Tải bản đầy đủ (.doc) (133 trang)

QUAN điểm hồ CHÍ MINH về xây DỰNG GIA ĐÌNH a dao sua di 10 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (600.96 KB, 133 trang )

1

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Gia đình là tế bào của xã hội. Sự trường tồn và sức mạnh của mỗi
quốc gia, dân tộc phụ thuộc rất nhiều vào sự tồn tại và phát triển của gia đình.
Ngày nay, vấn đề gia đình được thế giới rất quan tâm. Trong Tuyên
ngôn về quyền con người được Đại hội đồng Liên hợp quốc thơng qua ngày
10/12/1948, điều 16 có ghi: Gia đình là một yếu tố tự nhiên cơ bản của xã hội,
có quyền được hưởng sự bảo vệ của xã hội. Nối tiếp ý nghĩa đó, năm 1994,
Liên hợp quốc đã lấy làm “Năm Quốc tế gia đình”, với tư tưởng chủ đạo là:
Sự thay đổi thế giới cần gắn liền với sự tiến bộ, sự tăng cường các phúc lợi
cho cá nhân và thúc đẩy sự phát triển ổn định của gia đình.
Ở Việt Nam, để hồn thành mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, bên cạnh nhiều nhân tố khác, việc củng cố vững chắc gia đình là một
nhân tố quan trọng, là nền tảng và động lực phát triển xã hội. Sự nghiệp đổi
mới ở nước ta diễn ra đã gần 30 năm nay, đã đạt được nhiều thành tựu to lớn,
có ý nghĩa lịch sử trên nhiều phương diện, góp phần nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần cho mọi gia đình. Tuy nhiên, quá trình này cũng bộc lộ nhiều
yếu tố bất cập, nảy sinh khơng ít vấn đề trong xu thế tồn cầu hóa và những
mặt trái từ tác động của kinh tế thị trường. Kinh nghiệm ở các nước cho thấy,
tăng trưởng kinh tế nếu không gắn liền với phát triển hài hòa các mối quan hệ
xã hội sẽ dẫn đến những khủng hoảng và đổ vỡ các quan hệ gia đình. Hiện
nay, một thực tế xảy ra trong xã hội là các giá trị đạo đức, lối sống, thuần
phong, mỹ tục tốt đẹp của gia đình đang bị mai một, tình trạng hơn nhân thiếu
bền vững, mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình lỏng lẻo, đã chi
phối không nhỏ đến đời sống, hạnh phúc gia đình và tác động tiêu cực đến xã
hội. Thế giới cũng đã cảnh báo Việt Nam khi nhận thấy, dù chỉ mới bước vào
nền kinh tế thị trường, nhưng số trẻ em phạm các tội đặc biệt nguy hiểm như
cướp, cưỡng đoạt, hiếp dâm, giết người…, ngày càng gia tăng. Tất cả hiện




2
tượng trên nếu khơng sớm phát hiện và có những giải pháp đủ mạnh để chấn
chỉnh sẽ dẫn đến những hậu quả khôn lường, cả những tổn thương, mất mát
về mặt tinh thần cho mỗi gia đình Việt Nam, lớn hơn là đối với vận mệnh của
cả dân tộc.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên, Đảng và Nhà nước ta
ngay khi bước vào thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
đã rất quan tâm đến vấn đề xây dựng gia đình. Nghị quyết Hội nghị Trung
ương lần thứ 5 khóa VIII của Đảng đã nhấn mạnh đến trách nhiệm của gia
đình trong việc giữ gìn và phát huy những đạo lý tốt đẹp của gia đình Việt
Nam, nêu cao vai trị gương mẫu của các bậc cha mẹ, coi trọng xây dựng
gia đình văn hóa, xây dựng mối quan hệ khăng khít giữa gia đình, nhà
trường và xã hội. Nghị quyết Đại hội IX của Đảng chỉ rõ: Nêu cao trách
nhiệm của gia đình trong việc xây dựng và bồi dưỡng các thành viên của
mình lối sống văn hóa, làm cho gia đình thực sự là tổ ấm của mỗi người và
là tế bào lành mạnh của xã hội. Mới đây nhất trong Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển
năm 2011), Đảng ta đã nhấn mạnh: “Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ,
hạnh phúc, thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan
trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách” [ 20, tr.77]. Đây
khơng chỉ là chủ trương mang tính cấp thiết, mà nó cịn có tầm quan trọng,
chiến lược đối với phát triển xã hội.
Hồ Chí Minh là lãnh tụ tối cao của dân tộc Việt Nam. Những vấn đề
Người lo toan lúc sinh thời, không chỉ là những việc lớn lao của cách mạng
nước nhà, mà còn là mọi mặt của đời sống nhân dân, trong đó có lĩnh vực gia
đình. Người từng nói: “Có người nghĩ rằng Bác khơng có gia đình, chắc
khơng hiểu vấn đề này. Bác tuy khơng có gia đình riêng nhưng Bác có một đại
gia đình rất lớn đó là giai cấp cơng nhân tồn thế giới, là nhân dân Việt Nam.

Từ gia đình lớn đó, Bác có thể suy đốn được gia đình nhỏ” [47, tr.300].
Nghiên cứu di sản Hồ Chí Minh, chúng ta thấy, mặc dù Người đề cập đến lĩnh
vực này không nhiều, nhưng những luận điểm cơ bản mà Người đề cập đến,


3
thực sự là “kim chỉ nam” cho Đảng và dân tộc ta định hướng xây dựng gia
đình ở Việt Nam hiện nay.
Xuất phát từ tính cấp thiết và ý nghĩa quan trọng của những vấn đề
nêu trên, tác giả lựa chọn vấn đề “Xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay
theo quan điểm Hồ Chí Minh” làm đề tài luận văn Thạc sĩ chun ngành Hồ
Chí Minh học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Gia đình cũng như các vấn đề có liên quan đến gia đình như giáo dục
gia đình, văn hóa gia đình, xây dựng gia đình..., ln là đối tượng có sức hấp
dẫn khơng chỉ đối với các nhà hoạt động chính trị, các nhà nghiên cứu, các
học giả mà cả đối với những nhà báo, nhà văn…, ở trong và ngoài nước từ
những hướng tiếp cận, phạm vi và cấp độ khác nhau.
2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
* Về sách chuyên khảo
- Năm 1990, cơng trình “Một vài nét nghiên cứu về gia đình Việt
Nam” của Trung tâm Nghiên cứu khoa học về Gia đình và Phụ nữ, thuộc
Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia đã đề cập tới một số vấn
đề lý luận nghiên cứu về vai trò, vị trí của gia đình trong xã hội, nhưng mới
chỉ đặt vấn đề và gợi ý là chủ yếu.
- Tiếp đó, năm 1991, Viện Xã hội học thuộc Trung tâm Khoa học Xã
hội và Nhân văn Quốc gia phối hợp với Khoa Xã hội học Trường Đại học
Gothenburg (Thụy Điển) xuất bản cơng trình “Những nghiên cứu xã hội học
về gia đình Việt Nam”, trong đó, đã làm rõ những đặc điểm gia đình Việt Nam
trước năm 1990.

