Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

Nâng cao ý thức trách nhiệm công vụ cho đội ngũ công chức ở cơ sở thành phố rạch giá hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (380.85 KB, 102 trang )

1
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Ý thức trách nhiệm có vai trị rất to lớn và quan trọng trong cuộc sống
hàng ngày cũng như trong công tác của bất cứ một người bình thường nào
hoặc của bất cứ một cơng chức nào.
Trong cuộc sống, khi sống có trách nhiệm với chính mình, với cuộc đời
của chính mình, khơng bao giờ để những người xung quanh phải ghét bỏ bởi
lối sống bng thả, vơ trách nhiệm của mình. Khi có ý thức trách nhiệm
chúng ta sẽ mạnh mẽ hơn, chín chắn hơn cũng như kiên cường hơn trong cuộc
sống, sẽ vượt qua khó khăn trong cuộc đời một cách dễ dàng hơn.
Trách nhiệm là chất gắn kết các mối quan hệ trong cuộc sống xã hội với
nhau. Sống có trách nhiệm với bản thân, với bạn bè, với những người xung
quanh không bỏ mặc, vô tâm với đau khổ, mất mát của họ. Khi sống có trách
nhiệm với bản thân, những người thân, và những người xung quanh chúng ta
sẽ ln có được hạnh phúc.
Trong cơng việc, thì người cán bộ cơng chức cũng cần phải có ý thức
trách nhiệm, bất cứ cơng việc gì được giao cũng cần phải làm thật tốt, không
làm qua loa, đại khái, phải làm việc thật lịng.
Với đội ngũ cơng chức là những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào
các chức danh trong các cơ quan nhà nước (trong đó tập trung vào các cơ
quan hành chính) để thực thi hoạt động cơng vụ và được hưởng lương và các
khoản thu nhập từ ngân sách nhà nước thì việc nâng cao ý thức trách nhiệm
và tinh thần dám chịu trách nhiệm của đội ngũ cơng chức càng phải được đề
cao và coi đó là phẩm chất đạo đức, là giá trị của mỗi người.
Trong q trình tiến hành cải cách hành chính nhằm thiết lập được bộ
máy công quyền phục vụ đắc lực cho lợi ích của nhân dân, cần phải có một
đội ngũ cơng chức có ý thức trách nhiệm cao. Có thể nói đội ngũ cơng chức
này, từ cấp xã lên đến cấp trung ương là nhân tố quyết định cho mọi thành



2
công của công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa nói chung, cơng cuộc đổi
mới nói riêng ở nước ta hiện nay.
Bên cạnh những cơng chức có ý thức trách nhiệm cơng vụ cao đã có rất
nhiều cố gắng trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, tận tình
phục vụ nhân dân. Tuy nhiên vẫn cịn có một bộ phận đội ngũ công chức thiếu
ý thức trách nhiệm trong hoạt động công vụ hiện nay, đã và đang làm ảnh
hưởng đến hiệu lực, hiệu quả của các cơ quan nhà nước.
Kiên Giang nằm trong vùng đồng bằng sông Cửu Long, có vị trí thuận
lợi và tiềm năng kinh tế rất lớn.
Diện tích tự nhiên của tồn tỉnh là 6.296km 2 với 200km bờ biển, có
105 hịn đảo lớn nhỏ, trong đó lớn nhất là đảo Phú Quốc. Dân số Kiên
Giang có 1.688.228 người phân bố trên 15 đơn vị hành chính huyện, thị và
thành phố.
Nhận thức rõ tầm quan trọng, ý nghĩa của việc nâng cao ý thức trách
nhiệm công vụ cho đội ngũ công chức cơ sở, trong những năm qua Tỉnh ủy
Kiên Giang nói chung, Thành phố Rạch Giá nói riêng ln quan tâm và coi
việc nâng cao ý thức trách nhiệm công vụ cho đội ngũ công chức cơ sở là nội
dung trọng yếu của công tác cán bộ. Về cơ bản việc nâng cao ý thức trách
nhiệm công vụ cho đội ngũ công chức cơ sở trong những năm qua đã góp
phần thực hiện hiệu quả các mặt công tác, tạo được niềm tin trong quần chúng
nhân dân đồng thời đã tạo được nguồn cán bộ dự bị, kế cận cho các chức danh
lãnh đạo, quản lý, góp phần khắc phục dần tình trạng bị động lúng túng, hụt
hẫng trong công tác tổ chức cán bộ.
Để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần
xây dựng đội ngũ cơng chức có phẩm chất chính trị vững vàng, trung thành,
trung thực, liêm chính, có tri thức, năng động sáng tạo, có năng lực tổ chức
thực hiện, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, mở cửa hội nhập với
khu vực và thế giới.



3
Sự nghiệp đổi mới phát triển kinh tế - xã hội của Kiên Giang đang đặt
ra những vấn đề cấp thiết, trong đó vấn đề nâng cao ý thức trách nhiệm công
vụ cho đội ngũ công chức cơ sở là vấn đề hết sức quan trọng.
Tuy nhiên, trong triển khai tổ chức thực hiện việc nâng cao ý thức trách
nhiệm cơng vụ cho đội ngũ cơng chức cơ sở cịn nhiều hạn chế. Một số nơi
chuẩn bị chưa kỹ, chưa bám sát yêu cầu của nhiệm vụ chính trị, một bộ phận
công chức cơ sở chưa phát huy hết tinh thần trách nhiệm cơng vụ, cịn nặng
về chủ nghĩa hình thức, thiếu nhiệt tình trong thực thi cơng vụ.
Chọn nghiên cứu đề tài luận văn: “Nâng cao ý thức trách nhiệm công
vụ cho đội ngũ công chức ở cơ sở thành phố Rạch Giá hiện nay”, chúng tôi
hy vọng là sẽ có được một đóng góp nhỏ vào việc xây dựng một đội ngũ cơng
chức có ý thức trách nhiệm cơng vụ cao, hồn thành nhiệm vụ một cách xuất
sắc, xứng đáng với niềm tin của Đảng và nhân dân, đóng vai trị là một trong
những nhân tố thúc đẩy mạnh mẽ công cuộc đổi mới ở Rạch Giá hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Do yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ (ĐNCB) các cấp vững mạnh về
mọi mặt nên đã có nhiều chỉ thị, nghị quyết của Đảng đề cập đến vấn đề cán
bộ và nâng cao ý thức trách nhiệm, nhiều nhà khoa học và nhà hoạt động thực
tiễn cũng quan tâm nghiên cứu dưới những góc độ khác nhau. Một số cơng
trình nghiên cứu tiêu biểu đã cơng bố như:
* Một số cơng trình đã in thành sách:
- Ban Tun giáo Trung ương (2007), Phê phán, bác bỏ các quan điểm
sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nxb chính trị quốc gia. Hà Nội. Cuốn sách đã nêu lên những nét cơ bản về
cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận của các nước XHCN và phong trào cộng sản,
công nhân quốc tế thời kỳ từ năm 1991 đến nay; phê phán các quan điểm sai
trái, thù địch trên mặt trận tư tưởng, lý luận; nêu lên cuộc đấu tranh trên mặt
trận tư tưởng, lý luận trong 20 năm đổi mới. Từ đó dự báo tình hình, phương



