Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

Mối quan hệ giữa viện kiểm sát nhân dân và cơ quan điều tra trong tố tụng hình sự trên địa bàn quận hà đông, thành phố hà nội”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (388.14 KB, 92 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đấu tranh phịng, chống tội phạm được Đảng, Nhà nước Việt Nam
xác định là cuộc đấu tranh có ý nghĩa chính trị - xã hội sâu sắc, là một bộ
phận cấu thành quan trọng của toàn bộ sự nghiệp đấu tranh cách mạng của
Đảng và nhân dân ta hiện nay. Theo qui định của pháp luật tố tụng hình sự,
Viện kiểm sát nhân dân (VKSND), Cơ quan điều tra (CQĐT) và Tòa án nhân
dân là các cơ quan tiến hành tố tụng, có chức năng, nhiệm vụ khác nhau.
CQĐT có chức năng, nhiệm vụ tiến hành các hoạt động theo qui định của Bộ
luật tố tụng hình sự (BLTTHS) để phát hiện tội phạm và người phạm tội, tiến
hành các hoạt động điều tra, lập hồ sơ đề nghị truy tố. VKSND là cơ quan có
chức năng thực hành quyền cơng tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố
tụng hình sự (TTHS). Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của mình, VKSND và
CQĐT vừa chế ước lẫn nhau, vừa có trách nhiệm phối hợp với nhau để thực
hiện đúng, đầy đủ và có hiệu quả nhiệm vụ mà Điều 1 Bộ luật hình sự
(BLHS), BLTTHS đã qui định là mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện
nhanh chóng, kịp thời, đầy đủ, xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,
bảo đảm và tơn trọng quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, không làm oan
người vô tội, không để lọt tội phạm.
Ngày 8/5/2009, Chính phủ ra Nghị quyết số 19/NQ-CP về việc thành
lập quận Hà Đông, kể từ đây, Hà Đơng chính thức là một quận của thành phố
Hà Nội. Trong những năm qua, tội phạm trên địa bàn quận có diễn biến phức
tạp, số lượng khơng giảm, thủ đoạn phạm tội tinh vi, xảo quyệt, hậu quả của
tội phạm là rất lớn, đặc biệt nghiêm trọng. Trước tình hình này, CQĐT và
VKSND quận Hà Đơng đã có sự nỗ lực trong phát hiện, điều tra, truy tố các
vụ án và đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận, góp phần khơng nhỏ vào
việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội trên địa bàn quận và
thành phố Hà Nội. Nguyên nhân của những kết quả đạt được là giữa hai cơ



2
quan ln duy trì mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong đấu tranh chống tội
phạm. Mối quan hệ này được thể hiện trên từng giai đoạn, trong từng nội
dung của tiến trình TTHS. Tuy nhiên do những nguyên nhân khách quan và
chủ quan, mối quan hệ giữa VKSND và CQĐT quận Hà Đơng vẫn cịn bộc
lộ những tồn tại, hạn chế nhất định và gặp khơng ít những khó khăn, vướng
mắc. Từ góc độ lý luận và thực tiễn, mối quan hệ giữa VKSND và CQĐT
trong TTHS cho thấy: chưa có nhận thức thống nhất, đầy đủ về bản chất,
đặc trưng, nội dung, hình thức và chưa được trang bị một bức tranh toàn
cảnh về thực trạng, về những kết quả đạt được và những hạn chế cũng như
nguyên nhân của chúng trong mối quan hệ này nhằm khắc phục những yếu
kém để đưa ra những giải pháp hữu hiệu nhằm tăng cường mối quan hệ
giữa hai cơ quan trong TTHS. Đâu đó vẫn cịn hiện tượng” quyền anh,
quyền tôi”, tùy tiện, lấn sân nhau nên dẫn đến hiệu quả của cuộc đấu tranh
phòng chống tội phạm chưa đạt được như yêu cầu, vẫn còn hiện tượng bỏ
lọt tội phạm, người phạm tội...
Trước những địi hỏi của tình hình thực tiễn và yêu cầu phát triển lý
luận về mối quan hệ giữa VKSND và CQĐT trong TTHS trên một địa bàn cụ
thể, tác giả đã chọn đề tài “Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân và Cơ
quan điều tra trong tố tụng hình sự trên địa bàn quận Hà Đông, thành phố
Hà Nội” làm luận văn thạc sĩ của mình. Việc nghiên cứu đề tài vừa có ý
nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn nhằm giải quyết một số vấn đề lý luận
và thực tiễn đặt ra, góp phần nâng cao hiệu quả của mối quan hệ giữa
VKSND và CQĐT trong tố tụng hình sự ở quận Hà Đơng, thành phố Hà Nội.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và CQĐT trong tố tụng hình sự được
nghiên cứu dưới nhiều góc độ khoa học pháp lí nhưng chủ yếu là Khoa học
Luật TTHS, Tội phạm học. Các cơng trình nghiên cứu về lĩnh vực này đã
được cơng bố, có thể kể đến như:



3
- Học viện CSND, Giáo trình Luật TTHS Việt Nam, Hà Nội năm 2005,
tái bản năm 2012;
- Viện Khoa học Kiểm sát Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Sổ tay Kiểm
sát viên hình sự của, Hà nội, 2006;
- Học viện Tư pháp, Kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 2006;
- Đỗ Ngọc Quang, “Mối quan hệ giữa CQĐT với các cơ quan tham gia
TTHS”, Hà Nội, 1996;
- Nguyễn Tiến Sơn, “Mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện Kiểm
sát trong tố tụng hình sự Việt Nam”, Luận án tiến sĩ luật học, Hà Nội, 2012.
Các bài viết, công trình nghiên cứu được đăng tải trên các tạp chí
pháp lý như:
- Lê Cảm, Viện Kiểm sát nhân dân với tư cách là thiết chế kiểm soát
quyền lực Nhà nước - Tạp chí Kiểm sát, tháng 3/2012;
- Nguyễn Văn Chiến: "Áp dụng căn cứ khơng khởi tố vụ án hình sự và
phạm vi áp dụng quyết định không khởi tố vụ án hình sự", Tạp chí Kiểm sát,
tháng 12/2002;
- Nguyễn Văn Nhật: "Khám nghiệm hiện trường trong hoạt động điều
tra hình sự", Tạp chí Kiểm sát, tháng 4/2005;
- Phạm Hồng Hải: Đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ
quan thực hiện chức năng thực hành quyền công tố đáp ứng yêu cầu cải cách
tư pháp Tạp chí Kiểm sát, tháng 7/2006;
- Đỗ Văn Đương: Cơ quan thực hành quyền công tố trong cải cách tư
pháp ở nước ta hiện nay,Tạp chí Kiểm sát, tháng 7/ 2006;
- Lê Hữu Thể (Chủ biên): Thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2005;
- Đỗ Thị Ngọc Tuyết, Về đặc điểm mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra
và Viện kiểm sát nhân dân trong giải quyết các vụ án xâm phạm tính mạng,

sức khỏe con người ở Việt Nam, Tạp chí Nghề luật, số 3/2010;


