Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

Quan điểm Hồ Chí Minh về Đảng ta là đạo đức là văn minh - Giá trị lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (407.25 KB, 104 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại sáng lập, lãnh
đạo và rèn luyện ra đời đầu năm 1930. Đó là kết quả hoạt động khơng mệt
mỏi của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trong gần 20 năm, kể từ khi Người
xuất dương tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Sự ra đời của Đảng
Cộng sản Việt Nam đánh dấu bước ngoặt lịch sử vĩ đại và sự thay đổi về chất
trong phong trào yêu nước, giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Giai cấp cơng
nhân thơng qua đội tiên phong cách mạng của mình là Đảng Cộng sản đã nắm
ngọn cờ lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, chấm dứt thời kỳ khủng hoảng đường
lối lãnh đạo phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Phát biểu tại lễ kỷ niệm 30 năm thành lập Đảng (2-1960), Hồ Chí Minh
khẳng định:
Đảng ta vĩ đại như biển rộng, như núi cao,
Ba mươi năm phấn đấu và thắng lợi biết bao nhiêu tình
Đảng ta là đạo đức, là văn minh,
Là thống nhất, độc lập, là hịa bình ấm no… [48, tr.403].
Đó là quan điểm khái quát nhưng khá đầy đủ, rất sâu sắc về Đảng Cộng
sản Việt Nam.
Hơn 83 năm qua, với quan điểm, đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng
Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta đã viết lên những trang sử hào hùng, tiếp nối
truyền thống hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc. Với thành
công của Cách mạng tháng Tám năm 1945, dân tộc ta đã lật đổ ách thống trị
của thực dân Pháp và phát xít Nhật gần 100 năm, giành lại nền độc lập, xoá
bỏ chế độ phong kiến hàng nghìn năm, đưa nhân dân làm chủ vận mệnh của
mình. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân tộc ta đã giành chiến thắng oanh liệt
trong 30 năm chiến tranh cách mạng, đánh thắng “hai đế quốc to”, bảo vệ
vững chắc nền độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc.



2
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, dân tộc ta lại lập nên những thành tựu mới, đánh thắng cuộc chiến
tranh xâm lược của các thế lực thù địch ở hai đầu biên giới, vượt qua những
khó khăn thử thách hiểm nghèo của cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội cuối
những năm 80 đầu những năm 90 của thế kỷ XX, vững vàng trong sự nghiệp
đổi mới, kiên định con đường và lý tưởng đã chọn là độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội.
Giành được những thắng lợi to lớn ấy là do sự nỗ lực phấn đấu của cả
dân tộc, nhưng nhân tố quyết định là do Đảng ta ln khẳng định và giữ
vững vai trị là tổ chức lãnh đạo duy nhất. Trong suốt tiến trình cách mạng
Đảng luôn tự chỉnh đốn, tự đổi mới nhằm xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh, một Đảng trí tuệ, xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, xứng đáng là Đảng mácxít chân
chính, như sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Đảng ta là
đạo đức là văn minh”.
Trong sự nghiệp đổi mới, đặc biệt là trong thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh. Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định, nhiệm vụ
phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt. Trong những
nhiệm kỳ gần đây, Đảng ta đã ra nhiều Nghị quyết, chỉ rõ những giải pháp
vừa lâu dài, vừa cấp bách về công tác xây dựng Đảng, tạo những chuyển biến
tích cực. Tuy vậy, cơng tác xây dựng Đảng hiện nay vẫn tồn tại những yếu
kém, khuyết điểm.
Một vấn đề cực kỳ quan trọng mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI
của Đảng đã nhấn mạnh là Đảng ta, dân tộc ta đang có những thuận lợi lớn,
nhưng cũng đang đứng trước những khó khăn thách thức khơng nhỏ. Kể từ
khi Liên Xơ và hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới tan vỡ, chủ nghĩa đế quốc
và các thế lực thù địch càng đẩy mạnh các hoạt động nhằm phủ nhận tính ưu



3
việt và sức sống của chủ nghĩa xã hội, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, đẩy
mạnh các hoạt động “diễn biến hồ bình”, đồng thời cổ s văn minh tư bản
lỗi thời, đã bị thời đại vượt qua.
Đối với Đảng và cách mạng Việt Nam, các thế lực thù địch, bọn bất mãn
trong nước cùng phụ hoạ trong việc nói xấu, xuyên tạc quan điểm đường lối của
Đảng. Xét đến cùng, họ muốn thủ tiêu thành quả cách mạng mà phải bằng
xương máu và sự phấn đấu không mệt mỏi của cả dân tộc mới giành được. Họ
muốn phủ nhận, đi đến thủ tiêu vai trò lãnh đạo và cầm quyền của Đảng Cộng
sản Việt Nam.
Cùng với những khó khăn thách thức, khách quan nói trên, nhiều vấn đề về
lý luận và thực tiễn đang địi hỏi phải có sự giải đáp khoa học. Trong khi đó như
Đảng ta đã nhận định:
Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn chưa làm sáng tỏ
một số vấn đề về đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tính chiến đấu, tính thuyết
phục, hiệu quả cơng tác tư tưởng còn hạn chế; thiếu sắc bén trong
đấu tranh chống âm mưu thủ đoạn “diễn biến hồ bình”. Tình trạng
suy thối về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận
khơng nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí,
quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy
lùi mà cịn diễn biến phức tạp, cùng với sự phân hố giàu nghèo và
sự yếu kém trong quản lý, điều hành của nhiều cấp, nhiều ngành làm
giảm lòng tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước [20, tr.172-173].
Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khoá XI) đã nhấn
mạnh:
Cơng tác xây dựng Đảng vẫn cịn khơng ít những hạn chế, yếu kém,
thậm chí có những yếu kém khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm
kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối

với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò


4
lãnh đạo của Đảng và với sự tồn vong của chế độ [21, tr.21-22].
Hội nghị khẳng định ba vấn đề cấp bách phải tập trung cao độ thực hiện,
nhằm đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đó là:
Một là, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thối
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ
cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp để
nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm
tin của đảng viên và nhân dân đối với Đảng.
Hai là, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là
cấp Trung ương, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hố,
hiện đại hố và hội nhập quốc tế.
Ba là, xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu cấp uỷ,
chính quyền trong mối quan hệ với tập thể cấp uỷ, cơ quan, đơn vị,
tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Trong ba vấn đề trên, vấn đề thứ nhất là trọng tâm xuyên suốt và
cấp bách nhất [21, tr.26].
Mục tiêu cơ bản như Hội nghị đã xác định rõ là:
Phải tạo được sự chuyển biến rõ rệt, khắc phục được những hạn chế,
yếu kém trong công tác xây dựng Đảng, nhằm xây dựng Đảng ta
thật sự là đảng cách mạng chân chính, ngày càng trong sạch, vững
mạnh, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của
Đảng, củng cố niềm tin trong Đảng và nhân dân, động viên toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện thắng lợi chủ trương, Nghị
quyết của Đảng [21, tr.27].
Với quan điểm nhất quán, Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động, để thực hiện

mục tiêu cơ bản trên đây, hơn lúc nào hết chúng ta cần quán triệt di huấn của
Chủ tịch Hồ Chí Minh: Đảng ta là đảng cầm quyền, mỗi cán bộ đảng viên và