4
hướng các nhóm giải pháp nâng cao chất lượng nghiên cứu, phê phán các
quan điểm sai trái, cơ hội, thù địch trong thời gian tới.
- Nguyễn Quốc Phẩm (chủ biên) (2000) Hệ thống chính trị cấp cơ sở
và dân chủ hố đời sống xã hội nơng thơn miền núi, vùng dân tộc thiểu số.
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tác giả trình bày thực trạng tổ chức và hoạt
động của hệ thống chính trị cấp cơ sở vùng nơng thơn miền núi, vùng dân tộc
thiểu số các tỉnh phía Bắc trước yêu cầu thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở;
đồng thời kiến nghị những phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm kiện
toàn tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị, thực hiện quy chế dân chủ ở
những địa bàn nói trên.
- GS,TS Hồng Chí Bảo (chủ biên) (2005), Hệ thống chính trị ở nơng
thơn nước ta hiện nay. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Các tác giả đã nghiên
cứu vấn đề từ quan điểm lý luận đến lịch sử và thực tiễn, đồng thời cũng đưa
ra một số phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục đổi mới và nâng
cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở nơng thơn nước ta hiện nay.
- PGS,TS. Đào Duy Quát (2005), Về công tác tư tưởng của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Nxb chính trị quốc gia. Hà Nội. Cuốn sách đã tập hợp các bài
viết của tác giả về công tác tư tưởng và vấn đề nâng cao chất lượng, hiệu quả
của công tác tư tưởng; kiên định những quan điểm có tính nguyên tắc trong
công tác tư tưởng và công tác tư tưởng với thực hiện nhiệm vụ chính trị trong
thời kỳ mới.
- PGS.TS Nguyễn Phú Trọng, PGS.TS Trần Xuân Sầm (đồng chủ biên)
(2001), Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong
thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. Nxb Chính trị
quốc, Hà Nội. Cuốn sách đã phân tích, lý giải, hệ thống hoá các căn cứ khoa
học của việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ
lãnh đạo chủ chốt các cấp, từ đó đưa ra những kiến nghị về phương hướng,

giải pháp nhằm cũng cố, phát triển đội ngũ này cả về chất lượng, số lượng cơ
cấu phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.


5
* Các bài báo khoa học:
- Nguyễn Minh Phương (2003), Đổi mới chính sách,chế độ đối với đội
ngũ cán bộ cơ sở. Tạp chí quản lý Nhà nước, số 02, tr 9-12. Tác giả đã nêu
lên thực trạng chính sách, chế độ đối với cán bộ cơ sở hiện nay và phương
hướng đổi mới chính sách, chế độ đối với đội ngũ cán bộ cơ sở.
- Nguyễn Phương Đông (2002), Vấn đề giáo dục tư tưởng chính trị,
đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Tạp chí Kiểm tra số 07, tr 26-27.
Tác giả đã nêu lên tầm quan trọng và hiệu quả, hình thức, phương pháp giáo
dục tư tưởng chính trị, đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên hiện nay.
* Các luận văn, luận án.
- Lê Hanh Thơng (2003), Đổi mới giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ
chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp xã các tỉnh khu vực Nam Bộ. Luận án
tiến sĩ triết học chuyên ngành chủ nghĩa xã hội khoa học. Luận án đã nghiên
cứu một cách cơ bản và có hệ thống về cơng tác giáo dục lý luận chính trị cho
cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp xã các tỉnh khu vực Nam Bộ;
trên cơ sở đó đề xuất một hệ thống các giải pháp tác động phù hợp và những
đổi mới nội dung, chương trình, phương thức giáo dục lý luận chính trị, góp
phần nâng cao vai trò, phẩm chất và năng lực của cán bộ chủ chốt cấp xã ở
nước ta trong quá trình đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Phạm Công Khâm (2001), Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã
vùng nông thôn đồng bằng sông Cửu Long hiện nay. Luận án tiến sĩ chính trị
học, chuyên ngành Xây dựng đảng. Luận án đã làm rõ cơ sở khoa học về vai
trị đội ngũ cán bộ cơng chức và công tác xây dựng đội ngũ cán bộ công chức
cấp xã; đánh giá thực trạng và những vấn đề đặt ra cho việc xây dựng đội ngũ
cán bộ công chức cấp xã vùng nông thôn đồng bằng sông Cửu Long; Chỉ ra

mục tiêu, quan điểm và đề xuất những giải pháp để xây dựng đội ngũ cán bộ
công chức theo yêu cầu mới trong điều kiện hiện nay.


6
- Thành Từ Dũ (2006) Báo chí với việc giáo dục ý thức chính trị cho
cán bộ cấp cơ sở ở tỉnh Tây Ninh hiện nay. Luận văn thạc sĩ triết học. Luận
văn tìm hiểu thực trạng vai trị báo chí với việc giáo dục ý thức chính trị cho
cán bộ cấp cơ sở ở tỉnh Tây Ninh và đưa ra những giải pháp chủ yếu nâng cao
vai trò báo chí trong giáo dục ý thức chính trị cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở ở
Tây Ninh.
Qua phân tích kết quả nghiên cứu của các cơng trình trên cho thấy, các
cơng trình nghiên cứu về cán bộ, ý thức chính trị nói chung, ý thức trách
nhiệm nói riêng chủ yếu tiếp cận từ những góc độ khác nhau của các mơn học
như: triết học, xây dựng đảng, chính trị học…các cơng trình nghiên cứu phân
tích cơ cấu, tiêu chuẩn, con đường hình thành đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ
chốt các cấp trong đó có cán bộ chủ chốt cấp xã. Chưa có cơng trình nào
nghiên cứu vấn đề “Nâng cao ý thức trách nhiệm công vụ cho đội ngũ công
chức ở cơ sở ở tỉnh Kiên Giang hiện nay” một cách tồn diện có hệ thống từ
góc độ triết học. Vì vậy, trên cơ sở nghiên cứu, tìm tòi cùng với việc kế thừa,
chọn lọc một số kết quả nghiên cứu đã được cơng bố, luận văn góp phần làm
rõ hơn vấn đề này trong đề tài nghiên cứu của mình.
Trong những năm gần đây, vấn đề ý thức trách nhiệm được nghiên cứu
dưới nhiều góc độ khác nhau cũng như từ nhiều tác giả. Tuy nhiên vấn đề ý
thức trách nhiệm chỉ mới được đề cập với tư cách là một vấn đề xã hội dưới
góc độ của đạo đức học và thường gắn liền với những biểu hiện đối lập với nó
là hành vi vơ trách nhiệm, diễn ra trong đời sống xã hội trên nhiều lĩnh vực
kinh tế, chính trị, văn hóa, đạo đức, mơi trường. Các cơng trình nghiên cứu
điển hình mà đề tài luận văn này có thể tham khảo như:
+ Vai trị của con người trong lực lượng sản xuất và vấn đề nâng cao

tính tích cực của người lao động ở nước ta hiện nay của tác giả Dương Anh
Hoàng, bảo vệ tại Viện Triết học - Viện khoa học xã hội Việt Nam năm 1998.
Tác giả tập trung đi vào khai thác vai trò và những nhân tố tác động đến chủ