4
- Nâng cao chất lượng, hiệu lực và hiệu quả bản yêu cầu điều tra của
Kiểm sát viên";Tạp chí Kiểm sát số Chuyên đề 8/2011;
- Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với
điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp, Tạp chí Kiểm sát số Chun đề 8/2012...
Tổng quan các cơng trình nghiên cứu đã được đăng tải nêu trên cho
thấy có rất ít cơng trình nghiên cứu, bài viết bàn trực tiếp về mối quan hệ giữa
CQĐT và VKSND trong tố tụng hình sự và nếu có thì cũng nghiên cứu ở
phạm vi rộng như cơng trình của tác giả Đỗ Ngọc Quang, tác giả Nguyễn Tiến
Sơn hoặc trong một phạm vi quá hẹp như bài viết của tác giả Đỗ Thị Ngọc
Tuyết và các tác giả chủ yếu tiếp cận vấn đề nghiên cứu dưới góc độ của Khoa
học luật tố tụng hình sự, Tội phạm học. Như vậy, cho đến nay, chưa có cơng
trình nào nghiên cứu về mối quan hệ giữa VKSND và CQĐT trong tố tụng
hình sự ở một địa bàn cấp huyện, cụ thể là quận Hà Đơng (TP Hà Nội) và
nghiên cứu dưới góc độ khoa học Lý luận về Nhà nước và Pháp luật.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Mục đích nghiên cứu của đề tài là tìm hiểu cơ sở lý luận của mối quan
hệ như qui định của pháp luật, bản chất, đặc trưng, nội dung, hình thức; làm
rõ thực trạng của mối quan hệ; tìm hiểu, phân tích những quan điểm, phương
hướng và đề xuất các giải pháp phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, vị trí
địa lý... của quận Hà Đơng nhằm tăng cường hiệu quả của mối quan hệ giữa
VKSND và CQĐT trong TTHS.
3.2. Nhiệm vụ
- Tập trung nghiên cứu những vấn đề lí luận cơ bản về mối quan hệ giữa
VKSND và CQĐT trong tố tụng hình sự;
- Khái quát, phân tích thực trạng, từ đó đưa ra những nhận xét, đánh giá

về thực trạng quan hệ giữa hai cơ quan trong tố tụng hình sự ở quận Hà Đơng
giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2013;


5
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả mối quan hệ giữa
VKSND và CQĐT trong tố tụng hình sự ở quận Hà Đơng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là mối quan hệ giữa VKSND và
CQĐT trong hoạt động phát hiện tội phạm, khởi tố, điều tra và truy tố các vụ
án hình sự ở địa bàn quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.
Phạm vi nghiên cứu của Luận văn là mối quan hệ giữa VKSND và
CQĐT trong TTHS, cụ thể là mối quan hệ ở giai đoạn từ khi tội phạm xảy ra
đến khi kết thúc điều tra vụ án hình sự. Phạm vi về thời gian được giới hạn từ
năm 2009 đến năm 2013 trên địa bàn quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Dựa trên cơ sở lý luận khoa học chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta trong đấu tranh phòng,
chống tội phạm.
Để thực hiện đề tài nghiên cứu, tác giả còn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu như: Phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh, hệ
thống hóa; trao đổi với các Điều tra viên (ĐTV), Kiểm sát viên (KSV) trực tiếp
tiến hành các hoạt động điều tra, truy tố.
6. Đóng góp về khoa học của luận văn
- Luận văn sẽ tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về mối
quan hệ giữa VKSND và CQĐT trong tố tụng hình sự như: khái quát tổng
quan những qui định của pháp luật (cơ sở pháp lý) về mối quan hệ này; đưa ra
và phân tích đặc trưng, bản chất, nội dung, hình thức... của mối quan hệ, từ đó
nêu ra khái niệm thế nào là mối quan hệ giữa VKSND và CQĐT trong tố tụng
hình sự;

- Luận văn sẽ luận giải và làm rõ nội dung (có những vụ án điển hình
để minh chứng) về mối quan hệ giữa hai cơ quan trong tiến trình tố tụng hình
sự ở quận Hà Đơng;


6
- Khái qt, phân tích thực trạng, từ đó đưa ra những nhận xét, đánh
giá khách quan về thực trạng mối quan hệ giữa hai cơ quan trong TTHS ở
quận Hà Đông giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2013;
- Tìm hiểu, phân tích những quan điểm, phương hướng và đề xuất các
giải pháp nhằm bảo đảm và nâng cao hiệu quả mối quan hệ giữa VKSND và
CQĐT ở quận Hà Đơng trong TTHS, từ đó góp phần quan trọng thực hiện có
hiệu quả nhiệm vụ mà BLHS, BLTTHS đã đặt ra và từng bước thực hiện yêu
cầu cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần hệ thống hố cơ sở lý luận và thực tiễn về mối quan
hệ giữa VKSND và CQĐT trong TTHS tại quận Hà Đông, thành phố Hà Nội;
- Khái quát những nội dung của mối quan hệ và làm rõ những yếu tố ảnh
hưởng, những điều kiện bảo đảm cho mối quan hệ giữa VKSND và CQĐT trong
TTHS ở quận Hà Đông trong khoảng thời gian từ năm 2009 đến năm 2013;
- Đánh giá thực trạng theo từng nội dung của mối quan hệ, phân tích
nguyên nhân của những kết quả và hạn chế trong quan hệ giữa hai cơ quan trên
cơ sở thực hiện chức năng, nhiệm vụ mà pháp luật qui định cho mỗi cơ quan,
nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của VKSND và CQĐT trong TTHS;
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tư liệu tham
khảo cho đội ngũ ĐTV, KSV phục vụ yêu cầu không ngừng nâng cao chất
lượng hoạt động của mỗi cơ quan trong TTHS, gắn công tố với hoạt động
điều tra theo yêu cầu của cải cách tư pháp.
Mặt khác, nội dung của luận văn có thể sử dụng nhằm xây dựng kỹ
năng nghề nghiệp, thao tác nghiệp vụ của Kiểm sát viên và Điều tra viên

trong giai đoạn hiện nay. Ngoài ra, Luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho
tất cả những ai quan tâm đến vấn đề này.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.


7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN VÀ CƠ QUAN ĐIỀU TRA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ PHẠM VI CỦA MỐI QUAN HỆ GIỮA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN VÀ CƠ QUAN ĐIỀU TRA TRONG TỐ TỤNG HÌNH
SỰ

1.1.1. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân và Cơ
quan điều tra trong tố tụng hình sự
Những qui định của pháp luật về vị trí, chức năng, nhiệm vụ của
VKSND và CQĐT chính là cơ sở lý luận của việc qui định nhiệm vụ, quyền
hạn của các cơ quan này trong tố tụng hình sự.
Theo các quy định của Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (Luật
TCVKSND) thì hệ thống VKSND là một hệ thống cơ quan nhà nước độc lập,
là một bộ phận hợp thành của hệ thống cơ quan nhà nước ở nước ta. Hệ thống
VKSND bao gồm: VKSNDTC, các VKSND địa phương (bao gồm VKSND
các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương), các VKSND huyện, quận, thị xã
thuộc tỉnh; các VKS quân sự. VKS hoạt động theo nguyên tắc tập trung thống
nhất lãnh đạo trong ngành. Điều 108 Hiến pháp năm 2013 qui định: “…Viện
trưởng VKSNDTC chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội,
trong thời gian Quốc hội khơng họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác
trước Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước”.

