Tải bản đầy đủ (.doc) (115 trang)

Luận văn thạc sĩ luật học -Thực hiện pháp luật bảo vệ và phát triển rừng ở tỉnh cao bằng”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 115 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Để xây dựng “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”
[47, tr.2], Nhà nước phải được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp
luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ. Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn
trọng Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân,
lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân; kiên quyết đấu tranh
chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền;
đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, Nhà nước phải tổ chức
thực hiện pháp luật đúng đắn, đầy đủ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Thực tiễn quá trình 28 năm đổi mới đất nước cho thấy: tổ chức thực
hiện pháp luật, bảo đảm cho các quy định của pháp luật được thi hành trên
thực tế là một chức năng cực kỳ quan trọng.
Trong qúa trình tổ chức thực hiện pháp luật trên mọi lĩnh vực của nền
kinh tế - xã hội, chúng ta đã đạt được những tiến bộ trong thực tiễn, từ việc
nghiên cứu, tổ chức thực hiện, tổng kết đánh giá và hoàn thiện lý luận về thực
hiện pháp luật trên bốn hình thức là tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật,
sử dụng pháp luật, áp dụng pháp luật; đồng thời góp phần hồn thiện hệ thống
pháp luật, trong đó có pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng, một lĩnh vực của
đời sống xã hội; thiết lập hành lang pháp lý cho hoạt động quản lý nhà nước
và điều chỉnh các hành vi xã hội.
Rừng là tài nguyên phong phú và vô cùng quý giá của đất nước. Rừng
đóng một vai trị rất quan trọng đối với đời sống con người, do đặc tính sinh
học mà rừng như một cỗ máy kỳ diệu, hấp thụ khí độc, khí bụi bẩn và trả lại
cho mơi trường là những chất khí sạch sẽ trong lành. Bởi vậy mà rừng còn
được gọi là “lá phổi xanh của Trái Đất”. Tác dụng của rừng đối với kinh tế xã hội, phòng, chống thiên tai địch họa rất đa dạng. Rừng cung cấp gỗ, củi,
các nguyên liệu cho công nghiệp và phục vụ các nhu cầu thiết yếu của nhân



2
loại. Rừng giữ vai trò điều tiết chủ yếu nhất trong cân bằng thành phần đại khí
quyển trên địa cầu.
Rừng có tác dụng cung cấp dưỡng khí, hút các khí thải độc hại. Mỗi
ha rừng mỗi ngày hấp thụ 1.000 kg khí CO2 đồng thời lại nhả ra
730 kg O2. Vì thế rừng có tác dụng duy trì sự cân bằng O 2 và CO2
trong khí quyển. Một số lồi cây cịn có khả năng hấp thụ các khí
thải độc hại (SO2, CL2 , NO2…) từ các nhà máy thải ra. Cây rừng
cịn có tác dụng diệt khuẩn, hút bụi. Nơi khơng có rừng, bụi trong
khơng khí tăng gấp 15 lần so với nơi có rừng. Rừng có thể làm giảm
tiếng ồn. Với đai rừng rộng 40m có thể làm giảm tiếng ồn 10-15 (đề
xi ben) [57, tr.7-8].
Rừng cịn có tác dụng nuôi dưỡng nguồn nước, bảo vệ đất, chống xói
mịn, phục vụ đắc lực cho các ngành kinh tế khác phát triển như nông nghiệp,
thủy lợi, giao thông. Rừng là sinh cảnh sống, cư trú của động vật hoang dã,
mất rừng, nhiều động vật hoang dã bị mất theo. Rừng cịn có tác dụng đối với
quốc phịng, là chướng ngại tự nhiên đặc sắc.
Do bị tàn phá, bị khai thác quá mức để phục vụ cho đời sống dân sinh,
do ý thức bảo vệ rừng chưa cao, việc thực hiện pháp luật bảo vệ rừng chưa tốt
và do nhiều nguyên nhân khác dẫn đến rừng bị tàn phá nặng nề, tài nguyên
rừng bị suy kiệt đến mức báo động nghiêm trọng dẫn đến đất đai bị xói mịn,
mơi trường sống bị hủy hoại, làm mất cân bằng sinh thái, đe dọa sự phát triển
bền vững. Trước biến đổi của khí hậu tồn cầu thì việc bảo vệ rừng, thực hiện
pháp luật bảo vệ và phát triển rừng được tốt để giảm thiểu sự gia tăng của
biến đổi khí hậu và hiệu ứng nhà kính ngày càng trở nên cấp bách.
Thực trạng mất rừng có nhiều nguyên nhân, trong đó một trong những
nguyên nhân quan trọng là việc tổ chức thực hiện pháp luật về bảo vệ và phát
triển rừng thiếu nghiêm minh.
Khẳng định vai trò, tầm quan trọng của rừng đối với đời sống xã hội,

trong công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước
ta đã xác định các nhiệm vụ “Cải thiện chất lượng môi trường. Đến năm 2020,
tỉ lệ che phủ rừng đạt 45%” [28, tr.105], “Cải thiện và phục hồi môi trường


3
các khu vực bị ô nhiễm nặng. Hạn chế tác hại của thiên tai; chủ động ứng phó
có hiệu quả với biến đổi khí hậu, nhất là nước biển dâng” [28, tr.106].
Phát triển lâm nghiệp bền vững. Quy hoạch và có chính sách phát triển
phù hợp các loại rừng sản xuất, rừng phòng hộ và rừng đặc dụng với
chất lượng được nâng cao. Nhà nước đầu tư và có chính sách đồng bộ
để quản lý và phát triển rừng phòng hộ và rừng đặc dụng, đồng thời
bảo đảm cho người nhận khốn chăm sóc, bảo vệ rừng có cuộc sống
ổn định. Khuyến khích các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần
kinh tế đầu tư trồng rừng sản xuất; gắn trồng rừng nguyên liệu với
công nghiệp chế biến ngay từ trong quy hoạch và dự án đầu tư; lấy
nguồn thu từ rừng để phát triển rừng và làm giàu từ rừng [28, tr.115].
Tỉnh Cao Bằng có đặc thù riêng về địa lý, có nhiều đồi núi, đồi núi
chiếm 90% diện tích tồn tỉnh, có đường biên giới; Rừng Cao Bằng gắn liền
với lịch sử và phát triển bền vững nền kinh tế - xã hội của địa phương. Vì vậy,
bảo vệ rừng, tổ chức tốt việc thực hiện pháp luật về bảo vệ rừng là một địi
hỏi khách quan, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
Là giảng viên Trường Chính trị Hồng Đình Giong tỉnh Cao Bằng, giảng
dạy về nhà nước và pháp luật nói chung và giảng dạy về việc thực hiện pháp luật
bảo vệ và phát triển rừng nói riêng, qua thực tiễn cơng tác, qua học tập, nghiên
cứu tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, kết hợp giữa lý luận đã học và
thực tiễn địa phương tỉnh Cao Bằng, tôi chọn đề tài: “Thực hiện pháp luật bảo
vệ và phát triển rừng ở tỉnh Cao Bằng” làm đề tài luận văn thạc sĩ với mục đích
làm rõ thêm phần nhận thức lý luận và tổng kết thực tiễn, đề xuất các giải pháp

tổ chức thực hiện có hiệu quả cơng tác bảo vệ và phát triển rừng trên địa bàn Cao
Bằng. Qua đó góp phần nhỏ bé vào sự nghiệp bảo vệ và phát triển rừng nói
chung và bảo vệ và phát triển rừng trên địa bàn tỉnh Cao Bằng nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Để xây dựng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân
thì cần phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tổ chức thực hiện