5
toàn Đảng phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm,
liêm, chính, chí cơng vơ tư; phải xây dựng Đảng ta thật trong sạch, vững
mạnh; xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân
dân. Chúng ta phải phấn đấu xây dựng Đảng thật sự là đạo đức, là văn minh
như Người từng mong mỏi.
Với ý nghĩa và sự cấp thiết ấy, tơi chọn đề tài “Quan điểm Hồ Chí
Minh về Đảng ta là đạo đức là văn minh - Giá trị lý luận và thực tiễn” làm
luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, chun ngành Hồ Chí Minh học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong thời gian gần đây, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung,
tư tưởng của Người về cơng tác xây dựng Đảng nói riêng đã thu hút sự quan tâm
của nhiều cơ quan và các nhà nghiên cứu khoa học chính trị. Bước đầu tìm hiểu,
chúng tơi được biết một số cơng trình liên quan đến đề tài đã cơng bố. Đó là:
Nguyễn Quốc Bảo, Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, Nxb Lao
động, Hà Nội, 2001. Trong công trình này tác giả đã phân tích học thuyết Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản, công tác xây dựng Đảng
và vấn đề vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của Đảng trong công cuộc đổi mới.
Năm 2005, các tác giả Phạm Ngọc Anh, Bùi Đình Phong cơng bố hai
cơng trình: Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh và Một số
vấn đề trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam, do Nxb Lý
luận chính trị và Nxb Lao động xuất bản. Trong hai cơng trình này, các tác giả
đã luận giải quan điểm Hồ Chí Minh về sự ra đời và lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam; về bản chất giai cấp công nhân của Đảng, tư tưởng của Người
về Đảng cầm quyền;về vận dụng tư tưởng của Người để xây dựng Đảng trong

sạch, vững mạnh…
Trước đó, năm 2001, tác giả Phạm Ngọc Anh đã công bố cơng trình Tư
tưởng Hồ Chí Minh về văn hố Đảng, Nxb Chính trị quốc gia xuất bản. Tác


6
giả đã trình bày những quan niệm mang tính tổng quát về văn hoá Đảng và
những nội dung chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hố Đảng. Tác giả
cũng đề xuất phương hướng, nội dung, giải pháp xây dựng và phát triển văn
hoá Đảng ở nước ta hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong cuốn sách Công tác xây dựng Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, Nxb Lao động xuất bản năm 2005, các tác
giả Bùi Đình Phong và Phạm Ngọc Anh đã phân tích vai trị lãnh đạo của
Đảng trong thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, đề cập một số
công tác quan trọng cần tập trung giải quyết như giáo dục tư tưởng chính trị,
đổi mới công tác cán bộ, xây dựng, củng cố các tổ chức cơ sở Đảng, đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng.
Hồng Chí Bảo (2009), Văn hố đạo đức Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội. Theo tác giả, văn hố đạo đức Hồ Chí Minh là sự thống
nhất hữu cơ, không thể tách rời giữa tư tưởng đạo đức của Người, là bản
sắc độc đáo của văn hoá đạo đức dân tộc gắn liền với tầm cao tư tưởng đạo
đức của thời đại. Xây dựng văn hoá và thực hành văn hoá Đảng theo tư
tưởng và văn hố đạo đức Hồ Chí Minh làm cho Đảng trong sạch, vững
mạnh hơn.
Thành Duy, Lê Quý Đức (2007), Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh xây dựng nền văn hoá đạo đức ở nước ta hiện nay, Nxb Lý luận chính
trị, Hà Nội. Trong cơng trình này các tác giả đã đề cập những nội dung cơ bản
của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh; tình trạng suy thoái đạo đức trong các
thiết chế xã hội ở nước ta hiện nay, từ đó các tác giả đã đề xuất những giải
pháp khắc phục.

Nguyễn Văn Huyên (Chủ biên) (2010), Đảng cầm quyền - Nội dung và
phương thức cầm quyền của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tác giả
đã trình bày những vấn đề lý luận chung về Đảng Cộng sản cầm quyền,
quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh. Tác giả


7
cũng chỉ ra những điều kiện, yêu cầu đảm bảo giữ vững vai trò cầm quyền
của Đảng và những giải pháp đổi mới nội dung, phương pháp cầm quyền
của Đảng.
Đặng Xuân Kỳ, Mạch Quang Thắng, Nguyễn Văn Hoà (đồng chủ biên)
(2005), Một số vấn đề về xây dựng Đảng hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
Lê Văn Lý (Chủ biên) (2002), Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trị lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
Trần Đình Nghiêm (Chủ biên) (2002), Đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng,(Sách tham khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
Chúng tơi cũng đã tìm hiểu và được biết một số bài nghiên cứu đã đăng
tải trên các tạp chí khoa học:
Dỗn Hùng (1998), “Hồ Chí Minh - Người đặt nền móng và rèn luyện bản
lĩnh cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam”, Tạp chí Lý luận Chính trị, (04).
Bài viết phân tích và khẳng định Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh là người xây
dựng nền móng, người giáo dục, rèn luyện bản lĩnh cách mạng của Đảng.
Phạm Ngọc Quang (1999), “Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc xây Đảng
về trí tuệ”, Tạp chí Cộng sản, (11). Bài viết đề cập đến một số cống hiến quan
trọng cả trên bình diện lý luận và thực tiễn của Hồ Chí Minh trong vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào cơng tác xây dựng Đảng về trí tuệ; khái
qt thực trạng trí tuệ của Đảng và sự cần thiết phải nắm vững, vận dụng
đúng đắn tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao trí tuệ, năng lực lãnh đạo và sức

chiến đấu của Đảng cầm quyền.
Lê Thế Lạng (2000), “Xây dựng, rèn luyện tư cách đảng viên cộng sản
theo tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng”, Tạp chí Lịch sử Đảng,
(03). Bài viết trình bày việc vận dụng, bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác Lênin của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta để thành lập, xây dựng Đảng
Cộng sản Việt Nam.


