Tải bản đầy đủ (.doc) (114 trang)

Luận văn thạc sĩ luật học -Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án về ma túy của viện kiểm sát nhân dân huyện thanh oai thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (492.35 KB, 114 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ma tuý và tội phạm ma tuý từ lâu đã trở thành hiểm họa của loài người.
Các hoạt động sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán, sử dụng… trái phép
chất ma túy, chất hướng thần…đã làm ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến đến
sức khỏe và hạnh phúc của con người, cản trở sự phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, đe dọa sự ổn định về an ninh - chính trị và chủ quyền quốc gia. Các
hoạt động liên quan đến tội phạm về ma túy đã tạo điều kiện cho các tổ chức
tội phạm xuyên quốc gia thâm nhập, làm ô nhiễm và phá hoại sự vững mạnh
của Bộ máy Nhà nước, chính quyền các cấp, và làm phát sinh các tội phạm
khác; gây bất ổn trong mỗi gia đình và cộng đồng, khiến một bộ phận không
nhỏ thanh thiếu niên - thế hệ tương lai của đất nước lâm vào cảnh nghiện
ngập, phá vỡ hạnh phúc, sự bình yên của nhiều gia đình - tế bào của xã hội.
Hiểm hoạ ma tuý đã, đang rình rập, len lỏi vào mọi người, mọi nhà, tạo ra tâm
lý bất ổn và căng thẳng trong xã hội; nó cũng là một trong những con đường
chính lây lan đại dịch HIV/AIDS, căn bệnh thế kỷ mà loài người đã, đang
phải đối đầu và chống chọi. Nhận thấy sự cần thiết phải huy động sức mạnh
của các quốc gia cùng tham gia phòng, chống và kiểm soát ma túy, Liên Hợp
quốc đã ban hành 3 Cơng ước (1961, 1971 và 1988) về phịng, chống và kiểm
sốt ma túy. Cịn ở Việt Nam, ngay sau khi giành được độc lập, bên cạnh việc
tập trung sức người, sức của kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ,
thì Chính phủ cũng đã giành sự quan tâm đáng kể cho cơng tác đấu tranh
phịng, chống đối với tội phạm về ma túy, cũng như tệ bạn nghiện hút ma túy.
Ngày 05/3/1952, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 150-TTg quy
định việc xử lý đối với những hành vi vi phạm thể lệ quản lý thuốc phiện. Bên
cạnh đó, trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ
trương và giải pháp chiến lược để đấu tranh phòng, chống đối với tội phạm
ma tuý. Ngày 01/9/1997, Chủ tịch nước Cộng hòa XHCN Việt Nam ký Quyết
định số 789/QĐ-CTN tham gia 3 Công ước của Liên hợp quốc về kiểm soát
ma túy; Ngày 28/5/1997, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số



2
686/TTg thành lập Ủy ban Quốc gia phòng, chống ma túy (nay là Ủy ban
Quốc gia phòng,chống tệ nạn ma túy, mại dâm). Đặc biệt là, ngày 21/12/1999
Quốc hội nước Cộng Hồ XHCN Việt Nam thơng qua BLHS, trong đó qui
định thành một chương riêng các Tội phạm về Ma tuý (Chương XVIII, từ
Điều 192 đến Điều 201). Bên cạnh đó, ngày 09/12/2000, Quốc hội Việt Nam
cũng đã thơng qua Luật Phịng, chống ma túy.
Ngày 10/3/2005, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 49/2005/QĐTTg phê duyệt Kế hoạch tổng thể phòng, chống ma túy đến năm 2010, với
mục tiêu đến năm 2015 cơ bản thanh toán tệ nạn ma túy trong cả nước... Tất
cả các chủ trương, chính sách và các văn bản quy phạm pháp luật này đó góp
phần tích cực vào cuộc đấu tranh phịng, chống, kiểm soát, tiến tới ngăn chăn
chặn, đẩy lùi tệ nạn và tội phạm về ma túy. Trong quá trình này, các cơ quan
bảo vệ pháp luật trong cả nước đã kịp thời phát hiện, điều tra và triệt phá
nhiều ổ nhóm, đường dây và tổ chức tội phạm ma túy có quy mô xuyên quốc
gia và quốc tế, bắt giữ nhiều tên tội phạm đặc biệt nguy hiểm và xử lý nghiêm
minh trước pháp luật, góp phần làm ổn định tình hình an ninh trật tự, trật tự an
tồn xã hội. Thơng qua đó đã củng cố niềm tin của nhân dân về cơng tác đấu
tranh phịng, chống tệ nạn, tội phạm về ma túy. Trên thực tế, vì sự bình yên của
nhân dân, sự ổn định vững mạnh của quốc gia, dân tộc, trong cuộc đấu tranh
cam go này, đã có khơng ít người vì nhiệm vụ đã anh dũng hy sinh tính mạng
của mình hoặc phải mang thương tật suốt đời. Thông qua kết quả thực hành
quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án về ma túy của Viện KSND các cấp
cho thấy: Hiện nay nguồn ma túy thẩm lậu từ nước ngoài vào Việt Nam được
thực hiện bằng nhiều con đường khác nhau; đối tượng thực hiện tội phạm cũng
rất đa dạng với nhiều thành phần, độ tuổi, giới tính, dân tộc, quốc tịch khác
nhau, và diễn ra ở hầu hết các địa bàn trong cả nước; đặc biệt là ở các vùng
giáp danh, giáp vùng biên, ở những địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội, trình
độ dân trí nghèo nàn, lạc hậu, kém phát triển…
Thanh Oai là một trong những huyện đồng bằng thuần nơng, có vị trí

địa lý tiếp giáp với nhiều quận, huyện của thành phố Hà Nội. Trong những


3
năm gần đây, được sự quan tâm về nhiều mặt của Đảng, Nhà nước, và các
cấp, các ngành của thành phố, nên tình hình kinh tế - xã hội của huyện Thanh
Oai đã có nhiều khởi sắc, và chuyển biến đáng kể. Tuy nhiên, tình hình phát
triển kinh tế - xã hội của huyện vẫn cịn hết sức khó khăn; văn hố- xã hội cịn
nhiều mặt hạn chế, chưa tương xứng với lợi thế và tiềm năng vốn có của địa
phương, là một trong những nguyên nhân làm phát sinh, gia tăng tội phạm
hình sự nói chung, tệ nạn và tội phạm về ma túy nói riêng. Mặc dù các cơ
quan bảo vệ pháp luật của huyện Thanh Oai đã có nhiều cố gắng, chủ động
phối hợp trong đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy, nhiều vụ án, ổ nhóm tội
phạm ma túy, nhiều tụ điểm nóng về về ma túy đã được phát hiện, điều tra và
triệt phá, nhất là ở các địa giáp danh với các quận, huyện khác của thành phố Hà
Nội. Tuy nhiên, công tác này cũng cịn có mặt hạn chế. Trong khi đó lại chưa có
những cơng trình nghiên cứu lý luận, tổng kết đúc rút kinh nghiệm còn nhiều
hạn chế, chưa được tiến hành thường xuyên, nên ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu
quả cơng tác đấu tranh phịng, chống tội phạm ma túy trên địa bàn huyện Thanh
Oai. Từ những lý do nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài "Thực hành quyền công
tố và kiểm sát điều tra các vụ án về ma túy của Viện kiểm sát nhân dân huyện
Thanh Oai - thành phố Hà Nội” làm Luận văn Thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Từ tác hại của ma túy, từ lợi ích của các quốc gia. Nên việc đấu tranh
phòng, chống ma túy từ lâu khơng cịn là của riêng của một quốc gia nào cả,
mà nó đã mang tính cấp bách toàn cầu. Để tổng kết thực tiễn, bổ sung lý luận
nhằm nâng cao hiệu quả cơng tác đấu tranh phịng, chống tội phạm ma túy,
thời gian qua đã có nhiều cơng trình nghiên cứu khoa học, nhiều luận án Tiến
sĩ, nhiều luận văn Thạc sĩ luật học nghiên cứu về tội phạm ma túy, về công tác
thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra của Viện kiểm sát nhân dân đối với

vụ án hình sự nói chung, về các vụ án ma tuý nói riêng, có thể kể ra một số
cơng trình của sau:
- “Hiểm hoạ ma t và cuộc chiến mới” của GS-TS Nguyễn Xuân
Yêm, TS Trần Văn Luyện ( Năm 2001);