1.1.1.1. Vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân
trong tố tụng hình sự
Các cơ quan tiến hành TTHS là các cơ quan nhà nước được giao
nhiệm vụ tiến hành những hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử theo
trình tự, thủ tục do BLTTHS qui định. Ở nước ta có ba cơ quan tiến hành tố
tụng là CQĐT, VKS và Tịa án. Mỗi cơ quan có chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn riêng nhưng đều hướng tới thực hiện nhiệm vụ chung được qui định tại


8
Điều 1 BLTTHS là "...nhằm chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát
hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm
tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội” [14, tr.8]. VKSND có
chức năng nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp
được ghi nhận tại Điều 107 Hiến pháp 2013 [16, tr.57] và Điều 1 Luật
TCVKSND [15, tr.6].
Chức năng thực hành quyền công tố là hoạt động của VKSND sử
dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý theo qui định của pháp luật để truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi bị coi là tội phạm.
Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của VKSND
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các chủ thể tham gia vào các quan hệ tố
tụng nhằm bảo đảm cho vụ án được giải quyết kịp thời, đúng pháp luật.
Xuất phát từ chức năng hiến định của VKSND là thực hành quyền
công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, thơng qua hoạt động của mình
VKSND có trách nhiệm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được phát
hiện, khởi tố, điều tra và xử lí kịp thời, bảo đảm việc truy tố đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan
người vô tội, bảo đảm mọi hoạt động TTHS đối với vụ án phải tuân thủ đúng
các qui định tại Điều 23 BLTTHS. Khác với các CQĐT và Tòa án là chỉ tham
gia vào một giai đoạn nhất định của quá trình tố tụng, VKSND là cơ quan duy

nhất được tham gia vào tồn bộ q trình giải quyết đối với vụ án (từ khi khởi
tố, điều tra đến truy tố, xét xử, thi hành án).
Điều đó cho thấy, VKSND có vị trí đặc biệt quan trọng trong
TTHS.Về vai trò, trước hết thể hiện ở việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
VKSND trong tiến trình TTHS. Bằng việc thực hiện các công tác nghiệp vụ
cụ thể, VKSND góp phần quan trọng trong việc phát hiện tội phạm, xử lí kịp
thời các tin báo tố giác tội phạm, chuyển đến cơ quan có thẩm quyền giải
quyết để tiến hành xác minh, điều tra theo luật định. Ngoài ra, căn cứ vào kết


9
quả công tác thống kê tội phạm, ngành Kiểm sát tham mưu, đề xuất với Đảng,
Nhà nước về xây dựng chính sách pháp luật, về cơ chế thực hiện cũng như
việc hoạch định chiến lược đấu tranh phòng, chống tội phạm. Thơng qua hoạt
động kiểm sát điều tra, VKSND có thể tổng kết rút kinh nghiệm và kiến nghị
những vấn đề theo qui định của BLTTHS về thu thập, nghiên cứu, đánh giá và
sử dụng chứng cứ đảm bảo điều tra, truy tố đúng người, đúng pháp luật, xử lý
nghiêm minh người phạm tội và không làm oan người vô tội. Thông qua việc
kiểm sát hoạt động tư pháp, VKSND thay mặt Nhà nước giám sát các hoạt
động này nhằm bảo đảm sự tuân thủ pháp luật, phát hiện kịp thời những vi
phạm của CQĐT và ĐTV trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự để yêu
cầu xử lý kịp thời, nếu vi phạm có dấu hiệu tội phạm thì tiến hành khởi tố,
điều tra, truy tố theo đúng qui định của pháp luật.
Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của VKSND trong TTHS
Nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND được qui định tại Hiến pháp,
BLTTHS, Luật TCVKSND và các văn bản pháp luật khác. Những qui định
này tạo thành một hệ thống quyền năng pháp lý của VKSND. Theo qui định
của pháp luật hiện hành, VKSND là cơ quan duy nhất có chức năng thực hành
quyền cơng tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Chính vì vậy, chỉ có VKSND
mới có quyền sử dụng các biện pháp pháp lý được pháp luật qui định để tác

động đến các đối tượng khi thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp và VKSND phải chịu trách nhiệm trước nhà nước về các hành
vi pháp lý của mình, về việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ do pháp luật
qui định.
Theo Từ điển Tiếng Việt năm 2006 [18, tr.718] thì nhiệm vụ là cơng
việc phải làm trong một thời gian nhất định vì những mục đích đặt ra. Nói đến
nhiệm vụ là muốn đề cập đến trách nhiệm của VKSND trước nhà nước. Hoạt
động thực hiện nhiệm vụ của VKSND được thể hiện bằng thay mặt nhà nước,
sử dụng quyền lực nhà nước tác động đến đối tượng thực hiện chức năng. Vì


10
vậy, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND nói chung và nhiệm vụ, quyền hạn của
VKSND trong TTHS nói riêng là một thể thống nhất, là hai mặt của một hành
vi pháp lý, đó là hoạt động của VKS được thực hiện bằng các công tác kiểm
sát theo qui định tại Luật TCVKSND.
Về hình thức, khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, VKSND
có quyền ra quyết định, kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu và chịu trách nhiệm
trước pháp luật về các văn bản đó. Về giá trị pháp lý các quyền của VKSND,
pháp luật qui định tất cả cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân có liên quan phải
thực hiện nghiêm chỉnh các quyết định, kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu của
VKSND. Trong phạm vi chức năng của mình, VKSND có nhiệm vụ chung
được qui định tại Điều 1 BLTTHS, Điều 3 Qui chế Công tác thực hành quyền
công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình
sự ban hành kèm theo Quyết định số 07/2008/QĐ-VKSTC ngày 02/01/2008
của Viện trưởng VKSNDTC (sau đây gọi là Qui chế ngày 02/01/2008) [32,
tr.9] xác định nhiệm vụ cụ thể của VKSND trong TTHS.
Ở thời điểm trước khi khởi tố vụ án hình sự, VKS có trách nhiệm tiếp
nhận đầy đủ mọi tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị về khởi tố do cơ
quan nhà nước chuyển đến. Đồng thời, VKS có trách nhiệm chuyển ngay các

tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố kèm theo các tài liệu có liên
quan đã tiếp nhận đến CQĐT có thẩm quyền.
Trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, VKS kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong việc khởi tố vụ án hình sự, nhằm đảm bảo tính có căn cứ, tính
hợp pháp của việc khởi tố và đảm bảo mọi hành vi phạm tội bị phát hiện đều
bị khởi tố. VKS thực hành quyền công tố trong giai đoạn này thể hiện ở hoạt
động ra quyết định khởi tố vụ án trong trường hợp VKS hủy bỏ quyết định
khơng khởi tố vụ án của người có thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều
104 BLTTHS và trong trường hợp Hội đồng xét xử yêu cầu khởi tố vụ án.
VKS có quyền hủy bỏ quyết định khơng khởi tố vụ án, quyết định khởi tố vụ