8
Mạch Quang Thắng (2007), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng
và công cuộc đổi mới, chỉnh đốn Đảng hiện nay”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (06).
Tác giả trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng và sự vận dụng
trong công cuộc đổi mới, chỉnh đốn Đảng hiện nay.
Nguyễn Văn Chi (2010), “Chủ tịch Hồ Chí Minh với vấn đề xây dựng
đội ngũ cán bộ, đảng viên”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (05). Bài viết nêu bật tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Từ việc khái quát
thực trạng đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay tác giả luận giải về sự cần thiết
phải thấm nhuần và thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh trong cơng tác
xây dựng Đảng.
Vũ Văn Châu (2003), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về phương thức lãnh đạo
của Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (03).
Để phục vụ cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh, Ban Tuyên giáo Trung ương (2010) đã biên soạn cuốn Tư tưởng,
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng ta trong sạch, vững
mạnh, “là đạo đức, là văn minh”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trong
cuốn sách này, các tác giả đã trình bày những nội dung cơ bản của tư tưởng,
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng; giới thiệu một số bài
nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng.
Trong cuốn sách Tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, “là đạo đức, là văn minh” do Phạm
Ngọc Anh, Nguyễn Thị Kim Dung, Nguyễn Tiến Hoàng, Trần Thị Nhuần

biên soạn, Nxb Lao động - Xã hội ấn hành năm 2011. Cuốn sách đã chọn lọc
theo chủ đề về công tác xây dựng Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh, giới
thiệu một số tấm gương điển hình trong cuộc vận động học tập và làm theo
tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Ngồi ra, đã có một số luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ đã nghiên cứu
ở một số góc độ khác nhau tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng.


9
Những cơng trình, bài viết trên là tư liệu bổ ích cho việc tham khảo khi
thực hiện đề tài.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Nghiên cứu quan điểm Hồ Chí Minh về Đảng ta là đạo đức, là văn minh
để khái quát giá trị lý luận, thực tiễn đối với công tác xây dựng Đảng hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Nghiên cứu, trình bày có hệ thống những nội dung cơ bản quan điểm Hồ
Chí Minh Đảng ta là đạo đức, là văn minh.
Giá trị lý luận và thực tiễn quan điểm của Hồ Chí Minh đối với công tác
xây, dựng chỉnh đốn Đảng hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng được thể hiện qua các bài nói,
bài viết và thông qua hoạt động thực tiễn cách mạng của Người.
Sự vận dụng quan điểm đó trong tiến trình cách mạng Việt Nam
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng “là đạo đức, là
văn minh”.
Giá trị lý luận và giá trị thực tiễn quan điểm Đảng là đạo đức, là văn
minh trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử là cơ sở để
nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng là đạo đức, là văn minh.
Vận dụng các phương pháp luận Hồ Chí Minh như: Lý luận gắn với thực
tiễn; Quan điểm thống nhất giữa lập trường giai cấp với lập trường dân tộc,
giữa dân tộc với thời đại; Quan điểm phát triển, sáng tạo, đổi mới; Quan điểm
toàn diện nhưng có trọng tâm, trọng điểm.


10
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn tuân thủ nguyên tắc thống nhất giữa tính Đảng và tính khoa học.
Luận văn sử dụng, kết hợp phương pháp lôgic và phương pháp lịch sử.
Vận dụng các phương pháp liên ngành như: tổng hợp, phân tích, so sánh…
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ giá trị lý luận, thực tiễn quan điểm Hồ Chí
Minh Đảng ta là đạo đức, là văn minh và vận dụng vào công tác xây dựng
Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
7.1. Ý nghĩa lý luận
Góp phần khẳng định tính khoa học, cách mạng, nhân văn quan điểm
Đảng ta là đạo đức, là văn minh và tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản.
Những quan điểm về xây dựng Đảng và rèn luyện đội ngũ cán bộ đảng viên
toàn diện tài đức của Đảng ta hiện nay là sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác tuyên
truyền, nghiên cứu, học tập, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

của luận văn gồm 2 chương, 5 tiết.


11
Chương 1
NỘI DUNG QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH
VỀ ĐẢNG TA LÀ ĐẠO ĐỨC LÀ VĂN MINH
1.1. SỰ TẤT YẾU KHÁCH QUAN PHẢI XÂY DỰNG ĐẢNG TA LÀ ĐẠO
ĐỨC, LÀ VĂN MINH

1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về sự tất yếu khách
quan phải xây dựng đảng cộng sản vững mạnh
Các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác - Lênin đã phát hiện ra quy luật
khách quan của lịch sử xã hội lồi người là q trình kế tiếp nhau của các
hình thái kinh tế - xã hội, phát triển từ thấp đến cao diễn ra như “một quá trình
lịch sử tự nhiên”. Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích rất khoa học hình thái kinh
tế - xã hội tư bản chủ nghĩa Mác đã dự báo khoa học về sự ra đời của hình
thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, rằng nhân loại sẽ tiến tới xã hội cộng
sản chủ nghĩa. Để tiến tới xã hội tương lai tươi đẹp ấy, giai cấp vô sản có sứ
mệnh lịch sử trọng đại, vinh quang: Lật đổ ách thống trị của các giai cấp bóc
lột, giành lấy chính quyền, tổ chức, xây dựng xã hội mới. Muốn vậy, giai cấp
vơ sản phải có đội ngũ tiên phong, được trang bị lý luận cách mạng khoa học
dẫn dắt. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản C.Mác và Ph.Ăngghen viết:
Về mặt thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất
trong tất cả các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn
thúc đẩy phong trào tiến lên, về mặt lý luận, họ hơn bộ phận cịn lại
của giai cấp vơ sản ở chỗ là họ hiểu những điều kiện, tiến trình và
kết quả chung của phong trào vô sản [36, tr.614-615].
Theo các ông, tính cách mạng, văn minh của những người cộng sản là ở
chỗ, họ khơng có một lợi ích nào tách khỏi lợi ích của tồn thể giai cấp, chính

vì vậy những người cộng sản trở thành chiến sĩ tiên phong của phong trào vô
sản - phong trào của khối đa số, mưu lợi ích cho khối đa số. Hơn thế nữa, vai