7
thể - con người trong quá trình tham gia vào hoạt động sản xuất. Từ đó có
những giải pháp phù hợp nhằm nâng cao tính tích cực, trách nhiệm của chủ
thể trong quá trình lao động sản xuất.
+ Quan hệ kinh tế và đạo đức với việc xây dựng đạo đức mới cho thế
hệ trẻ hiện nay ở Việt Nam của tác giả Nguyễn Đình Quế, bảo vệ tại Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh năm 2000; Giáo dục đạo đức
cho thanh niên học sinh theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở nước ta hiện nay của
tác giả Trần Minh Đoàn, bảo vệ tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh năm 2002; Đạo đức công chức và xây dựng đạo đức công chức
ở nước ta hiện nay của tác giả Lê Thị Hằng, bảo vệ tại Viện Triết học - Viện
khoa học xã hội Việt Nam năm 2008;
Nhìn chung, các tác giả đều đi sâu làm rõ vai trò của đạo đức và những
biến đổi của các giá trị đạo đức trước sự tác động của các nhân tố khác đặc
biệt là nhân tố kinh tế. Trên cơ sở nghiên cứu những thực trạng và tình hình
cụ thể, các cơng trình đều hướng đến việc gìn giữ và phát huy các giá trị đạo
đức dân tộc và góp phần quan trọng vào việc giáo dục đạo đức cho thế hệ
thanh niên, học sinh, sinh viên, trong giai đoạn quan trọng khi đất nước đang
chuyển mình theo cơ chế thị trường trước sự ưu tiên về mọi mặt đối với sự
phát triển của kinh tế. Trong những vấn đề mà đạo đức bàn đến thì ý thức
trách nhiệm cũng được đề cập đến, nhưng chỉ dừng lại ở góc độ bao quát,
chung chung và chưa thực sự được đi sâu làm rõ vấn đề một cách cụ thể.
Bên cạnh đó cũng có một số đề tài phân tích vấn đề ý thức dưới những
góc độ riêng mà luận văn có thể tham khảo như:
+ Ý thức đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện

nay, của TS Lê Thị Tuyết Ba, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 2010. Tác
giả đi sâu phân tích làm rõ ý thức đạo đức và những thành tố cơ bản của ý
thức đạo đức bằng quan điểm duy vật lịch sử. Từ đó tác giả vạch ra vai trị, sự
biến đổi của ý thức đạo đức và giải pháp cần thiết mang tính định hướng.


8
+ Ý thức pháp luật với việc thực hiện dân chủ ở nông thôn Việt Nam
hiện nay của tác giả Lê Xuân Huy, bảo vệ tại Học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh năm 2010;
Riêng vấn đề trách nhiệm cũng được nghiên cứu ở cả phương diện rộng
lẫn phương diện hẹp của nó. Mặc dù chưa thật sự cụ thể song đó cũng là cơ sở
cho đề tài có thể tham khảo, nghiên cứu cụ thể hơn như:
+ Công bằng xã hội, trách nhiệm xã hội và đồn kết xã hội, do nhóm
tác giả PGS,TS Phạm Văn Đức, PGS,TS Đặng Hữu Toàn, GS,TS Trần Văn
Đoàn, TS Ulrich Dornberg (đồng chủ biên), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,
2008. Cuốn sách là kỷ yếu bao gồm các bài viết được trình bày tại hội thảo
quốc tế do Viện Triết học (thuộc Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam) và Hội
Hành động vì sự phát triển con người Thiên chúa giáo Đức (MISEREOR)
đồng chủ trì. Bên cạnh vấn đề cơng bằng xã hội, đồn kết xã hội, các tác giả
cũng đề cập đến vấn đề trách nhiệm xã hội và khai thác dưới góc độ của triết
học, triết học xã hội và khía cạnh triết học đạo đức. Nhìn chung cuốn sách
hướng đến việc khẳng định trong một xã hội nếu các cá nhân chỉ biết quan
tâm đến lợi ích của bản thân mà khơng có hoặc thiếu tinh thần trách nhiệm
đối với sự phát triển chung của xã hội thì sớm hay muộn xã hội đó cũng sẽ
dẫn đến tình trạng mâu thuẫn, mất đồn kết, xung đột giữa các nhóm dân cư
nói riêng và giữa các cá nhân trong cộng đồng nói chung.
+ Tư tưởng tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về nâng cao ý thức trách
nhiệm, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân của Ban Tuyên
giáo Trung ương năm 2009. Sách là tài liệu phục vụ cuộc vận động “Học tập

và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” chủ đề năm 2009. Tài liệu đã
tuyển chọn một số bài nói, bài viết của chủ tịch Hồ Chí Minh về chủ đề trách
nhiệm và nghĩa vụ đạo đức cách mạng đối với Tổ quốc, với nhân dân và một
số câu chuyện sinh động ca ngợi tấm gương đạo đức của Người được viết bởi
bạn bè quốc tế.


9
+ Trách nhiệm xã hội và vấn đề nâng cao trách nhiệm xã hội ở nước ta
hiện nay của tác giả Trần Thị Tuyết, bảo vệ tại Viện Triết học - Viện Khoa
Học Xã Hội Việt Nam năm 2009. Tác giả đã tập trung nghiên cứu thực chất
vai trò và những nhân tố quy định sự hình thành của trách nhiệm xã hội. Trên
cơ sở khảo sát thực trạng của việc thực hiện trách nhiệm xã hội trong đời sống
và đề ra một số giải pháp chủ yếu.
+ Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, của tác giả Michel Capron
Francoise Quairel-Lanoizelee, Nxb Tri thức, 2009.
+ Trách nhiệm xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường, do nhóm tác
giả PGS,TS Phạm Văn Đức, GS,TS Joes Sayer, PGS,TS Đặng Hữu Toàn, TS
Nguyễn Đình Hịa, TS Ulrich Dornberg (đồng chủ biên), Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội, 2010. Cuốn sách là kỷ yếu bao gồm các bài viết được trình bày tại hội
thảo quốc tế do Viện Triết học (thuộc Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam) và Hội
Hành động vì sự phát triển con người Thiên chúa giáo Đức (MISEREOR) đồng
tổ chức. Kỷ yếu tiếp tục làm rõ vấn đề trách nhiệm xã hội trên nhiều phương
diện trong đó bao gồm cả trách nhiệm xã hội của nhà nước, doanh nghiệp, doanh
nhân và các tổ chức chính trị - xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường và trách
nhiệm xã hội trong một số lĩnh vực kinh tế, văn hóa xã hội khác.
+ Tạp chí Giáo dục lý luận có bài: “Nâng cao ý thức trách nhiệm của
đội ngũ cán bộ, công chức thông qua xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa gắn với xây dựng đạo đức mới” của TS Nguyễn Thị Minh Tâm, số
5, 2011. Và bài: “Giải pháp nâng cao ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ,