4
pháp luật vào đời sống thực tế. Vấn đề thực hiện pháp luật trong xã hội đã và
đang được đặt ra như một nhiệm vụ nghiên cứu đối với khoa học quản lý nhà
nước và luật học. Vì vậy, nhiều năm qua đã có nhiều cơng trình nghiên cứu
những vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hiện pháp luật nói chung và thực
hiện pháp luật đối với một số lĩnh vực cụ thể của đời sống xã hội.
Căn cứ vào những nội dung chủ yếu của các công trình khoa học đã
cơng bố có liên quan đến thực hiện pháp luật, luận văn này hệ thống theo ba
nhóm là: Nhóm các cơng trình nghiên cứu các vấn đề chung về thực hiện
pháp luật; Nhóm các cơng trình nghiên cứu về thực hiện pháp luật trong một
số lĩnh vực của đời sống xã hội và nhóm cơng trình nghiên cứu có liên quan
đến thực hiện pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng.
Nhóm cơng trình nghiên cứu về thực hiện pháp luật nói chung:
Trong nhóm này, trước hết là những giáo trình giảng dạy lý luận chung
về Nhà nước và Pháp luật, đề cập đến những vấn đề lý luận cơ bản về thực
hiện pháp luật, có thể nêu một số tài liệu như:
- Giáo trình Nhà nước và Pháp luật, Học viện chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, Nxb lý luận chính trị, Hà Nội, 1999.
- Tài liệu học tập và nghiên cứu môn học lý luận chung về Nhà nước và
Pháp luật, Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Nxb lý luận chính trị,
Hà Nội, 2005.

- Giáo trình lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật, Học viện Hành
chính quốc gia, Nxb lý luận chính trị, Hà Nội, 2007.
- Giáo trình lý luận Nhà nước và Pháp luật, Trường Đại học Luật Hà
Nội, Nxb Công An nhân dân, Hà Nội, 2013.
- Tập bài giảng xã hội học pháp luật của TS.Ngọ Văn Nhân, Trưởng bộ
môn Xã hội học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
- Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay - một số vấn đề lý luận và thực tiễn của nhóm các tác giả Viện
Nhà nước và Pháp luật - Viện Khoa học xã hội Việt Nam do GS.TS. Đào Trí
Úc và PGS.TS. Phạm Hữu Nghị đồng chủ biên, Nxb Từ điển Bách khoa Hà
Nội, năm 2009.


5
- Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin về
xây dựng nhà nước pháp quyền của Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh,
do TS. Phạm Ngọc Dũng chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội năm 2009…
Các cơng trình này đã đưa ra những lý luận (khái niệm, các hình thức,
ngun tắc thực hiện pháp luật…). Ngồi ra, cũng cịn một số ấn phẩm nghiên
cứu một số khía cạnh chung về pháp luật, về thực hiện pháp luật, về xây dựng
nhà nước pháp quyền.
Nhóm cơng trình nghiên cứu về thực hiện pháp luật trong một số
lĩnh vực của đời sống xã hội:
Các cơng trình khoa học đã cơng bố trong nhóm này phần lớn là các
luận án tiễn sỹ và các luận văn thạc sĩ. Các tác giả phân tích, làm rõ thêm cơ
sở lý luận về thực hiện pháp luật nói chung, đồng thời tập trung luận giải về lý
luận thực hiện pháp luật trong lĩnh vực nghiên cứu, đưa ra những giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật. Do đời sống xã hội rất đa dạng
và phong phú, nên các cơng trình thuộc nhóm nay cũng rất đa dạng. Một số
cơng trình nghiên cứu gần đây như:

- Luận văn thạc sĩ: Thực hiện pháp luật đê điều ở tỉnh Ninh Bình hiện
nay của Quách Thị Ngọc Chính, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia
Hồ Chí Minh, năm 2008.
- Luận văn thạc sĩ: Thực hiện pháp luật về người khuyết tật ở Việt Nam
hiện nay của Nguyễn Trung Thành, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia
Hồ Chí Minh, năm 2009.
- Luận văn thạc sĩ Thực hiện pháp luật về phòng, chống HIV/AIDS qua
thực tiễn tại Quảng Ninh của Nguyễn Thị Hương, Học viện Chính trị - Hành
chính Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2009.
Nhóm cơng trình nghiên cứu có liên quan đến thực hiện pháp luật
về bảo vệ và phát triển rừng:
Đến nay, đã có một số cơng trình nghiên cứu khoa học được công bố
về quản lý nhà nước bằng pháp luật, hoàn thiện và tổ chức thực hiện pháp
luật trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng ở phạm vi cấp quốc gia và một
số địa phương cấp tỉnh; các cơng trình này đã hệ thống hóa, đi sâu phân tích
các vấn đề lý luận và thực tiễn của nội dung nghiên cứu, trong đó có vấn đề


6
thực hiện pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng. Đại diện cho nhóm này có
các cơng trình:
- Luận văn thạc sĩ: Một số vấn đề cơ bản về Luật Bảo vệ và Phát triển
rừng ở Việt Nam của Nguyễn Thanh Huyền, chuyên ngành Lý luận lịch sử
nhà nước và pháp luật, năm 2004;
- Luận án tiến sĩ: Quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực bảo
vệ và phát triển rừng ở Việt Nam của Hà Công Tuấn, chuyên ngành Lý luận
lịch sử nhà nước và pháp luật, năm 2006.
- Luận văn thạc sĩ: Vai trò quản lý nhà nước đối với lĩnh vực bảo vệ và
phát triển rừng ở Việt Nam của Võ Mai Anh, chuyên ngành Lý luận lịch sử
nhà nước và pháp luật, năm 2006.

- Luận văn thạc sĩ: Thực hiện pháp luật bảo vệ và phát triển rừng trên
địa bàn tỉnh Bình Phước của Lê Văn Quyến, chuyên ngành Lý luận lịch sử
nhà nước và pháp luật, năm 2009.
- Luận văn thạc sĩ: Thực hiện pháp luật bảo vệ rừng ở tỉnh Quảng Ninh
hiện nay của Tăng Xuân Phương, chuyên ngành Lý luận lịch sử nhà nước và
pháp luật, năm 2010.
Ngồi ra, có liên quan đến vấn đề thực hiện pháp luật cũng cần kể đến
một số cơng trình nghiên cứu về tăng cường pháp chế trong lĩnh vực bảo vệ
và phát triển rừng, quản lý nhà nước về bảo vệ và phát triển rừng, nghiên cứu
về tổ chức và hoạt động của lực lượng kiểm lâm. Những cơng trình này đã đề
cập đến vai trò của pháp luật trong quản lý nhà nước về bảo vệ và phát triển
rừng; những khía cạnh lý luận và thực tiễn tổ chức thực hiện pháp luật về bảo
vệ và phát triển rừng.
Như vậy, đề tài luận văn khơng trùng lặp với các cơng trình khoa học
đã công bố. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của các cơng trình khoa học trên
đây là tài liệu tham khảo có giá trị cho tác giả trong q trình nghiên cứu và
hoàn thiện luận văn này, nhiều vấn đề lý luận đã được ghi nhận trong kết quả
nghiên cứu nêu trên đây đã giảm bớt nhiều công sức và tạo điều kiện để luận
văn này tập trung giải quyết những vấn đề có tính đặc thù về thực hiện pháp
luật trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng tại tỉnh Cao Bằng.


