
được thừa nhận, được tự do hoạt động trong khn khổ pháp luật, bình đẳng
trước pháp luật và được pháp luật bảo hộ. Mọi người có hay khơng có tơn
giáo đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân trước pháp luật.
Nghiêm cấm mọi sự phân biệt, đối xử vì lý do tơn giáo hay xâm phạm đến

quyền tự do tôn giáo của nhân dân. Khẳng định rõ thái độ và quyết tâm của
Đảng ta về sự tôn trọng nhu cầu đời sống tâm linh của nhân dân.
Hai là, Đảng, Nhà nước thực hiện nhất qn chính sách đại đồn kết tồn
dân tộc. Đồng bào các tơn giáo là bộ phận của khối đại đồn kết toàn dân tộc.
Quan điểm này xuất phát từ truyền thống đồn kết của dân tộc, trong đó
có đồng bào tơn giáo. Dựa trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết
lương giáo, hịa hợp dân tộc. Từ kinh nghiệm xây dựng khối đoàn kết dân tộc,
đoàn kết tôn giáo trong sự nghiệp cách mạng của Đảng ta. Từ thực tế các thế
lực thù địch thường lợi dụng tơn giáo, gây chia rẽ khối đại đồn kết tồn dân
tộc, chống phá cách mạng
Đồng bào các tôn giáo là một bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc. Thực hiện quan điểm này, một mặt phải đoàn kết đồng bào theo các tôn
giáo khác nhau (giải quyết tốt mối quan hệ giữa tôn giáo với tôn giáo). Mặt
khác, phải đồn kết giữa đồng bào theo các tơn giáo với đồng bào không theo
tôn giáo (giải quyết tốt mối quan hệ giữa những người có đức tin, người có tín
ngưỡng khác nhau với người theo chủ nghĩa vơ thần).


23
Giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ
tiên, tôn vinh những người có cơng với Tổ quốc và nhân dân. Thực hiện quan
điểm này, phải nghiêm cấm mọi hành vi, vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tơn
giáo và tự do khơng tín ngưỡng, tơn giáo của nhân dân. Mặt khác, nghiêm
cấm sự phân biệt đối xử với cơng dân vì lý do tín ngưỡng, tơn giáo. Nghiêm
cấm lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, trục lợi cá
nhân; làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước; kích động chia rẽ nhân
dân, chia rẽ khối đại đồn kết dân tộc và lợi dụng tơn giáo để gây rối, xâm
phạm an ninh quốc gia, chống phá cách mạng.
Ba là, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần
chúng. Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh

là điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các tôn giáo với sự nghiệp chung.
Quan điểm này khẳng định, thực chất của công tác tôn giáo là công tác
quần chúng. Cơng tác vận động quần chúng có đạo cũng là công tác đối với
con người. Con người ở đây là con người - cơng dân - tín đồ. Đây là quan
điểm chính sách quan trọng, Đảng ta nhấn mạnh đến thực chất và vai trị
quyết định của cơng tác vận động quần chúng trong công tác tôn giáo, thể
hiện rõ tư duy lý luận sâu sắc của Đảng ta về cơng tác vận động quần chúng
nói chung, cơng tác tơn giáo nói riêng. Qn triệt sâu sắc quan điểm của chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của quần chúng trong
lịch sử. Quán triệt sâu sắc bài học kinh nghiệm của Đảng ta: “Cách mạng là
sự nghiệp của dân, do nhân dân và vì nhân dân”. Đảng ta khẳng định, công
tác vận động quần chúng là cơng tác xun suốt q trình tiến hành công tác
tôn giáo.
Đối tượng của công tác vận động quần chúng trong công tác tôn giáo
bao gồm nhiều loại. Vận động tín đồ, chức sắc, nhà tu hành và chức việc
trong từng tơn giáo thực hiện chính sách tơn giáo. Đồng thời cũng phải vận
động quần cả chúng khơng có tơn giáo thực hiện chính sách tơn giáo.