- Trong cuốn “Gia đình Việt Nam trong bối cảnh đất nước đổi mới”,
xuất bản năm 2002, GS. Lê Thi đã trình bày một số nghiên cứu về tình hình
gia đình Việt Nam, các mối quan hệ giữa các thành viên trong bối cảnh đổi
mới, những vấn đề cần hỗ trợ cho việc xây dựng gia đình hạnh phúc, bình
đẳng, tiến bộ. Năm 2006, GS. Lê Thi viết cuốn sách “Cuộc sống và biến động
của hơn nhân, gia đình Việt Nam hiện nay”. Trong đó, tác giả đề cập đến văn


4
hóa ứng xử và tổ chức cuộc sống gia đình, đưa ra định hướng cho hơn nhân
và gia đình Việt Nam trước những biến động của thời đại.
- Cuốn “Vai trị của phụ nữ trong xây dựng gia đình no ấm, bình
đẳng, tiến bộ, hạnh phúc”, năm 2010, của các tác giả Phạm Thị Ngọc Anh,
Nguyễn Hoàng Anh và Phan Thị Hoà, đã nêu lên cơ sở lý luận về vai trò và
thực trạng của phụ nữ trong xây dựng gia đình Việt Nam.
Ngồi ra, cịn phải kể đến cuốn “Nhận diện gia đình Việt Nam hiện
nay”, năm 1991 của tác giả Lê Ngọc Văn; cuốn “Gia đình Việt Nam với chức
năng xã hội hóa”, năm 1998, và cuốn “Văn hóa gia đình Việt Nam”, năm
2007 của Giáo sư Vũ Ngọc Khánh; cuốn “Văn hóa gia đình và sự phát triển
xã hội” của nhiều tác giả; cuốn “Người phụ nữ trong văn hóa gia đình đơ thị”
của Tiến sĩ Lê Quý Đức và Thạc sĩ Vũ Thị Huệ, năm 2003; cuốn “Văn hóa
gia đình với việc hình thành và phát triển nhân cách trẻ em” của Phó Giáo sư,
Tiến sĩ Lê Như Hoa. Trong những tác phẩm này, các tác giả đã đề cập tới
những vấn đề lý luận và thực tiễn về văn hóa gia đình, những vấn đề của gia
đình Việt Nam từ truyền thống đến hiện tại, cũng như ảnh hưởng của văn hóa
gia đình đối với sự phát triển của cá nhân nói riêng và xã hội nói chung.
* Về tạp chí
- Bài“Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề gia đình” trên
tạp chí Khoa học về phụ nữ, số 3, năm 2003, tác giả Lữ Tuyết Mai đã đề cập ba
luận điểm chính: Cái chung và riêng qua lăng kính gia đình và xã hội; xây dựng

gia đình bình đẳng, hạnh phúc và tiến bộ; gia đình và sự nghiệp cách mạng.
- “Một số luận điểm cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giải phóng phụ
nữ” của TS. Ngọc Hà trên Tạp chí Lịch sử Đảng, số 3, năm 2004, đề cập đến nhiệm
vụ, phạm vi và giải pháp giải phóng phụ nữ theo quan điểm của Hồ Chí Minh.
- Năm 2006, GS. Lê Thi trong hai bài viết: “Một vài suy nghĩ bàn về
xây dựng gia đình Việt Nam bình đẳng, hiện đại ấm no và hạnh phúc”, tạp chí
Nghiên cứu con người, số 1 và bài “Phát huy những giá trị tốt đẹp của truyền
thống để xây dựng gia đình hiện đại”, tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 4
đã chỉ ra những mặt tích cực, cũng như những hiện tượng tiêu cực, lệch lạc


5
trong gia đình ở nước ta hiện nay. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra những giải
pháp xây dựng gia đình Việt Nam từ phía gia đình, cộng đồng và nhà nước.
- Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới, số 3, năm 2008 có bài “Một
số quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề gia đình” của Lê Thị Hồng Hải. Bài
viết đi sâu tìm hiểu quan niệm của Hồ Chí Minh về gia đình, các mối quan hệ
trong gia đình và tầm quan trọng của giáo dục gia đình.
- “Văn hóa gia đình và xây dựng gia đình văn hóa trong thời kỳ hội
nhập” của Trần Thị Tuyết Mai trên tạp chí Cộng sản - chuyên đề cơ sở, số 20,
năm 2008, đã bàn đến về vai trị và những thách thức của gia đình và văn hóa gia
đình; về giá trị và xây dựng giá trị văn hóa gia đình trong thời kỳ hội nhập.
- Tác giả Vũ Thị Cúc trong bài “Quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn
đề giới”, tạp chí Nghiên cứu gia đình và giới, số 3, năm 2009 đã phân tích
quan điểm của Hồ Chí Minh về nguyên nhân và giải pháp đấu tranh cho bình
đẳng giới.
- Bài viết “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào cơng tác xây dựng
gia đình văn hố” trên tạp chí Tun giáo, số 5, năm 2009, của tác giả Phan
Văn Phờ đã nhấn mạnh phải lấy tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng, vận
dụng nội dung tác phẩm “Đời sống mới” của Người trong việc lãnh đạo, chỉ

đạo và tổ chức thực hiện xây dựng gia đình văn hóa.
* Về luận văn, luận án
- Bạch Đình Nội với luận án Tiến sĩ về “Một số suy nghĩ về xây dựng
mối quan hệ vợ chồng trong gia đình ở nước ta hiện nay”, năm 1996, đi vào
ba vấn đề cơ bản: Vị trí mối quan hệ vợ chồng trong xây dựng gia đình, cơ sở
mối quan hệ vợ chồng trong gia đình xã hội chủ nghĩa và những vấn đề đặt ra
trong xây dựng gia đình mới ở nước ta hiện nay.
- Tiếp cận từ góc độ triết học có luận án Tiến sĩ “Vai trị của gia đình
trong việc giáo dục thế hệ trẻ ở nước ta hiện nay” của Nghiêm Sỹ Liêm, năm
2001. Tác giả đề cập đến vai trò cha mẹ và các thành viên gia đình với việc
giáo dục thế hệ trẻ và một số nội dung giáo dục trong gia đình như giáo dục
đạo đức, giáo dục văn hóa, giáo dục lao động và giáo dục giới tính.


6
- “Gia đình Việt Nam và vai trị người phụ nữ hiện nay”của Dương
Thị Minh, năm 2003. Luận án Tiến sĩ của đề tài nêu trên làm rõ: Các nhân tố
cơ bản tác động đến sự biến đổi gia đình và vai trị người phụ nữ trong gia
đình; đặc điểm cơ bản của gia đình Việt Nam; xu hướng biến đổi vai trò của
người phụ nữ và xây dựng gia đình mới; phát huy vai trị người phụ nữ Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay.
- Năm 2007, Luận văn Thạc sĩ về “Giải quyết xung đột gia đình nhằm
xây dựng gia đình văn hóa ở nước ta hiện nay” của Vũ Thị Thanh Phúc, đã
luận chứng cơ sở lý luận và thực tiễn về gia đình, văn hóa gia đình, về xung
đột gia đình và những biểu hiện cơ bản của nó. Trên cơ sở làm rõ sự tác động
chủ yếu của xung đột gia đình đến quá trình xây dựng gia đình văn hóa, luận
văn đề xuất một số phương hướng và giải pháp giải quyết xung đột gia đình
nhằm xây dựng gia đình văn hóa ở nước ta hiện nay.
* Về đề tài nghiên cứu và hội thảo khoa học
- Kỷ yếu hội nghị “Nhận diện gia đình Việt Nam hiện nay” do Viện

khoa học xã hội Việt Nam tổ chức năm 1991.
- Giáo sư Lê Thi chủ nhiệm đề tài cấp Nhà nước KX-07-09 “Vai trị
gia đình trong sự hình thành và phát triển nhân cách con người Việt Nam”
của Trung Tâm Nghiên cứu về gia đình và phụ nữ nghiên cứu từ 1992-1995
được Nhà xuất bản Phụ nữ phát hành năm 1997. Nội dung của công trình
nghiên cứu đã đề cập đến vấn đề con người và vấn đề xã hội hóa, vai trị của
gia đình và sự hình thành nhân cách thế hệ trẻ, sự phát triển của gia đình Việt
Nam và chức năng giáo dục con người qua các giai đoạn lịch sử, nhất là trong
sự nghiệp đổi mới hiện nay.
- Đề tài “Vai trị của người phụ nữ trong gia đình hiện nay - những
vấn đề đặt ra và giải pháp” năm 2002 của TS. Nguyễn Thị Ngọc Dung, Học
viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, với mục tiêu và nhiệm vụ
là làm rõ gia đình Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử, những nhân tố tác động
đến gia đình và vai trị của người phụ nữ trong gia đình. Đề tài cịn chỉ rõ xu
hướng biến động vai trị của phụ nữ đối với gia đình trong thế kỷ XXI và đưa
ra các giải pháp nâng cao vai trị người phụ nữ trong gia đình hiện nay.