11
án khơng có căn cứ của các cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án, đối với
quyết định khởi tố vụ án khơng có căn cứ của Hội đồng xét xử thì VKS có
quyền kháng nghị. Ngồi ra, VKS có trách nhiệm phê chuẩn mọi quyết định
khởi tố bị can của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, VKS thực hiện hai chức
năng là thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật của
các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố
tụng. Khi thực hiện cơng tác kiểm sát điều tra, VKS có nhiệm vụ kiểm sát
việc tuân theo pháp luật đối với tất cả các hoạt động điều tra mà CQĐT có
thẩm quyền tiến hành, kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án, kiểm sát việc tuân
theo pháp luật của người tham gia tố tụng, yêu cầu CQĐT khắc phục vi
phạm pháp luật, xử lý nghiêm minh Điều tra viên có vi phạm pháp luật
trong quá trình điều tra vụ án… Khi thực hành quyền cơng tố trong giai
đoạn này, VKS có quyền đề ra các yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT tiến
hành các hoạt động điều tra; khi thấy cần thiết trực tiếp tiến hành một số
hoạt động điều tra như hỏi cung, đối chất, thực nghiệm một số hoạt động
điều tra đơn giản tại chỗ; yêu cầu Thủ trưởng CQĐT thay đổi ĐTV theo

quy định của pháp luật, trong trường hợp hành vi của ĐTV có dấu hiệu tội
phạm thì khởi tố về hình sự; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các
biện pháp ngăn chặn; quyết định phê chuẩn, không phê chuẩn (phải nêu rõ
lý do) và hủy bỏ các quyết định trái pháp luật của CQĐT;
Trong giai đoạn truy tố, VKS có những nhiệm vụ, quyền hạn như:
quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; quyết định việc
truy tố bị can; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; quyết định trả hồ sơ để
yêu cầu điều tra bổ sung.
Bộ luật tố tụng hình sự qui định nhiệm vụ, quyền hạn của VKS
trong các giai đoạn tố tụng như: xét xử các vụ án hình sự nhằm bảo đảm
việc xét xử đúng pháp luật, nghiêm minh, kịp thời và giai đoạn thi hành án


12
hình sự nhằm bảo đảm các bản án, quyết định đó được thi hành đúng pháp
luật, đầy đủ, kịp thời.
Viện kiểm sát nhân dân khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong TTHS nhằm bảo đảm: Mọi hành vi phạm tội đều
phải được khởi tố, điều tra và xử lý kịp thời, không để lọt tội phạm và người
phạm tội, không làm oan người vô tội; Không để người nào bị khởi tố, bị bắt,
tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế các quyền công dân, bị xâm phạm tính mạng,
sức khoẻ, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm một cách trái pháp luật;Việc
điều tra phải khách quan, tồn diện, đầy đủ, chính xác, đúng pháp luật; những
vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra phải được phát hiện kịp thời; khắc
phục và xử lý nghiêm minh; Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị can
phải có căn cứ và đúng pháp luật.
Như vậy, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND là hai mặt của một hành
vi quyền lực, vừa thể hiện trách nhiệm của VKSND trước Nhà nước, vừa là
hình thức thực hiện quyền lực nhà nước để tác động đến các đối tượng nhằm
thực hiện những nhiệm vụ mà Nhà nước giao cho.

1.1.1.2. Nhiệm vụ và quyền hạn của Cơ quan điều tra
Tổ chức của CQĐT được quy định trong BLTTHS và Pháp lệnh Tổ
chức điều tra hình sự được Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày
20/8/2004 (đã được sửa đổi năm 2006 và năm 2009) [20, tr.35]. Hệ thống
CQĐT ở nước ta hiện nay được tổ chức ở ba hệ: CQĐT thuộc Bộ công an,
CQĐT thuộc Bộ Quốc phòng, CQĐT thuộc VKSNDTC và theo nguyên tắc
CQĐT thuộc ngành nào thì do ngành đó quản lý. Tuy nhiên, mỗi CQĐT lại
được tổ chức thành nhiều cấp tuỳ thuộc vào tính chất tội phạm cần phải điều tra.
Ngồi các CQĐT nêu trên cịn có các cơ quan khác được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra như Bộ đội biên phòng, Hải quan,
Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, các cơ quan khác của Quân đội nhân dân,
của lực lượng Cảnh sát trong Công an nhân dân như thuộc cấp bộ có Cục


13
Cảnh sát giao thông đường bộ - đường sắt, Cục cảnh sát giao thơng đường
thủy, Cục cảnh sát phịng cháy - chữa cháy, Cục Cảnh sát quản lý hành
chính về trật tự xã hội, Cục cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp; ở cấp tỉnh có
các Phịng tương đương. Theo quy định của pháp luật, các cơ quan này
khơng phải là CQĐT nhưng do tính chất của cơng việc, do yêu cầu của
cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm hình sự là phát hiện nhanh chóng, xử
lý kịp thời mọi hành vi phạm tội nên được tiến hành một số hoạt động điều
tra theo quy định tại các điều từ Điều 19 đến Điều 25 Pháp lệnh Tổ chức
điều tra hình sự.
Nguyên tắc hoạt động của CQĐT là những quan điểm, tư tưởng chủ
đạo được pháp luật quy định mà các cơ quan này khi tiến hành các hoạt
động điều tra tội phạm phải tuân thủ nghiêm chỉnh những quy định đó.
Theo quy định của pháp luật, chỉ CQĐT và các cơ quan khác được
giao tiến hành một số hoạt động điều tra mới được tiến hành các hoạt động
điều tra vụ án hình sự. Khi tiến hành các hoạt động điều tra, các cơ quan này

phải tôn trọng sự thật, tiến hành một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ;
phát hiện nhanh chóng, chính xác mọi hành vi phạm tội, làm sáng tỏ những
vấn đề cần chứng minh trong vụ án hình sự quy định tại Điều 63 BLTTHS.
Khi tiến hành các hoạt động điều tra phải tuân thủ nguyên tắc: CQĐT cấp
dưới chịu sự hướng dẫn và chỉ đạo nghiệp vụ của CQĐT cấp trên.
Cơ quan điều tra có chức năng điều tra trong TTHS. Nhiệm vụ chung
của các CQĐT là tiến hành điều tra tất cả các tội phạm, áp dụng mọi biện
pháp do BLTTHS quy định như khởi tố vụ án, khởi tố bị can, tiến hành các
hoạt động điều tra, áp dụng - thay đổi - hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn, ra
các quyết định tố tụng cần thiết để giải quyết vụ án, cụ thể là xác định tội
phạm và người đã thực hiện hành vi phạm tội, lập hồ sơ, đề nghị truy tố, tìm
ra nguyên nhân, điều kiện phạm tội và yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan
áp dụng các biện pháp khắc phục và phòng ngừa.