đảng viên trong giai đoạn hiện nay” của tác giả Ngơ Văn Thạo, tạp chí Lý
luận Chính trị, số 5, 2010.
Như vậy, xét một cách tổng quát, chưa có cơng trình nghiên cứu nào đề
cập trực tiếp đến vấn đề nâng cao ý thức trách nhiệm công vụ cho đội ngũ
công chức ở cơ sở, đặc biệt tham chiếu qua kết quả thực hiện vai trò trách
nhiệm chung của đội ngũ cán bộ cơng chức. Vì vậy, đề tài: Nâng cao ý thức
trách nhiệm cho đội ngũ công chức ở cơ sở trên địa bàn Thành Phố Rạch Giá


10
hiện nay mà học viên lựa chọn làm đề tài luận văn Thạc sỹ là không trùng lắp
với bất cứ nghiên cứu đã được cơng bố nào.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Từ thực trạng ý thức trách nhiệm công vụ của đội ngũ công chức ở cơ
sở trên địa bàn Thành phố Rạch Giá tỉnh Kiên Giang hiện nay, luận văn đề
xuất các giải pháp nâng cao ý thức trách nhiệm cho đội ngũ này trong điều
kiện hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ ý thức trách nhiệm công vụ của đội ngũ công chức và những
yêu cầu nâng cao ý thức trách nhiệm công vụ cho đội ngũ công chức cơ sở ở
nước ta hiện nay.
- Phân tích, đánh giá thực trạng ý thức trách nhiệm công vụ của đội ngũ
công chức ở cơ sở trên địa bàn Thành phố Rạch Giá tỉnh Kiên Giang và
những nguyên nhân của thực trạng này.
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm
công vụ cho đội ngũ công chức trên địa bàn Thành phố Rạch Giá tỉnh Kiên
Giang hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Luận văn nghiên cứu về ý thức trách nhiệm công vụ, một nội dung cơ

bản cần giáo dục cho đội ngũ công chức ở cơ sở, nhưng đối tượng chủ yếu mà
tác giả đi sâu nghiên cứu, khảo sát, đánh giá là đội ngũ công chức ở cơ sở trên
địa bàn thành phố Rạch Giá hiện nay.
- Phạm vi thời gian được giới hạn từ khi triển khai thực hiện Nghị
quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về đổi
mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn
(ngày 18 tháng 03 năm 2002) đến nay.


11
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà
nước; các văn kiện, chương trình hành động, chỉ thị và nghị quyết của Đảng
bộ tỉnh Kiên Giang về cán bộ và các vấn đề liên quan. Đồng thời, luận văn kế
thừa một cách có chọn lọc các cơng trình nghiên cứu đã cơng bố của các tổ
chức và các nhà khoa học.
- Luận văn còn được thực hiện trên cơ sở khảo sát thực tiễn về đội ngũ
công chức ở cơ sở trên địa bàn Thành Phố Rạch Giá tỉnh Kiên Giang.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp: kết hợp lịch sử và lơgíc; phân tích
và tổng hợp; so sánh và điều tra xã hội học...trong việc nghiên cứu để thực
hiện được nhiệm vụ và mục đích đề ra.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Phân tích một cách tồn diện những biểu hiện ý thức trách nhiệm
cơng vụ của đội ngũ công chức ở cơ sở; đánh giá thực trạng ý thức trách
nhiệm của cán bộ chủ chốt ở cơ sở trên địa bàn Thành phố Rạch Giá, tỉnh
Kiên Giang. Từ đó đề xuất những phương hướng, giải pháp cụ thể để nâng
cao ý thức trách nhiệm công vụ cho đội ngũ công chức ở cơ sở trên địa bàn
Thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang trong điều kiện hiện nay.

7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể giúp cho các cấp lãnh đạo của
tỉnh tham khảo và vận dụng trong việc nghiên cứu xây dựng giải pháp để
nâng cao ý thức trách nhiệm công vụ cho đội ngũ cán bộ công chức ở cơ sở
trên địa bàn tỉnh Kiên Giang đáp ứng yêu cầu mới.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu giảng
dạy về các môn: chủ nghĩa xã hội khoa học, Triết học, Xây dựng đảng, Chính


12
trị học... ở Trường Chính trị tỉnh, làm tài liệu tham khảo cho đội ngũ cán bộ
các cấp, đặc biệt là cán bộ cấp cơ sở nói chung.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương, 05 tiết.


13
Chương 1
Ý THỨC TRÁCH NHIỆM CƠNG VỤ,
VAI TRỊ CỦA VIỆC NÂNG CAO Ý THỨC TRÁCH NHIỆM
CÔNG VỤ ĐỐI VỚI ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC CƠ SỞ
1.1. KHÁI NIỆM Ý THỨC TRÁCH NHIỆM CƠNG VỤ

1.1.1. Khái niệm cơng chức, chức năng nhiệm vụ của đội ngũ công
chức ở cơ sở
Khoản 2, Điều 4 Luật cán bộ, công chức năm 2008 quy định công chức
là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức
danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị
- xã hội ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân

đội nhân dân mà không phải là sĩ quan quân nhân chuyên nghiệp, công nhân
quốc phịng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Cơng an nhân dân mà không phải là
sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn
vị sự nghiệp công lập, trong biên chế, hưởng lương từ ngân sách nhà nước;
đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp cơng
lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo
quy định của pháp luật.
Như vậy công chức được xác định trên cơ sở tuyển dụng, bổ nhiệm vào
ngạch, chức vụ, chức danh. Những người đủ các tiêu chí chung của cán bộ,
cơng chức mà được tuyển vào làm việc trong các cơ quan, đơn vị của Đảng,
Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự
nghiệp công lập thông qua quy chế tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ,
chức danh thì được xác định là công chức.
Qua những nội dung trên, chúng ta có thể thấy một số đặc điểm của
cơng chức dưới các góc độ sau:
a) Chế độ tuyển dụng, bổ nhiệm: Công chức phải là những người được
tuyển dụng hoặc bổ nhiệm vào ngạch, chức danh, chức vụ trong các cơ quan,
tổ chức, đơn vị thuộc cấp Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện.