7
- Năm 2007, Viện Gia đình và Giới đã thực hiện đề tài “Quan điểm
của Hồ Chí Minh về gia đình, phụ nữ và bình đẳng giới”.
2.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
- Trước hết, phải kể đến tác phẩm của Ph.Ăng-ghen: “Nguồn gốc của
gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước” trong C.Mác - Ph.Ăng-ghen,
Toàn tập, tập 21, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995. Ở tác phẩm
này, Ph.Ăng-ghen đã đề cập đến một số vấn đề liên quan đến gia đình như:
Các hình thức gia đình, tình u, hơn nhân…
- Hai cuốn sách “Giáo dục trong gia đình Mác”, “Giáo dục trong gia
đình Lênin” do Nhà xuất bản Thanh niên và Nhà xuất bản Phụ nữ phát hành
đều vào năm 1977 của cùng một tác giả I. A. Pê-tréc-nhi-cô-va đã đề cập đến

những nguyên tắc, phương pháp và điều kiện giáo dục có tính sư phạm trong
gia đình Mác và Lênin, nơi mà lần đầu tiên những nguyên lý giáo dục cộng
sản chủ nghĩa đã được thực hiện trong thực tiễn.
- Năm 1998, Unipress xuất bản cuốn sách “Culture in ASEAN and the
21th century” của Thumboo và Edwin, có đề cập đến giá trị về văn hố và gia
đình Việt Nam.
Như vậy, đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về gia đình, và xây
dựng gia đình dưới góc độ triết học, xã hội học, chủ nghĩa xã hội khoa học,
tâm lý học, giáo dục học… Những tài liệu trên đã giúp ích cho tác giả tham
khảo, nghiên cứu trong quá trình hồn thành luận văn. Nhưng cho đến nay,
vẫn chưa có đề tài nào đi sâu nghiên cứu một cách hệ thống về “Xây dựng
gia đình Việt Nam hiện nay theo quan điểm Hồ Chí Minh”.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu, hệ thống hóa quan điểm Hồ Chí Minh về gia
đình, luận văn đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu vận dụng
quan điểm Hồ Chí Minh vào việc xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm
vụ sau:


8
- Làm rõ một số khái niệm có liên quan.
- Hệ thống hóa những quan điểm chủ yếu của Chủ tịch Hồ Chí Minh
về xây dựng gia đình.
- Phân tích, đánh giá thực trạng gia đình Việt Nam hiện nay, xác định
những yếu tố tác động tới thực trạng và những vấn đề đặt ra cần giải quyết.
- Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu vận dụng quan
điểm Hồ Chí Minh vào việc xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Hệ thống hóa quan điểm Hồ Chí Minh về gia đình qua các tác phẩm,
sự kiện và hoạt động thực tiễn của Người.
- Gia đình Việt Nam hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Hệ thống hóa quan điểm của Hồ Chí Minh về gia đình trong cuộc
đời hoạt động cách mạng của Người.
- Vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh vào việc xây dựng gia đình Việt
Nam, tác giả đặc biệt chú trọng vào giai đoạn từ năm 2000 đến nay, khi nước
ta đẩy mạnh cơng nghiệp hố - hiện đại hoá, mở rộng hội nhập quốc tế.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn là các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật
biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, quan điểm
Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng gia đình.
5.2.

Phương pháp nghiên cứu

Dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận nêu trên, tác giả sử dụng
các phương pháp cụ thể trong nghiên cứu như: Phương pháp logic và lịch sử,
phân tích và tổng hợp, so sánh, chứng minh, phương pháp xây dựng thư mục
và phân tích văn bản học kết hợp với các phương pháp chuyên ngành tâm lý
học, xã hội học, giáo dục học…
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Kế thừa thành quả nghiên cứu của những cơng trình có trước và trên
cơ sở những tư liệu tập hợp được, luận văn trình bày một cách hệ thống quan
điểm Hồ Chí Minh về xây dựng gia đình Việt Nam và những giá trị đặc sắc về



9
xây dựng gia đình theo quan điểm Hồ Chí Minh. Trên cơ cở đó, xác định
những giải pháp chủ yếu nhằm vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh vào xây
dựng gia đình Việt Nam hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
7.1. Ý nghĩa lý luận
Theo phương pháp tiếp cận hệ thống, luận văn làm rõ được quan điểm
Hồ Chí Minh về xây dựng gia đình.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ quan điểm
của Hồ Chí Minh về xây dựng gia đình. Luận văn góp thêm một tiếng nói vào
xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay theo quan điểm Hồ Chí Minh.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo
cho việc nghiên cứu, giảng dạy, tuyên truyền và giáo dục về tư tưởng Hồ Chí
Minh, về gia đình…
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung luận văn gồm 2 chương, 5 tiết.


10
Chương 1
QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG GIA ĐÌNH
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM

1.1.1. Gia đình
Khái niệm gia đình được các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước bàn
đến từ lâu, song đến nay vẫn chưa đi đến thống nhất về vấn đề này. Đây
không chỉ do quan niệm, cách tiếp cận từ các ngành khoa học khác nhau, mà

cịn do gia đình là một thiết chế tổ chức xã hội phức tạp gắn chặt với những
nhân tố kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội của mỗi quốc gia, vùng miền, dân
tộc .v.v. Chúng ta xem xét một số quan điểm về gia đình tiêu biểu sau đây:
Chủ nghĩa Mác - Lênin: Khác với các nhà triết học trước đây, C.Mác
và Ph.Ăng-ghen nhìn nhận gia đình là một thiết chế xã hội cơ bản, đặc thù, ra
đời, tồn tại cùng với lịch sử của xã hội loài người và có độ cố kết tương đối
ổn định dựa trên hai mối quan hệ cơ bản là quan hệ hôn nhân (chồng - vợ) và
quan hệ huyết thống (cha mẹ - con cái). Trong Hệ tư tưởng Đức (1846), hai
ông cho rằng: “Hằng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân mình, con người
cịn tạo ra những người khác, sinh sơi nảy nở - đó là quan hệ vợ và chồng, cha
mẹ và con cái, đó là GIA ĐÌNH” [35, tr.41]. Như vậy, chức năng cơ bản của
gia đình là tái tạo ra đời sống (sinh học và xã hội) của con người nhằm đảm
bảo sự kế tục nòi giống, sự trường tồn của xã hội. Trong tác phẩm “Nguồn
gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước”, năm 1884, Ph.Ăngghen còn phân biệt khái niệm hơn nhân và gia đình. Ơng cho rằng, hơn nhân
thường nặng về thỏa mãn nhu cầu tình dục và mức độ phát triển của nó dựa
vào tình u, việc sinh con và giáo dục chúng chỉ như một nhu cầu thứ yếu,
có thể có hoặc khơng. Trong khi đó, gia đình là khái niệm phát sinh từ chính
hơn nhân, nhưng gia đình có sự tương hỗ trong hoạt động giữa các cá thể, ở
đó khơng chỉ có nhu cầu thỏa mãn tình dục, mà bao gồm nhu cầu về yêu
thương, sinh sản và giáo dục, về ăn uống, làm kinh tế chung và còn cả con cái
thừa hưởng gia tài của tổ tiên.


11
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (viết
tắt là UNESCO), năm 1994, cho rằng: “Gia đình là một nhóm người có quan
hệ họ hàng, cùng sống chung và có ngân sách chung” [56, tr.269]. Đây là
điểm mới trong quan niệm về gia đình, khi lưu ý đến một điểm không thể
thiếu được của gia đình là cộng đồng về kinh tế. Trước đó, trong từ điển
“Nhân khẩu học”, Liên Hợp Quốc đã nhấn mạnh đến tính pháp lý của gia