14
Ngồi ra, mỗi CQĐT có nhiệm vụ và quyền hạn riêng nhưng đều hoạt
động trong mối liên hệ mật thiết, thống nhất với nhau và cùng hướng tới thực
hiện nhiệm vụ chung nêu trên nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm tội xảy ra đều
được điều tra, để phát hiện chính xác, kịp thời, xử lý nghiêm minh, khơng để
lọt tội phạm và không làm oan người vô tội, bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích
hợp pháp của Nhà nước, của tập thể và của công dân. Để thực hiện nhiệm vụ
nêu trên, CQĐT có các quyền hạn cụ thể sau: [14, tr.87], [20, tr.8]
- Khởi tố vụ án và khởi tố bị can: Khi nhận được tin báo về tội phạm,
CQĐT phải tiến hành kiểm tra, xác minh xem có dấu hiệu của tội phạm hay
khơng để quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án. Khi có đủ căn cứ để
xác định một người đã thực hiện hành vi phạm tội thì CQĐT ra quyết định
khởi tố bị can;
- Tiến hành các hoạt động điều tra: theo qui định của pháp luật,
CQĐT được tiến hành các hoạt động điều tra như khám nghiệm hiện trường,

hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, thực nghiệm điều
tra, nhận dạng, đối chất… để phát hiện và thu thập chứng cứ nhằm làm rõ tội
phạm và hành vi của người phạm tội;
- Áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp cưỡng chế tố tụng: khi
cần thiết, CQĐT có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng gồm: các
biện pháp ngăn chặn như bắt, tạm giữ, tạm giam, biện pháp cưỡng chế tố tụng
nhằm thu thập chứng cứ như khám người, đồ vật, chỗ ở và các biện pháp đảm
bảo điều tra, truy tố xét xử, thi hành án như kê biên tài sản, áp giải, dẫn giải…
CQĐT được hoàn toàn chủ động trong việc ra các quyết định để áp dụng các
biện pháp cưỡng chế tố tụng nhưng trong một số trường hợp luật định thì khi
CQĐT áp dụng các biện pháp cưỡng chế phải có sự phê chuẩn của VKS. Qui
định này đảm bảo cho các biện pháp cưỡng chế tố tụng được áp dụng đúng
đắn, có căn cứ, tránh vi phạm pháp luật;
- Ra các quyết định tố tụng cần thiết để giải quyết vụ án. Khi kết thúc
điều tra, nếu thấy có đủ chứng cứ xác định tội phạm và người phạm tội thì


15
CQĐT làm bản kết luận điều tra và đề nghị truy tố. Trong những trường hợp
có căn cứ theo qui định của pháp luật thì CQĐT ra quyết định tạm đình chỉ
hoặc đình chỉ điều tra. Ngồi ra, CQĐT cịn được ra các quyết định khác như
quyết định phục hồi điều tra, quyết định trưng cầu giám định, quyết định truy
nã bị can…
Như vậy, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND và CQĐT trong TTHS là
hệ thống các quyền năng pháp lý, là công cụ, phương tiện để VKSND thực
hiện chức năng là thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp và
CQĐT thực hiện chức năng điều tra tội phạm nhằm thực hiện những nhiệm
vụ mà pháp luật qui định.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của mối quan hệ giữa Viện
kiểm sát nhân dân và Cơ quan điều tra trong tố tụng hình sự

Theo Từ điển tiếng Việt năm 2006, Nxb Đà Nẵng [18, tr.799] thì “mối
quan hệ nghĩa là sự gắn liền chặt chẽ, có tác động qua lại lẫn nhau về mặt nào
đó giữa hai hay nhiều sự vật với nhau”.
Phép duy vật biện chứng về mối quan hệ phổ biến đã chỉ ra rằng
mỗi sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới khách quan đều có mối liên hệ,
tác động qua lại lẫn nhau. Mối quan hệ giữa VKSND và CQĐT vừa thể
hiện mối quan hệ biện chứng, vừa thể hiện những nét riêng biệt của TTHS,
đó là mối quan hệ đa dạng, phong phú thể hiện ở tất cả các hành vi tố tụng
của những người tiến hành tố tụng của hai cơ quan trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự. Tính riêng biệt của mối quan hệ này được thể hiện ở
hai mặt của một vấn đề, đó là quan hệ phối hợp và quan hệ chế ước. Hai
mặt này vừa đan xen với nhau, bổ sung cho nhau nhưng lại không loại trừ,
hạn chế lẫn nhau và cùng có chung một mục đích là thực hiện có hiệu quả
nhiệm vụ được qui định tại Điều 1 BLTTHS.
Quan hệ phối hợp có nghĩa là hai cơ quan VKS và CQĐT cũng như
các chủ thể tiến hành tố tụng (ĐTV, KSV) tham gia vào mối quan hệ cùng


16
hoạt động trong phạm vi chức năng nhiệm vụ của mình theo qui định của
pháp luật để hỗ trợ lẫn nhau trong TTHS. Hoạt động của mỗi chủ thể là
CQĐT hay VKSND đều có tác động trực tiếp đến hoạt động chung trong
TTHS và ngược lại hoạt động chung cũng tác động đến từng chủ thể. Tính
chất, hình thức và nội dung của mối quan hệ phối hợp giữ vai trò quan trọng
quyết định hiệu quả phối hợp. Bởi vậy, trong quan hệ phối hợp cần phải xác
định rõ ràng, đúng đắn nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của mỗi bên tham
gia vào mổi quan hệ. Tội phạm nói chung và mỗi tội phạm cụ thể đều có
những đặc điểm rất riêng biệt như đặc điểm về đối tượng gây án được thể hiện
ở sự đa dạng, phức tạp về thành phần đối tượng phạm tội, động cơ mục đích
gây án; đặc điểm về thủ đoạn, cơng cụ, phương tiện phạm tội; đặc điểm về

dấu vết tại hiện trường, về người bị hại...Những đặc điểm của tội phạm có tác
động nhất định đến mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng là CQĐT
và VKSND trong việc xử lý loại tội phạm này. Thực tiễn trong thời gian qua
đã chứng minh giữa VKSND quận Hà Đông và CQĐT đã xây dựng và giữ
được mối quan hệ phối hợp tốt với nhau trong từng hoạt động của tiến trình
TTHS. Cụ thể là khi nhận được tin báo có các vụ giết người, các vụ gây
thương tích nghiêm trọng, các vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng... xảy ra,
CQĐT quận Hà Đông đều kịp thời thông báo cho VKS biết để cử KSV tham
gia kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi. Trong quá
trình thực hiện hoạt động điều tra các vụ án giết người hoặc cố ý gây thương
tích, các vụ tai nạn giao thơng nghiêm trọng...đã có sự phối hợp đồng bộ giữa
hai cơ quan trong việc thu thập dấu vết, vật chứng ở hiện trường, ở tử thi và
cùng phối hợp thực hiện các hoạt động điều tra xác minh ban đầu nhằm làm
sáng tỏ các tình tiết của vụ án, trên cơ sở đó đề ra hướng điều tra tiếp theo.
Quan hệ chế ước giữa VKSND và CQĐT trong TTHS được hiểu là sự
hạn chế lẫn nhau giữa các chủ thể tiến hành tố tụng trong những điều kiện
nhất định được qui định bởi pháp luật nhằm đảm bảo tính khách quan, chính