4
- “Công tác kiểm sát điều tra án ma tuý” của TS Dương Thanh BiểuPhó Viện trưởng Viện KSND tối cao (năm 2001);
- Luận án Tiến sỹ Luật học “Hoàn thiện khung pháp luật hình sự đối với
tội phạm ma túy” của NCS Nguyễn Minh Đức - Viện KSND tối cao (năm 2003);
- Luận văn Thạc sĩ luật học “áp dụng pháp luật trong giai đoạn điều
tra, truy tố các vụ án ma túy ở Việt Nam hiện nay” của Bùi Mạnh Cường
(năm 2006);
- Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Thị Mai Nga “Nâng cao hiệu quả
quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát nhân dân và cơ quan Cảnh sát điều tra trong
giải quyết các vụ án ma tuý” (Học viện Cảnh sát nhân dân năm 2006);
- Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Đình Trung về “Thực hiện
pháp luật phòng chống ma tuý trong doanh nghiệp nhà nước ở Việt nam hiện
nay” (Năm 2006);
- Chuyên đề nghiệp vụ “Tổng hợp kinh nghiệm thực hành quyền công
tố và kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử các vụ án ma túy lớn” của Vụ II, Viện
KSND tối cao (năm 2004)…
Qua nghiên cứu những cơng trình nêu trên cho thấy: Các tác giả đã
nghiên cứu ở nhiều phương diện, cấp độ khác nhau như: Tội phạm học, luật
học… Mặc dù có nhiều quan điểm lý luận, thực tiễn hết sức đa dạng, phong
phú mà Học viên có thể kế thừa và phát triển. Song, cho đến nay chưa có
cơng trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống dưới góc độ lý luận chung về
nhà nước và pháp luật về hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều
tra các vụ án về ma túy. Có thể nói, cơng tác đấu tranh phịng, chống ma t
ngồi đặc điểm chung, thì ở mỗi địa phương, mỗi loại đối tượng lại có những

đặc điểm riêng như địa lý, kinh tế, xã hội, tập quán, lối sống, phương thức thủ
đoạn phạm tội... Đối với huyện Thanh Oai là một trong những địa bàn nóng
bỏng, phức tạp về tội phạm ma túy của thành phố Hà Nội, nhưng công tác
tổng kết rút kinh nghiệm chưa được tiến hành một cách đầy đủ, khoa học. Vì
vậy, việc nghiên cứu đề tài sẽ có ý nghĩa thiết thực trong cơng tác đấu tranh
phịng, chống tội phạm ma túy nói chung, cũng như công tác THQCT và


5
KSĐT các vụ án về ma tuý của Viện KSND huyện Thanh Oai - TP. Hà Nội
nói riêng.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về quyền công tố, thực
hành quyền công tố, hoạt động kiểm sát điều tra của VKSND đối với các vụ
án về ma tuý; tổng kết thực tiễn công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát
điều tra của Viện KSND đối với các vụ án về ma túy trên địa bàn huyện
Thanh Oai - Hà Nội. Luận văn đề xuất và luận giải các giải pháp, kiến nghị
nhằm góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác THQCT và KSĐT đối
với các vụ án về ma túy trên địa bàn huyện Thanh Oai - thành phố Hà Nội.
3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về quyền công tố, công tác
thực hành quyền công tố, và kiểm sát điều tra của Viện KSND đối với các vụ
án về ma túy;
- Đánh giá thực trạng công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát
điều tra của Viện KSND đối với các vụ án ma túy trên địa bàn huyện Thanh
Oai-Hà Nội;
- Đề xuất và luận giải các nhóm giải pháp, kiến nghị nhằm góp phần
nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát
điều tra các vụ án về ma túy.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của công tác
thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra của VKSND đối với các vụ án
ma túy trên địa bàn huyện Thanh Oai - Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu công tác THQCT và KSĐT các vụ án về ma túy
của Viện KSND huyện Thanh Oai - TP Hà Nội (số liệu từ năm 2008 đến hết
năm 2013).


6
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của Luận văn
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin; Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; quan điểm,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, và của ngành Kiểm
sát nhân dân về công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy; các học
thuyết chính trị-pháp lý về tổ chức bộ máy nhà nước nói chung và các cơ
quan tư pháp nói riêng.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, luận văn sử dụng những phương
pháp nghiên cứu cụ thể sau: phân tích, tổng hợp, khảo sát, thống kê, so sánh
và một số phương pháp khác.
6. Những đóng góp về khoa học của Luận văn
Luận văn là cơng trình nghiên cứu khoa học pháp lý nhằm bổ sung về
mặt lý luận của công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra của
VKSND đối với các vụ án ma túy. Kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể
dùng làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy, học tập và áp dụng vào thực tiễn
công tác THQCT và KSĐT của Viện KSND trong đấu tranh phịng, chống tội
phạm ma túy trong tình hình mới.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn

- Làm rõ đặc điểm, nguyên nhân, điều kiện phạm tội ma túy;
- Xác định rõ nội dung quyền công tố, kiểm sát điều tra; nội dung công
tác THQCT và KSĐT các vụ án về ma túy;
- Đưa ra những dự báo và giải pháp để đấu tranh mạnh mẽ và phịng
ngừa có hiệu quả đối với tội phạm ma tuý trên địa bàn huyện Thanh Oai nói
riêng và các quận, huyện của TP. Hà Nội nói chung;
- Đề xuất và luận chứng một số giải pháp, kiến nghị thiết thực nhằm
nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác THQCT và KSĐT của Viện KSND
đối với các vụ án tuý trên địa bàn huyện Thanh Oai - TP. Hà Nội.
8. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
gồm 3 chương.


7
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CƠNG TỐ
VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN VỀ MA TÚY
1.1. KHÁI NIỆM THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT
ĐIỀU TRA

1.1.1. Khái niệm Quyền công tố, Thực hành quyền công tố, Kiểm
sát điều tra
- Quyền công tố là một khái niệm pháp lý gắn liền với bản chất Nhà
nước, nó tồn tại trong bất kỳ kiểu Nhà nước nào.
Quyền công tố Nhà nước được hiểu là quyền của Nhà nước nhân danh
lợi ích của Nhà nước và xã hội quyết định có truy tố hay khơng truy tố một
người ra trước Tòa án để xét xử. Việc thực hiện quyền công tố Nhà nước ảnh
hưởng trực tiếp đến quyền lợi, danh dự, nhân phẩm, tính mạng, tài sản của
cơng dân. Nên, bất cứ Nhà nước nào cũng quy định trình tự và thủ tục tố

tụng rất chặt chẽ và phải do một chức danh pháp lý là Công tố viên (hoặc
Kiểm sát viên) thực hiện. Quyền công tố được thực hiện độc lập, khơng ai có
quyền quyết định và can thiệp vào hoạt động truy tố của Công tố viên.
Có thể tổng hợp các quan điểm về quyền cơng tố thành 4 nhóm cơ bản sau:
Nhóm quan điểm thứ nhất, cho rằng toàn bộ hoạt động kiểm sát việc tuân
theo pháp luật đều là việc thực hành quyền công tố hoặc công tố không phải là
chức năng độc lập của VKS mà chỉ là hình thức thực hiện chức năng kiểm sát
việc tuân thủ theo pháp luật trong tố tụng hình sự .
Nhóm quan điểm này đã đồng nhất khái niệm quyền công tố với hoạt
động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện KSND.
Nhóm quan điểm thứ hai, cho rằng quyền công tố là “quyền của Viện
kiểm sát thay mặt Nhà nước bảo vệ lợi ích cơng (Nhà nước, xã hội và cơng
dân) khi có các vi phạm pháp luật”. Vì vậy, Viện kiểm sát thực hành quyền
cơng tố khơng chỉ trong tố tụng hình sự mà cả trong lĩnh vực dân sự, kinh tế
và các hoạt động tư pháp khác. Đây là nhóm quan điểm chính thống của