đình: “Gia đình là một đơn vị được quy định thông qua mối liên hệ của các cá
nhân nói lên sự tái sản xuất thế hệ sau, đặc biệt ở mức độ mà những mối quan
hệ này được những quy phạm và thủ tục pháp lý phê chuẩn” [77, tr.96].
Ở nước ta, trong Luật Hôn nhân gia đình Việt Nam, năm 2009, “gia
đình được hiểu là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ
huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ và
quyền giữa họ với nhau” [30, tr.10]. Điều này là hoàn toàn đúng đắn với một
định nghĩa về gia đình dưới góc độ của khoa học pháp lý và đạo lý, là cơ sở
thực tiễn để quản lý nhà nước về gia đình, nhưng nó chưa đủ cơ sở thực tiễn
về mặt xã hội học, không bao quát được về thực trạng của nhiều hình thức gia
đình khác, những hình thức gia đình có thể bị coi là “bất hợp pháp” nhưng
vẫn tồn tại trong cuộc sống xã hội. Trong Từ điển Tiếng Việt 2010, Trung tâm
từ điển học Vietlex, quan niệm gia đình là “tập hợp người cùng sống chung
thành một đơn vị nhỏ nhất trong xã hội, gắn bó với nhau bằng quan hệ hơn
nhân và dịng máu, thường gồm có vợ chồng, cha mẹ và con cái” [72, tr.496].
Chủ tịch Hồ Chí Minh khi bàn về gia đình đã nói:
Gia đình có nghĩa cũ và nghĩa mới, nghĩa hẹp và nghĩa rộng. “Gia”
là nhà, “đình” là sân. Theo nghĩa cũ thì gia đình chỉ giới hạn hẹp
trong một cái nhà, cái sân, nghĩa là chỉ lo toan cho cha mẹ, vợ con
trong gia đình mình ấm no, n ổn ngồi ra ai nghèo khổ mặc ai,
như thế là ích kỷ khơng tốt. Theo nghĩa mới gia đình rộng hơn, tốt
đẹp hơn. Thí dụ, những người lao động trong cùng một nhà máy,
trong một cơ quan… đều phải đoàn kết, yêu thương nhau như một
gia đình. Rộng hơn nữa là đồng bào cả nước, anh em trong một đại


12
gia đình. Ta có câu hát: Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong
một nước phải thương nhau cùng. Rộng hơn nữa chúng ta có đại gia
đình xã hội chủ nghĩa [49, tr.311].

Như vậy, gia đình trong quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
được bổ sung thêm các thành viên và mở rộng mối quan hệ trong gia đình từ
một tế bào xã hội cùng chung sống dưới một mái nhà, cùng ăn chung và cùng
huyết thống đến nhóm người có cùng quan điểm, cùng hướng phấn đấu. Ở
đây, điều đáng nói là Người đã nhấn mạnh gia đình “theo nghĩa mới là rộng
hơn, tốt đẹp hơn” và quan hệ của họ là bình đẳng, đồn kết, thương yêu nhau
trên cơ sở lập trường giai cấp vô sản. Từ đó, giữa gia đình theo nghĩa rộng và
gia đình theo nghĩa hẹp có mối quan hệ biện chứng với nhau, Người nói:
“Đến chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa cộng sản, gia đình chung có được hạnh
phúc thì gia đình riêng cũng có hạnh phúc” [43, tr.100].
Ngồi những quan điểm trên, thì các định nghĩa khác về gia đình dưới
góc độ gia đình học, tâm lý học, xã hội học, chủ nghĩa xã hội khoa học hay
luật học, đều thống nhất gia đình là nhóm xã hội đặc biệt, được hình thành, duy
trì và củng cố trên cơ sở hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng; tác động lẫn nhau
trong các vai trị tương ứng của họ, gắn bó bởi các quyền và nghĩa vụ về tài sản
và nhân thân, bởi sự cộng đồng về đạo đức và vật chất, để tương trợ nhau, cùng
làm kinh tế chung, nuôi dạy con cái và tạo ra một nền văn hóa chung.
Từ những quan niệm nêu trên về gia đình, tác giả cho rằng: Gia đình
là một phạm trù xã hội dùng để chỉ một tập hợp người, một nhóm xã hội hình
thành trên cơ sở hơn nhân và huyết thống; một mắt xích trong chuỗi liên hệ
cá nhân - gia đình - làng - nước. Các thành viên trong gia đình đều có quyền,
trách nhiệm và nghĩa vụ với nhau và tuân theo các giá trị chuẩn mực nhất
định, được dư luận xã hội ủng hộ, được Nhà nước thừa nhận và bảo vệ.
1.1.2. Đời sống gia đình
Theo Từ điển Tiếng Việt thông dụng, “đời sống là tổng thể của sự sinh
tồn, phát triển của động thực vật” [78, tr.404]. Như vậy, đời sống gia đình là
tổng thể của sự sinh tồn và phát triển của gia đình từ khi thành lập, mở rộng,
chia tách và tan rã. Việc chuyển từ một giai đoạn này sang giai đoạn khác xảy



13
ra khi có sự biến đổi trong cơ cấu gia đình. Sự biến đổi cơ cấu gia đình đến
lượt nó lại có tác động đến sự vận hành của gia đình, đến trạng thái mọi mặt
của gia đình, như sức ép đối với nguồn lực kinh tế và sự thỏa mãn với hơn
nhân.
1.1.3. Giáo dục gia đình
Giáo dục là phương thức bảo tồn và phát huy hệ thống giá trị chung
của loài người, là phương tiện quan trọng nhất để đào tạo ra những con người
đáp ứng với nhu cầu xã hội. Trong xã hội hiện đại, cùng với sự tự giáo dục,
giáo dục thế hệ trẻ được chuyên môn hóa thành giáo dục gia đình, giáo dục
nhà trường, giáo dục xã hội, trong đó, giáo dục gia đình chiếm vị trí quan
trọng, đóng vai trị là nền tảng, ảnh hưởng thường xun, lâu dài, tồn diện và
có hệ thống đối với mỗi cá nhân trong suốt cuộc đời của họ. Giáo dục gia đình
đặt cơ sở cho sự hình thành nhân cách của trẻ em, thúc đẩy sự phát triển nhân
cách của lứa tuổi thanh niên đồng thời giữ gìn củng cố nhân cách con người
lúc trưởng thành và khi về già. Giáo dục gia đình xuất phát từ các nhu cầu
của xã hội cũng như (thông qua, biểu hiện bằng) các nhu cầu của mỗi gia
đình, của từng thành viên trong gia đình. Mọi người, mọi thế hệ đều có quyền
được giáo dục, có nghĩa vụ giáo dục.
“Giáo dục gia đình là sự tác động có hệ thống, có mục đích của những
người lớn trong gia đình và tồn bộ nếp sống gia đình đến đứa trẻ” [57, tr.233].
1.1.4. Xây dựng gia đình
Theo khảo sát của tác giả, cho đến nay, vẫn chưa có một định nghĩa
nào về xây dựng gia đình. Từ định nghĩa, “xây dựng là làm cho hình thành
một chỉnh thể về xã hội chính trị, kinh tế, văn hóa theo một phương hướng
nhất định” [78, tr.1459], tác giả cho rằng: Xây dựng gia đình là quá trình tổ
chức đời sống gia đình, tạo thành môi trường gần gũi trực tiếp nhất đối với
từng thành viên trong gia đình để cùng chăm lo cuộc sống; củng cố các mối
quan hệ giữa các thành viên trong gia đình; đảm bảo cho sự hình thành nhân
cách của con người; hướng đến gia đình văn hóa, góp phần phát triển xã hội.

1.2. NỘI DUNG QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG GIA ĐÌNH

1.2.1. Vị trí của gia đình - hạt nhân của xã hội


14
Nhìn lại lịch sử văn hóa dân tộc, ta thấy, từ rất sớm, gia đình Việt Nam
ln được đặt trong cấu trúc: Nhà - Làng - Nước và có vị trí to lớn trong tiến
trình phát triển của xã hội. Gia đình - xã hội có mối quan hệ biện chứng với
nhau. Xã hội tốt đẹp, tiến bộ làm tiền đề cho các gia đình phát triển lành
mạnh. Gia đình no ấm, hạnh phúc, có tác động tích cực trở lại cho sự phát
triển của xã hội.
Cho đến nay, nếu tạm khu biệt những hạn chế của lịch sử sang một
bên, chúng ta vẫn có thể thấy rằng, Nho giáo là một trong những hệ thống tư duy
khoa học đầu tiên và lớn mạnh nhất ở phương Đông về gia đình trong lịch sử
nhân loại. Nho giáo cho rằng gia đình chính là một cái nước nhỏ, là mắt xích
quan trọng nối kết con người với đất nước và thế giới. Gia đình là cơ sở của xã
hội, mối quan hệ giữa thân - nhà - nước - thiên hạ là nền tảng của cấu trúc xã
hội: “Gốc của thiên hạ ở nước, gốc của nước ở nhà, gốc của nhà ở mỗi người”
(Thiên hạ chi bản tại quốc, quốc chi bản tại gia, gia chi bản tại thân) [11, tr.13].
Khi xem gia đình là tế bào của xã hội, là thiết chế cơ sở đầu tiên cho
sự hình thành xã hội và xác định xã hội là một cộng đồng được hình thành bởi
nhiều gia đình, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác cho rằng, gia đình tồn tại, ổn
định, bền vững và phát triển thì xã hội cũng ổn định, bền vững và phát triển.
Ở buổi bình minh của lịch sử lồi người, gia đình lúc đầu như C.Mác và
Ph.Ăng-ghen hình dung là “quan hệ xã hội duy nhất” [31, tr.268]. Khi dân số
tăng lên, lực lượng sản xuất phát triển, gia đình từ chỗ là “quan hệ xã hội duy
nhất” đã trở thành “quan hệ phụ thuộc” [31, tr.268], tức là đặt gia đình và xã
hội trong mối quan hệ giữa cái bộ phận và cái tổng thể. Các ơng cịn khẳng
định, mọi thiết chế xã hội khác đều có thể thay đổi theo những điều kiện kinh