12
trò tiên phong của đảng cộng sản còn đối với cả quốc gia- dân tộc, với cả đa
số những người lao động bị áp bức, bóc lột. Trong quan niệm của C.Mác và
Ph.Ăngghen, lợi ích của những người cộng sản cịn gắn bó với lợi ích dân tộc
chân chính. Vì vậy các ơng địi hỏi “giai cấp vơ sản mỗi nước trước hết phải
giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình
trở thành dân tộc…” [36, tr.623-624].
Chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết duy nhất đặt ra mục tiêu giải phóng
triệt để giai cấp vô sản, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên thế
giới thốt khỏi tình trạng bị bóc lột và nơ dịch, hơn nữa cịn nhằm giải phóng
triệt để cho con người thốt khỏi đói nghèo, tối tăm, ngu dốt, bị tha hoá về
mọi mặt, để có được cuộc sống ấm no, hạnh phúc, tự do và dân chủ. Đó là học
thuyết về sự phát triển bởi nó nghiên cứu, phát hiện ra những quy luật khách
quan của sự phát triển xã hội loài người, đặc biệt là quy luật vận động của chủ
nghĩa tư bản, chỉ ra những luận cứ khoa học về quá trình chuyển từ xã hội tư
bản lên xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa bằng con đường cách
mạng. Vì vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết mang tính cách mạng triệt
để và tính khoa học sâu sắc nhất. Nó là học thuyết về nhận thức thế giới, cải
tạo thế giới, một thế giới của con người và vì con người. Chính vì vậy nó là
một học thuyết mang tính cách mạng, nhân văn cao cả nhất.
Kế thừa những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về xây dựng một
chính đảng cách mạng của giai cấp vơ sản, Lênin đã kiên trì thực hiện cuộc
đấu tranh lý luận nhằm bác bỏ những quan điểm xuyên tạc, phủ nhận vai trò
lãnh đạo của đảng cộng sản, bổ sung và phát triển những tư tưởng của C.Mác
và Ph.Ăngghen thành học thuyết xây dựng đảng mácxít kiểu mới của giai cấp
cơng nhân. Người nhấn mạnh:

Chúng ta chỉ có thể hồn thành vai trị người chiến sĩ tiên phong đấu
tranh cho tự do khi nào giai cấp công nhân dưới sự lãnh đạo của
đảng chiến đấu cách mạng, không phút nào lãng quên vị trí của họ


13
trong xã hội hiện đại, không lãng quyên những nhiệm vụ đặc biệt có
tính lịch sử tồn thế giới của họ là giải phóng nhân loại khỏi ách nơ
lệ về kinh tế, đồng thời đấu tranh cho tự do [29, tr.412].
Cũng như C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin chỉ ra rằng, chỉ có nhân danh
đội tiên phong của giai cấp công nhân, đảng cộng sản mới có đầy đủ trách
nhiệm và uy tín là đại biểu lợi ích của đa số những người lao động bị áp bức,
mới tập hợp được lực lượng, mới tăng cường được sức mạnh cho phong trào.
Yêu cầu mà Lênin đặt ra là:
Chúng ta phải thu hút quần chúng ngày càng rộng rãi tham gia vào
tất cả những công việc của đảng, thường xuyên đưa họ từ thái độ thờ
ơ chính trị đi đến sự phản kháng và đấu tranh, từ tinh thần phản
kháng chung đi đến sự chấp nhận một cách có ý thức các quan điểm
dân chủ - xã hội, từ sự chấp nhận những quan điểm này đi đến ủng
hộ phong trào, từ sự ủng hộ phong trào đi đến việc gia nhập vào tổ
chức đảng [30, tr.106].
Theo Lênin, việc xây dựng và củng cố đảng mácxít kiểu mới của giai
cấp cơng nhân là điều kiện cơ bản đầu tiên, mang ý nghĩa quyết định sự thành
công của sự nghiệp cách mạng. Đảng là lương tâm, trí tuệ, trách nhiệm và là
niềm vinh dự, tự hào của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Lênin cho
rằng, chính đảng cộng sản có ý thức trách nhiệm rõ ràng về việc đưa lý luận
khoa học vào phong trào công nhân, trực tiếp lãnh đạo, định hướng chính trị
và tổ chức giáo dục, động viên giai cấp công nhân và nhân dân hành động
cách mạng, nhằm thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình là đấu tranh xố bỏ mọi
hình thức áp bức, bóc lột, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, giải

phóng xã hội…, xây dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa ấm no, tự do, hồ
bình, hạnh phúc.
Từ quan điểm khoa học, cách mạng trên đây V.I.Lênin đòi hỏi mỗi người
đảng viên cộng sản cũng như toàn đảng phải ý thức rõ ràng vị trí và nhiệm vụ


14
chính trị của mình trước giai cấp và khơng được lẫn lộn đảng với toàn bộ giai
cấp hoặc đồng nhất đảng với giai cấp công nhân. Lênin vạch rõ chỉ có đảng
cộng sản là đội tiền phong của giai cấp cách mạng nếu nó bao gồm những đại
biểu ưu tú nhất của giai cấp, có học vấn và được tơi luyện bằng kinh nghiệm
đấu tranh cách mạng bền bỉ, biết đồn kết với tất cả quần chúng bị bóc lột và
biết làm cho giai cấp và quần chúng tin tưởng hồn tồn vào mình - chỉ có
một đảng như vậy mới có thể lãnh đạo được giai cấp vơ sản trong cuộc đấu
tranh chống chủ nghĩa tư bản, xây dựng chế độ mới.
Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định, một đảng cộng sản thực sự cách
mạng sẽ trở thành nhân tố bảo đảm để giai cấp công nhân thực hiện thắng lợi
sứ mệnh lịch sử của mình nếu như những đảng viên của đảng đó có giác ngộ
lý tưởng, nắm vững đường lối chủ trương của Đảng, tự nguyện phấn đấu, hy
sinh cho sự nghiệp vẻ vang của Đảng, của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động. Muốn vậy Đảng phải có sự thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Chính sự thống nhất này địi hỏi Đảng phải có nguyên tắc tổ chức khoa học và
cách mạng, dựa trên “một lý luận tiên phong hướng dẫn thì mới có khả năng
làm trịn vai trị chiến sĩ tiên phong”.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ thống lý luận khoa học về cuộc cách mạng
của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh tự giải phóng mình, là kết quả
của sự phát triển một cách khoa học những tư tưởng tiên tiến của xã hội loài
người, thể hiện đúng đắn lợi ích của giai cấp cơng nhân, thấy rõ những
phương hướng chính trị của tất cả các mặt hoạt động cần thiết trong cuộc đấu
tranh để thực hiện sứ mệnh lịch sử thế giới của mình. Lênin từng nói, khơng

có lý luận cách mạng thì sẽ khơng có phong trào cách mạng, chỉ có đảng nào có
lý luận tiên phong dẫn dắt mới làm nổi vai trò cách mạng tiên phong và khi lý
luận xâm nhập vào quần chúng thì nó sẽ trở thành sức mạnh vật chất to lớn.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở khoa học của cơng tác xây dựng Đảng,
là ngọn cờ đồn kết những người cộng sản. Đảng phải được vũ trang bằng lý