7
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu, hệ thống hóa những lý luận và phân tích, đánh
giá thực trạng và thực hiện pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng trên địa bàn
tỉnh Cao Bằng, luận văn phân tích sâu sắc thêm về lý luận, tìm ra những mặt
tích cực, yếu kém và nguyên nhân của chúng, xác lập quan điểm và đề xuất
giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng ở tỉnh Cao

Bằng hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Tìm hiểu, làm rõ cơ sở lý luận về thực hiện pháp luật về bảo vệ và
phát triển rừng.
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động thực hiện pháp luật về bảo vệ
và phát triển rừng ở tỉnh Cao Bằng, tìm hiểu những nhân tố tích cực và hiệu
quả; phát hiện những thiếu sót, bất cập, hạn chế, cản trở, nguyên nhân của nó.
- Đề xuất các quan điểm và các giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện pháp
luật về bảo vệ và phát triển rừng ở tỉnh Cao Bằng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu vấn đề thực hiện pháp luật về bảo vệ và phát triển
rừng trong phạm vi địa bàn tỉnh Cao Bằng.
- Luận văn phân tích thực trạng từ năm 2008 đến nay; đề xuất các giải
pháp thực hiện pháp luật bảo vệ và phát triển rừng để đạt được các mục tiêu
chiến lược của Nhà nước về bảo vệ và phát triển rừng đến năm 2020 trên địa
bàn tỉnh Cao Bằng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: nghiên cứu được thực hiện ở tỉnh Cao Bằng.
- Về quãng thời gian đánh giá: từ năm 2008 đến tháng 3 năm 2014
- Về nội dung: Thực hiện pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng tại tỉnh
Cao Bằng.
- Thời gian khảo sát thực tế: từ 11/2013 đến 4/2014


8
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; chủ trương, chính sách của

Đảng, Pháp luật của Nhà nước về bảo vệ và phát triển rừng và các Công ước
quốc tế, Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và các xu hướng dự báo có
liên quan đến thực hiện pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng của thế giới.
5.2. Phương pháp luận
- Phương pháp luận: Chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta về cơng tác bảo vệ và phát
triển rừng.
5.3. Phương pháp nghiên cứu
- Phân tích tài liệu, số liệu: Thu thập tài liệu, số liệu liên quan đến thực
hiện pháp luật bảo vệ và phát triển rừng tại tỉnh Cao Bằng.
- Phỏng vấn, trao đổi trực tiếp: Lãnh đạo Sở Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn, Chi cục Lâm nghiệp, Chi cục Kiểm Lâm tỉnh Cao Bằng; 06 cán
bộ chủ chốt huyện Hòa An, Nguyên Bình, Hà Quảng, Quảng Uyên, Hạ Lang,
Trùng Khánh tỉnh Cao Bằng; 12 cán bộ 12 xã thuộc 6 huyện Hịa An, Ngun
Bình, Hà Quảng, Quảng Un, Hạ Lang, Trùng Khánh tỉnh Cao Bằng; Người
có uy tín ở 15 xã thuộc 6 huyện Hịa An, Ngun Bình, Hà Quảng, Quảng
Un, Hạ Lang, Trùng Khánh tỉnh Cao Bằng;
- Khảo sát bằng bảng hỏi: Sử dụng 240 phiếu điều tra trên 24 xã (mỗi
xã 10 phiếu) ở 6 huyện Hòa An, Nguyên Bình, Hà Quảng, Quảng Uyên, Hạ
Lang, Trùng Khánh tỉnh Cao Bằng.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Luận giải khái niệm; xác định vai trò, nội dung, hình thức của thực
hiện pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng ở Cao Bằng;
- Phân tích, xác định các đặc điểm của thực hiện pháp luật về bảo vệ và
phát triển rừng và các yếu tố ảnh hưởng tới thực hiện pháp luật về bảo vệ và
phát triển rừng ở tỉnh Cao Bằng;


9
- Đánh giá có hệ thống, khoa học về thực trạng thực hiện pháp luật bảo

vệ và phát triển rừng ở tỉnh Cao Bằng; chỉ ra những nguyên nhân tồn tại, xác
lập các quan điểm; đề xuất các biện pháp chủ yếu nhằm bảo đảm thực hiện
pháp luật bảo vệ và phát triển rừng ở tỉnh Cao Bằng hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
7.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài tổng hợp, phân tích các khía cạnh trên phương diện lý luận và
thực tiễn về công tác thực hiện pháp luật bảo vệ và phát triển rừng trên địa bàn
tỉnh Cao Bằng. Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần bổ sung làm rõ hơn
lý thuyết và sự vận dụng lý thuyết vào thực tiễn bảo vệ và phát triển rừng.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Cung cấp số liệu, chứng cứ thực tiễn về thực hiện pháp luật bảo vệ và
phát triển rừng tại các huyện, tỉnh Cao Bằng. Qua đó, giúp cấp uỷ đảng, các
ban ngành của huyện, tỉnh có cơ sở để hiểu thêm về thực trạng thực hiện pháp
luật bảo vệ và phát triển rừng tỉnh Cao Bằng hiện nay.
Những đề xuất về giải pháp cơ bản trong thực hiện pháp luật bảo vệ và
phát triển rừng góp phần vào thực hiện chủ trương, kế hoạch của xã, của
huyện, của tỉnh Cao Bằng trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
Luận văn có thể được sử dụng để tham khảo, vận dụng vào thực tiễn
nhằm mục đích tổ chức thực hiện pháp luật bảo vệ và phát triển rừng có hiệu
quả ở tỉnh Cao Bằng.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu
và giảng dạy ở Trường Chính trị tỉnh, Trung tâm bồi dưỡng Chính trị huyện,
trong đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp tỉnh, huyện, xã của
tỉnh Cao Bằng.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung luận văn gồm 3 chương, 9 tiết.



10
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẢO VỆ
VÀ PHÁT TRIỂN RỪNG
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ CỦA THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN RỪNG

1.1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật và thực hiện pháp luật bảo vệ
và phát triển rừng
Trong cơ chế điều chỉnh pháp luật, thực hiện pháp luật là giai đoạn thứ
hai sau khi đã tiến hành giai đoạn xây dựng pháp luật và là giai đoạn quan
trọng, không thể thiếu. Bởi pháp luật chỉ có thể phát huy được vai trị và
những giá trị của mình trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội phát triển khi
nó được tơn trọng và thực hiện đầy đủ, nghiêm minh trong cuộc sống.
Có rất nhiều nhà khoa học về luật học đứng trên các bình diện khác
nhau nghiên cứu về thực hiện pháp luật và có nhiều cách luận giải về vấn đề
thực hiện pháp luật:
Quan điểm thứ nhất: Giáo trình lý luận chung về Nhà nước và Pháp
luật của Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh: “Thực hiện
pháp luật là một hiện tượng xã hội mang tính quản lý. Q trình hoạt động
thực hiện pháp luật diễn ra đồng thời và tiếp nối quá trình xây dựng và hoàn
thiện pháp luật của nhà nước” [30, tr.270].
Theo quan điểm trên thì xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật là
hai dạng hoạt động khác nhau có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Xây dựng
pháp luật là quá trình hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
nhằm ban hành pháp luật và khơng ngừng hồn thiện hệ thống pháp luật cịn
thực hiện pháp luật là trách nhiệm của mọi tổ chức và công dân Việt Nam,
người nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam.
Quan điểm thứ hai: Theo giáo trình Lý luận Nhà nước và Pháp luật của

Đại học Luật Hà Nội “Thực hiện pháp luật là hành vi thực tế hợp pháp, có
mục đích nhằm thực hiện hóa các quy định của pháp luật, làm cho chúng đi
vào cuộc sống” [55, tr.183].