17
xác trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, tơn trọng quyền, lợi ích hợp pháp
của cơng dân, tránh oan sai và bỏ lọt tội phạm, người phạm tội. Sở dĩ
BLTTHS phải qui định những điều luật mang tính chế ước, bởi vì xuất phát từ
những đặc điểm riêng biệt của hoạt động tố tụng hình sự. Đó là, khi vụ án xảy
ra, CQĐT cần xác định những tình tiết của vụ án, xác định chính xác hiện
trường, thu giữ các vật chứng, chứng cứ... của vụ án đã xảy ra trước đó mà
khơng ai trong số các điều tra viên được trực tiếp chứng kiến vụ việc nhưng
lại phải tuân thủ tuyệt đối các nguyên tắc mà BLTTHS đã đặt ra, trong đó có
nguyên tắc bảo đảm pháp chế, tôn trọng sự thật khách quan, xác định sự thật
của vụ án... Trong giai đoạn điều tra vụ án, các hoạt động tố tụng được tiến

hành bởi những người tiến hành tố tụng như ĐTV, KSV. Họ cũng là những
con người bởi vậy khơng thể nằm ngồi sự tác động của nhiều yếu tố cả chủ
quan lẫn khách quan. Đó là những yếu tố thuộc về trình độ, khả năng, kinh
nghiệm, bản lĩnh... của chính những người đó. Ngồi ra, họ còn bị tác động
bởi những yếu tố thuộc về xã hội như môi trường sống, những biến động của
xã hội, tình hình tội phạm, sự suy thối kinh tế...Tất cả những vấn đề này đều
có ảnh hưởng nhất định, tác động khơng nhiều thì ít đến việc xác định sự thật
khách quan của vụ án. Thực tiễn đã chỉ ra một số hạn chế dễ mắc phải của
những người tiến hành tố tụng trong giai đoạn điều tra vụ án là sự phiến diện,
bảo thủ, thiên vị, quá coi trọng ý thức chủ quan của mình dẫn đến đánh giá
chứng cứ không khách quan, làm sai lệch chứng cứ, hồ sơ vụ án. Chính vì
vậy, BLTTHS đã qui định mang tính chế ước giữa CQĐT và VKS như:
“CQĐT có trách nhiệm thực hiện các yêu cầu và quyết định của Viện kiểm
sát. Đối với những yêu cầu và quyết định qui định tại các điểm 4,5 và 6 Điều
112 của BLTTHS nếu khơng nhất trí, CQĐT vẫn phải chấp hành, nhưng có
quyền kiến nghị với VKS cấp trên trực tiếp” [14, tr.13]. Theo qui định này thì
giữa Viện KSND và CQĐT đã hình thành một quan hệ tố tụng đặc biệt, đó là
quan hệ chế ước trong TTHS. Quan hệ chế ước này có những đặc trưng sau:


18
Thứ nhất, về thời điểm của sự chế ước: VKSND chế ước hoạt động
điều tra ngay từ khi CQĐT thực hiện các hoạt động tiếp nhận, xử lý tin báo, tố
giác về tội phạm và được duy trì trong suốt quá trình điều tra vụ án;
Thứ hai, sự chế ước này chủ yếu là được thực hiện theo chiều giữa
VKSND đối với CQĐT (VKSND cùng cấp và cấp trên chế ước đối với
CQĐT cùng cấp và cấp dưới) và chỉ được tiến hành trong phạm vi đối với
hoạt động tố tụng của CQĐT, cịn CQĐT chỉ có quyền kiểm tra, giám sát đối
với VKS cùng cấp. Sự chế ước được thể hiện ở chỗ: VKSND được quyền
giám sát, yêu cầu, hủy bỏ các quyết định khơng có căn cứ, các hành vi trái

pháp luật của CQĐT và ĐTV trong TTHS nhằm đảm bảo thực hiện nhiệm vụ
mà pháp luật đã đặt ra [17, tr.42].
Như vậy, mối quan hệ giữa VKSND với Cơ quan điều tra trong tố tụng
hình sự là mối quan hệ thể hiện hoạt động phối hợp và chế ước, phát sinh
trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cơ quan
theo qui định của pháp luật để nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm tội được phát
hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, cơng minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật, góp phần đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm ở nước ta.
Quan hệ giữa VKSND với CQĐT trong TTHS có một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, mối quan hệ này được pháp luật TTHS qui định, bắt buộc hai
cơ quan phải tuân thủ nghiêm chỉnh để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
mỗi cơ quan. Mối quan hệ này được xác lập từ khi nhận được tin báo, tố giác
tội phạm cho đến giai đoạn thi hành án. BLTTHS qui định những cơ quan và
người tiến hành tố tụng (Điều 33), bởi vậy chỉ những người được pháp luật
qui định mới được tham gia vào quá trình giải quyết vụ án hình sự và phải
thực hiện đúng những nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm luật định cho ĐTV,
Thủ trưởng, Phó thủ trưởng CQĐT (các điều 34, 35); cho KSV, Viện trưởng,
Phó Viện trưởng VKS (các điều 36, 37). Ngoài ra, pháp luật còn qui định
thẩm quyền điều tra (Điều 110), qui định những hoạt động điều tra cụ thể như


19
hỏi cung bị can (Điều 131), lấy lời khai người làm chứng (Điều 135), khám
nghiệm hiện trường ( Điều 150)... Theo đó, CQĐT chỉ được thực hiện các
hoạt động này mà thôi, đồng thời qui định nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi
kiểm sát điều tra ( điều 113), qui định trách nhiệm của CQĐT trong việc thực
hiện các yêu cầu và quyết định của VKS (Điều 114).
Thứ hai, quan hệ giữa VKSND và CQĐT trong TTHS vừa là quan hệ
phối hợp, vừa là quan hệ chế ước nhưng cùng chung một mục đích là giải
quyết đúng đắn vụ án, bảo vệ pháp chế, góp phần ổn định trật tự an tồn xã

hội mang lại cuộc sống bình n cho mọi người. Quan hệ phối hợp, chế ước
của VKSND với CQĐT trong TTHS thể hiện tính quyền uy của VKS do pháp
luật qui định như quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự, hủy bỏ quyết định
khởi tố vụ án hình sự, hủy bỏ việc áp dụng biện pháp ngăn chặn của CQĐT,
quyền yêu cầu thực hiện các hoạt động điều tra tại hiện trường. Pháp luật qui
định ngay sau khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự thì CQĐT phải tiến
hành các hoạt động điều tra và VKS thực hiện các hoạt động kiểm sát điều tra.
Khi thực hiện hoạt động kiểm sát điều tra, VKS có quyền củng cố hoặc kiểm
tra chứng cứ của CQĐT nếu không thực hiện đúng qui định của pháp luật.
Pháp luật qui định có những quyết định phải có sự phê chuẩn của VKS như
quyết định khởi tố bị can, lệnh bắt bị can để tạm giam, quyết định gia hạn tạm
giữ...thì CQĐT chỉ được thực hiện quyết định khi có sự phê chuẩn của VKS.
Trong TTHS giữa VKSND và CQĐT có quan hệ mật thiết, tương hỗ
nhau, hoạt động của mỗi chủ thể đều có sự tác động lẫn nhau và cùng chung
một nhiệm vụ được pháp luật qui định. Tuy vậy, quan hệ chế ước của CQĐT
với VKS tuy khơng mang tính quyền uy cao như chế ước của VKS với CQĐT
nhưng cũng được BLTTHS qui định. Trước hết, khi thực hiện những hoạt
động kiểm sát điều tra, VKS phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những
hành vi tố tụng của mình. Thứ hai, đối với những quyết định của CQĐT mà
VKS cho rằng thiếu căn cứ, trái pháp luật nên đã không phê chuẩn hoặc đã ra


20
quyết định hủy bỏ thì CQĐT vẫn phải thực hiện nhưng có quyền kiến nghị lên
VKS cấp trên trực tiếp xem xét quyết định trong thời hạn luật định. Thứ ba,
trong TTHS, CQĐT có trách nhiệm phát hiện những việc làm không đúng qui
định pháp luật của Kiểm sát viên (vi phạm Điều 42, điều 45 BLTTHS) để
thông báo kịp thời cho VKS cùng cấp để giải quyết.
Phạm vi của mối quan hệ giữa VKSND và CQĐT trong TTHS phát
sinh từ khi tiếp nhận tin báo, tố giác tội phạm cho đến giai đoạn thi hành án.