15
luận của chủ nghĩa Mác, phải tiếp tục phát triển lý luận đó về mọi mặt, biết
vận dụng những nguyên lý chung vào điều kiện cụ thể của nước mình, định ra
cương lĩnh, sách lược cách mạng. Sự tồn tại vững mạnh của Đảng trước hết là
ở chỗ có đường lối chính trị đúng.
Trong khi nhấn mạnh đến việc xây dựng cơ sở lý luận và đường lối
chính trị của Đảng, Lênin đồng thời rất coi trọng công tác xây dựng Đảng về
mặt tổ chức. Đảng tồn tại không chỉ với những sự thống nhất về cương lĩnh và
sách lược, mà còn ở sự thống nhất về tổ chức. “Sự thống nhất trong những
vấn đề cương lĩnh và sách lược là điều kiện tất yếu, nhưng chưa đầy đủ để
đảm bảo sự thống nhất của Đảng…Muốn đạt được sự thống nhất trên đây, thì
cịn phải có sự thống nhất về tổ chức nữa…” [30, tr.454-455]. Lênin đòi hỏi
Đảng phải là một bộ phận có tổ chức chặt chẽ của giai cấp, đảng viên phải
tham gia hoạt động trong một tổ chức của Đảng, phải chịu sự lãnh đạo và
kiểm soát của tổ chức, trong Đảng phải có kỷ luật nghiêm minh, phải thống
nhất ý chí và hành động…
Lênin nhận thấy nguồn sức mạnh to lớn của giai cấp vô sản chính là ở tổ
chức chặt chẽ. Từ rất sớm, trước Cách mạng tháng Mười, Lênin đã nói, hãy
cho tơi một tổ chức, tôi sẽ làm đảo lộn cả nước Nga. Người chỉ rõ: “Trong
cuộc đấu tranh để giành chính quyền, giai cấp vơ sản khơng có vũ khí nào hơn
là sự tổ chức” [30, tr.490]. Sức mạnh của Đảng là ở sự đoàn kết thống nhất.
Sự thống nhất nội bộ Đảng là cơ sở để thống nhất giai cấp vô sản, là điều kiện tất
yếu để giai cấp vô sản giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh cách mạng vơ

cùng gay go ác liệt giành chính quyền và giữ vững chun chính vơ sản.
Để củng cố sự thống nhất của Đảng, về mặt tổ chức và sinh hoạt nội bộ,
phải nghiêm túc tuân theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Trên cơ sở nguyên
tắc tập trung dân chủ do C.Mác, Ph.Ăngghen đề ra, Lênin đã phát triển toàn
diện nguyên tắc đó và khẳng định rằng đây khơng chỉ là nguyên tắc tổ chức
xây dựng Đảng mácxít kiểu mới quan trọng nhất, mà còn là nguyên tắc mang


16
tính khoa học trong quản lý nhà nước, tổ chức cộng đồng. Thực chất của
nguyên tắc này là kết hợp hữu cơ giữa chế độ tập trung với chế độ dân chủ
triệt để của giai cấp công nhân, bắt nguồn từ những địi hỏi của nền sản xuất
đại cơng nghiệp với trình độ khoa học, kỹ thuật, cơng nghệ hiện đại.
Một mặt, Lênin địi hỏi trong Đảng phải có chế độ tập trung chặt chẽ, có
kỷ luật thống nhất mà thiếu nó thì Đảng sẽ mất sức chiến đấu, khơng thể
giành và giữ nổi chính quyền. Mặt khác, Lênin cũng địi hỏi tất cả các cơng
việc trong Đảng phải do tồn thể đảng viên, bình đẳng và khơng trừ một ai,
trực tiếp hoặc thông qua các đại biểu, giải quyết; tất cả các cơ quan lãnh đạo
phải do tuyển cử mà lập ra, phải chịu trách nhiệm báo cáo trước đảng viên và
có thể bị các đảng viên bãi miễn.
Theo Lênin, ngun tắc tập trung dân chủ hồn tồn khơng phải là biểu
hiện ngẫu nhiên, cứng nhắc, đơn độc, nó là cả một quá trình và kết quả của sự
phát huy trí tuệ tập thể, gạn lọc để dân chủ trở thành cái cụ thể, có tác dụng
thật sự trong thực tiễn. Người khẳng định, nếu khơng có chế độ tập trung dân
chủ thì Đảng khơng thể là đội ngũ tiền phong chiến đấu của giai cấp công
nhân và Đảng không thể tránh khỏi bị chia rẽ, tản mạn, mang tính cục bộ.
Người cịn chỉ rõ, ai đó tự thừa nhận mình là đảng viên đảng cộng sản mà lại
phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ, nghĩa là phủ nhận tính tổ chức và kỷ
luật thì người ấy đã rơi vào chủ nghĩa cơ hội và đang biến Đảng thành “câu
lạc bộ tranh luận”.

Rõ ràng, nếu phá vỡ nguyên tắc tập trung dân chủ thì coi như tính chất
của Đảng bị tổn hại và Đảng có nguy cơ tan rã, không thể trở thành đội tiền
phong - bộ tham mưu chiến đấu có tổ chức của giai cấp cơng nhân và đương
nhiên Đảng khơng có khả năng vạch ra một cương lĩnh hành động thống nhất,
khơng có sức mạnh để thực hiện cương lĩnh ấy, khơng đủ uy tín để dành được
sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân trong đấu tranh lật đổ chủ nghĩa tư bản và
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.


17
Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng là điều kiện cơ bản
để tạo ra sự đoàn kết, thống nhất trong nội bộ Đảng. Lênin coi sự đoàn kết,
thống nhất trong Đảng là cội nguồn của sức mạnh chiến thắng kẻ thù. Đoàn
kết thống nhất là quy luật trưởng thành của Đảng. Sự đoàn kết thống nhất
trong Đảng bắt nguồn từ bản chất giai cấp vô sản, từ sự kết cấu chặt chẽ của
Đảng. Đảng chỉ thu nhận vào đội ngũ của mình những đại biểu ưu tú của giai
cấp vô sản và nhân dân lao động tự nguyện gia nhập Đảng. Đó là những
người có cùng lý tưởng, mục đích và lợi ích.
Để đảm bảo sự thống nhất trong Đảng luôn luôn được củng cố và phát
triển, Đảng cần phải thường xuyên và nghiêm chỉnh thực hiện tự phê bình và
phê bình. Lênin chỉ ra rằng:
Thái độ của một chính đảng trước những sai lầm của mình là một
trong những tiêu chuẩn quan trọng nhất và chắc chắn nhất để xem
xét đảng ấy có nghiêm túc khơng và có thực sự làm trịn nghĩa vụ
của mình đối với giai cấp mình và đối với quần chúng lao động
khơng. Cơng khai thừa nhận sai lầm, tìm ra ngun nhân sai lầm,
phân tích hồn cảnh đã đẻ ra sai lầm, nghiên cứu những biện pháp
để sửa chữa sai lầm ấy, đó là đấu hiệu chứng tỏ một đảng nghiêm
túc, đó là đảng làm trịn những nghĩa vụ của mình… [31, tr.52].
Tự phê bình và phê bình là biện pháp quan trọng nâng cao trí tuệ, phát

hiện và giải quyết những mâu thuẫn trong đảng. Tự phê bình và phê bình địi
hỏi phải có tính đảng, tính ngun tắc cao, phải đảm bảo tăng cường sự đoàn
kết thống nhất trong đảng, nâng cao được mối quan hệ chặt chẽ giữa đảng và
quần chúng. Tự phê bình và phê bình phải là nội dung thường xuyên của sinh
hoạt đảng.
Mác và Ăngghen đã nhiều lần chỉ rõ tầm quan trọng có ý nghĩa sống còn
của việc xây dựng đảng cộng sản về trí tuệ. Sau này, Lênin cũng đặc biệt chú
ý tới việc xây dựng đảng về trí tuệ. Theo Lênin, đảng cộng sản không chỉ là