11
Quan điểm này cho thấy thực hiện pháp luật có thể là hành vi của mỗi cá
nhân cũng có thể là hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội…
Quan điểm thứ ba: Theo giáo trình lý luận chung Nhà nước và Pháp
luật của Học viện Hành chính Quốc gia:
Thực hiện pháp luật là hành vi hành động hoặc không hành động
của con người phù hợp với những quy định của pháp luật. Nói cách
khác, tất cả những hoạt động nào của con người, của tổ chức mà
thực hiện phù hợp với quy định của pháp luật thì được coi là sự thực
hiện thực tế của quy phạm pháp luật [31, tr.369].
Thực hiện pháp luật là quá trình các tổ chức, cá nhân và các chủ thể
pháp luật khác khi gặp phải tình huống thực tế mà quy phạm pháp luật đã
được dự liệu, trên cơ sở nhận thức của mình chuyển hóa một cách sáng tạo
quy tắc xử sự chung mà nhà nước đã quy định vào tình huống cụ thể đó thơng
qua hành vi thực tế hợp pháp của mình.
Thực hiện pháp luật là nghĩa vụ của tất cả các tổ chức và cá nhân; mọi
tổ chức và cá nhân trong xã hội đều phải nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật.
Đối với nhà nước, thực hiện pháp luật là một trong những hình thức để thực
hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, quản lý và bảo vệ xã hội; còn đối
với các tổ chức hoặc cá nhân, thực hiện pháp luật là hoạt động sử dụng các
quyền, tự do pháp lý và thi hành các nghĩa vụ pháp lý mà pháp luật quy định
cho họ.
Thực hiện pháp luật là hoạt động có mục đích nhằm hiện thực hóa các
quy định pháp luật. Do vậy, đây là q trình hoạt động có lý trí và có ý chí
của các chủ thể pháp luật là cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc

sống nhằm đạt được những mục đích nhất định vì lợi ích của mỗi thành viên,
cũng như của cả cộng đồng xã hội.
Thực hiện pháp luật được tiến hành thông qua nhiều hình thức và với
những quy trình khác nhau. Pháp luật gồm nhiều loại quy phạm pháp luật
khác nhau, với mỗi loại quy phạm pháp luật có cách thức và quy trình thực
hiện khác nhau.


12
- Khái niệm thực hiện pháp luật
Thực hiện pháp luật là hoạt động có mục đích nhằm hiện thực hóa các
quy định của pháp luật, làm cho chúng đi vào cuộc sống, trở thành những
hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật.
- Khái niệm thực hiện pháp luật bảo vệ và phát triển rừng
+ Khái niệm rừng
Hiện nay, có rất nhiều nhà khoa học lâm nghiệp, các nhà nghiên cứu về
môi trường đưa ra quan niệm khác nhau về rừng như:
Quan niệm thứ nhất: của Ủy ban Môi trường thế giới cho rằng “rừng là
quần xã sinh vật trong đó cây rừng là thành phần chủ yếu và quần xã sinh vật
phải có diện tích đủ lớn. Giữa quần xã sinh vật và môi trường, các thành phần
trong quần xã sinh vật phải có mối quan hệ mật thiết để đảm bảo khác biệt
giữa hoàn cảnh rừng và các hoàn cảnh khác”.
Quan điểm này khái quát được rừng là quần xã sinh vật trong đó thực
vật là thành phần chủ yếu và các quần xã sinh vật phải có mối quan hệ liên hệ
mật thiết với nhau.
Quan điểm thứ hai: rừng là một tổng thể cây gỗ, có mối liên hệ lẫn
nhau, nó chiếm một phạm vi không gian nhất định ở mặt đất và trong khí quyển.
Rừng chiếm phần lớn bề mặt trái đất và là bộ phận của cảnh quan địa lý.
Quan điểm thứ ba: rừng là một bộ phận của cảnh quan địa lý, trong đó
bao gồm một tổng thể các cây gỗ, cây bụi, cây cỏ, động vật và vi sinh vật.

Trong q trình phát triển của mình chúng có mối quan hệ sinh học và ảnh
hưởng lẫn nhau và với hoàn cảnh bên ngoài.
Như vậy, tất cả các quan điểm trên đều đi đến thống nhất với nhau cùng
cho rằng rừng là tổng thể nhiều loài thực vật sống với nhau trên một đơn vị
diện tích nhất định và các hệ thực vật ấy có mối quan hệ rất mật thiết với nhau
và các thành phần trong quần xã sinh vật có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Qua các quan niệm trên có thể đi đến khái niệm:
Rừng là một hệ sinh thái bao gồm quần thể thực vật rừng, động vật
rừng, vi sinh vật rừng, đất rừng và các yếu tố mơi trường khác, trong đó cây
gỗ, tre nứa hoặc hệ thực vật đặc trưng là thành phần chính có độ che phủ của


13
tán rừng từ 0,1 trở lên. Rừng gồm rừng trồng và rừng tự nhiên trên đất rừng
sản xuất, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng. Theo Điều 3 Luật Bảo vệ và
Phát triển rừng.
Các loại rừng
Rừng phòng hộ được sử dụng chủ yếu để bảo vệ nguồn nước, bảo vệ
đất, chống xói mịn, chống sa mạc hóa, hạn chế thiên tai, điều hồ khí hậu,
góp phần bảo vệ mơi trường.
Rừng đặc dụng được sử dụng chủ yếu để bảo tồn thiên nhiên, mẫu
chuẩn hệ sinh thái rừng của quốc gia, nguồn gen sinh vật rừng; nghiên cứu
khoa học; bảo vệ di tích lịch sử, văn hố, danh lam thắng cảnh; phục vụ nghỉ
ngơi, du lịch, kết hợp phòng hộ, góp phần bảo vệ mơi trường.
Rừng sản xuất được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh gỗ, lâm
sản ngồi gỗ và kết hợp phịng hộ, góp phần bảo vệ môi trường.
+ Khái niệm bảo vệ rừng
Bảo vệ rừng là thực hiện việc bảo vệ và kiểm soát một cách có hiệu quả
tình trạng suy thối rừng trên phạm vi cả nước, trong đó quy định cụ thể nghĩa
vụ của tổ chức, cá nhân khai thác sử dụng từng loại rừng.