8
Ngành Kiểm sát trong suốt quá trình từ 1960 - 1985 và được đưa vào
chương trình giảng dạy chính thức của trường Bồi dưỡng nghiệp vụ Kiểm
sát Hà Nội. Những người theo quan điểm này cho rằng, quyền công tố xuất
hiện từ khi có Nhà nước và Pháp luật, được thể hiện đầu tiên trong lĩnh vực
hình sự, tố tụng hình sự và quyền cơng tố cịn được mở rộng sang các lĩnh
vực tố tụng tư pháp khác như dân sự, kinh tế, lao động mà thể hiện của nó là
Viện Kiểm sát có quyền khởi tố vụ án dân sự, lao động.
Nhóm quan điểm thứ ba, quan niệm quyền công tố là “quyền của Nhà
nước giao cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc truy cứu trách nhiệm
hình sự và áp dụng các chế tài hình sự đối với người phạm tội” hoặc là “quyền
của Nhà nước giao cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự”. Hoặc đó là hoạt động tố tụng của

CQĐT, VKSND, TAND trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người
có hành vi phạm tội. Theo quan điểm này, thì các cơ quan tiến hành tố tụng đều
là chủ thể của quyền công tố và quyền công tố được thực hiện trong mọi giai
đoạn tố tụng hình sự. Như vậy, họ đã đồng nhất khái niệm quyền cơng tố với
ngun tắc tố tụng hình sự, ranh giới của các chức năng cơ bản điều tra, truy tố,
xét xử trong tố tụng hình sự bị xóa nhịa, dễ nhầm lẫn giữa các chức năng buộc
tội, xét xử và bào chữa trong tố tụng hình sự.
Nhóm quan điểm thứ tư, cho rằng quyền công tố là quyền của Viện
kiểm sát nhân danh Nhà nước thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với người phạm tội. Quyền này được Nhà nước giao cho cơ quan duy
nhất là Viện kiểm sát thực hiện. Để thực hiện quyền này, Viện kiểm sát có
chức năng thực hành quyền cơng tố phải có trách nhiệm bảo đảm việc thu
thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định tội phạm, người phạm tội và trên
cơ sở đó quyết định truy tố bị can ra trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó
tại phiên tịa. Theo quan điểm này thì quyền công tố là quyền nhân danh Nhà
nước truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi vi phạm pháp
luật bị coi là tội phạm. Theo đó, quyền cơng tố chỉ có trong lĩnh vực tố tụng
hình sự, khơng có trong bất kì lĩnh vực nào khác. Theo pháp luật hiện hành


9
quyền công tố gắn với hoạt động điều tra và xét xử nên có thể đi đến kết
luận quyền này ở nước ta được Nhà nước giao cho Viện KSND thực hiện mà
khơng có cơ quan nào được phép thay thế.
Nhìn tổng thể các quan điểm nêu trên cho thấy, mỗi nhóm quan điểm
đều được lí giải trên cơ sở các quy định của pháp luật và thực tiễn nước ta,
các quan điểm đều thể hiện tính hợp lí. Tuy nhiên, đa số các quan điểm cịn
có những bất cập, họ đã đồng nhất thực hành quyền công tố với chức năng
kiểm sát việc tuân theo pháp luật hoặc coi quyền cơng tố là một quyền năng,
một hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố

tụng hình sự hoặc coi quyền cơng tố là quyền của Viện kiểm sát truy tố
người phạm tội ra tịa và thực hiện buộc tội tại phiên tịa hình sự sơ thẩm.
Các quan điểm này là quá mở rộng phạm vi hoặc là quá thu hẹp phạm vi
quyền công tố. Hạn chế chính của nó là khơng phân định rõ khái niệm, bản
chất, nội dung, phạm vi quyền công tố, hoạt động thực hành quyền công tố
và hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật.
Từ những vấn đề nêu trên, tác giả cho rằng: Quyền công tố ở Việt Nam
là quyền của Nhà nước giao cho Viện Kiểm sát để truy cứu trách nhiệm hình
sự đối với người phạm tội và thực hiện việc buộc tội đối với người đó trước
phiên tịa.
- Thực hành quyền cơng tố:
Ngay sau khi nước nhà giành độc lập, ngày 02/9/1945 hoạt động cơng
tố của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hịa nằm trong Tịa án. Sự phát
triển của ngành Cơng tố từ năm 1945 đến trước năm 1958 chủ yếu gắn liền
với quá trình xây dựng và phát triển của ngành Tịa án.
Ngày 01/7/1958, Chính phủ ban hành Nghị định số 256-TTg quy định
nhiệm vụ của cơ quan công tố trong điều tra là: điều tra và truy tố trước Tòa
án những kẻ phạm pháp về hình sự.
Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960
bắt đầu quy định về chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát, Luật tổ chức
VKSND đã thể hiện Viện KSND khơng chỉ có chức năng thực hành quyền


10
công tố mà thực hiện cả chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trên
lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội và lĩnh vực hoạt động tư pháp.
Tại Điều 138 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi và Điều 1 Luật tổ chức Viện
KSND năm 2002 quy định Viện KSND có “chức năng kiểm sát tuân theo
pháp luật, thực hành quyền công tố theo Hiến pháp và pháp luật”.
Nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành tác giả thấy cần coi thực

hành quyền công tố là Viện KSND sử dụng các quyền năng pháp lí theo luật
định để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi
phạm tội nhằm đảm bảo việc truy tố tội phạm được công bằng, nghiêm
minh, đúng người, đúng tội.
- Kiểm sát điều tra có nguồn gốc từ thuật ngữ “Kiểm sát việc tuân theo
pháp luật”. Tuy nhiên, kiểm sát việc tuân theo pháp luật có phạm vi rộng
hơn, đối tượng nhiều hơn, còn đối tượng của kiểm sát điều tra chỉ có hoạt
động điều tra của Cơ quan điều tra.
Từ điển Luật học cho rằng kiểm sát điều tra là “Công tác kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong việc điều tra của Cơ quan điều tra và các cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra” (Từ điển Luật học
1999, trang 260, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội). Tuy nhiên, khái niệm
này cũng chưa thật đầy đủ.
Kiểm sát điều tra được hiểu là hoạt động giám sát của Viện kiểm sát đối với
hoạt động điều tra do Cơ quan điều tra thực hiện khi điều tra vụ án hình sự.
Từ đó, có thể rút ra khái niệm: “Kiểm sát điều tra là Viện kiểm sát
nhân dân thực hiện chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật toàn bộ các hoạt
động xảy ra trong quá trình Cơ quan điều tra thực hiện các hoạt động điều
tra nhằm đảm bảo cho việc điều tra được thực hiện theo đúng quy định của
pháp luật, chống bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội”.
Khi vụ án ở giai đoạn điều tra, Viện KSND có chức năng giám sát các hoạt
động điều tra. Việc giám sát này được thể hiện qua kiểm sát việc khởi tố; kiểm
sát việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn; sự giám sát của KSV tại nơi ĐTV
thực hiện các hoạt động điều tra như: khám nghiệm hiện trường, thực nghiệm