Hình thức của mối quan hệ này là trao đổi thông tin bằng miệng hoặc
bằng văn bản về vụ án giữa ĐTV và KSV; họp bàn về giải quyết vụ án, thông
thường trong giai đoạn điều tra vụ án, Cơ quan cảnh sát điều tra chủ động tổ
chức họp để bàn cách giải quyết những vấn đề phức tạp, tránh sai sót khi thực
hiện các hoạt động điều tra, hoạt động kiểm sát điều tra; ban hành các văn bản
tố tụng như lệnh, quyết định... phê chuẩn các lệnh, quyết định theo qui định
của pháp luật; giám sát các hoạt động điều tra; yêu cầu tiến hành hoạt động
điều tra (trưng cầu giám định bổ sung, giám định lại) hoặc bổ sung các tài liệu
cần thiết.
Vai trò của mối quan hệ giữa VKSND và CQĐT trong TTHS.
Vai trò của mối quan hệ giữa VKSND và CQĐT trong TTHS chính là
sự tác động của mối quan hệ trong quá trình các chủ thể thực hiện hoạt động
được qui định bằng pháp luật. Vai trò của mối quan hệ giữa VKSND và
CQĐT trong TTHS được thể hiện như sau:
- Mối quan hệ giữa VKSND và CQĐT trong TTHS giữ vai trò rất quan
trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ “…phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử
lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm
oan người vô tội” [14, tr.8] và bảo đảm tốt nhất cho hai cơ quan thực hiện có
hiệu quả chức năng, quyền hạn của mình được pháp luật qui định.
- Mối quan hệ giữa VKSND và CQĐT trong TTHS nhằm đảm bảo
quyền con người và thực hiện dân chủ trong TTHS.


21
1.2. NỘI DUNG CỦA MỐI QUAN HỆ GIỮA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN VÀ CƠ QUAN ĐIỀU TRA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

1.2.1. Qui định của pháp luật về mối quan hệ giữa Viện kiểm sát
nhân dân và Cơ quan điều tra trong tố tụng hình sự
Hiến pháp 1959 là cơ sở pháp lý quan trọng để thiết lập hệ thống cơ

quan Viện kiểm sát trong cơ cấu bộ máy nhà nước ở nước ta. Mối quan hệ
giữa VKSND và CQĐT trong TTHS được xác lập kể từ khi VKS được thành
lập. Mối quan hệ này được qui định cụ thể trong nhiều văn bản pháp luật như
Luật TCVKSND năm 1960, 1981 và 2002; Sắc luật số 02/SL-76 ngày
15/3/1976 của Hội đồng Chính phủ qui định về việc bắt, giam, khám người,
khám nhà ở, khám đồ vật [13]; Thông tư số 427/TTLB ngày 28/6/1963 của
Bộ Công an và VKSNDTC qui định tạm thời một số nguyên tắc về quan hệ
giữa Bộ Công an và VKSNDTC trong công tác điều tra các vụ án hình sự [6].
Đây là văn bản pháp luật đầu tiên trong lịch sử lập pháp ở nước ta qui định
riêng về mối quan hệ giữa hai cơ quan trong giải quyết vụ án hình sự. Điều
này khẳng định sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước Việt Nam đến
con người và các quyền cơ bản của con người trong TTHS; Thông tư số
01/TTLB ngày 27/3/1980 của Bộ Nội vụ và VKSNDTC hướng dẫn phân loại
và xử lý các vụ việc phạm pháp thường xảy ra ở cơ sở [8]; Tiếp theo là Thông
tư số 01/TTLB ngày 23/01/1984 của Bộ Nội vụ - VKSNDTC về quan hệ giữa
hai ngành công an - kiểm sát trong công tác điều tra và kiểm sát điều tra [9].
Theo các qui định tại Thơng tư này thì ngay sau khi phát hiện có dấu hiệu tội
phạm hoặc có tội phạm xảy ra thì Cơ quan cơng an và VKS cần phối hợp
trong các hoạt động điều tra và tiến hành kiểm sát điều tra đối với các hoạt
động điều tra vụ án từ khi khởi tố vụ án, khởi tố bị can; áp dụng, thay đổi các
biện pháp ngăn chặn; thu giữ bảo quản vật chứng; tiến hành các hoạt động
điều tra cụ thể như khám nghiệm hiện trương, khám nghiệm tử thi, trưng cầu
giám định, hỏi cung…đến khi hoàn thành cáo trạng chuyển hồ sơ sang Tòa án


22
đề nghị truy tố. Ngồi ra, Thơng tư số 01/TTLB còn qui định đối với các vụ
án phức tạp, án trọng điểm có thể tổ chức họp liên ngành Cơ quan Cơng an
-VKS - Tịa án để cùng nhau nghiên cứu, đánh giá chứng cứ của vụ án đến
thống nhất đường lối giải quyết vụ án ngay từ giai đoạn điều tra để tránh

những sai sót, vi phạm có thể xảy ra. Thơng tư cịn qui định rõ quan hệ phối
hợp của hai cơ quan Công an - VKS, theo đó khi VKS hồn thành cáo trạng
phải gửi một bản cho Cơ quan điều tra.
Bộ luật Tố tụng hình sự đầu tiên của nước Việt Nam có hiệu lực từ
ngày 01/01/1989 đã qui định về nguyên tắc chung trong TTHS và mối quan
hệ tố tụng trong từng chế định như khởi tố vụ án, khởi tố bị can, việc áp
dụng - thay đổi - hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn, trong các hoạt động điều
tra...BLTTHS năm 2003(sau đây viết là BLTTHS) phân định cụ thể nhiệm
vụ, quyền hạn của mỗi cơ quan trong TTHS và mối quan hệ giữa các cơ
quan tiến hành tố tụng ở nước ta. Mối quan hệ được qui định đầy đủ và
hoàn thiện hơn khi Bộ Cơng an - Bộ Quốc phịng -VKSNDTC ban hành
Thông tư liên tịch số 05/TTLT ngày 07/9/2005 [6] về quan hệ phối hợp
giữa CQĐT và VKS trong việc thực hiện một số qui định của BLTTHS
năm 2003. Những hướng dẫn trong Thông tư giúp CQĐT và VKS thực hiện
đúng và thống nhất một số qui định của BLTTHS trong giải quyết vụ án
hình sự. Cụ thể là qui định về việc thay đổi hoặc huỷ bỏ các quyết định
không có căn cứ và trái pháp luật cuả Phó Thủ trưởng CQĐT (điểm d
khoản 1 Điều 34); Về việc thay đổi ĐTV, Phó Thủ trưởng, Thủ trưởng
CQĐT; KSV, Phó Viện trưởng, Viện trưởng VKS (Điều 44 và Điều 45); Về
căn cứ bắt người trong trường hợp khẩn cấp, thủ tục phê chuẩn lệnh bắt
khẩn cấp ( Điều 81); Về việc khởi tố và kiểm sát khởi tố vụ án hình sự (các
Điều 104, 105 và 109) và việc thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ
án hình sự (Điều 106); Về trách nhiệm của CQĐT trong việc thực hiện các
yêu cầu và quyết định của VKS (Điều 114).