24
Nội dung của công tác công tác vận động quần chúng trong cơng tác
tơn giáo bao gồm nhiều loại hình: Cơng tun truyền giáo dục giáo chính sách
pháp luật tơn giáo; Công tác tập hợp quần chúng, tổ chức phong trào thực
hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống dân sinh,
trình độ dân trí cho quần chúng; Cơng tác xây dựng hệ thống chính trị cơ sở,
tập hợp tín đồ, chức sắc, nhà tu hành tham gia các tổ chức chính trị-xã hội và
xây dựng lực lượng nòng cốt, cốt cán trong các tôn giáo.
Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là điểm
tương đồng để gắn bó đồng bào các tôn giáo với sự nghiệp chung. Công tác
vận động quần chúng trong cơng tác tơn giáo địi hỏi phải phát huy cả mặt

cơng dân và mặt tín đồ (tốt đời, đẹp đạo) Phải thực hiện tốt chính sách tơn
trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo. Mọi cơng dân khơng phân
biệt tín ngưỡng, tơn giáo đều có quyền và nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Phải động viên đồng bào nêu cao tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc
lập và thống nhất Tổ quốc. Thông qua việc thực hiện tốt các chính sách kinh
tế-xã hội, an ninh, quốc phịng bảo đảm lợi ích vật chất và tinh thần của nhân
dân nói chung, trong đó có đồng bào các tơn giáo
Bốn là, công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.
Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng của Đảng, Nhà nước ta trong nhận
thức và giải quyết vấn đề tôn giáo, nhấn mạnh đến chủ thể tiến hành công tác
tôn giáo. Thể hiện tư duy lý luận sâu sắc của Đảng, Nhà nước ta về vị trí, vai
trò và trách nhiệm của từng thành tố trong hệ thống chính trị trong cơng tác
tơn giáo. Là cơ sở để phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị
trong cơng tác tơn giáo. Thể hiện nhận thức tư duy lý luận sâu sắc của Đảng
ta về tính chất phức tạp, nhạy cảm của vấn đề tơn giáo.
Quan điểm này xác định rõ vấn đề tôn giáo có liên quan đến nhiều lĩnh
vực của đời sống xã hội, các cấp, các ngành, các địa bàn. Làm tốt cơng tác tơn
giáo là trách nhiệm của tồn bộ hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo. Tổ chức


25
bộ máy và đội ngũ cán bộ chuyên trách làm cơng tác tơn giáo có trách nhiệm
trực tiếp, cần được củng cố và kiện tồn. Tơn giáo là vấn đề đa diện, phức tạp
liên quan đến mọi mặt của đời sống xã hội. Công tác tôn giáo liên quan đến
mọi cấp, mọi ngành từ trung ương đến địa phương. Vì vậy, công tác tôn giáo
không thể chỉ do một ngành nào đó làm được, mà phải do tồn bộ hệ thống
chính trị cùng tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Đảng là nhân tố lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị trong q trình tiến
hành cơng tác tơn giáo. Các ban, ngành tham mưu giúp tổ chức Đảng trong
công tác vận động quần chúng, xây dựng lực lượng nòng cốt, cốt cán trong tín

đồ, chức sắc các tơn giáo. Nhà nước quản lý hoạt động tôn giáo và công tác
tôn giáo theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước cần hoàn thiện
hệ thống pháp luật và kiện tồn tổ chức, bộ máy làm cơng tác tơn giáo theo
quy định của pháp luật.
Mặt trận và các đoàn thể nhân dân quán triệt đường lối chủ trương
chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước để vận động quần chúng tiến
hành công tác tôn giáo và thực hiện tốt chính sách tơn giáo.
Các đồn thể chính trị xã hội căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của mình
vận động, tập hợp thu hút tín đồ, chức sắc tơn giáo vào tổ chức và thực hiện
tốt chính sách pháp luật về tôn giáo của Đảng và Nhà nước.
- Tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ chuyên trách làm cơng tác tơn giáo
có trách nhiệm trực tiếp, cần được củng cố và kiện toàn. Cần phát huy vai trị
của các cơ quan chun trách cơng tác tơn giáo, như Ban Tơn giáo Chính phủ;
Ban Tơn giáo các tỉnh, thành phố, các phịng tơn giáo ở cấp huyện, thị, đặc
biệt tổ chức đảng, chính quyền cơ sở
Cơng an, qn đội, biên phịng tăng cường cơng tác xây dựng lực lượng
nồng cốt, cốt cán trong tín đồ, chức sắc các tơn giáo và chủ động phịng ngừa
âm mưu lợi dụng tôn giáo. Công tác quản lý nhà nước đối với các tôn giáo và
đấu tranh chống việc lợi dụng tôn giáo để chống đối chế độ chỉ thành công
nếu làm tốt công tác vận động quần chúng.


×