11
điều tra, hỏi cung bị can, đối chất… hoặc kiểm sát việc điều tra thơng qua kiểm
tra, giám sát tính hợp pháp, nội dung, hình thức tài liệu có trong hồ sơ vụ án.
Viện KSND còn kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người

tham gia tố tụng như: bị can, người làm chứng, Luật sư, người giám định,
người phiên dịch… Để đảm bảo các quyền lợi của họ; đồng thời, đảm bảo
cho việc điều tra vụ án được khách quan, toàn diện; giải quyết tranh chấp về
thẩm quyền điều tra…
Mục đích của KSĐT là nhằm đảm bảo cho ĐTV thực hiện đúng các
quy định của pháp luật, phát hiện kịp thời những thiếu sót, vi phạm để đề
nghị khắc phục, sửa chữa, chống oan hoặc bỏ lọt tội phạm.
1.1.2. Khái niệm Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các
tội phạm về ma túy
Thuật ngữ “Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra” lần đầu tiên
xuất hiện tại Chương II, Luật tổ chức VKSND năm 2002. Thực hành quyền
công tố và kiểm sát điều tra là hai chức năng của Viện KSND được quy định
trong Bộ luật TTTHS năm 2003 và Luật tổ chức VKSND năm 2002. Hai
chức năng này được Viện KSND tiến hành đồng thời, hỗ trợ cho nhau trong
điều tra vụ án hình sự nói chung, vụ án ma túy nói riêng.
Từ những vấn đề nêu trên, có thể rút ra khái niệm: Thực hành quyền
công tố và kiểm sát điều tra của Viện KSND dân trong điều tra các tội phạm
về ma túy là Viện kiểm sát sử dụng quyền năng pháp lí theo luật định để truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi phạm tội về ma túy nhằm
đảm bảo việc truy tố được công bằng, nghiêm minh, đúng người, đúng tội;
đồng thời, kiểm sát việc tuân theo pháp luật toàn bộ các hoạt động xảy ra
trong quá trình Cơ quan điều tra thực hiện các hoạt động điều tra nhằm
đảm bảo cho hoạt động điều tra được đúng luật, không bỏ lọt tội phạm và
làm oan người vô tội.
Trong điều tra vụ án ma túy, chức năng của VKSND là thực hành
quyền công tố và kiểm sát điều tra. Đây là việc Viện KSND thực hiện quyền
năng pháp lý theo luật định để truy cứu trách nhiệm hình sự người có hành


12

vi phạm tội về ma túy ra trước Tòa án; đồng thời, trong quá trình điều tra vụ
án, Viện KSND căn cứ quy định của pháp luật để giám sát CQĐT khi cơ
quan này tiến hành các hoạt động điều tra nhằm tìm ra sự thật khách quan
của vụ án và kiểm sát việc tuân theo pháp luật các hoạt động khác xảy ra
trong quá trình điều tra. Hoạt động thực hành quyền cơng tố là nhằm mục
đích đảm bảo cho việc điều tra vụ án được đúng luật, đảm bảo sự cơng bằng,
nghiêm minh, cịn hoạt động kiểm sát điều tra nhằm mục đích đảm bảo cho
mọi hoạt động được thực hiện đúng quy định của pháp luật, chống làm oan
người vô tội và chống bỏ lọt tội phạm.
Giữa hoạt động THQCT và hoạt động KSĐT có sự đan xen và có mối
quan hệ biện chứng với nhau.
Điểm khác biệt cơ bản giữa THQCT với KSĐT các vụ án ma túy là
thực hành quyền công tố là hoạt động mang tính chủ động, cịn kiểm sát điều
tra là hoạt động mang tính bị động, vì chỉ khi nào CQĐT tiến hành điều tra
thì Viện KSND mới kiểm sát các hoạt động điều tra đó.
Trong q trình điều tra, từ giải quyết tố giác tin báo đến thời điểm kết
thúc điều tra vụ án của Cơ quan điều tra và thực hành quyền công tố, kiểm
sát điều tra của VKSND cũng có sự đan xen và quan hệ khăng khít với nhau.
1.1.3. Khái niệm Truy tố các tội phạm về ma túy
Truy tố là quyền năng mà Nhà nước chỉ giao cho Cơ quan duy nhất là Viện
KSND để truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội ra trước Tòa án và được
quy định trong Bộ luật TTHS. Truy tố là một quyền thuộc chức năng công tố của
VKSND trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.
Sau khi kết thúc điều tra vụ án ma túy, Cơ quan điều tra có bản kết luận
điều tra đề nghị Viện KSND xem xét và truy tố bị can trước Tòa án. Viện
kiểm sát nghiên cứu hồ sơ đã kết thúc điều tra thấy có đủ căn cứ để truy tố bị
can thì xây dựng Cáo trạng phân tích và kết luận về tội phạm, hành vi phạm
tội của bị can và các tình tiết của vụ án, Viện kiểm sát quyết định truy tố bị
can ra trước Tòa án để xét xử.



13
Từ những vấn đề nêu trên có thể rút ra khái niệm: Truy tố tội phạm về
ma túy là Viện KSND thực hiện quyền năng theo luật định truy cứu trách
nhiệm hình sự của bị can phạm tội về ma túy ra trước Tòa án để xét xử.
Khi nhận được hồ sơ đề nghị Viện KSND try tố của CQĐT, thì Kiểm
sát viên cần phải nghiên cứu kĩ bản kết luận điều tra để đề xuất xử lí. Nếu
thấy có đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự bị can ra trước Tòa án để
xét xử về một hoặc nhiều tội về ma túy, Kiểm sát viên đề xuất với lãnh đạo
đơn vị xây dựng Cáo trạng.
Cáo trạng chính là văn bản thể hiện quyền lực Nhà nước để kết tội đối
với người đã thực hiện hành vi phạm tội về ma túy.
1.2. ĐẶC ĐIỂM CỦA THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT
ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN VỀ MA TÚY

Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án ma túy của
VKSND mang đầy đủ các đặc điểm của hoạt động tTHQCT và KSĐT các vụ
án hình sự. Nhưng, do tính chất nguy hiểm của tội phạm về ma túy nên hoạt
động này có các đặc điểm sau:
- Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án ma túy luôn gắn với
quan điểm, đường lối chỉ đạo của Đảng về phòng, chống tội phạm ma túy
Thái độ đấu tranh kiên quyết, không khoan nhượng đối với tội phạm về
ma túy của Đảng thể hiện bằng chỉ đạo cụ thể của Bộ Chính trị tại: Chỉ thị số
06 - CT/TW ngày 30/11/1996 về tăng cường chỉ đạo cơng tác kiểm sốt và
phịng, chống ma túy: “…trừng trị kịp thời và nghiêm khắc đối với những kẻ
sản xuất, buôn bán, tàng trữ, tổ chức hoặc cưỡng ép sử dụng ma túy”; Chỉ thị số
21 - CT/TW ngày 26/3/2008 về tiếp tục tăng cường lãnh đạo,chỉ đạo cơng tác
phịng, chống và kiểm sốt ma túy trong tình hình mới gắn trách nhiệm của đảng
viên với tình hình tội phạm về ma túy thuộc địa bàn có trách nhiệm quản lý.
Hoạt động kiểm sát phải lấy pháp luật làm căn cứ, đồng thời phải quán

triệt tư tưởng, chính sách của Đảng. Căn cứ vào các văn kiện Đại hội Đảng;
Nghị quyết, Chỉ thị của Bộ Chính trị, Viện trưởng VKSND tối cao đã chỉ đạo
công tác kiểm sát phòng, chống ma túy bằng các văn bản: Chỉ thị số 04/CT
ngày 18/5/1993 về việc thực hiện Nghị quyết số 06/CP về phòng, chống và