18
người tiêu biểu cho trí tuệ của giai cấp cơng nhân ở một nước, cho trí tuệ dân
tộc của nước đó mà phải là đại biểu cho trí tuệ của thời đại. Muốn vậy, đảng
đó phải tiếp thu được tinh hoa tư tưởng tiến bộ của lồi người nói chung, của
thời đại nói riêng, khơng phân biệt thành tựu tư tưởng lý luận đó được sáng
tạo ra bởi những nhà tư tưởng lý luận nào, trong một chế độ chính trị - xã hội
ra sao. Một đảng chỉ giữ vững được vị trí tiên phong khi có lý luận tiên phong
hướng dẫn. “Lý luận tiên phong” mà Lênin nói ở đây chính là lý luận của chủ
nghĩa Mác. Lý luận đó khơng chỉ kiên quyết phủ định xã hội cũ đã lỗi thời,
làm rõ xã hội nào sẽ thay thế xã hội lỗi thời đó. Để Đảng đứng được ở tầm
cao của trí tuệ, cần nắm vững, vận dụng sáng tạo di sản lý luận của chủ nghĩa
Mác. Những người mác xít muốn khơng lạc hậu trước cuộc sống, họ phải phát
triển chủ nghĩa Mác trên mọi phương diện.
Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, Đảng chỉ có thể làm trịn
vai trị ấy nếu trong Đảng bao gồm những chiến sĩ tiên phong. Tích cực kết
nạp những đại biểu ưu tú của giai cấp công nhân và nhân dân lao động vào
Đảng là biện pháp quan trọng để cải thiện thành phần, chất lượng của Đảng,
là điều kiện vơ cùng trọng yếu để nâng cao uy tín và giữ vững vai trị lãnh đạo
của Đảng.
Lênin ln đặt ra yêu cầu phải “tẩy sạch” khỏi Đảng “những đảng viên

tuyên truyền quan điểm chống Đảng”. Bởi vì, nếu trong Đảng mà có những
người cơ hội hoặc cơng khai, hoặc “ngấm ngầm” thì sớm hay muộn, Đảng sẽ
“khơng thể tránh khỏi tan rã”. Cho nên, để Đảng không bị chia rẽ thành bè
phái hoặc hình thành các phe nhóm, nhất thiết Đảng phải thường xuyên thực
hiện phê bình và tự phê bình, thường xun củng cố sự đồn kết, nhất trí
trong Đảng, giữ cho Đảng thật sự trong sạch.
Đồng thời, Người luôn nhắc nhở, nếu như việc đưa ra khỏi Đảng những
người không đủ tư cách đảng viên đảng cộng sản là cần thiết, thì việc dìu dắt,
giúp đỡ và kết nạp những người ưu tú của giai cấp công nhân và nhân dân lao


19
động vào đội ngũ của mình là việc rất cần thiết. Nhờ đó mà Đảng Cộng sản
ngày càng vững mạnh và có như vậy Đảng mới làm trịn sứ mệnh lịch sử của
mình. Do đó, Đảng phải giành sự quan tâm đặc biệt cho công tác giáo dục,
rèn luyện, bồi dưỡng đảng viên và không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ
đảng viên. Để đội ngũ Đảng luôn trong sạch, chỉ bao gồm những chiến sĩ
tiên phong, được quần chúng tin yêu thì Đảng phải kiên quyết đưa ra khỏi
Đảng những phần tử cơ hội, những người không đủ tiêu chuẩn. Đó là một
biện pháp đặc biệt quan trọng nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng.
Lênin cho rằng, việc thoái hoá, biến chất về đạo đức của đảng viên là rất
nghiêm trọng, đồng thời là sự tổn thất của Đảng. Nhưng nghiêm trọng hơn,
tổn thất nặng nề hơn cho Đảng, cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động
là sự sai lầm về đường lối chính trị của một Đảng Cộng sản cầm quyền. Bởi
vì tồn bộ sự nghiệp của Đảng, trước hết phụ thuộc vào sự đúng đắn của
đường lối chính trị do Đảng khởi thảo và lãnh đạo. Do đó, Lênin nhắc nhở,
Đảng phải hết sức đề phòng nguy cơ “chệch hướng”, sai lầm về quan điểm
đường lối chính trị và nguy cơ đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng thoái hoá,
biến chất, tham nhũng, quan liêu. Cho nên bất luận thế nào, trong công tác

xây dựng Đảng, phải chú trọng quan tâm làm tốt công tác cán bộ, xây dựng
đội ngũ đảng viên của Đảng có đủ phẩm chất và năng lực. Bởi lẽ, nếu có
đường lối đúng đắn, nhưng thiếu đội ngũ cán bộ tốt thì sự nghiệp cách mạng
cũng khơng thể thành cơng.
Trong q trình xây dựng và củng cố chính đảng vơ sản, theo quan điểm
của chủ nghĩa Mác - Lênin, phải xây dựng đúng đắn mối quan hệ giữa Đảng
với quần chúng đông đảo. Đảng phải liên hệ chặt chẽ với giai cấp công nhân
và quần chúng lao động, Đảng phải bao gồm những đại biểu ưu tú nhất của
giai cấp, phải gắn liền với cuộc sống của quần chúng, có khả năng phản ánh
và diễn đạt đúng đắn ý nguyện của nhân dân, bền bỉ tiến hành công tác trong


20
quần chúng, kể cả trong số quần chúng lạc hậu nhằm tranh thủ sự ủng hộ đối
với đường lối của Đảng.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Đảng là một tổ chức tự
nguyện, đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng quần chúng khỏi áp bức và bóc lột,
quần chúng cần có đảng với tư cách là người lãnh đạo họ trong cuộc đấu tranh
ấy. Nếu khơng có sự đồng tình ủng hộ của quần chúng thì mọi chủ trương,
đường lối của Đảng không thể trở thành hiện thực. Lênin nhấn mạnh rằng,
nguồn gốc chủ yếu sức mạnh của Đảng là mối liên hệ mật thiết giữa Đảng và
quần chúng, là sự ủng hộ của giai cấp công nhân và quần chúng đối với
đường lối chính trị của Đảng. Xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản
là một sự nghiệp hồn tồn mới mẻ và vơ cùng khó khăn. Sự nghiệp đó chỉ có
thể thành cơng nếu Đảng có tổ chức và phát huy được tính sáng tạo cách
mạng của quần chúng.
Khi đã có chính quyền, Đảng có nhiều điều kiện mới, công cụ mới rất
thuận lợi cho việc tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân
dân, nhưng đó cũng là điều kiện nảy sinh “thói kiêu ngạo cộng sản” nếu thiếu
rèn luyện có thể rơi vào tình trạng thối hố, biến chất, xa dời quần chúng.