tế khách quan, nhưng “chỉ khi nào gia đình đã thay đổi hồn tồn thì những hệ
thống ấy mới hồn tồn thay đổi” [33, tr.57]. Như vậy, gia đình nằm trong cấu
trúc của xã hội, gắn bó chặt chẽ với toàn xã hội và là xã hội thu nhỏ với tất cả
các mối quan hệ xã hội ràng buộc kết dính vào nhau.
Kế thừa tất cả các quan điểm trên, trong bài nói chuyện tại Hội nghị
thảo luận dự thảo Luật Hơn nhân và Gia đình (tháng 1/1959), Chủ tịch Hồ Chí


15
Minh khẳng định: “Rất quan tâm đến gia đình là đúng và nhiều gia đình cộng
lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội
mới tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình. Chính vì muốn xây dựng chủ nghĩa
xã hội mà phải chú ý đến hạt nhân cho tốt” [47, tr.300].
Như vậy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh “gia đình là hạt nhân của xã hội”
[48, tr.524]. Cơ sở khách quan khẳng định vị trí “hạt nhân” và tính tất yếu về
sự hiện diện của gia đình đối với lịch sử và đối với mọi chế độ xã hội là ở
chỗ, gia đình có chức năng và vai trị khá toàn diện. Tuy nhiên, mức độ thực
hiện các chức năng và vai trị của gia đình, cịn tùy thuộc vào điều kiện chính
trị, kinh tế, văn hóa của từng giai đoạn phát triển xã hội, của từng quốc gia
dân tộc và ý chí của giai cấp cầm quyền. Dưới thời cai trị của thực dân Pháp,
gia đình Việt Nam khơng có điều kiện phát huy các chức năng và vai trị của
chính mình, ngay cả chức năng quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội
loài người, đó là tái sản xuất ra con người. Trong tác phẩm “Bản án chế độ
thực dân Pháp”, Nguyễn Ái Quốc (Chủ tịch Hồ Chí Minh sau này) đã chỉ rõ:
“Chủ nghĩa tư bản bóc lột dìm anh chị em trong cảnh tối tăm ngu dốt, áp bức
anh chị em về mặt tư tưởng và tiêu diệt nòi giống của các anh chị em bằng
rượu và thuốc phiện” [37, tr.135-136]. Bằng nhiều dẫn chứng xác thực về tội
ác của chủ nghĩa thực dân đế quốc ở khắp mọi nơi, Nguyễn Ái Quốc đi đến
kết luận “mọi chế độ thực dân đế quốc đều tiêu diệt hết các nòi giống bản xứ
và muốn cứu vãn những nòi giống này, ta phải lật đổ chủ nghĩa đế quốc” [37,

tr.371]. Bản án chế độ thực dân Pháp do chính Người khởi thảo và thực thi, đã
góp phần xóa đi một vết nhơ trong lịch sử và chính cách mạng Tháng Tám thành
cơng, đã tạo ra một bước ngoặt mới cho lịch sử dân tộc. Cuộc Cách mạng khơng
chỉ giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc thốt khỏi xiềng xích nơ lệ nói
chung, mà cịn giải phóng cho từng gia đình nói riêng. Cách mạng khơi dậy ở
mỗi người trong mỗi gia đình những suy nghĩ mới, tình cảm mới, đem lại cho họ
nhận thức và khả năng về sức mạnh và giá trị làm người.
Qua đó, cho thấy, trong hệ thống cơ cấu tổ chức của xã hội, gia đình là
một trong những thiết chế cơ bản đặc thù, là cầu nối giữa cá nhân và xã hội.


16
Bằng các hoạt động tổ chức đời sống gia đình, mỗi cá nhân, mỗi gia đình đều
có thể tiếp nhận, chịu sự tác động và có thể phản ứng lại sự tác động của xã
hội, của các tổ chức và thiết chế xã hội khác, cũng như các chính sách xã hội
do nhà nước ban hành. Gia đình góp phần tạo nên sự đồng thuận hay không
đồng thuận của cả cộng đồng xã hội. Từ đó, gia đình góp phần tạo nên sự ổn
định hay không ổn định, phát triển hay khơng phát triển của xã hội.
1.2.2. Vai trị của gia đình
1.2.2.1. Gia đình trong chiến lược đại đồn kết dân tộc
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhân nghĩa là người, “chữ người, nghĩa
hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước.
Rộng nữa là cả loài người. Trừ bọn Việt gian bán nước, trừ bọn phát xít thực
dân, là những ác quỷ mà ta phải kiên quyết đánh đổ, đối với tất cả những
người khác thì ta phải u q, kính trọng, giúp đỡ” [41, tr.130] và đây cũng
chính là cơ sở cho gia đình theo nghĩa rộng trong quan điểm của Người. Chủ
tịch Hồ Chí Minh khơng chỉ có quan niệm khoa học biện chứng về con người,
không chỉ yêu thương, quan tâm đến con người, hơn thế Người còn thấy sức
mạnh từ họ và phát huy sức mạnh đó thơng qua chiến lược đại đoàn kết.
Chiến lược đại đoàn kết của Hồ Chí Minh là một phạm trù rất rộng, bao hàm

nhiều tầng nấc, nhiều cấp độ các quan hệ liên kết giữa các lực lượng xã hội từ
nhỏ đến lớn, từ vi mô đến vĩ mô, từ thấp đến cao, từ trong ra ngoài, từ trên
xuống dưới…, và ngược lại. Có thể tiếp cận và lý giải phạm trù chiến lược đại
đồn kết Hồ Chí Minh từ cơ cấu lực lượng, từ địa bàn hay phạm vi đại đoàn
kết. Nếu xét từ phạm vi đại đoàn kết dân tộc thì gia đình có vai trị hết sức
quan trọng. Người viết: “Mọi gia đình đều đồn kết cộng lại thành xã hội đại
đoàn kết” [48, tr.524].
Đoàn kết, đại đoàn kết, trong nhận thức của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
khơng đơn giản là phương pháp tập hợp, tổ chức lực lượng cách mạng, mà
cao hơn, nó chính là một bộ phận hữu cơ, một tư tưởng xuyên suốt trong
đường lối chiến lược cách mạng. Ngun tắc đại đồn kết Hồ Chí Minh là tìm
kiếm, trân trọng và phát huy những yếu tố tương đồng, thống nhất để khắc


17
phục, giải quyết các yếu tố khác biệt, mâu thuẫn theo phương châm: Dân tộc
trên hết, Tổ quốc trên hết và tất cả do con người và vì con người. Do đó, theo
Người, “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người
xã hội chủ nghĩa” [48, tr.66], và “muốn có con người xã hội chủ nghĩa phải có
tư tưởng xã hội chủ nghĩa” [47, tr.11]. Những tư tưởng đó, như Người nói,
phải xuất phát từ mỗi người trong mỗi gia đình: “Các cơ, các chú hãy tưởng
tượng ra một cảnh rất vui vẻ: “Cảnh tượng một gia đình anh em trong một nhà
chỉ có một xu hướng, một mục đích xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa tiến lên
chủ nghĩa cộng sản, xây dựng hạnh phúc trên toàn thế giới” [47, tr.69]. Ngay
cả khi muốn khắc phục khó khăn và phát triển thuận lợi trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội, theo Người “thì mỗi người, mỗi gia đình, mỗi tập
đồn đều phải có tư tưởng xã hội chủ nghĩa, nghĩ đến lợi ích toàn dân trước
lợi ích cá nhân” [46, tr.599]. Và để có tư tưởng xã hội chủ nghĩa, ngồi vai trị
giáo dục trong nhà trường, cần thiết phải có sự giáo dục trong mỗi gia đình, bởi
gia đình là hạt nhân của xã hội. Gia đình xã hội chủ nghĩa thật sự có những thay