14
kiểm soát ma túy; Chỉ thị số 04/CT - VT ngày 14/06/1997 về công tác kiểm sát
phục vụ Chỉ thị số 06 - CT/TW của Bộ Chính trị về phịng, chống và kiểm soát
ma túy; Kế hoạch số 46/KH - VKSTC - V1C về triển khai thực hiện Chỉ thị số
21 - CT/TW ngày 26/03/2008 của Bộ Chính trị về tiếp tục tăng cường lãnh
đạo, chỉ đạo cơng tác phịng, chống và kiểm soát ma túy; các văn bản chỉ đạo
cơng tác phịng, chống ma túy hàng năm của Viện KSND tối cao.
Lãnh đạo, chỉ đạo công tác này phải dựa trên quan điểm coi đấu tranh
phòng, chống tội phạm về ma túy là một bộ phận trong chiến lược bảo vệ an
ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Mặt khác, hoạt động THQCT và KSĐT
các vụ án ma túy của Viện KSND cần phải luôn bám sát nội dung chỉ đạo của
cấp ủy địa phương , nhưng vẫn đảm bảo độc lập trong quyết định xử lý. Các bị
can trong vụ án ma túy đều bị truy tố tội danh và với mức hình phạt nghiêm
khắc, đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng hành vi. Hàng năm, Viện KSND đã
cùng các cơ quan tiến hành tố tụng lựa chọn các vụ án điểm, tổ chức xét xử lưu
động để tuyên truyền và giáo dục phòng ngừa tội phạm về ma túy.
- Chủ thể của thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án ma
túy phải luôn tuân thủ nghiêm ngặt quy định của pháp luật, mặt khác phải đảm
bảo bí mật và tạo điều kiện cho Cơ quan điều tra hoàn thành nhiệm vụ
Hiến pháp năm 1992 sửa đổi và Bộ luật TTHS năm 2003 quy định chức
năng THQCT và KSĐT của Viện KSND. Luật tổ chức VKSND năm 2002
và Quy chế công tác THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc
điều tra các vụ án hình sự, ban hành kèm theo quyết định số 07/2008/QĐ VKSTC ngày 02/01/2008 của Viện trưởng VKSND tối cao quy định cụ thể
nội dung của hoạt động THQCT và KSĐT các vụ án ma túy. Đây là hoạt

động pháp lý của VKSND quy định của pháp luật để truy cứu trách nhiệm
hình sự người thực hiện hành vi phạm tội về ma túy nhằm đảm bảo việc xử lý
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và giám sát các hoạt động điều tra của
CQĐT, đảm bảo cho các hoạt động điều tra đó được thực hiện đúng luật,
chống làm oan người vô tội và chống bỏ lọt tội phạm.
- Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án
ma túy phải luôn bám sát các hoạt động điều tra, kịp thời đề ra


15
các nội dung yêu cầu điều tra, phát hiện và đề nghị xử lý các
hành vi vi phạm heo quy định của pháp luật.
Theo quy định của Bộ luật TTHS, thì VKSND có chức năng kiểm sát
việc tn theo pháp luật của CQĐT. Hoạt động THQCT và KSĐT của Viện
KSND luôn phải bám sát các hoạt động điều tra của CQĐT thì mới nắm
được nội dung, diễn biến, tiến độ điều tra vụ án. Để giải quyết vụ án ma túy
theo quy định của tố tụng hình sự, CQĐT liên tục phải thực hiện các hoạt
động điều tra để đề ra yêu cầu điều tra cụ thể và CQĐT có trách nhiệm phải
thực hiện các yêu cầu điều tra đó. Đồng thời, Viện KSND phải giám sát việc
thực hiện các yêu cầu điều tra của CQĐT.
Do tính chất, đặc điểm của tội phạm về ma túy, nên KSV không được
ngồi chờ CQĐT cung cấp thông tin, đưa tài liệu sang mà phải chủ động phối
hợp với CQĐT. Khi có thơng tin về vụ án, KSV cần yêu cầu ngay CQĐT
cung cấp tài liệu để nắm được nội dung. Quá trình kiểm sát điều tra, KSV
cần phải chủ động kiểm tra, rà soát thời hạn tam giữ, tạm giam, thời hạn
điều tra để nhắc Điều tra viên làm lệnh mới, như vậy sẽ tránh được tình
trạng quá hạn. Khi hồ sơ đã kết thúc điều tra, VKS ra quyết định đình chỉ,
tạm đình chỉ hoặc truy tố bị can bằng bản Cáo trạng, thì KSV phải thơng báo
cho ĐTV biết, nắm được kết quả xử lý.
- Chủ thể thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án ma túy

phải có kiến thức về pháp luật, trình độ chuyên môn nghiệp vụ kiểm sát, các
kiến thức liên quan, thường xuyên tích lũy kinh nghiệm và kỹ năng tác nghiệp
Thực tế cho thấy các vụ án ma túy có thể xảy ra ở khắp mọi nơi, những
vu án lớn xảy ra ở nhiều quốc gia, do nhiều loại đối tượng gây ra, có vụ án do
nhiều bị can mang quốc tịch khác nhau, hành vi phạm tội của mỗi bị can cũng
có tính chất mức độ khác nhau, do đó chủ thể thực hiện hoạt động THQCT và
KSĐT các vụ án ma túy là KSV phải có kiến thức nắm vững về pháp luật (cả
pháp luật Việt nam và pháp luật quốc tế, pháp luật các nước liên quan); đồng
thời, có trình độ sâu rộng về nghiệp vụ kiểm sát để thực hiện quyền công tố và
giám sát chặt chẽ các hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra. Kiểm sát viên


16
phải nhạy bén, linh hoạt trong giám sát hoạt động điều tra để phát hiện kịp thời
những sai sót, vi phạm của CQĐT và yêu cầu khắc phục. Mặt khác, nắm vững
chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước đối với tội phạm về ma túy, nghiêm
khắc đối với đối tượng chủ nưu cầm đầu nhưng cũng có chính sách hợp lí đối
với đối tượng phạm tội là người chưa thành niên, trẻ em, phụ nữ có thai, người
bị bệnh hiểm nghèo… Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ việc CQĐT thực
hiện chế độ đối với bị can là người nước ngồi, chủ trì trong việc thực hiện
tương trợ tư pháp. Mỗi bị can có đặc điểm nhân thân khác nhau, có điều kiện
và hồn cảnh khác nhau, cho nên KSV phải biết vận dụng linh hoạt các quy
định của pháp luật để định tội, lượng hình, định khung phù hợp.
Các quy định của pháp luật liên quan đến các chất ma túy, tiền chất,
chất gây nghiện, chất hướng thần, các loại thuốc chữa bệnh có chứa chất ma
túy đã rất nhiều và phức tạp, lại thường xuyên thay đổi, đòi hỏi KSV phải
thay đổi liên tục. Thực tế các vụ án ma túy liên quan đến nhiều lĩnh vực xã
hội như: tình trạng thất nghiệp, cuộc sống lam lũ, thiếu đói của đồng bào
vùng cao nơi có điều kiện địa lý phù hợp với trồng cây có chứa chất ma túy,
sự bất công bằng trong xã hội, sự bng lỏng kiểm tra,quản lý, tâm lý thích

mạo hiểm muốn thử cảm giác lại từ các loại ma túy mới của những thanh
niên mới lớn… Tội phạm về ma túy đã dùng nhiều thủ đoạn để che giấu
hành vi phạm tội, trong đó có cả thủ đoạn cho các chất ma túy hoặc tiền chất
phản ứng hóa học với nhau để tạo ra chất khác khơng có trong danh mục
chất ma túy nhằm che mắt cơ quan chức năng. Từ thực tế này cho thấy KSV
cần tích lũy các kiến thức xã hội cũng như kiến thức khoa học có liên quan
đến ma túy để đáp ứng yêu cầu công việc.
- Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án ma túy phải
chuẩn bị phương án xử lý khi gặp điều kiện hồn cảnh khơng thuận lợi cho
việc thu thập chứng cứ, giám sát hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra.
Để có được tiền và các lợi ích vật chất khác từ ma túy, đối tượng phạm
tội không bỏ qua bất cứ thủ đoạn nào để thực hiện tội phạm đến cùng. Tội
phạm về ma túy thường có quan hệ mật thiết với tội phạm về rửa tiền, tội