Lênin cho đó là một trong những nguy cơ mà đảng cầm quyền cần chú ý đề
phòng, khắc phục.
Sau khi đã giành được chính quyền, Đảng đứng trước nhiệm vụ mới mẻ
là quản lý đất nước, xây dựng kinh tế và văn hoá theo chủ nghĩa xã hội. Đây
là nhiệm khó khăn, phức tạp vì phải tổ chức lại những cơ sở kinh tế, phải cải
tạo toàn bộ xã hội trên một cơ sở mới, nhưng đây cũng là nhiệm vụ cao cả
nhất vì nó quyết định thắng lợi của chủ nghĩa xã hội. Lênin nhắc nhở đảng vô
sản cần ra sức phấn đấu để khắc phục những thói quen của thời kỳ hoạt động
cũ, để mau chóng làm quen và thích ứng với lĩnh vực cơng tác mới là lĩnh vực
tổ chức và quản lý. Trong điều kiện mới phải tiếp tục củng cố Đảng, tăng
cường vai trò lãnh đạo của Đảng. Bảo vệ nền chun chính vơ sản là một


21
cuộc đấu tranh kiên trì, gay go, ác liệt chẳng những phải chống thù trong ,
giặc ngồi, mà cịn phải cải tạo xã hội cũ với những thói quen cũ đã ăn sâu
trong hàng chục triệu con người, phải xây dựng một xã hội mới, xã hội xã hội
chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Muốn giành được thắng lợi trong cuộc đấu
tranh đó, nhất thiết phải có một đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ
chức, phải có năng lực lãnh đạo hồn thành nhiệm vụ của thời kỳ mới. Nhiệm
vụ mới mẻ và khó khăn này địi hỏi tồn Đảng, mỗi cán bộ đảng viên phải ra
sức học tập, nâng cao trình độ văn hố, khoa học, kỹ thuật.
Học thuyết Mác - Lênin về chính đảng cách mạng của giai cấp công
nhân, cũng như quan điểm của Mác - Lênin về công tác xây dựng Đảng đến
nay vẫn có giá trị to lớn, nhất là đối với công cuộc xây dựng và chỉnh đốn
Đảng ta hiện nay, nhằm xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh, luôn
luôn là nhân tố đảm bảo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cơng nghiệp hố, hiện đại
hố vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
1.1.2. Cách mạng Việt Nam muốn thành công phải có đảng lãnh đạo
1.1.2.1. Sự khủng hoảng đường lối lãnh đạo của phong trào yêu nước

Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Năm 1858 thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta. Đến năm 1884 với
việc ký hiệp ước Patơnốt, triều đình nhà Nguyễn đã bạc nhược và chính thwvs
thừa nhận sự thống trị của thực dân Pháp trên toàn cõi Việt Nam. Xã hội Việt
Nam từ một quốc gia phong kiến độc lập trở thành xã hội thuộc địa nửa phong
kiến. Mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp và mâu thuẫn
giữa nhân dân lao động chủ yếu là nông dân với chế độ phong kiến ngày càng
phát triển gay gắt.
Phong trào yêu nước, giải phóng dân tộc ở Việt Nam diễn ra liên tục, sơi
nổi, với nhiều hình thức đấu tranh phong phú, thể hiện ý thức dân tộc, tinh
thần chống đế quốc và theo đường lối của các sĩ phu phong kiến như phong
trào Cần Vương, cuộc khởi nghĩa Yên Thế; các ngọn cờ tư sản tiêu biểu là


22
Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh…nhưng cuối cùng đều thất bại. Sự thất bại
đó biểu hiện sự bất lực của giai cấp phong kiến và giai cấp tư sản Việt Nam
trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, đồng thời thể hiện sự khủng hoảng, bế
tắc của con đường cứu nước của dân tộc Việt Nam trong những năm 20 của
thế kỷ XX.
Sự thất bại của các phong trào yêu nước nói trên là do khơng có cương
lĩnh, đường lối chính trị đúng đắn nhằm giải quyết triệt để các mâu thuẫn cơ
bản của xã hội Việt Nam; không tập hợp được lực lượng của tồn dân tộc;
khơng có phương pháp đấu tranh thích hợp và thiếu sự lãnh đạo của một tổ
chức chính trị đủ mạnh.
Một yêu cầu cấp thiết đặt ra trước dân tộc Việt Nam là cần phải có con
đường cứu nước, giải phóng dân tộc theo xu thế của thời đại và đáp ứng được
nhu cầu của nhân dân Việt Nam.
1.1.2.2. Cách mạng Việt Nam phải có đảng chân chính cách mạng
lãnh đạo

Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga giành thắng lợi, Nhà nước Xôviết
dựa trên nền tảng liên minh công - nông dưới sự lãnh đạo của Đảng Bônsêvich
Nga ra đời. Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười, chủ nghĩa Mác - Lênin từ
lý luận đã trở thành hiện thực, đồng thời mở đầu một thời đại mới - thời đại
chống chủ nghĩa đế quốc giành giải phóng dân tộc. Cuộc cách mạng này đã cổ
vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, nhân dân các nước và
là một trong những động lực thúc đẩy sự ra đời của nhiều đảng cộng sản như
Đảng Cộng sản Đức, Đảng Cộng sản Hunggari (năm 1918), Đảng Cộng sản Mỹ
(năm 1919), Đảng Cộng sản Anh, Đảng Cộng sản Pháp (năm 1920), Đảng Cộng
sản Trung Quốc và Đảng Cộng sản Mông Cổ (năm 1921)…
Đối với các dân tộc thuộc địa, Cách mạng Tháng Mười đã nêu tấm
gương sáng trong việc giải phóng các dân tộc bị áp bức. Về ý nghĩa của Cách
mạng Tháng Mười, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Cách mạng Tháng