đổi rất lớn so với gia đình trong các chế độ xã hội kinh tế cũ. Không kể chức
năng tái sinh sản, chức năng quan trọng nhất của gia đình xã hội chủ nghĩa là
chức năng giáo dục, góp phần đào tạo ra nguồn nhân lực cho nước nhà.
1.2.2.2. Gia đình với sự phát triển kinh tế của đất nước
Việt Nam dưới sự cai trị của thực dân Pháp, từ một nước phong kiến
độc lập tự chủ trở thành nước thuộc địa nửa phong kiến.
Khi nghiên cứu sự thống trị của thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh
nhận thấy với “chính sách thực dân ăn cướp”, “người Pháp đến đã làm thay
đổi tất cả”, đã làm ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống kinh tế của mỗi gia đình
người Việt. Từng thành viên trong gia đình phải “làm lụng đổ mồ hơi, sơi
nước mắt để đóng thuế, để làm giàu cho bọn thực dân và phong kiến, mà tự
mình và gia đình mình thì suốt đời đói rách lầm than” [45, tr.516]; dẫn họ vào
cảnh cùng khổ, phá sản, bắt lìa bỏ gia đình, đồng ruộng để đi lao dịch; “các
gia đình khá giả nay bị sa sút khơng cịn có thể ni thầy đồ dạy cho con cái
mình và con cái người láng giềng như xưa nữa. Những kẻ nghèo đói thì bị bần


18
cùng, nên họ phải chống đói đã rồi mới có thể nghĩ đến chuyện học hành. Càng
nghèo khổ thì số người thất học càng nhiều” [36, tr.423]. Từ chỗ không làm chủ
về kinh tế, họ đã khơng cịn làm chủ “cái nhà” của họ. Điều đó chứng minh rằng,
kinh tế gia đình đóng vai trị quyết định cho sự bền vững của gia đình. Kinh tế
đất nước ổn định đảm bảo cho kinh tế gia đình phát triển và ngược lại.
Vì vậy, ngay khi cách mạng tháng Tám thành cơng, sáng 3/9/1945, tại
phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra
sáu vấn đề cấp bách Chính phủ phải tập trung giải quyết, trong đó, có việc “bỏ
ngay các thứ thuế bóc lột vơ nhân đạo”. Ngồi ra, Người cịn nhận thấy: “Trên
58% tổng số gia đình nước ta khơng có đất” [47, tr.66]. Do đó, cùng với việc
phát động phong trào tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, theo Người cần
phải triệt để thi hành giảm tô, giảm tức và thực hiện cải cách ruộng đất. Người

chỉ rõ: “Muốn xã hội giàu thì mỗi cá nhân, mỗi gia đình cho đến cả nước phải
tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm” [46, tr.242]. Kế hoạch sản xuất và tiết
kiệm là một kế hoạch chung của Chính phủ. Trên cơ sở đó, “mỗi địa phương,
mỗi đơn vị, mỗi gia đình đều nên ký giao kèo thi đua thực hiện kế hoạch sản
xuất và tiết kiệm riêng của mình để hồn thành kế hoạch chung của Chính
phủ” [42, tr.349]. Năm 1952, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có hẳn một bài viết về
“Kế hoạch gia đình”, trong đó, Người khẳng định: “Nền tảng sản xuất và tiết
kiệm là gia đình (và đơn vị bộ đội)… Kế hoạch gia đình là một điều rất hay,
rất tốt, ích nước lợi dân” [42, tr.469]. Như vậy, gia đình ln là nhân tố quan
trọng cho sự phát triển kinh tế của đất nước.
Tăng gia sản xuất đi đôi với thực hành tiết kiệm không chỉ nhằm mục
tiêu kinh tế, mà cịn có cả ý nghĩa chính trị - xã hội to lớn: Nâng cao toàn diện
đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân; xây dựng và phát triển nền kinh
tế nước ta ngày càng vững mạnh theo định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội; và giáo dục nhiệm vụ cho cán bộ,
nhân dân. Để tăng gia sản xuất và tiết kiệm, trước hết là phải xây dựng tốt
phong trào đổi công ở khắp mọi nơi và trên cơ sở đó sẽ xây dựng hợp tác xã
từ thấp đến cao. Tuy nhiên, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, để xây dựng được các tổ


19
đổi cơng thì phải “làm sao cho những gia đình trong tổ đổi cơng đều có lợi. Có
lợi thì người ta mới vui lòng vào” [44, tr.465]. Nhiều lần Người cũng nhắc nhở:
“Phải kết hợp đúng đắn việc phát triển kinh tế tập thể của hợp tác xã là chính với
việc phát triển thích đáng kinh tế phụ gia đình của xã viên” [48, tr.210]. Vì
“miếng vườn của mỗi gia đình xã viên và các loại nghề phụ là nguồn lợi để tăng
thu nhập. Phải sắp xếp thế nào để xã viên làm tốt công việc chung của hợp tác
xã, đồng thời có thể săn sóc miếng vườn của họ” [48, tr.122].
Quan điểm trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện tính dân chủ.
Đồng thời, khẳng định lợi ích riêng của từng cá nhân và gia đình cần được tơn

trọng; lợi ích chung chỉ được hình thành, củng cố, phát triển và được bảo vệ trên
cơ sở phát huy lợi ích riêng. Nhưng khi cần, họ sẵn sàng hy sinh lợi ích riêng của
gia đình vì lợi ích chung của cả dân tộc, vì họ hiểu rằng: “Gia đình to bị áp bức,
bóc lột thì gia đình nhỏ sẽ suy sụp, không phát triển được” [43, tr.99].
1.2.2.3. Gia đình trong giáo dục thế hệ trẻ
Trong Thư Trung thu gửi các cháu nhi đồng, năm 1951, Chủ tịch Hồ
Chí Minh viết: “Ngày nay, các cháu là nhi đồng. Ngày sau, các cháu là người
chủ của nước nhà, của thế giới, các cháu đồn kết thì thế giới hịa bình và dân
chủ, sẽ khơng có chiến tranh” [42, tr.186]. Như vậy, trong quan điểm của
Người, thế hệ trẻ không chỉ là thanh niên mà bao gồm cả thiếu niên nhi đồng
và vai trị của gia đình trong giáo dục thế hệ trẻ, theo Người:
Thứ nhất, về mục đích giáo dục
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm rằng: Gia đình Việt Nam luôn được
đặt trong mối quan hệ với dân tộc, lợi ích gia đình và lợi ích xã hội gắn bó
chặt chẽ với nhau, cho nên mục đích giáo dục của xã hội và gia đình là thống
nhất: “Chúng ta phải khéo giáo dục để mai sau nhi đồng ta thành những cơng
dân có “tài”, có “đức”, xứng đáng là người chủ của nước Việt Nam dân chủ
Cộng hòa” [44, tr.501]. Khi hồn thành mục đích này, gia đình đã trở thành
thành tố góp phần trực tiếp và tham gia một cách tích cực, chủ động vào việc
xây dựng và phát triển nguồn nhân lực cho sự phát triển xã hội. Qua đó, thúc


20
đẩy tiến trình phát triển kinh tế - xã hội, thúc đẩy cả lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất cùng phát triển.
Thứ hai, về nội dung giáo dục gia đình
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: Giáo dục trong gia đình cốt là để hình
thành nhân cách trẻ, bao gồm phẩm chất và năng lực nghĩa là thế hệ trẻ cần
được giáo dục một cách toàn diện về “đức dục, trí dục, thể dục, mỹ dục”.
Về giáo dục đạo đức