Bên cạnh quan niệm về bảo vệ rừng trên thì theo tổ chức bảo vệ mơi
trường thế giới cho rằng bảo vệ rừng là hoạt động đảm bảo cho q trình kiểm
sốt suy thối tài ngun rừng của tổ chức, cá nhân được tuân thủ một cách
nghiêm ngặt có định hướng.
Vậy bảo vệ rừng là hoạt động có mục đích của tổ chức, cá nhân nhằm
bảo đảm sự phát triển bền vững của rừng, góp phần bảo tồn đa dạng sinh học
của rừng, góp phần phịng chắn lụt bão, chống xói mịn cho đất, điều hịa khí
hậu tạo mơi trường trong sạch cho con người.
Hiện nay, công tác bảo vệ rừng được quy định tại Luật Bảo vệ và Phát
triển rừng năm 2004; Nghị định số 09/2006/NĐ-CP; Nghị định số
23/2006/NĐ-CP; Nghị định số 32/2006/NĐ-CP; Nghị định số 48/2007/NĐCP; Nghị định số 05/2008/NĐ-CP; Nghị định số 74/2010/NĐ-CP; Nghị định
số 99/2010/NĐ-CP; Nghị định số 117/2010/NĐ-CP; Nghị định số
157/2013/NĐ-CP…; Các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ; Thơng tư của
Bộ Nơng nghiệp và Phát triển nông thôn.


14
Thông qua các văn bản quy phạm pháp luật bảo vệ và phát triển rừng
và các quan niệm về bảo vệ rừng của các nhà khoa học Lâm nghiệp trên
chúng ta có thể đi đến khái niệm bảo vệ rừng là hoạt động của cơ quan, tổ
chức, hộ gia đình, các nhân, nhằm bảo đảm sự phát triển bền vững; kết hợp
bảo vệ và khai thác hợp lý tài nguyên rừng có hiệu quả, kết hợp chặt chẽ giữa
trồng rừng và khoanh nuôi sinh thái phục hồi, bảo vệ diện tích rừng hiện có,
đẩy mạnh trồng rừng kinh tế gắn với phát triển công nghiệp chế biến lâm sản
nhằm nâng cao giá trị sản phẩm rừng, bảo tồn đa dạng sinh học của rừng.
Từ khái niệm về bảo vệ và phát triển rừng, thì có thể hiểu nội dung của
bảo vệ rừng là quá trình bao gồm các hoạt động của con người nhằm bảo
toàn, phát triển hệ sinh thái rừng hiện có, hoạt động bảo vệ thực vật, động vật
rừng, đất lâm nghiệp và các yếu tố tự nhiên khác; phòng, chống những tác
động gây thiệt hại đến đa dạng sinh học của rừng, bảo vệ nguồn nước, bảo vệ

mơi trường sinh thái; tổ chức phịng ngừa và ngăn chặn kịp thời mọi hành vi
xâm hại đến quá trình phát triển của rừng như phá rừng, làm cháy rừng; lấn
chiếm rừng, đất lâm nghiệp, khai thác, mua bán, vận chuyển lâm sản; nhập
khẩu động vật rừng, thực vật rừng trái phép, săn bắn động vật rừng; chăn thả
gia súc vào rừng, kiểm tra xử lý các hành vi vi phạm theo quy định của pháp
luật trong lĩnh vực bảo vệ rừng.
+ Khái niệm phát triển rừng
Thuật ngữ “phát triển” trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng được
nêu trong ấn phẩm Chiến lược bảo tồn Thế giới (công bố bởi Hiệp hội Bảo
tồn thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên Quốc tế - IUCN) với nội dung:
“Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới pháp triển kinh tế mà
cịn phải tơn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi
trường sinh thái”.
Khái niệm này được phổ biến rộng rãi vào năm 1987 như Báo cáo
Brundtland (còn gọi là Báo cáo Our Common Futur) của Ủy ban Môi trường và
Phát triển Thế giới - WCED (nay là Ủy ban Brundtland). Báo cáo này ghi rõ:
“phát triển là có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng,
tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai...”.


15
Về mặt học thuật, thuật ngữ này được giới khoa học nước ta tiếp thu và
có các cơng trình nghiên cứu liên quan, mà đầu tiên phải kể đến là cơng trình
do các nhà nghiên cứu mơi trường tiến hành như: “Tiến tới môi trường bền
vững” 1995 của Trung tâm Tài nguyên và Môi trường, Đại học Tổng hợp Hà
Nội. Cơng trình này đã tiếp thu và thao tác hóa khái niệm phát triển bền vững
về mặt lĩnh vực: Bền vững về mặt kinh tế, bền vững về mặt nhân văn, bền
vững về mặt môi trường, bền vững về mặt kỹ thuật. “Nghiên cứu xây dựng
tiêu chuẩn phát triển bền vững cấp quốc gia ở Việt Nam - Giai đoạn I” (2003)
do Viện Môi trường và phát triển bền vững, Hội Liên hiệp các Hội Khoa học

kỹ thuật Việt Nam tiến hành.
Ở nước ta thuật ngữ phát triển rừng đã được tiếp cận ở nhiều bình diện
khác nhau, các nhà lâm nghiệp quan niệm về phát triển rừng là nói đến sự che
phủ của rừng bao gồm cả lĩnh vực tăng độ che phủ của rừng về diện tích bằng
các phương pháp trồng rừng trên đất trống đồi núi trọc và các tác động là cho
q trình khơi phục rừng tự nhiên, đồng thời với các biện pháp kỹ thuật lâm
sinh làm cho rừng tăng về trữ lượng, sản lượng và sự đa dạng sinh học.
Từ nền tảng các quan niệm về phát triển rừng nêu trên, có thể đi đến
khái niệm: Phát triển rừng là việc trồng mới rừng, trồng lại rừng sau khai
thác, khoanh nuôi xúc tiến tái sinh phục hồi rừng, cải tạo rừng nghèo và việc
áp dụng các biện pháp kỹ thuật lâm sinh khác để tăng diện tích rừng, nâng cao
giá trị đa dạng sinh học, khả năng cung cấp lâm sản, khả năng phòng hộ và
các giá trị khác của rừng.
+ Khái niệm thực hiện pháp luật bảo vệ và phát triển rừng.
Pháp luật bảo vệ và phát triển rừng là tổng hợp các quy phạm pháp luật
do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành được thể hiện trong các văn
bản quy phạm pháp luật nhằm thực hiện Hiến pháp, luật và các văn bản dưới
luật, trong đó Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 2004 là trung tâm điều
chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến quản lý, bảo vệ, phát triển, sử dụng
rừng; quyền và nghĩa vụ của chủ rừng.
Thực hiện pháp luật bảo vệ và phát triển rừng nhằm tạo ý thức pháp
luật cho các tổ chức, cộng đồng, hộ gia đình, cá nhân thực hiện một cách


16
nghiêm chỉnh đầy đủ các quy định của Luật Bảo vệ và Phát triển rừng, góp
phần nâng cao hiệu quả của công tác bảo vệ và phát triển rừng, nâng cao lợi
ích giá trị kinh tế của rừng, bảo vệ và phát triển rừng là hoạt động có quan hệ
hữu cơ với nhau trong bảo vệ là có sự phát triển của rừng, để phát triển rừng
thì cần có sự bảo vệ.