17
tàng trữ và lưu hành tiền giả, tội phạm buôn bán, tàng trữ vũ khí trái phép,
tội hối lộ… Đối tượng phạm tội có nhiều âm mưu, thủ đoạn vì vậy q trình
thu thập chứng cứ VKSND sẽ gặp khơng ít khó khăn như người liên quan,
người làm chứng khơng dám khai sự thật, cung cấp các thông tin cần thiết
liên quan vì sợ bị trả thù. Quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn điều tra,
Kiểm sát viên phải chuẩn bị những phương án xử lý khi gặp điều kiện, hồn
cảnh khơng thuận lợi như hành vi cản trở việc thu thập chứng cứ, nhiều bị
can đồng loạt phản cung, quá trình điều tra xuất hiện tình tiết mới gây khó
khăn cho hoạt động THQCT và KSĐT, tác động tiêu cực của những người
có chức vụ, quyền hạn mà lợi ích của họ gắn liền với hoạt động phạm tội về
ma túy trong vụ án đang KSĐT. Đối với những vụ án lớn liên quan đến cán
bộ, đảng viên thuộc các cơ quan Nhà nước, cơ quan tiến hành tố tụng, thì địi
hỏi KSV phải sắc sảo, bản lĩnh, kiên định lập trường để ứng phó với chiến
thuật “không khai báo”, đổ tội cho đồng bọn nhằm đánh lạc hướng KSV

hoặc những sức ép bởi những mối quan hệ khơng có lợi cho KSV… Ngồi
ra, KSV cịn phải đề phịng trường hợp vụ án bị “chặt đi”, bưng bít thơng
tin về những đối tượng liên quan mà thực tế đã xảy ra.
Để thực hiện các tác nghiệp cụ thể, giải quyết vụ án ma túy theo quy định
của Bộ luật TTHS và các văn bản dưới luật, Kiểm sát viên phải trực tiếp đối mặt
với bị can phạm tội về ma túy khi hỏi cung, lấy lời khai, tống đạt lệnh, cáo
trạng, thực nghiệm điều tra… đa số họ đã nghiện ma túy, trong số đó khơng ít đã
bị nhiễm HIV/AIDS và các bệnh dễ lây nhiễm nguy hiểm khác.
1.3. NỘI DUNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU
TRA CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN VỀ
MA TÚY

1.3.1. Thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân trong
điều tra các vụ án ma túy
- Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố trong khởi tố.
Điểm nổi bật của THQCT trong giai đoạn này là quyền yêu cầu CQĐT
khởi tố, quyền khởi tố vụ án và quyền phê chuẩn quyết định khởi tố bị can
của Cơ quan điều tra.


18
Khi thực hành quyền công tố giải quyết tin báo tội phạm về ma túy,
phát hiện có tố giác, tin báo có dấu hiệu phạm tội, thì VKSND u cầu
CQĐT khởi tố. Nếu yêu cầu của Viện KSND chưa được giải quyết theo thời
hạn luật định, thì CQĐT phải nên rõ lý do, hướng giải quyết và thông báo
kết quả cho Viện KSND cùng cấp theo Điều 103 Bộ luật TTHS.
Viện KSND chỉ ra quyết định khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp
Viện KSND hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án của CQĐT và trong
trường hợp Hội đồng xét xử yêu cầu khởi tố vụ án. Việc khởi tố vụ án hình
sự được thực hiện theo quy định tại các Điều 100, 104, 105 Bộ luật TTHS.

Sau khi Viện KSND ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can sẽ đề nghị
CQĐT thực hiện các hoạt động điều tra.
Viện KSND thay đổi quyết định khởi tố vụ án trong trường hợp thay
đổi tội danh. Không áp dụng việc thay đổi quyết định khởi tố vụ án nếu qua
điều tra xác định được hành vi của bị can phạm vào tội nặng hơn cùng tội
danh đã khởi tố.
Đối với việc bổ sung, thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, nếu thấy
quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự của CQĐT
chưa đủ căn cứ hoặc khơng có căn cứ thì VKSND có văn bản u cầu bổ sung
tài liệu, chứng cứ hoặc đưa ra quyết định hủy bỏ; nếu CQĐT khơng nhất trí và
rõ ràng việc thay đổi, bổ sung này là khơng có căn cứ thì VKSND có thể ra
quyết định hủy bỏ.
Trường hợp có căn cứ thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án
hình sự, Viện KSND có văn bản u cầu CQĐT ra quyết định. Nếu đã yêu
cầu mà CQĐT khơng nhất trí, thì VKSND ra quyết định thay đổi hoặc bổ
sung quyết định khởi tố vụ án hình sự và trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra
quyết định phải gửi cho CQĐT để điều tra theo đúng quy định tại khoản 2
Điều 106 Bộ luật TTHS.
Viện KSND chỉ ra quyết định khỏi tố bị can đối với trường hợp sau khi
nhận hồ sơ và kết luận điều tra mà phát hiện có người khác đã thực hiện
hành vi phạm tội trong vụ án mà chưa bị khởi tố thì KSV báo cáo Viện


19
trưởng hoặc Phó Viện trưởng để xem xét, quyết định việc khởi tố bị can theo
quy định tại khoản 5, Điều 126 Bộ luật TTHS.
Đối với việc phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, nếu thấy chưa rõ căn
cứ xác định bị can phạm tội, thì KSV yêu cầu CQĐT đã khởi tố bổ sung tài
liệu, chứng cứ để làm rõ căn cứ khởi tố. Kiểm sát viên được phân cơng
THQCT và KSĐT vụ án có thể hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm

chứng, người bị hại để làm rõ căn cứ khởi tố bị can trước khi báo cáo Viện
trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được ủy quyền xem xét, quyết
định việc phê chuẩn hay hủy bỏ quyết định khởi tố bị can. Các bản cung,
biên bản ghi lời khai của những người này do KSV lập được chuyển cho
CQĐT ra quyết định khởi tố để đưa vào vụ án.
Trong phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, quyết định thay đổi hoặc bổ
sung quyết định khởi tố bị can, để đảm bảo việc phê chuẩn có căn cứ chính
xác, CQĐT phải gửi đầy đủ, kịp thời cho VKS các tài liệu theo quy định tại
điểm 13 của TTLT số 05/TTLT - VKSTC - BCA - BQP ngày 07/9/2005 của
Viện KSND tối cao, Bộ Cơng an, Bộ Quốc phịng về quan hệ phối hợp giữa
CQĐT và Viện KSND trong thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2003.
- Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố trong áp dụng, thay
đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn.
Theo quy định tại khoản 4, Điều 112 Bộ luật Tố tụng hình sự, thì Viện
KSND có nhiệm vụ, quyền hạn “Quyết định áp dụng, thay đổi, hoặc huỷ bỏ
biện pháp tạm giữ, tạm giam và các biện pháp ngăn chặn khác”.
Viện KSND được ra lệnh, quyết định lệnh bắt bị can để tạm giam., lệnh
tạm giam, lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú… quyết định phê chuẩn, không phê chuẩn
về các quyết định về áp dụng các biện pháp ngăn chặn của Cơ quan điều tra.
Khi nhận được đề nghị gia hạn tạm giữ, Viện KSND phải ra quyết định
phê chuẩn hoặc không phê chuẩn. Nếu phát hiện tài liệu chưa đủ để quyết
định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn thì yêu cầu CQĐT bổ sung.


20
Trong thời hạn tạm giữ hoặc gia hạn tạm giữ, Viện KSND thấy không
đủ căn cứ để khởi tố bị can thì trả tự do ngay cho người bị tạm giữ. Nếu hết
thời hạn tạm giữ hoặc hết thời hạn gia hạn tạm giữ, nếu khơng có đủ căn cứ
để khởi tố bị can thì phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.