14
Ví dụ: Phó chánh án tịa án nhân dân tối cao; chánh án, phó chánh án
các tịa và chun trách (Khoản 1 Điều 7 Nghị định 06/2010/NĐ-CP quy định
những người là cơng chức).
Cơng chức phải có đủ trình độ chun môn phù hợp với ngạch, chức
danh, chức vụ. Các vấn đề liên quan tới bổ nhiệm, tuyển dụng công chức vào
các chức danh, chức vụ và bổ nhiệm vào các ngạch công chức quy định cụ thể
ở chương IV, Luật Cán bộ công chức 2008. Đồng thời các vấn đề này còn phụ
thuộc vào quy định dành riêng đối với các chức danh, chức vụ khác nhau;
cùng một chức danh, chức vụ nhưng thuộc các tổ chức, cơ quan, đơn vị khác

nhau; cùng một chức danh, chức vụ thuộc cùng một loại tổ chức, cơ quan,
đơn vị nhưng ở các cấp khác nhau.
Ví dụ: Tiêu chuẩn đối với cơng chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã: trung
cấp Luật trở lên, phải sử dụng được kỹ thuật tin học trong công tác chuyên
môn, sau khi được tuyển dụng, phải qua bồi dưỡng quản lý hành chính Nhà
nước, lớp bồi dưỡng nghiệp vụ tư pháp cấp xã. Cịn đối với cơng chức Tài
chính - Kế tốn cấp xã: trung cấp Tài chính Kế tốn trở lên, phải sử dụng
được kỹ thuật tin học trong công tác chuyên môn; sau khi tuyển, phải qua bồi
dưỡng quản lý hành chính Nhà nước.
b) Phạm vi hoạt động: Phạm vi hoạt động của công chức rộng hơn rất
nhều so với cán bộ. Nếu như cán bộ là những người chỉ hoạt động trong các
cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội thì cơng chức hoạt
động cả ở cơ quan đơn vị thuộc quân đội nhân dân, Công an nhân dân; trong
bộ máy lãnh đạo quản lý của đơn vị sự nghiệp cơng lập.
Ví dụ: Điều 10 Nghị định 06/2010/NĐ-CP quy đinh đối tượng là công chức
trong cơ quan, đơn vị của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân: “Người làm
việc trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan,
quân nhân chuyên nghiệp, cơng nhân quốc phịng; trong cơ quan, đơn vị thuộc
Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp.”


15
c) Thời gian công tác: Công chức đảm nhiệm công tác từ khi được bổ
nhiệm, tuyển dụng, cho tới khi nghỉ hưu theo quy định của Luật lao động mà
không hoạt động theo nhiệm kỳ như cán bộ (Điều 60 Luật cán bộ công chức
2008). Chấm dứt đảm nhiệm chức vụ khi đến tuổi nghỉ hưu: 55 tuổi đối với
nữ giới và 60 tuổi đối với nam giới (quy định tại điểm a khoản 1 Điều 50 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006).
d) Chế độ lao động: Công chức được biên chế và hưởng lương từ ngân
sách nhà nước (Điều 12 Luật cán bộ công chức 2008); đối với công chức trong
bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp cơng lập thì lương được bảo đảm

từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.
1.1.1.1. Quan niệm về chính quyền cơ sở
Theo Hiến pháp và Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban Nhân
dân, chính quyền địa phương được tổ chức thành ba cấp:
Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Thành phố, quận, huyện, thị xã thuộc tỉnh.
Xã, phường, thị trấn.
Như vậy chính quyền địa phương hiểu theo nghĩa chung nhất là một
thiết chế quyền lực Nhà nước được xây dựng trên một phạm vi lãnh thổ nhất
định của Quốc gia. Bộ máy tổ chức chính quyền địa phương được thiết lập
nhằm thực hiện quyền lực Nhà nước ở địa phương, thực hiện chức năng cai
quản (cai trị) của Nhà nước ở một vùng lãnh thổ nhất định.
Như vậy, chúng ta có thể nêu lên hai khía cạnh chức năng của chính
quyền địa phương. Khía cạnh thứ nhất: chính quyền địa phương là cơ quan
đại diện cho Nhà nước Trung ương ở địa phương. Thiết lập bộ máy chính
quyền địa phương xuất phát từ nhu cầu thực tế thể hiện ở chỗ, các cơ quan
Nhà nước ở Trung ương khơng thể trực tiếp quản lý trọn vẹn và tồn bộ cơng
việc của Nhà nước trên phạm vi tồn lãnh thổ. Do đó, cần có đại diện của Nhà
nước trên vùng lãnh thổ đó, thực hiện các cơng việc của Nhà nước. Mỗi vùng


16
lãnh thổ lại có những đặc điểm riêng biệt về điều kiện tự nhiên, xã hội, địa lý,
phong tục, tập quán. Nhà nước Trung ương không thể bao quát hết và thỏa
mãn được đầy đủ các nhu cầu của nhân dân địa phương cũng như thực hiện
các chức năng quản lý của Nhà nước. Cần có một tổ chức bộ máy chính
quyền địa phương để giải quyết những nhiệm vụ này.
Khía cạnh thứ hai: chính quyền địa phương là người thay mặt cho nhân
dân địa phương giải quyết các vấn đề của địa phương mang tính chất tự quản,
kết hợp hài hịa giữa lợi ích của Nhà nước và của địa phương.

Mặt khác, khi nói đến chính quyền địa phương, có thể hiểu theo hai
nghĩa, nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Hiểu theo nghĩa rộng, chính quyền địa
phương bao gồm các cơ quan Nhà nước hoạt động ở địa phương. Hiểu theo
nghĩa hẹp, chính quyền địa phương chỉ bao gồm hai thiết chế là Hội đồng
nhân dân và Ủy ban nhân dân.
Theo phân cấp hành chính, nếu kể cả cấp Trung ương, thì cấp xã là cấp
cuối cùng trong hệ thống chính quyền bốn cấp. Cấp xã, phường, thị trấn được
xác định là cấp cơ sở. Do đó, chính quyền cơ sở là chính quyền cấp xã,
phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã).
Trong hệ thống chính quyền bốn cấp, chính quyền cấp xã có vị trí, vai
trị vơ cùng quan trọng, là một trong những yếu tố quyết định sự thành cơng
của sự nghiệp cách mạng nước ta.
Vị trí, vai trị đặc biệt quan trọng của hệ thống chính quyền cấp cơ sở
được thể hiện ở những điểm chủ yếu sau:
Một là, chính quyền cơ sở là nơi tiếp xúc, giao lưu trực tiếp giữa Nhà
nước và Nhân dân. Là cấp cuối cùng trong hệ thống chính quyền 4 cấp, là tế
bào hạt nhân từ đó kiến tạo nên mạng lưới tổ chức nhà nước. Chính quyền cơ
sở là nơi triển khai đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước được thực
hiện trong đời sống thực tế. Chính quyền cơ sở là nơi quyền lực nhà nước
được thể hiện rõ nét qua hoạt động của nó. Thơng qua sự quản lý điều hành


17
của chính quyền cơ sở mà quyền lực nhà nước tác động đến các quan hệ xã
hội, trở thành hành động thực tế cho mỗi tổ chức, mỗi công dân.
Hai là, chính quyền cơ sở là nơi trực tiếp giải quyết các yêu cầu của
nhân dân. Là nơi trực tiếp đầu tiên đưa ra các giải pháp cần thiết theo thẩm
quyền để giải quyết những yêu cầu chính đáng của người dân, tạo điều kiện
cho người dân sống trong an tồn, hạnh phúc, thực hiện có hiệu quả các
quyền và nghĩa vụ cơng dân của mình.