Từ khái niệm về thực hiện pháp luật, khái niệm bảo vệ rừng, khái niệm
về phát triển rừng có thể đi đến khái niệm về thực hiện pháp luật bảo vệ và
phát triển rừng là quá trình hoạt động có mục đích của các chủ thể pháp luật
bảo vệ và phát triển rừng, tạo ra cơ sở pháp lý cho hoạt động thực tế của các
chủ thể pháp luật làm cho những quy định của pháp luật bảo vệ và phát triển
rừng trở thành hiện thực trong cuộc sống.
1.1.2. Đặc điểm của thực hiện pháp luật bảo vệ và phát triển rừng
Căn cứ vào chức năng và công dụng của rừng, theo quy định của pháp
luật hiện hành, rừng được chia thành ba loại bao gồm: Rừng phòng hộ; rừng
đặc dụng và rừng sản xuất. Do vậy, thực hiện pháp luật bảo vệ rừng phải áp
dụng những cơ chế, chính sách, các quy định của pháp luật khác nhau phù
hợp với mục đích yêu cầu của từng loại rừng.
Cũng như các hình thức thực hiện pháp luật khác, thực hiện pháp luật bảo
vệ và phát triển rừng cũng có những đặc điểm riêng được thể hiện cụ thể như sau:
- Chủ thể thực hiện pháp luật bảo vệ và phát triển rừng đa dạng và
phong phú mang tính tồn dân.
Khi nói đến chủ thể thực hiện pháp luật là nói đến các bên tham gia vào
quan hệ pháp luật thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý. Các bên ở đây là
cá nhân, hoặc tổ chức mà theo quy định của pháp luật có được khả năng có
các quyền và nghĩa vụ pháp lý, trực tiếp hoặc thông qua người đại diện thực
hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý đó, các chủ thể thực hiện pháp luật phải
có năng lực chủ thể và chịu trách nhiệm về hành vi của mình.
“Chủ thể của quan hệ pháp luật là các cá nhân, tổ chức có những điều
kiện do pháp luật quy định và tham gia quan hệ pháp luật” [55, tr.149].
Chủ thể thực hiện pháp luật bảo vệ và phát triển rừng bao gồm cơ quan
nhà nước, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong nước, người Việt Nam định cư ở


17
nước ngồi, tổ chức, cá nhân nước ngồi có liên quan đến việc bảo vệ và phát

triển rừng tại Việt Nam. Các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân thuộc các thành
phần kinh tế khác nhau, mỗi chủ thể có địa vị pháp lý khác nhau.
- Nhận thức pháp luật thực hiện bảo vệ và phát triển rừng của người
dân ở vùng sâu, vùng xa có nhiều điểm khác nhau.
Hầu hết diện tích rừng phân bố ở những vùng sâu, vùng núi, địa bàn
quản lý rừng rất rộng lớn, giao thơng đi lại rất khó khăn. Trên thực tế, những
người dân sống ở những nơi vùng sâu, vùng xa là những người sống gần rừng,
trong rừng. Cộng đồng dân cư thơn, bản, người dân ít được tiếp cận các thơng tin
văn hóa xã hội, đa số họ có trình độ dân trí thấp, đời sống rất khó khăn, phụ
thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên của rừng và một bộ phận dân cư rất đông
là đồng bào dân tộc sống chủ yếu dựa vào khai thác lâm sản và cuộc sống sinh
hoạt đồng bào thường gắn với truyền thống văn hóa, hương ước, luật tục.
- Chủ thể áp dụng pháp luật trong quá trình thực hiện các hoạt động
quản lý nhà nước về bảo vệ và phát triển rừng là Ủy ban nhân dân các cấp và
các cơ quan chuyên môn: Kiểm lâm, Cảnh sát môi trường, Hải quan, Thuế,
Quản lý thị trường, Tòa án nhân dân các cấp.
Lực lượng kiểm lâm là cơ quan chuyên trách có chức năng bảo vệ rừng,
giúp cơ quan nhà nước bảo vệ rừng, đảm bảo chấp hành pháp luật bảo vệ và
phát triển rừng. Tùy theo mức độ vi phạm mà Cục trưởng Cục kiểm lâm, Chi
cục trưởng Chi cục kiểm lâm ra quyết định xử lý vi phạm; Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh, huyện, xã cũng có thẩm quyền xử lý vi phạm theo quy định của Luật
xử lý vi phạm hành chính năm 2012, Nghị định số 157/2013/NĐ-CP.
Hoạt động áp dụng pháp luật được thực hiện trong các trường hợp:
Xử lý đối với các chủ thể khi có hành vi xâm phạm đến các quy định
của Luật Bảo vệ và Phát triển rừng nghiêm cấm; Giải quyết quyền và nghĩa
vụ của chủ thể bảo vệ và phát triển rừng; giải quyết tranh chấp về quyền và
nghĩa vụ pháp lý của chủ thể bảo vệ và phát triển rừng mà các bên tham gia
vào quan hệ pháp luật không thể tự giải quyết được; tham gia kiểm tra, giám
sát hoạt động của các bên tham gia quan hệ đó hoặc nhà nước xác nhận sự tồn
tại hay không tồn tại của các quan hệ đó.



18
Áp dụng pháp luật này là hoạt động mang tính tổ chức, thể hiện quyền
lực nhà nước, được thể hiện thơng qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền,
cá nhân hoặc các tổ chức xã hội khi được nhà nước trao quyền, nhằm cá biệt
hóa những quy phạm pháp luật bảo vệ và phát triển rừng.
1.1.3. Vai trò của thực hiện pháp luật bảo vệ và phát triển rừng
Pháp luật có vai trị to lớn, nó là phương tiện, cơng cụ khơng thể thiếu
để duy trì, bảo vệ trật tự xã hội, tạo điều kiện và định hướng cho sự phát triển
xã hội. Pháp luật là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội, nó ln tác động
và ảnh hưởng mạnh mẽ tới các quan hệ xã hội nói chung, cũng như tới các
yếu tố thượng tầng kiến trúc, cũng như các yếu tố của cơ sở hạ tầng. Mức độ
tác động và ảnh hưởng của pháp luật thể hiện ở nhiều mức độ khác nhau tùy
thuộc vào từng loại đối tượng và từng loại quan hệ cụ thể cần có sự điều chỉnh
của pháp luật.
- Thực hiện pháp luật bảo vệ và phát triển rừng góp phần nâng cao ý
thức, trách nhiệm của công dân trong việc bảo vệ và phát triển rừng.
Ý thức pháp luật là tổng thể những học thuyết, quan điểm, quan niệm
thịnh hành trong xã hội thể hiện mối quan hệ của con người đối với pháp luật
và sự đánh giá về tính hợp pháp hay không hợp pháp đối với các hành vi pháp
lý thực tiễn.
Ý thức pháp luật luôn giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc áp
dụng pháp luật, thúc đẩy quá trình thực hiện pháp luật trong xã hội. Việc đưa
pháp luật vào đời sống, hình thành và phát triển ý thức pháp luật, đồng thời,
xã hội hóa tri thức, nâng cao trình độ dân trí, sẽ tạo cho cơng dân có sự am
hiểu về pháp luật bảo vệ và phát triển rừng, hình thành tình cảm, quan niệm
tích cực đối với quy phạm pháp luật, đối với các quyền và nghĩa vụ pháp lý
của các chủ thể. Qua đó hành vi xâm phạm các quy định của pháp luật về
rừng của công dân được hạn chế, các chủ thể sẽ có những hành động tích cực

hoặc không làm những việc sai trái, định hướng cho hành vi của con người xử
sự cho phù hợp với các quy định của pháp luật. Các tổ chức, hộ gia đình và cá
nhân sẽ tuân thủ pháp luật, sử dụng pháp luật, thi hành pháp luật một cách tự
nguyện, tự giác. Các cơ quan nhà nước, cán bộ công chức sẽ áp dụng pháp