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong giáo dục gia đình, giáo dục đạo
đức là nội dung cơ bản nhất nhằm xây dựng ý thức đạo đức, bồi dưỡng tư
tưởng, tình cảm, hình thành thói quen, hành vi đạo đức cho thế hệ trẻ và để
mỗi thành viên trong gia đình được sống trong mơi trường chan chứa tình
thương, đậm tính nhân văn. Do đó, giáo dục đạo đức phải được tiến hành
thường xuyên, liên tục. Đồng thời, theo Người còn nhấn mạnh rằng: “Giáo
dục đạo đức cộng sản phải chú ý từ bé đến lớn. Các cháu đại đa số tốt, có
cháu nhặt được 100, 1.000 đồng đem trả lại, cái đó rất q, nhưng cịn một số
xấu, mới 13, 14 tuổi đã tình nghĩa ân ái lơi thơi, nhà trường, xã hội, gia đình
phải chú ý; thanh niên phải chú ý điểm này” [49, tr.66].
Mỗi lứa tuổi, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra những phẩm chất đạo đức
tương ứng. Trong đó, tinh thần yêu nước được xem là phẩm chất đầu tiên mà thế
hệ trẻ cần được tiếp nhận từ gia đình và phải được trau dồi, bồi dưỡng hàng
ngày. Việc giáo dục tinh thần yêu nước, theo Người phải gắn kết với yêu chủ
nghĩa xã hội và giáo dục tinh thần quốc tế vô sản, bởi “tinh thần quốc tế là đoàn
kết với các nước bạn và nhân dân các nước khác để giữ gìn hịa bình thế giới,
chống chính sách xâm lược và chính sách chiến tranh của đế quốc” [43, tr.272]
mà “giữ gìn hịa bình thế giới tức là giữ gìn lợi ích của nước ta” [43, tr.273].
Giáo dục lòng yêu nước trong quan điểm Hồ Chí Minh cịn gắn liền
với giáo dục đạo “Hiếu”. “Hiếu” khơng chỉ u thương cha mẹ mình “mà còn
phải thương cha mẹ người” và làm “cho mọi người đều biết thương cha mẹ”
[41, tr.126]. Hơn nữa, đối với Người, đạo hiếu khơng chỉ dừng lại ở tình
thương chung chung, mà lòng hiếu thảo phải biến thành hành động, việc làm


21
cụ thể. Khi cịn nhỏ cái tình, cái hiếu đó đơn giản chỉ là: “Các cháu phải
ngoan, ở nhà phải nghe lời bố mẹ”; “phải thương yêu, giúp đỡ cha mẹ, anh
em”. Khi đất nước bị nô lệ, hàng triệu ơng bố bà mẹ bị áp bức, bóc lột thì
lịng hiếu thảo đó phải thể hiện ở việc kiên quyết tham gia cách mạng để giải

phóng dân tộc, giải phóng bố mẹ mình và bố mẹ người khác. Theo Người đó
mới là “đa tình, chí hiếu nhất” [43, tr.99]. Khi đất nước giành được độc lập thì
phải ra sức bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước. Với ý nghĩa rộng lớn ấy,
“hiếu thảo” đã gắn liền với “hiếu trung”, hy sinh tình nhà, lo cho việc nước.
Người cho rằng: Nước là “gia đình to” và: “Ở Việt Nam cả dân tộc là một đại
gia đình. Dân tộc có được giải phóng thì gia đình nhỏ của mình mới được giải
phóng. Nếu gia đình to chưa được giải phóng, gia đình mình cũng chưa được
giải phóng” [43, tr.217]. Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng chỉ đưa ra tư tưởng,
chính Người là một tấm gương cao đẹp cho mỗi gia đình trong việc giáo dục
đạo đức cho thế hệ trẻ. Sinh thời, Người từng tâm sự: “Mình sinh ra ở đất
Nam Đàn, Nghệ An nhưng mẹ mình mất ở Huế, cịn cha mình lại mất ở Cao
Lãnh… Đã bao nhiêu năm mình về nước mà vẫn chưa tới đó được. Bây giờ
quê mình là Tổ quốc Việt Nam” [30, tr.78]. Về việc riêng, Người nói: “Chúng
ta, ai cũng đều muốn có một cuộc sống gia đình ấm cúng. Người cách mạng
là người giàu tình cảm, lại càng quý cuộc sống gia đình, chẳng qua vì chưa có
điều kiện thuận lợi nên chưa thực hiện được, đành phải chịu đựng mà thơi” [3,
tr.113-115]. “Tơi khơng có gia đình, cũng khơng có con cái. Nước Việt Nam
là gia đình của tơi. Tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu của tôi. Mất một
thanh niên thì hình như tơi đứt một đoạn ruột” [40, tr.49].
Nội dung giáo dục đạo đức theo quan điểm của Hồ Chí Minh cịn là ý
thức và tinh thần trách nhiệm với bản thân, với công việc, với gia đình và
cộng đồng xã hội. Người từng nói: “Bất kỳ ai, ở địa vị nào, làm cơng tác gì,
gặp hồn cảnh nào, đều phải có tinh thần trách nhiệm” [42, tr.249], “có tinh
thần trách nhiệm để vượt mọi khó khăn” [43, tr.279], “hăng hái kiên quyết
khơng sợ khó, sợ khổ”. Vì thế, mỗi thanh niên cần nhận thức được rằng:
“Nhiệm vụ của thanh niên không phải là hỏi nước nhà đã làm cho mình


22
những gì? Mà phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước nhà” [44, tr.265]. Đồng

thời, với việc xây dựng tinh thần trách nhiệm, theo Người cần kiên quyết
chống lại “bệnh quan liêu, mệnh lệnh chủ quan, hấp tấp, tự tư tự lợi” trong
thanh niên, nhất là tầng lớp “cậu ấm con quan”. Ngày 9/12/1961, nói chuyện
với những cán bộ Đảng viên hoạt động lâu năm, Người chỉ rõ: “Không phải
cứ hễ bố là cán bộ thì con là “cậu ấm”. Bố có việc của bố, con có việc của
con. Cố nhiên con của những đồng chí đã mất đi, Đảng phải lo. Nhưng nếu bố
mẹ nó đang cịn, nó xấu, mà địi hỏi đặc biệt thì chú ý cái gì?” [48, tr.277].
Ngồi những nội dung giáo dục đạo đức trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh
cịn chú ý giáo dục tình yêu thương đối với con người trên lập trường của giai
cấp vô sản; giáo dục “tinh thần tự chủ”; thực hiện “Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí
Cơng Vơ Tư”. Bên cạnh đó, theo Người giáo dục đạo đức chỉ đạt kết quả như
mục đích đã đề ra khi gắn liền với giáo dục tài năng .v.v. Hiện nay, đất nước có
nhiều đổi thay, nội dung giáo dục gia đình cũng có nhiều biến đổi, song những
chỉ dẫn này của Người đến nay vẫn là một trong những nội dung quan trọng của
giáo dục đạo đức trong xã hội nói chung và trong mỗi gia đình nói riêng.
Hai là, giáo dục tri thức
C.Mác đã nói, sự phân biệt giữa các thời đại kinh tế - xã hội không
phải là ở chỗ nó sản xuất ra cái gì mà là sản xuất như thế nào. Năng suất lao
động phụ thuộc vào trình độ sản xuất của một quốc gia. Điều này đòi hỏi phải
bồi dưỡng con người về trí tuệ. Chính vì thế, ngay từ rất sớm, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã xác định: “Một dân tộc dốt là dân tộc yếu”; “Muốn xây dựng chủ
nghĩa xã hội thì nhất định phải có học thức. Cần phải học văn hóa, chính trị,
kỹ thuật. Cần phải học lý luận Mác-Lênin kết hợp với đấu tranh và công tác
hàng ngày… Học đi đôi với hành” [48, tr.90].
Đối với thế hệ trẻ, giáo dục tri thức là giáo dục về sự hiểu biết của loài
người và là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Nếu không khao khát nắm lấy tri
thức khoa học, thanh thiếu niên khơng thể trở thành những người tiên tiến có
khả năng làm chủ bản thân, làm chủ gia đình và làm chủ xã hội. Học tập văn
hóa sẽ góp phần phát triển toàn diện nhân cách của các em. Ý thức đầy đủ về