Ba là, chính quyền cơ sở là nơi trực tiếp điều hành, quản lý các hoạt
động kinh tế - xã hội của địa phương. Trong lĩnh vực quản lý hành chính Nhà
nước, sự quản lý có hiệu quả của chính quyền cơ sở có vai trò rất quan trọng
trong việc cung cấp các dịch vụ công phục vụ nhân dân và phục vụ cho hoạt
động của bộ máy Nhà nước. Đồng thời, chính quyền cơ sở cũng có thể cung
cấp cho các cơ quan nhà nước cấp trên những căn cứ thực tế để hoạch định
các chính sách phát triển kinh tế - xã hội đáp ứng được những nhu cầu của
cuộc sống xã hội.
Như phần trên đã chỉ ra, chính quyền cơ sở có 3 loại hình: xã, phường,
thị trấn. Ba loại hình chính quyền cơ sở này có vị trí, vai trị theo địa vị pháp
lý giống nhau, nhưng trong hoạt động thực tế lại khác nhau.
Chính quyền xã, thị trấn đóng vai trò quyết định trong việc phát triển
kinh tế - xã hội trên địa bàn của mình (chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp). Nhiệm vụ quan trọng nhất của chính quyền xã, thị trấn là
chăm lo phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất, văn hóa của nhân dân
địa phương. Chính quyền xã thị trấn là người quản lý trực tiếp các tư liệu sản
xuất và đối tượng sản xuất.
Trong khi đó, chính quyền phường chỉ quản lý trực tiếp các hộ buôn
bán nhỏ, mà số hộ này chỉ chiếm từ 5% đến 7% tổng số hộ sản xuất, kinh
doanh trên địa bàn. Việc sản xuất, kinh doanh trên địa bàn phường rất đa dạng
và phức tạp, nhưng trình độ quản lý của các cán bộ phường không đáp ứng


18
được. Hơn nữa, mọi mặt hoạt động xã hội của phường, cụ thể là các hoạt
động kinh tế - xã hội, văn hóa, giáo dục, y tế v..v.., các cơ sở hạ tầng trên địa
bàn phường đều được quản lý theo ngành dọc. Chính quyền phường chỉ làm
cơng tác tun truyền, vận động và tham gia quản lý cùng với các cơ quan
chức năng chun ngành.
Có thể lấy ví dụ về sự khác biệt về chức năng, nội dung hoạt động,

quản lý giữa chính quyền xã, thị trấn với chính quyền phường trong hai lĩnh
vực công tác: thuế và giữ gìn trật tự, an tồn xã hội.
Cơng tác thuế ở phường khơng thuộc quyền quản lý của chính quyền
phường mà do chi cục thuế đảm nhiệm, trong khi mọi công việc về thuế ở xã,
thị trấn lại do chính quyền xã, thị trấn đảm nhiệm.
Cơng tác giữ gìn trật tự an toàn xã hội trên địa bàn phường do đồn cơng
an đóng ở phường chịu trách nhiệm chứ khơng thuộc quyền quản lý của chính
quyền phường. Trong khi đó mọi vấn đề liên quan đến trật tự an toàn xã hội
đều do chính quyền xã, thị trấn giải quyết.
Hoạt động chủ yếu của chính quyền phường là tuyên truyền, vận
động nhân dân trên địa bàn phường quản lý thực hiện tốt các chủ trương,
chính sách của Nhà nước. Chính quyền phường cũng có nhiệm vụ tham
gia chỉ đạo các phong trào xã hội diễn ra trên địa bàn phường với tư cách
là người cấp kinh phí, cộng quản và làm một số việc hành chính do cấp
trên giao như: thống kê, theo dõi sự biến động của các hộ kinh doanh, sản
xuất; biến động về đất đai, thống kê danh sách những đối tượng trong diện
nghĩa vụ quân sự, các gia đình chính sách, xác nhận hồ sơ thuộc thẩm
quyền quản lý v.v..
Có thể nói vai trị của chính quyền phường trong phát triển kinh tế - xã
hội, trong quản lý Nhà nước trong mọi lĩnh vực trên địa bàn khơng được rõ
nét như chính quyền xã, thị trấn.


19
Từ những sự khác biệt trên thực tế hoạt động giữa chính quyền xã, thị
trấn với chính quyền phường đã nêu ở trên, chúng ta có thể xác định vai trị cụ
thể của hai loại hình chính quyền cơ sở đó như sau:
- Chính quyền xã và thị trấn đóng vai trò quyết định trong việc phát
triển kinh tế - xã hội nâng cao đời sống của nhân dân về mọi mặt vật chất lẫn
tinh thần; có vai trị quan trọng trong hoạt động quản lý nhà nước trên tất cả

các lĩnh vực đời sống xã hội trên địa bàn.
- Chính quyền phường đóng vai trị quan trọng trong việc chỉ đạo các
phong trào văn hóa xã hội, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ cấp trên giao phó.
1.1.1.2. Quan niệm về công chức cơ sở, nhiệm vụ chức năng của đội
ngũ công chức ở cơ sở
+ Đặc điểm đội ngũ công chức cơ sở.
Đội ngũ công chức cơ sở, theo Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy
ban Nhân dân bao gồm: cán bộ chủ chốt (Bí thư đảng ủy, phó bí thư đảng ủy;
chủ tịch, phó chủ tịch Ủy ban nhân dân, chủ tịch Hội đồng nhân dân, chủ tịch
các đồn thể chính trị, cán bộ chun mơn (tài chính, địa chính, văn phịng,
thống kê, tư pháp, công an…). Bên cạnh đội ngũ công chức cơ sở (cấp xã,
phường, thị trấn) nói trên, đội ngũ cán bộ thơn, làng, bản, ấp… cũng là lực
lượng đơng đảo đóng góp một phần quan trọng đối với q trình hoạt động,
đến chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy, của đội ngũ cơng chức chính
quyền cấp cơ sở.
Đặc điểm cơ bản của đội ngũ công chức cơ sở là đội ngũ những người
làm việc trong bộ máy chính quyền cấp cơ sở, một cấp chính quyền gần dân
nhất, trực tiếp có quan hệ với nhân dân trên địa bàn, phạm vị công tác quản lý
rộng, bao quát nhiều lĩnh vực hoạt động xã hội như hành chính, kinh tế, an
ninh, văn hóa xã hội v.v.. của địa phương.
Một đặc điểm có thể được coi là khác biệt với đội ngũ công chức cấp
huyện và cấp tỉnh là ở chỗ, hình thức đào tạo cơng chức cấp xã thường khơng
được chính quy bằng cơng chức cấp huyện và cấp tỉnh. Tính khơng chính quy


20
thể hiện ở chương trình đào tạo thường được thực hiện dưới hình thức tập
huấn theo một chủ đề nhất định nào đó tùy theo từng địa phương, khơng có sự
thống nhất chung cho tất cả những đối tượng là công chức cấp xã, thời gian
đào tạo thường ngắn hạn.