Trong thời hạn quy định, Kiểm sát viên phải báo cáo Viện trưởng, Phó
Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng ủy quyền xem xét quyết
định việc phê chuẩn và hoàn trả hồ sơ ngay cho CQĐT. Ngồi ra, Viện KSND
có quyền u cầu CQĐT ra lệnh hoặc tự mình ra lệnh bắt bị can để tạm giam
khi xét thấy có đủ căn cứ và cần thiết. Viện KSND có văn bản yêu cầu CQĐT
bổ sung tài liệu chứng cứ (tài liệu phê chuẩn chưa rõ chứng cứ) để xem xét,
quyết định việc phê chuẩn.
Lệnh bắt khẩn cấp khơng cần có sự phê chuẩn trước của Viện KSND,
nhưng ngay sau khi đã thực hiện lệnh bắt, Cơ quan thực hiện phải báo ngay cho
VKS cùng cấp bằng văn bản kèm theo các tài liệu liên quan để xét phê chuẩn.
Thực hành quyền công tố của VKSND trong áp dụng thay đổi, hủy bỏ
các biện pháp ngăn chặn còn được thể hiện bằng việc Viện KSND ra quyết
định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp, quyết định phê
chuẩn hoặc không phê chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ, quyết định hủy bỏ
quyết định gia hạn tạm giữ,quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn lệnh
bắt bị can để tạm giam, quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn lệnh
tạm goam, quyết định gia hạn hoặc không gia hạn tạm giam…
Các trường hợp đã có phê chuẩn bắt giam của Viện KSND, nhưng
khơng bắt được đối tượng thì KSV cần phải kiểm tra kỹ biên bản hoạt động
tố tụng của bị CQĐT để xác định rõ lý do. Đối với các bị can có đề nghị phê
chuẩn của CQĐT trong trường hợp họ đang bị tạm giữ hoặc gia hạn tạm giữ,
Cơ quan điều tra phải giao hồ sơ đề nghị phê chuẩn quyết định khởi tố bị can
và đề nghị phê chuẩn lệnh tạm giam cho Viện KSND cùng cấp. Nếu chưa đủ
căn cứ khởi tố bị can, nhưng có căn cứ gia hạn tạm giữ thì Viện KSND yêu cầu
CQĐT ra quyết định tạm giữ và gửi ngay cho Viện KSND xét phê chuẩn.


21
Các biện pháp ngăn chặn do VKSND phê chuẩn theo quy định tại
khoản 2 Điều 94 Bộ luật TTHS, thì VKSND có quyền quyết định việc thay

đổi hoặc hủy bỏ.
Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố trong quá trình Cơ
quan điều tra thực hiện các hoạt động điều tra.
Viện KSND thực hành quyền công tố trong quá trình điều tra vụ án
theo quy định của Bộ luật TTHS bao gồm: đề ra yêu cầu điều tra; yêu cầu Cơ
quan điều tra thay đổi ĐTV; yêu cầu CQĐT khởi tố Điều tra viên nếu hành vi
của Điều tra viên có dấu hiện tội phạm; hủy bỏ các quyết định khơng có căn
cứ, trái pháp luật của CQĐT; trực tiếp thực hiện các hoạt động điều tra, đánh
giá chứng cứ, đối chất…
Theo quy định của Bộ luật TTHS, thì trong giai đoạn điều tra, KSV có
quyền và trách nhiệm đề ra yêu cầu điều tra. Yêu cầu điều tra của KSV có ý
nghĩa rất quan trọng đối với kết quả điều tra của Cơ quan CSĐT. Hiệu quả
và tính kịp thời của hoạt động điều tra phụ thuộc rất nhiều vào việc đề ra các
yêu cầu điều tra. Kiểm sát viên đề ra yêu cầu điều tra kịp thời, đúng những
vẫn đề cần phải điều tra sẽ hạn chế được tình trạng trả điều tra bổ sung và
những sai sót khác. Việc đề ra yêu cầu của KSV phải được thực hiện ngay từ
khi vụ án mới khởi tố và và xuyên suốt quá trình điều tra. Kiểm sát viên phải
phát hiện những vấn đề cần tiếp tục tiến hành làm rõ để yêu cầu CQĐT tiến
hành điều tra như: xác minh, làm rõ vai trò của đối tượng liên quan, yêu cầu
xác minh về lời khai của bị can…
Nếu hành vi của ĐTV có dấu hiệu tội phạm, thì VKSND khởi tố về
hình sự.
Viện KSND ra quyết định hủy bỏ các quyết định trái pháp luật của
CQĐT; đối với các quyết định của Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra mà Bộ
luật TTHS khơng quy định phải có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát, khi phát
hiện không có căn cứ và trái pháp luật thì Thủ trưởng CQĐT quyết định thay
đổi, hủy bỏ. Ngay sau khi ra quyết định thay đổi, hủy bỏ, CQĐT phải gửi


22

các quyết định này cho VKS cùng cấp và những người tham gia tố tụng có
liên quan.
Trường hợp các quyết định của Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra mà
Bộ luật Tố tụng hình sự quy định phải có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát
nhưng chưa gửi sang Viện kiểm sát, nếu phát hiện khơng có căn cứ, trái
pháp luật thì Thủ trưởng CQĐT ra quyết định thay đổi hoặc hủy bỏ. Khi các
quyết định này đã gửi sang Viện kiểm sát, nhưng VKS chưa quyết định việc
phê chuẩn thì Thủ trưởng CQĐT có văn bản đề nghị VKS để rút các quyết
định này và ra quyết định thay đổi hoặc hủy bỏ; nếu VKS khơng đồng ý thì
việc thay đổi hoặc hủy bỏ theo quy định tại khoản 5 Điều 112 Bộ luật Tố
tụng hình sự .
Đối với các quyết định của Phó Thủ trưởng CQĐT đã được VKS phê
chuẩn mà phát hiện khơng có căn cứ và trái pháp luật thì Thủ trưởng CQĐT
kiến nghị Viện trưởng VKS cùng cấp hoặc VKS cấp trên trực tiếp ra quyết
định thay đổi hoặc hủy bỏ và phải gửi cho CQĐT để thực hiện.
Thực nghiệm điều tra nhằm xác minh những tài liệu, tình tiết của vụ án
có mẫu thuẫn thực tế khách quan với những chứng cứ có trong vụ án; quy
trình sản xuất hoặc cất giấu ma túy tại một địa điểm hoặc một đơn vị nào đó.
Sau khi VKSND nhận hồ sơ vụ án, qua nghiên cứu thấy cần thiết phải
thực nghiệm điều tra hoặc thực nghiệm điều tra để kiểm tra, đánh giá chứng
cứ, tình tiết vụ án thì KSV báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc KSV
được Viện trưởng ủy quyền trả hồ sơ cho CQĐT thực nghiệm điều tra hoặc
thực nghiệm điều tra lại. Kiểm sát viên có thể trực tiếp hoặc cùng Điều tra
viên tiến hành thực nghiệm điều tra, việc thực nghiệm điều tra của Viện
KSND phải được lập thành biên bản theo mẫu quy định.
Trong quá trình điều tra và sau khi kết thúc điều tra, Kiểm sát viên có
quyền thực hành quyền công tố thông qua việc chủ động triệu tập lấy lời khai.
Khi hồ sơ đã chuyển sang VKSND, thấy cần bổ sung tài liệu, chứng cứ, thì KSV
có thể triệu tập và lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, người có quyền lợi
và nghĩa vụ liên quan đến vụ án để kiểm tra chứng cứ trong các trường hợp lời