23
Mười như tiếng sét đã đánh thức nhân dân châu Á tỉnh giấc mê hàng thế kỷ
nay. Để tiến hành cách mạng thành cơng thì phải có đảng cộng sản lãnh đạo.
Từ chủ nghĩa yêu nước, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã đến với
chủ nghĩa xã hội khoa học. Kể từ thời điểm tìm thấy con đường giải phóng
dân tộc, Người tham gia ngày càng sơi nổi vào hoạt động thực tiễn của phong
trào giải phóng dân tộc, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, đồng thời
ra sức nghiên cứu để nắm vững lập trường, quan điểm và phương pháp của
chủ nghĩa Mác - Lênin. Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể nước ta.
Theo Hồ Chí Minh, cách mạng trước hết cần có đảng bởi vì đảng là lực
lượng tiên phong của xã hội và dân tộc. Hồ Chí Minh nhìn nhận vai trị của
đảng từ nhiều góc độ và bình diện khác nhau. Nhưng dù với cách nhìn nào,
Người đều đi đến kết luận đảng là lực lượng lãnh đạo,lực lượng trước hết cần
phải có trong cách mạng Việt Nam. Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Hồ

Chí Minh khẳng định, cách mạng trước hết cần có đảng cách mạng; nhiệm vụ
của đảng là “trong thì tổ chức tập hợp dân chúng”, “ngồi thì liên lạc với dân
tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi”. Sau này Người cịn nói rõ Đảng ví
như cái máy phát điện, các cơng việc cách mạng như những ngọn đèn, máy
mạnh thì đèn sáng. Có thể nói Hồ Chí Minh - Người Việt Nam đầu tiên khẳng
định cách mạng muốn thành công trước hết cần có Đảng cách mạng chân
chính lãnh đạo.
Ở thời kỳ vận động thành lập Đảng, Người đặc biệt nhấn mạnh tới sự
cần thiết phải có Đảng. Đó là Đảng cách mạng. Trong tác phẩm Đường cách
mệnh (1927), Người chỉ rõ: “Cách mệnh trước hết là phải làm cho dân giác
ngộ… Cách mệnh phải giảng giải lý luận và chủ nghĩa cho dân hiểu, cách mệnh
là phải hiểu phong triều thế giới, phải bày sách lược cho dân…Cách mệnh là
phải tập trung, muốn tập trung phải có đảng cách mệnh” [38, tr.288-289]. Người
gắn liền đảng cách mệnh với tư cách người cách mệnh, trong đó nhấn mạnh


24
hai điều cốt yếu: giữ vững chủ nghĩa và ít lòng ham muốn vật chất. Người đã
khẳng định: “Cách mạng muốn thành cơng phải có Đảng chân chính lãnh đạo.
Đảng phải có lý luận tiên tiến, cách mạng và khoa học dẫn đường”. Về vai trò
của Đảng, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: Cách mạng muốn thắng lợi thì phải
có một đảng lãnh đạo. Đảng có vững, cách mạng mới thành cơng cũng như
người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ
nghĩa làm cốt. Chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là
chủ nghĩa Lênin.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, cách mạng trước hết cần có đảng, tính
tiên phong của đảng, mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam đều gắn bó chặt
chẽ với tính chân chính, chắc chắn, cách mạng và khoa học nhất của chủ
nghĩa Mác - Lênin. Hồ Chí Minh căn dặn những người cộng sản và nhân dân
Việt Nam: “chủ nghĩa Mác - Lênin đã soi đường cho giai cấp công nhân và

nhân dân Việt Nam kháng chiến cứu nước thành cơng, giữ gìn thành quả cách
mạng của mình” [48, tr.410].
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tính cách mạng và khoa học của chủ
nghĩa Mác - Lênin thể hiện ở quan điểm Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam
luôn trung thành với chủ nghĩa ấy, đồng thời vận dụng sáng tạo, phát triển làm
cho chủ nghĩa Mác - Lênin trở thành quan điểm, đường lối chỉ đạo cách
mạng trong thực tiễn. Hồ Chí Minh đã từng viết: “Chủ nghĩa Mác - Lênin
là kim chỉ nam cho hành động, chứ khơng phải là kinh thánh” [40, tr.120].
Chính với quan điểm trung thành nhưng phải có sáng tạo và phát triển khi
vận dụng mà trong quá trình vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt
Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần phát triển chủ nghĩa ấy trên nhiều
vấn đề quan trọng, đặc biệt là lý luận về cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Việc Nguyễn Ái Quốc khẳng định cách mạng muốn thành cơng trước
hết cần có Đảng cách mạng chân chính, là một tư tưởng lớn có tầm chiến lược


25
cả trong cách mạng giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và trong quá trình xây
dựng đất nước.
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, cũng có những
nhà văn hố - chính trị đã coi trọng vai trò và sức mạnh của dân khi khẳng
định rằng: “Đẩy thuyền cũng là dân, mà lật thuyền cũng là dân”, xem “khoan
thư sức dân làm kế bền gốc, sâu rễ” là thượng sách để giữ nước.
Hồ Chí Minh sống trong lòng quần chúng nhân dân, hiểu được tâm tư,
nguyện vọng và sức mạnh của quần chúng nhân dân, nhất là sau khi được
trang bị phương pháp luận Mác - Lênin, Người đã có những nhận định sâu
sắc, đi vào bản chất, sức mạnh tiềm tàng của quần chúng. Ở Hồ Chí Minh,
lịng thương u nhân dân gắn liền với lịng tin mãnh liệt vào sức mạnh, tính
chủ động sáng tạo của nhân dân và lịng tơn trọng, kính trọng nhân dân.

Người đã khái quát: “Trong bầu trời không có gì q bằng nhân dân. Trong
thế giới khơng gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân” [46, tr.453].
Hồ Chí Minh nhận thức rõ vai trị của quần chúng đối với sự nghiệp cách
mạng. Người khẳng định: công nông là gốc của cách mạng. Người quan tâm
đến việc giáo dục, giác ngộ quần chúng, đem sức mạnh quần chúng mà chiến
thắng sức mạnh vật chất của kẻ thù. Chính vì vậy, trong Cách mạng tháng
Tám, Đảng ta đã dựa vào lực lượng đông đảo quần chúng được tổ chức, giác
ngộ và nắm đúng thời cơ cho nên đã giành được thắng lợi.
Sau khi đã giành được chính quyền, để nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần cho nhân dân, Người đã chỉ rõ: phải đem tài dân, sức dân, của dân
làm lợi cho dân; phát động mạnh mẽ tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm,
hết sức coi trọng khoa học kỹ thuật; coi trọng nhân tài, đào tạo nhân tài.
Người u cầu: Cơng nơng phải trí thức hố và trí thức phải gắn bó với cơng
nơng, ra sức phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Như vậy, Hồ Chí Minh đã đánh giá rất cao vai trò của quần chúng nhân
dân, sự nghiệp cách mạng muốn thành công phải được dân chúng ủng hộ. Khi


×