Giờ làm việc của cơng chức cấp xã có thể nói là 24/24 theo kiểu “ăn
cơm nhà, vác tù và hàng tổng”, vì “tình làng nghĩa xóm”, khi người dân cần
đến thì cơng chức cấp xã có thể sẵn sàng phục vụ đáp ứng không kể giờ giấc
Một điểm hạn chế chung của đội ngũ cơng chức cơ sở đó là phần lớn
đội ngũ này được hình thành bằng con đường do dân địa phương bầu cử, do
tính bản vị, cục bộ nên những người ở địa phương khác khó có thể được
bầu, hoặc khó có thể chấp nhận chuyển đến. Mặt khác các dịng họ lớn, có
uy tín ở địa phương cũng tác động đến việc hình thành đội ngũ cán bộ công
chức cơ sở.
+Nguồn cung cấp đội ngũ công chức cơ sở.
Thực tế cho thấy nguồn cung cấp đội ngũ công chức cơ sở hiện nay chủ
yếu là bộ đội đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự, trở về địa phương (chiếm
khoảng 45%), cán bộ nhà nước nghỉ hưu (chiếm khoảng 7,06%), số còn lại
được chọn lọc từ phong trào địa phương.
Điều này được thể hiện cụ thể qua con số học viên được đào tạo, bồi
dưỡng tại các Trường Chính trị tỉnh. Từ đó chúng ta có thể thấy, nguồn cán bộ
cơ sở chủ yếu là từ số thanh niên đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự.
Đội ngũ cơng chức được hình thành từ nguồn này có ưu thế là được rèn
luyện trong môi trường quân đội nên có bản lĩnh chính trị vững vàng, lối sống
trong sạch giản dị, quan tâm đến sự nghiệp chung.
Tuy nhiên, đội ngũ cơng chức từ nguồn này cũng có những hạn chế
nhất định về trình độ lý luận chính trị, trình độ văn hóa và trình đơ chun
mơn, nghiệp vụ.


21
+ Nhiệm vụ chức năng của đội ngũ công chức cơ sở: Từ những vai trò,
chức năng, nhiệm vụ cụ thể của hai loại hình chính quyền, chúng ta sẽ xác
định được những yêu cầu, tiêu chuẩn cụ thể khác nhau về trình độ, năng lực,
trách nhiệm cơng vụ khác nhau của cơng chức trong từng loại hình chính

quyền cụ thể khác nhau đó.
Tất nhiên, cơng chức dù ở loại hình, cấp độ chính quyền nào đi nữa
cũng phải có những tiêu chuẩn chung về phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo
đức, ý thức trach nhiệm công vụ, năng lực công tác v.v.. Nhưng chúng ta cũng
cần phải nhận thức được sự khác nhau cơ bản về chức năng, nhiệm vụ của
cơng chức hai loại hình chính quyền khác nhau nêu trên.
Cơng chức trong bộ máy chính quyền xã, thị trấn có chức năng, nhiệm
vụ giải quyết các cơng việc thuộc về lĩnh vực xây dựng quy hoạch phát triển
kinh tế - xã hội, khai thác và sử dụng đất đai, khai thác đưa vào hoạt động
những tiềm năng của địa phương trong mọi lĩnh vực, xây dựng và quản lý các
dự án trên địa bàn, tiếp thu các tiến bộ kỹ thuật, vận dụng vào công cuộc phát
triển kinh tế - xã hội trên địa bàn.
Trong khi đó cơng chức trong bộ máy chính quyền phường lại có
nhiệm vụ, chức năng chủ yếu là hiểu, nắm vững và thực thi pháp luật, các văn
bản pháp quy trong quản lý đô thị.
Từ những khác nhau về chức năng nhiệm vụ của hai loại hình cơng
chức cơ sở nói trên, chúng ta sẽ phân tích được một cách cụ thể, rõ ràng hơn
về ý thức trách nhiệm công vụ của từng loại hình cơng chức cơ sở và những
biện pháp thích hợp để nâng cao ý thức trách nhiệm công vụ cho từng loại
hình cơng chức cơ sở đó.
1.1.2. Ý thức trách nhiệm công vụ của đội ngũ công chức ở cơ sở
1.1.2.1. Ý thức trách nhiệm
Để hiểu ý thức trách nhiệm là gì, trước hết cần tìm hiểu các khái niệm
có liên quan như ý thức, nhận thức và trách nhiệm.


22
Dựa trên những thành tựu khoa học và đặc biệt là sinh lý học thần kinh,
chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng ý thức là một thuộc tính của vật chất,
nhưng không phải của mọi dạng vật chất mà chỉ là thuộc tính của một dạng

vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc con người. Ý thức ra đời không chỉ dựa
trên nguồn gốc tự nhiên mà cả nguồn gốc xã hội của nó. Xét về bản chất của ý
thức, V.I. Lênin khẳng định ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách
quan. Ý thức chỉ là đặc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ
óc người. Hay nói đúng hơn ý thức “chẳng qua chỉ là vật chất được đem
chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi ở trong đó” [54, tr.35].
Thơng qua lao động và giao tiếp, thông qua các quan hệ xã hội mà ý thức của
con người được hình thành và phát triển.
Trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, chúng ta phải thừa nhận
chúng đều là hiện thực, tức là đều tồn tại. Nhưng không thể đồng nhất chúng
với nhau vì ý thức là sự phản ánh, là cái phản ánh; cịn vật chất là cái được
phản ánh. Đó là sự khác biệt cơ bản giữa ý thức và vật chất.
Nhận thức cũng là quá trình thuộc ý thức của con người, là quá trình
chuyển sự tồn tại hiện thực của sự vật thành tồn tại tinh thần của sự vật,
chuyển sự vật bên ngoài được tiếp nhận cảm tính thành hình tượng nội tại bên
trong chủ thể, thành năng lực hoạt động của con người nhờ vào các kết cấu
vật chất - bộ não và ngôn ngữ để chuyển tải những nội dung đó. Nhận thức là
hình thức hoạt động của con người xã hội, trong đó diễn ra q trình chuyển
hóa vật thể thiên nhiên thành đối tượng hoạt động của con người, thành đối
tượng lao động, và sau đó thành sản phẩm lao động. Nhận thức cũng chính là
q trình phản ánh của ý thức con người sau khi đã thâm nhập vào thế giới
khách quan ở những mức độ của trình độ phản ánh khác nhau từ thấp đến cao,
từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ kém hồn thiện đến hồn
thiện hơn. Q trình nhận thức trải qua hai nấc thang quan trọng đó là nhận
thức cảm tính với các hình thức của nó như: cảm giác, tri giác, biểu tượng và