23
khai của họ mẫu thuẫn với nhau hoặc mâu thuẫn với những chứng cứ khác đã
thu thập hoặc có nghi ngờ về tính trung thực, khách quan trong lời khai của họ.
Việc triệu tập lấy lời khai của những người này phải tiến hành theo quy định tại
các Điều 133, 135 và 136 của Bộ luật TTHS. Trường hợp cần thiết, KSV đồng
thời với việc lấy lời khai có thể tiến hành ghi âm, chụp ảnh, ghi hình.
Việc hỏi cung, phúc cung bị can của KSV trong vụ án ma túy giữ vai trò
quan trọng. Đối với những vụ án lớn, đơng bị can, có bị can nhiều tiền án về tội
ma túy, bị can không nhận tội, bị can phản cung thì KSV phải đấu lí, đấu trí
quyết liệt với bị can mới tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Kiểm sát viên phải
chủ động bàn với ĐTV về kế hoạch và đề ra yêu cầu hỏi cung bị can ngay sau
khi khởi tố bị can để làm rõ những vấn đề liên quan đến tội phạm đã khởi tố.
Cần chú ý những bị can đã có tiền án, những đối tượng cầm đầu đường dây mua
bán, khi hỏi cung phải vận dụng linh hoạt các chiến thuật hỏi cung, khai thác các
yếu tố tâm lí, đặc điểm nhân thân các bị can để có được lời khai báo trung thực.
Nếu phát hiện mẫu thuẫn trong các lời khai, Kiểm sát viên có thể cho đối chất.
Trách nhiệm chính thu thập chứng cứ các vụ án hình sự nói chung, các
vụ án ma túy nói riêng thuộc về CQĐT. Tuy nhiên, Viện KSND có vai trị
quan trọng trong thu thập và đánh giá chứng cứ nhằm đảm bảo việc giải
quyết vụ án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Hoạt động kiểm sát việc
thu thập, đánh giá chứng cứ của VKSND là hoạt động xuyên suốt quá trình
thụ lí, điều tra vụ án, góp phần đảm bảo việc phát hiện, điều tra, xử lý tội
phạm đúng đắn, không bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội. Để thực
hiện tốt nhiệm vụ này, KSV phải nắm vững quy định của Bộ luật TTHS về
lấy lời khai người làm chứng, bị hại, người có quyền và nghĩa vụ liên quan
để giám sát thực hiện các hoạt động này của CQĐT.
Nhiều vụ án ma túy được điều tra theo biện pháp truy xét. Do đó, chứng
cứ buộc tội chỉ dựa trên lời khai, vì vậy khi đánh giá chứng cứ KSV cần phải

thận trọng xem xét đầy đủ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, cân nhắc cả chứng
cứ buộc tội lẫn chứng cứ gỡ tội để đối chiếu với các quy định trong Bộ luật
hình sự và các văn bản hướng dẫn liên quan. Nếu thấy lời khai của các bị can


24
với người làm chứng, người làm chứng với người liên quan có mâu thuẫn, thì
Kiểm sát viên phải vạch kế hoạch đối chất hoặc yêu cầu Cơ quan điều tra làm
rõ. Trong trường hợp khó khăn, Viện kiểm sát nhân dân tổ chức họp lấy ý kiến
tập thể hoặc báo cáo lãnh đạo cấp trên cho ý kiến chỉ đạo giải quyết.
- Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố sau khi Cơ quan
điều tra kết thúc điều tra vụ án.
Sau khi kết thúc điều tra vụ án, Viện KSND nghiên cứu hồ sơ và thực
hành quyền công tố bằng một trong các quyết định: truy tố bị can bằng bản
cáo trạng, đình chỉ điều tra, tạm đình chỉ điều tra, trả hồ sơ vụ án để điều tra
bổ sung.
Quyết định việc truy tố bị can: sau khi nghiên cứu hồ sơ kết thúc điều
tra, Kiểm sát viên phải kiểm tra chứng cứ đối với từng bị can. Nếu thấy có gì
nghi ngờ vè tài liệu, chứng cứ, có bị can phải chịu mức án tử hình, vụ án có
nhiều tình tiết phức tạp hoặc để củng cố tài liệu, chứng cứ phục vụ cho việc
truy tố thì Kiểm sát viên phải trực tiếp đi hỏi cung bị can, đây chính là việc
thẩm định lại chứng cứ vụ án. Nếu thấy có đầy đủ chứng cứ, thì KSV đề xuất
với lãnh đạo đơn vị truy tố bị can ra trước Tòa án bằng bản cáo trạng.
Quyết định truy tố bị can là hoạt động công tố nổi bật trong điều tra vụ
án ma túy. Bản cáo trạng chính là văn bản pháp lý mang tính quyền lực Nhà
nước do Viện kiểm sát lập ra để truy tố bị can trước Tòa án, đánh dấu sự kết
thúc của giai đoạn điều tra, mở ra giai đoạn xét xử và giới hạn phạm vuii xét
xử của Tòa án, đồng thời là cơ sở để những người tham gia tố tụng thực hiện
quyền và nghĩa vụ của mình tại phiên tịa. Cáo trạng vụ án ma túy là sự thể
hiện quan điểm của Nhà nước đối với các tội phạm về ma túy và người

phạm tội về ma túy.
Nội dung bản cáo trạng phải nêu được các căn cứ pháp lý xác định việc
truy tố của Viện KSND đối với bị can; mô tả được hành vi phạm tội của các
bị can; viện dẫn chứng cứ để chứng minh; căn cứ để Viện kiểm sát buộc tội
bị can trước phiên Tòa (ghi rõ tội danh, điều luật). Phần kết luận phải khái
quát được tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội và vai trò của từng bị


25
can, nếu có nhiều bị can nhiều hành vi phạm tội, phạm tội trong thời gian dài
thì phải kết luận tổng hợp chung sau đó cá thể hóa trách nhiệm hình sự của
từng bị can, sắp xếp vai trị, vị trí của từng bị can. Khi viết Cáo trạng, KSV
phải trích lục hành vi phạm tội theo các số bút lục để trích dẫn, ngơn ngữ
phải mang tính pháp lý.
Trong vụ án có bị can là vị thành niên cần ghi rõ ngày, tháng, năm sinh
chính xác theo giấy khai sinh hoặc căn cứ các tài liệu có giá trị pháp lý về
tuổi của bị can.
Cáo trạng phải đảm bảo về hình thức theo quy định của “Luật ban hành
văn bản quy phạm pháp luật” và theo mẫu số 107 ban hành kèm theo Quyết
định số 67/QĐ - VKSTC ngày 02/1/2008 của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tố cao.
Hoàn thành Cáo trạng, Kiểm sát viên giao cho mỗi bị can một bản (có
lập biên bản và cho bị can kí nhận), để trong hồ sơ chính và hồ sơ kiểm sát,
đồng thời phải gửi cho Cơ quan điều tra 1 bản
Đình chỉ điều tra vụ án: Viện kiểm sát nhân dân có thẩm quyền ra quyết
định đình chỉ điều tra vụ án khi hồ sơ vụ án ở Viện kiểm sát nhân dân căn cứ
cứ khoản 2 Điều 164 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. Viện KSND ra
quyết định đình chỉ điều tra và gửi quyết định đình chỉ điều tra cho Cơ quan
đang tiến hành tố tụng cùng cấp biết. Nếu có một trong những căn cứ quy
định tại khoản 2 Điều 105 và Điều 107 Bộ luật TTHS hoặc tại Điều 19, 25

và khoản 2 Điều 69 Bộ luật TTHS thì ra quyết định đình chỉ vụ án hoặc đình
chỉ vụ án đối với bị can.
Tạm đình chỉ vụ án: Viện kiểm sát căn cứ Điều 160 Bộ luật TTHS năm
2003 ra quyết định tạm đình chỉ điều tra vụ án. Nếu thấy CQĐT tạm đình
chỉ khơng có căn cứ pháp luật thì VKS ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm
đình chỉ điều tra đó.
Nếu hồ sơ ở VKSND mà thấy đủ căn cứ để tạm đình chỉ vụ án thì VKS
ra quyết định tạm đình chỉ vụ án và gửi cho CQĐT cùng cấp biết.


×