19
luật đúng đắn. Một khi ý thức về pháp luật bảo vệ và phát triển rừng của các tổ
chức, hộ gia đình, cá nhân trong xã hội nhận thức đầy đủ và mọi người nhận
thức được tầm quan trọng của rừng đối với xã hội và từ đó họ sẽ nâng cao trách
nhiệm của mình trong việc ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật về rừng và
tích cực đấu tranh chống tội phạm và các vi phạm pháp luật khác.
- Thực hiện pháp luật bảo vệ và phát triển rừng góp phần bảo vệ mơi
trường sống, cân bằng sinh thái, giảm thiểu biến đổi khí hậu, bảo đảm phát
triển kinh tế xã hội bền vững.
Rừng có vai trị quan trọng đối với môi trường sống của con người.
Rừng có tác dụng điều hịa lượng nước trên mặt đất, rừng là lá phổi xanh của
trái đất, rừng góp phần to lớn vào việc hình thành và bảo vệ mặt đất, chống
xói mịn, rừng cịn cung cấp các lâm sản phục vụ cho nhu cầu sản xuất và đời
sống của con người như rừng cung cấp gỗ cho công nghiệp, cho xây dựng và
dân sinh, nguyên liệu là giấy, thực phẩm đặc sản, các dược liệu quý có tác
dụng chữa bệnh và nâng cao sức khỏe cho con người. Ở các nước nói chung
và Việt Nam nói riêng cùng với tốc độ gia tăng dân số, khí thải cơng nghiệp
ngày càng nhiều, việc khai thác các giá trị của rừng q mức, trong khi đó q
trình tái tạo tài ngun rừng chưa đáp ứng nhu cầu so với việc khai thác dẫn
đến hàng năm diện tích rừng ngày càng bị thu hẹp, ảnh hưởng rất lớn đến môi
trường sinh thái, diễn biến thiên tai lũ lụt xảy ra hàng năm trên thế giới và
Việt Nam ngày càng phức tạp đe dọa nghiêm trọng đến cuộc sống của con
người, hậu quả của việc phá rừng sẽ làm mất cân bằng sinh thái. Một trong
những hạn chế trên là do hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về rừng còn

nhiều bất cập, hệ thống pháp luật chưa đầy đủ.
Cho nên, thực hiện pháp luật bảo vệ và phát triển rừng nghiêm minh sẽ
nhằm hạn chế được tình trạng phá rừng, khai thác lâm sản trái phép như hiện
nay, lúc đó rừng mới được bảo tồn và phát triển. Có như vậy, mới cân bằng
được sinh thái, giảm thiểu sự biến đổi khí hậu như hiện nay, góp phần bảo
đảm phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
- Thực hiện pháp luật bảo vệ và phát triển rừng góp phần tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa.


20
Pháp chế là một chế độ đặc biệt của đời sống chính trị xã hội, địi hỏi
các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải tôn trọng
và thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh, triệt để và chính xác. Pháp chế và
pháp luật có mối quan hệ mật thiết với nhau, nhưng không đồng nhất. Pháp luật
xã hội chủ nghĩa là cơ sở để hình thành pháp chế xã hội chủ nghĩa, pháp chế xã
hội chủ nghĩa là điều kiện tồn tại và phát triển của pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Một nền pháp chế thống nhất, vững chắc là cơ sở cần thiết cho hệ thống
pháp luật điều chỉnh có hiệu quả các quan hệ xã hội, phát huy được hiệu lực
của mình; mặt khác chỉ khi có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ,
phù hợp và được sửa đổi, điều chỉnh, bổ sung kịp thời khi cần thiết, thì nền
pháp chế mới được củng cố và tăng cường.
Pháp chế là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, nó
địi hỏi việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước phải được tiến hành
theo đúng quy định của pháp luật; mọi công chức Nhà nước phải nghiêm
chỉnh và triệt để tôn trọng pháp luật khi thực hiện các quyền và nghĩa vụ của
mình, mọi vi phạm pháp luật đều phải xử lý nghiêm minh. Các tổ chức chính
trị - xã hội cũng có nghĩa vụ tuân thủ pháp luật của Nhà nước.
Tính thống nhất của pháp chế xã hội chủ nghĩa đòi hỏi bộ máy Nhà
nước, các địa phương và mọi công dân trong cả nước phải nhận thức và thực

hiện giống nhau đối với toàn bộ hệ thống pháp luật đã ban hành. Bảo đảm tính
thống nhất của pháp chế là điều kiện không thể thiếu để thực hiện dân chủ đối
với mọi công dân và quyền lực nhà nước.
Trong thời gian qua, trên địa bàn cả nước nói chung và tỉnh Cao Bằng
nói riêng gặp khơng ít khó khăn trong cơng tác bảo vệ rừng. Một trong những
nguyên nhân cơ bản ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện pháp luật bảo vệ
và phát triển rừng đó là ý thức pháp luật của người dân trong việc tuân thủ
pháp luật, chấp hành pháp luật chưa cao. Vậy thực hiện tốt các quy định của
pháp luật bảo vệ và phát triển rừng đòi hỏi các tổ chức, cá nhân tuân thủ
nghiêm chỉnh những quy định của pháp luật, trong quá trình quản lý, bảo vệ
rừng không làm những điều pháp luật cấm, thực hiện tốt nghĩa vụ của mình,
chủ động thực hiện quyền được nhà nước cho phép; cơ quan nhà nước, cán


21
bộ, cơng chức trong q trình áp dụng pháp luật để giải quyết cơng việc phải
đúng trình tự, thủ tục bảo đảm quyền lợi, ích hợp pháp của tổ chức và công
dân. Mọi hành vi vi phạm cần được phát hiện, ngăn chặn, xử lý, kịp thời,
nghiêm minh đúng pháp luật.
- Thực hiện pháp luật bảo vệ và phát triển rừng góp phần hồn thiện hệ
thống pháp luật bảo vệ và phát triển rừng.
Trong quá trình quản lý nhà nước, quản lý xã hội, Nhà nước ban hành
các văn bản pháp luật để thực thi nhiệm vụ của mình. Các quan hệ xã hội ln
ln thay đổi trong khi đó pháp luật luôn luôn tồn tại ở trạng thái tĩnh. Để
pháp luật ln theo kịp với q trình phát triển chung của xã hội thì cần phải
xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn thiện, đồng thời tiến hành rà soát,
chỉnh sửa, bổ sung kịp thời. Các văn bản quy phạm pháp luật bảo vệ và phát
triển rừng thường tồn tại có mối liên hệ mật thiết với nhau và có mối liên hệ
với các ngành luật khác, nó khơng tồn tại một cách độc lập có tác động qua lại
với nhau tạo thành một chỉnh thể thống nhất trong hệ thống.