23
nhận thức lý tính với các hình thức của nó như: khái niệm, phán đoán, suy lý.
Đương nhiên, giữa chúng có những chức năng khác nhau. Nhận thức cảm tính

là cơ sở cho nhận thức lý tính, cịn nhận thức lý tính, nhờ có tính khái qt
cao, lại có thể hiểu biết được bản chất, quy luật vận động và phát triển sinh
động của sự vật sẽ giúp cho nhận thức cảm tính có sự định hướng đúng đắn và
trở nên sâu sắc hơn. Tuy nhiên, nhận thức luôn phải gắn với thực tiễn và sử
dụng thực tiễn như là tiêu chuẩn để khẳng định tính đúng đắn đối với những
kết quả mà nhận thức đem lại.
Thông thường, trong quá trình nhận thức thế giới khách quan con người
cũng thực hiện đồng thời quá trình tự nhận thức bản thân, tự nhận biết mình,
tự tách mình, tự phân biệt mình với thế giới đó. Tự nhận thức bản thân mình
là quá trình tự ý thức. Tự ý thức cũng là ý thức, nhưng là ý thức hướng về
nhận thức bản thân mình thơng qua quan hệ với thế giới bên ngồi. Ngược lại,
thơng qua phản ánh thế giới bên ngồi, con người tự ý thức về mình như một
cá nhân đang tồn tại, đang hoạt động, có tư duy, có hành vi đạo đức và có vị
trí trong xã hội. Mối quan hệ qua lại đó là cơ chế của quá trình hình thành và
phát triển nhân cách cá nhân mà ý thức trách nhiệm là một phần quan trọng
trong q trình đó.
Thuật ngữ trách nhiệm bắt nguồn từ động từ tiếng La tinh: Respondere
(đáp lại).
Theo từ điển Wiktionary, trách nhiệm có nghĩa là điều phải làm, phải
gánh vác hoặc phải nhận lấy về mình.
Về nội hàm của khái niệm này, ở Việt Nam cịn có nhiều cách hiểu
khác nhau. Chẳng hạn, theo Từ điển tiếng Việt, “trách nhiệm là điều phải làm,
phải gánh vác, hoặc phải nhận lấy về mình” [99, tr.1678]. Theo Từ điển tiếng
Việt của Viện Ngơn ngữ học, trách nhiệm được hiểu là sự ràng buộc đối với
lời nói, hành vi của mình, bảo đảm đúng đắn nếu sai trái thì phải chịu phần
hậu quả.


24
Trách nhiệm được hiểu là bổn phận phải thực hiện, nó cịn là điều khơng

được làm, được làm, phải làm và nên làm, nó sẽ rất khác nếu chỉ hiểu trách nhiệm
trong “giới hạn” là trách nhiệm pháp lý, chịu trách nhiệm. Trách nhiệm là những
gì mà họ buộc phải làm và phải chịu sự giám sát của người khác. Phân tích về tự
do và trách nhiệm trong hoạt động của con người, tác giả Nguyễn Văn Phúc hiểu,
trách nhiệm thường được hiểu là khả năng của con người ý thức được những kết
quả hoạt động của mình, đồng thời là khả năng thực hiện một cách tự giác những
nghĩa vụ được đặt ra cho mình ... nó bị quy định bởi những nhu cầu phát triển của
đời sống con người. Trách nhiệm được hình thành trong quá trình điều chỉnh lợi
ích giữa người và người.
Từ điển bách khoa Việt Nam cho rằng trách nhiệm là khái niệm của ý
thức đạo đức và ý thức pháp quyền nói lên một đặc trưng của nhân cách trong
việc thực hiện nghĩa vụ do xã hội đề ra. Nếu nghĩa vụ đặt ra cho con người vấn
đề nhận thức và thực hiện những yêu cầu của xã hội, thì vấn đề trách nhiệm là ở
chỗ con người hoàn thành và hoàn thành đến mức nào hoặc khơng hồn thành
những u cầu ấy. Trách nhiệm là sự tương xứng giữa hoạt động với nghĩa vụ, là
hệ quả của tự do ý chí của con người, là đặc trưng cho hoạt động có ý thức của
con người. Con người ngày càng nhận thức được quy luật khách quan của tự
nhiên, xã hội khi năng lực chi phối tự nhiên, xã hội của con người lớn lên thì
trách nhiệm của con người đối với hành vi của mình cũng lớn lên. Về mặt pháp
lý, việc xem xét trách nhiệm cá nhân phải xuất phát từ sự thống nhất giữa quyền
và nghĩa vụ: quyền càng rộng thì trách nhiệm càng lớn [49, tr.513].
Nhìn chung, có nhiều cách để người ta đưa ra một định nghĩa hay một
khái niệm về “trách nhiệm” và mỗi quan điểm đều có một cách tiếp cận riêng
và cũng có những điểm hợp lý riêng. Song tựu chung lại, trách nhiệm bao giờ
cũng phải gắn liền với một con người cá nhân cụ thể, bị quy định bởi những
nhu cầu phát triển cá nhân, hay những lợi ích thiết thân gắn với cá nhân đó
cũng như những mối quan hệ xung quanh địi hỏi cá nhân đó phải có sự nhận


25

thức hoặc đáp trả trở lại. Đó gọi là trách nhiệm. Như vậy có nghĩa là một khi
cá nhân nhận thức đúng đắn đối với những sự vật, sự việc, những mối quan
hệ,... thì cá nhân đó mới có thể thực hiện những hành vi đúng đắn, mang tính
tích cực, đem đến kết quả tốt đẹp cho sự phát triển chung của tồn xã hội. Cịn
ngược lại thì cá nhân đó phải tự chịu trách nhiệm trước những hậu quả do
chính mình gây ra.Từ những phân tích trên, chúng tơi hiểu trách nhiệm là sự
thực hiện bổn phận, nghĩa vụ của chủ thể đối với người khác, với xã hội một cách
tự giác. Trách nhiệm đối lập với vô trách nhiệm, gắn liền với chịu trách nhiệm.
Ý thức trách nhiệm, được thể hiện trong mối quan hệ với nhiệm vụ
được giao, với công việc phải làm. Khi được giao việc gì, bất kỳ to, hay nhỏ,
khó hay dễ, đều phải dồn hết tâm huyết làm đến nơi, đến chốn, tự giác làm.
Nếu làm việc theo lối cẩu thả, dễ làm, khó bỏ, làm cho qua chuyện, gặp sao
làm vậy… là khơng có tinh thần, ý thức trách nhiệm.
Ý thức trách nhiệm chính là mỗi người phải tự giác hiểu rõ trách nhiệm
của mình đối với cơng việc được giao, nghĩa vụ phải làm trịn theo cương vị,
chức trách của mình. Con người có bao nhiêu vị trí, vai trị, chức năng trong
mối quan hệ xã hội thì có bấy nhiêu trách nhiệm. Cấp bậc càng cao thì trách
nhiệm càng lớn.
Như vậy, theo nghĩa rộng, ý thức trách nhiệm là việc tự giác thực hiện
những nghĩa vụ của cá nhân trong quá trình điều chỉnh các mối quan hệ xung
quanh cá nhân nhằm hướng đến mục tiêu chung là vì sự phát triển của bản
thân cá nhân và cộng đồng xã hội. Theo nghĩa hẹp, ý thức trách nhiệm là khái
niệm đạo đức học và luật học, nói đến một đặc trưng của nhân cách cá nhân
trong việc thực hiện nghĩa vụ của cá nhân đó đối với bản thân, gia đình và
tồn xã hội.
1.1.2.2. Ý thức trách nhiệm cơng vụ
Trước khi bàn về ý thức trách nhiệm công vụ chúng ta cần làm rõ khái
niệm công vụ.



×