23
Quan hệ phối hợp giữa hai cơ quan trong việc chuyển vụ án để điều
tra theo thẩm quyền (Điều 116), Thông tư 05 qui định là trong trường hợp vụ
án khơng thuộc thẩm quyền điều tra của mình, CQĐT phải đề nghị VKS cùng

cấp ra quyết định chuyển vụ án cho CQĐT có thẩm quyền để tiếp tục điều tra.
Trường hợp thấy vụ án không thuộc thẩm quyền của CQĐT cấp mình thì
VKS yêu cầu CQĐT tiến hành các thủ tục để VKS ra quyết định chuyển vụ án
cho Cơ quan có thẩm quyền. Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được đề
nghị của CQĐT, Viện kiểm sát cùng cấp phải ra quyết định chuyển vụ án cho
CQĐT có thẩm quyền. Một số hướng dẫn trong thơng tư đã giúp CQĐT và
VKS áp dụng thống nhất qui định của pháp luật, tăng cường mối quan hệ giữa
hai cơ quan trong trường hợp thay đổi hoặc quyết định bổ sung quyết định
khởi tố bị can (Điều 127). Theo đó, trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết
định khởi tố bị can, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị
can, CQĐT phải gửi các quyết định này kèm theo các tài liệu có liên quan cho
VKS cùng cấp để xét phê chuẩn. Do vậy, VKS có trách nhiệm phối hợp chặt
chẽ với CQĐT để việc xét phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, quyết định
thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can được nhanh chóng, kịp thời
đề ra yêu cầu điều tra.
Tiếp theo là Thông tư liên tịch Số 01/2010/TTLT-VKSNDTC-BCATANDTC ngày 27/8/2010 hướng dẫn thi hành các qui định của BLTTHS về
trả hồ sơ để điều tra bổ sung [30] qui định rất cụ thể những trường hợp VKS
được trả hồ sơ để điều tra bổ sung, quan hệ phối hợp trong trường hợp này;
qui định về việc đề ra yêu cầu điều tra của KSV trong quá trình điều tra, KSV
phải kịp thời trao đổi với ĐTV được phân công điều tra vụ án về những vấn
đề cần điều tra ngay từ khi kiểm sát việc khởi tố vụ án, khám nghiệm hiện
trường và trong quá trình điều tra, bảo đảm phối hợp để CQĐT nhanh chóng
thu thập đầy đủ các tài liệu, chứng cứ của vụ án.


24
Tổng kết 10 năm thực hiện BLTTHS cho thấy bên cạnh những ưu
điểm của các chế định pháp luật qui định về trình tự, thủ tục TTHS, về các cơ
quan tiến hành tố tụng... cũng đã bộc lộ những hạn chế, bất cập, cụ thể như:
VKS khơng có thẩm quyền trực tiếp giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm,

thời hạn qui định cho VKS nghiên cứu hồ sơ để phê chuẩn lệnh tạm gia hạn
tạm giữ, tạm giam là quá hạn hẹp; VKS chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi ra
quyết định hủy bỏ quyết định khơng khởi tố vụ án hình sự của CQĐT và VKS
chỉ được khởi tố bị can sau khi vụ án đã kết thúc điều tra... dẫn đến việc phải
trả hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc khó xác định trách nhiệm cụ thể thuộc về
cơ quan nào trong trường hợp có oan, sai, bỏ lọt tội phạm. Đây là những vấn
đề cần phải nghiên cứu đề hoàn thiện nhằm qui định chặt chẽ hơn, hiệu quả
hơn mối quan hệ giữa VKS và CQĐT trong TTHS đáp ứng yêu cầu cải cách
tư pháp và đấu tranh phòng chống tội phạm trong giai đoạn xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
1.2.2. Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân và Cơ quan điều
tra trong tố tụng hình sự
Tố tụng hình sự là trình tự (quá trình) tiến hành giải quyết vụ án hình
sự theo qui định của pháp luật (khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án
hình sự). TTHS bao gồm toàn bộ hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và của các cá nhân, cơ quan,
tổ chức khác góp phần vào việc giải quyết vụ án theo qui định của luật TTHS
[11, tr.8-9]. Tác giả luận văn đồng ý với khái niệm tố tụng hình sự này và như
vậy có thể tạm phân chia tố tụng hình sự thành các giai đoạn như trên, tuy vậy
trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả tập trung làm rõ mối quan hệ
giữa VKSND và CQĐT trong các giai đoạn là khởi tố, điều tra và truy tố. Ở
giai đoạn xét xử thì mối quan hệ chủ yếu là giữa VKSND với Tòa án, còn ở
giai đoạn thi hành án hình sự thì đó là mối quan hệ giữa Tịa án, VKS và Cơ
quan thi hành án hình sự (không phải là CQĐT) thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc


25
phòng. Mối quan hệ giữa CQĐT và VKSND trong TTHS được nghiên cứu ở
những nội dung sau:
1.2.2.1. Quan hệ trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can

Theo khái niệm nêu trên thì TTHS ở Việt Nam được bắt đầu từ giai
đoạn khởi tố (khởi tố vụ án, khởi tố bị can) và kết thúc ở giai đoạn thi hành án
hình sự. Tuy nhiên để khởi tố vụ án, khởi tố bị can được chính xác, khách
quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật thì việc tiếp nhận, giải quyết tin
báo, tố giác tội phạm, kiến nghị khởi tố của các cơ quan tiến hành tố tụng giữ
vai trò đặc biệt quan trọng, với tư cách là “ đầu vào” của quá trình TTHS.
i) Quan hệ trong tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, kiến
nghị khởi tố
Tin báo, tố giác về tội phạm được tiếp nhận từ các nguồn sau: Tin
báo, tố giác của công dân, của thân nhân nạn nhân, của người làm chứng,
người bị hại; Tin báo của các cơ quan, tổ chức; Tin báo trên các phương tiện
thông tin đại chúng; CQĐT, VKS, Tòa án và các cơ quan khác được giao tiến
hành một số hoạt động điều tra trực tiếp phát hiện dấu hiệu của tội phạm;
Người phạm tội tự thú
Theo qui định tại Điều 103 BLTTHS, trong quan hệ phối hợp thì
CQĐT, VKS có trách nhiệm tiếp nhận mọi tin báo, tố giác về tội phạm do cá
nhân, cơ quan, tổ chức và kiến nghị khởi tố do cơ quan nhà nước chuyển
đến.VKS có trách nhiệm chuyển ngay các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố kèm theo các tài liệu có liên quan đã tiếp nhận đến CQĐT có
thẩm quyền. VKS chỉ trực tiếp giải quyết, xử lý những tin báo, tố giác tội
phạm xâm phạm hoạt động tư pháp. Mối quan hệ thể hiện ở chỗ, mỗi cơ quan
phải thực hiện đúng trách nhiệm của mình, CQĐT phải tổ chức việc tiếp nhận,
vào sổ đăng ký tin báo, tố giác tội phạm, sau đó xác minh trong thời hạn hai
mươi ngày (đối với tin báo có nhiều tình tiết phức tạp thì thời hạn xác minh
không quá hai tháng). Trên cơ sở xác minh đó có căn cứ để khởi tố hoặc
khơng khởi tố vụ án hình sự, kết quả giải quyết tin báo, tố giác tội phạm phải


×