23
vị trí, vai trị của thế hệ trẻ, chủ nhân tương lai của đất nước, tháng 9/1945,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho học sinh nhân ngày khai trường và đặt
niềm tin rất lớn vào việc học tập của thế hệ trẻ. Người viết: “Non sơng Việt
Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh
quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay khơng, chính là
nhờ một phần lớn ở công học tập của các em” [39, tr.35]. Bởi thế, trong gia
đình “Có con học giỏi là niềm vinh hạnh của cha mẹ. Cho nên dù có nghèo
đói đên đâu, cha mẹ cũng cố tìm cách cho con cái học hành” [36, tr.423].
Ba là, giáo dục thể lực
Tất cả tài năng, lý tưởng cách mạng, tri thức chuyên môn…, muốn
biến thành hiện thực bao giờ cũng phải thông qua hoạt động thực tiễn của con
người. Hoạt động của con người muốn có kết quả tốt khơng chỉ phụ thuộc vào
ý tưởng, quan niệm sống, khoa học kỹ thuật…, mà còn phụ thuộc vào trạng
thái thể lực, sức khỏe của con người. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh: Nhân sinh
vô bệnh thị chân tiên (nghĩa là: Người không bệnh tật có khác gì tiên).
Thế hệ trẻ là lực lượng quan trọng của xã hội, khơng những có vai trò
thực hiện tốt các nhiệm vụ hiện tại của đất nước, điều quan trọng hơn, đó là
lớp người đảm đương xây dựng một xã hội tương lai và “gìn giữ giang san
Lạc Hồng”. Do đó, họ phải có sức khỏe tốt thì mới có thể hồn thành được
mọi nhiệm vụ. Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đoàn Thanh niên
Lao động Việt Nam (2/11/1956), Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn đồn viên,
thanh niên: “Phải rèn luyện thân thể cho khỏe mạnh. Khỏe mạnh thì mới có
đủ sức để tham gia một cách dẻo dai, bền bỉ những cơng việc ích nước lợi
dân” [45, tr.440]. Người quan niệm sức khỏe là sự lành mạnh cả về thể xác
lẫn tinh thần. Năm 1946, Người viết: “Khí huyết lưu thông, tinh thần đầy đủ
như vậy là sức khỏe” [39, tr.241].
Để phát triển mặt thể lực, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln nhắc nhở mỗi
người dân cần biết giữ gìn vệ sinh trong đời sống gia đình cũng như việc giữ

gìn vệ sinh cho trẻ em. Đó là trách nhiệm của các bậc làm cha, làm mẹ: “Vệ
sinh đang kém nhất là các cháu. Các cháu đau mắt hột nhiều, có đúng khơng?


24
Các đồng chí nước ngồi đến thăm, thấy cha mẹ để cho con mình mặt mũi
lem nhem, luốc nhuốc, như thế cha mẹ có xấu hổ khơng? Phải chăm sóc giữ
gìn vệ sinh cho các cháu” [48, tr.266]. Phải chỉ dạy cho các cháu “giữ gìn vệ
sinh, ăn sạch, uống sạch, mặc sạch, ở sạch, thì sức mới khỏe” [48, tr.82] và
“Muốn giữ sức khỏe thì nên thường xuyên tập thể dục, thể thao” [47, tr.542].
Bốn là, giáo dục thẩm mỹ
Thẩm mỹ là giá trị khách quan vốn có của các đối tượng trong tự nhiên,
xã hội và con người, được con người thưởng thức, đánh giá và sáng tạo. Giáo
dục thẩm mỹ trong gia đình theo quan điểm Hồ Chí Minh là q trình cha mẹ
giáo dục để hình thành cho con cái năng lực nhận thức, đánh giá, sáng tạo và
hành động theo cái đẹp nhất là những cái hay, cái đẹp trong văn hóa truyền thống
dân tộc, Người viết: “Những câu tục ngữ, những câu vè, ca dao rất hay là những
sáng tác của quần chúng. Những sáng tác ấy là những hòn ngọc quý” [46, tr.559]
hay “tiếng Việt của ta rất phong phú, ta phải làm giàu thêm cho tiếng của ta,
nhưng không nên vay mượn lu bù để loè thiên hạ” [50, tr.666].
Giáo dục thẩm mỹ có ảnh hưởng to lớn tới giáo dục đạo đức. Thơng
qua hình tượng đẹp, giúp chúng ta phân biệt cái xấu, cái đẹp, cái thiện, cái ác,
qua đó gây ảnh hưởng sâu sắc tới tư tưởng, tình cảm, góp phần hình thành đạo
đức, như Chủ tịch Hồ Chí Minh nói, “làm cho phần tốt ở trong mỗi con người
nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi” [50, tr.672], góp phần
“tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi” [50, tr.617].
Giáo dục thẩm mỹ liên hệ chặt chẽ với giáo dục trí tuệ và thể dục, đặc
biệt là với lao động. Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, cái gọi là lịch sử toàn
thế giới chỉ là sự sáng tạo ra con người kinh qua lao động của con người và
“một hoạt động sản xuất có ý nghĩa chân chính “là ở chỗ” con người biết nhào

nặn vật chất theo quy luật của cái đẹp (Bản thảo kinh tế triết học 1844). Tiếp
thu quan điểm này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra nguồn gốc đích thực của
cái đẹp là từ lao động: “Lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn
hạnh phúc của chúng ta” [48, tr.69]. Người còn chỉ ra: Đối với mỗi cá nhân, “do
lao động mà tri thức được tăng lên. Do lao động mà sức khỏe được phát triển


25
lên”, “các cháu 8, 9 tuổi trở lên trong gia đình, khơng phải chỉ u cầu các cháu
lao động tự phục vụ mà phải tham gia sản xuất vừa sức, làm ra của cải vật chất.
Không giáo dục lao động thành nề nếp thì dễ hư hỏng” [56, tr.350]. Như vậy,
toàn bộ vẻ đẹp về thân thể và tâm hồn của con người đều do lao động mà hình
thành. Do đó, giáo dục thẩm mỹ trong mỗi gia đình phải ln gắn liền với
giáo dục ý thức và tình u đối với lao động.
Thứ ba, về phương pháp giáo dục gia đình.
Trong giáo dục gia đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ yếu đề cập đến ba
phương pháp giáo dục chủ yếu sau đây:
Một là, cha mẹ cần giáo dục con cái một cách khoa học
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Giáo dục nhi đồng là một khoa học”.
Trong chính sách và định hướng, giáo dục luôn được Người coi là một ngành
khoa học, phải có phương pháp giáo dục riêng, cụ thể xuất phát từ mục tiêu
giáo dục, từ vị trí, vai trị của thế hệ trẻ và đặc điểm tâm lý lứa tuổi.
Sự nghiệp giáo dục của gia đình là cơng việc thường xun, suốt đời và
có hệ thống của tất cả các thành viên: Cha mẹ, ông bà, anh chị, những người
thân trong dòng họ… Thế nhưng từ nhiều góc độ khác nhau cha mẹ vẫn là chủ
thể quyết định nhất đối với quá trình giáo dục thế hệ trẻ trong gia đình.
Trong gia đình, phương pháp giáo dục của những người làm cha mẹ cần
phải xuất phát từ lòng yêu thương đối với con cái, là nhân tố quan trọng bảo đảm
cho việc giáo dục đạt được hiệu quả. Những người làm cha mẹ càng hiểu biết về
đặc điểm tâm lý lứa tuổi của con cái mình, càng hiểu biết về khoa học giáo dục

thì càng linh hoạt sáng tạo trong phương pháp đối xử với con cái, càng làm cho
con cái dễ dàng tiếp thu các hình thức giáo dục đó. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc
nhở cách dạy trẻ cần làm cho các cháu khi chơi là được học; trong khi học, vui
vẻ như được chơi; không khen quá lời trước mặt các cháu; khen để động viên các
cháu, chớ để cho các cháu kiêu căng. Chê cũng vậy, phải xây dựng lòng tin cho
các cháu, đồng thời, phải giữ tồn vẹn tính vui vẻ, hoạt bát, tự nhiên trẻ trung của
chúng chớ nên làm cho chúng hóa ra “những người già sớm” [41, tr.250].


×