Cũng như các văn bản quy phạm pháp luật khác, văn bản quy phạm
pháp luật bảo vệ và phát triển rừng thường tồn tại và phát huy tác dụng trong
một giai đoạn lịch sử nhất định. Qua quá trình thực hiện pháp luật bảo vệ và
phát triển rừng sẽ tạo cho chủ thể pháp luật có những tư duy pháp lý mới, phát
hiện những hạn chế của pháp luật hiện tại. Trong quá trình thực hiện pháp luật
các cơ quan nhà nước, cán bộ cơng chức, hộ gia đình, cá nhân sẽ phát hiện ra
những văn bản quy phạm pháp luật bảo vệ và phát triển rừng hết hiệu lực
pháp luật, các quy phạm lỗi thời hoặc mâu thuẫn giữa các văn bản với nhau từ
đó làm cơ sở cho cơ quan có thẩm quyền ban hành một văn bản quy phạm
pháp luật mới để sửa đổi, bổ sung, thay thế văn bản quy phạm pháp luật cũ.
1.2. NỘI DUNG, HÌNH THỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẢO VỆ VÀ
PHÁT TRIỂN RỪNG

1.2.1. Nội dung thực hiện pháp luật bảo vệ và phát triển rừng
Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 2004 quy định về trách nhiệm bảo
vệ rừng và nội dung bảo vệ rừng; trách nhiệm và nội dung bảo vệ và phát
triển rừng còn được quy định tại các văn bản quy phạm dưới luật và một số


22
văn bản pháp luật khác có liên quan như pháp luật bảo vệ môi trường, pháp
luật bảo vệ đa dạng sinh học, pháp luật về kiểm dịch thực vật, pháp luật về
thú y, pháp luật về phòng cháy, chữa cháy…
Nội dung của thực hiện pháp luật về bảo vệ rừng là việc thực hiện các
quy định của pháp luật về trách nhiệm, nội dung bảo vệ và phát triển rừng.
- Thực hiện các quy định của pháp luật về bảo vệ hệ sinh thái rừng
Thực hiện pháp luật về bảo vệ hệ sinh thái rừng là việc tuân theo quy
định của pháp luật bảo vệ rừng và các quy định của pháp luật có liên quan.
Khi tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh hoặc có những hoạt
động khác ảnh hưởng trực tiếp đến hệ sinh thái rừng, sinh trưởng và phát triển

của các loài sinh vật rừng phải tuân theo quy định của Luật Bảo vệ và Phát
triển rừng, pháp luật về bảo vệ môi trường, pháp luật về bảo vệ và kiểm dịch
thực vật, pháp luật về thú y và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Khi xây dựng mới, thay đổi hoặc phá bỏ các cơng trình có ảnh hưởng
đến hệ sinh thái rừng, sinh trưởng và phát triển của các loài sinh vật rừng phải
thực hiện việc đánh giá tác động môi trường theo quy định của pháp luật về
bảo vệ môi trường và chỉ được thực hiện các hoạt động đó sau khi được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền cho phép.
- Thực hiện các quy định của pháp luật về bảo vệ thực vật, động vật rừng
Thực hiện pháp luật về bảo vệ thực vật, động vật rừng là việc các chủ
thể phải thực hiện quy chế quản lý rừng do Thủ tướng Chính phủ quy định,
thực hiện các quy trình, quy phạm về khai thác rừng do Bộ Nơng nghiệp và
Phát triển nông thôn ban hành khi tiến hành các hoạt động khai thác thực vật
rừng. Việc săn bắn, bẫy, nuôi nhốt động vật rừng cũng phải được phép của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền và tuân theo các quy định của pháp luật về bảo
tồn động vật hoang dã.
Những loài thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quy, hiếm; nguồn
gen thực vật rừng, động vật rừng quý, hiếm phải được quản lý, bảo vệ theo
chế độ đặc biệt do Chính phủ quy định. Việc khai thác thực vật rừng, săn bắt
động vật rừng, công cụ và phương tiện cấm sử dụng hoặc bị hạn chế sử dụng;
chủng lồi, kích cỡ tối thiểu thực vật rừng, động vật rừng và mùa vụ được


23
phép khai thác, săn bắt; khu vực cấm khai thác rừng do Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn quy định.
- Thực hiện các quy định của pháp luật về phòng cháy, chữa cháy rừng
Thực hiện pháp luật về phòng cháy, chữa cháy rừng là việc mọi chủ thể
pháp luật phải thực hiện trách nhiệm bảo vệ rừng, phòng cháy chữa cháy rừng
có liên quan. Đặc biệt, pháp luật quy định các chủ thể pháp luật là chủ rừng

phải có phương án phòng cháy, chữa cháy rừng ở những khu rừng tập trung,
rừng dễ cháy, khi trồng rừng mới tập trung phải thiết kế và xây dựng đường
ranh, kênh, mương ngăn lửa, chịi canh lửa, biển báo, hệ thống thơng tin theo
quy định của pháp luật về phòng cháy, chữa cháy; chấp hành sự hướng dẫn,
kiểm tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Mọi trường hợp đốt lửa trong rừng để dọn nương rẫy, dọn đồng ruộng,
chuẩn bị đất trồng rừng, đốt trước mùa khô hanh hoặc dùng lửa trong sinh
hoạt thì người đốt lửa phải thực hiện các biện pháp phòng cháy, chữa cháy
rừng. Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân xây dựng, tiến hành các hoạt động trên
các cơng trình đi qua rừng như đường sắt, đường bộ, đường dây tải điện và
hoạt động du lịch sinh thái, hoạt động khác ở trong rừng, ven rừng phải chấp
hành các quy định về phòng cháy, chữa cháy; tuân thủ các biện pháp phòng
cháy, chữa cháy rừng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và chủ rừng.
Khi xảy ra cháy rừng, chủ rừng phải kịp thời chữa cháy rừng, báo ngay
cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền; trong trường hợp cần thiết Ủy ban nhân
dân các cấp có trách nhiệm và thẩm quyền huy động mọi lực lượng, phương
tiện cần thiết ở địa phương, điều hành sự phối hợp giữa các lực lượng để kịp
thời chữa cháy rừng có hiệu quả. Trong trường hợp cháy rừng xảy ra trên diện
rộng có nguy cơ gây thảm họa dẫn đến tình trạng khẩn cấp thì việc chữa cháy
rừng phải tuân theo các quy định của pháp luật về tình trạng khẩn cấp.
- Thực hiện pháp luật về phòng, trừ sinh vật gây hại rừng
Thực hiện pháp luật về phòng, trừ sinh vật gây hại rừng là việc tuân
theo các quy định của pháp luật về bảo vệ và kiểm dịch thực vật, pháp luật về
thú y khi tiến hành phòng, trừ sinh vật gây hại rừng; là việc phải thực hiện các
biện pháp phòng trừ sinh vật gây hại rừng; khi phát hiện có sinh vật gây hại


24
rừng trên diện tích rừng được giao, được thuê phải báo ngay cho cơ quan bảo
vệ và kiểm dịch thực vật, kiểm dịch động vật gần nhất để được hướng dẫn và

hỗ trợ các biện pháp phòng trừ.
Pháp luật cũng quy định trách nhiệm về việc để lan truyền dịch gây hại
rừng nếu không thực hiện các biện pháp về phòng, trừ sinh vật gây hại rừng; quy
định trách nhiệm của cơ quan bảo vệ và kiểm dịch thực vật, kiểm dịch động vật
trong việc tổ chức dự báo sinh vật gây hại rừng; hướng dẫn, hỗ trợ chủ rừng các
biện pháp phòng, trừ sinh vật gây hại rừng; tổ chức phòng, trừ sinh vật gây hại
rừng trong trường hợp sinh vật gây hại rừng có nguy cơ lây lan rộng.
- Thực hiện các quy định của pháp luật về kinh doanh, vận chuyển, xuất
khẩu, nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập, quá cảnh thực vật rừng,
động vật rừng
Thực hiện pháp luật bảo vệ rừng theo nội dung này là việc tuân theo
quy định của pháp luật khi tiến hành kinh doanh, vận chuyển thực vật rừng,
động vật rừng và các sản phẩm của chúng.
Cụ thể, khi xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập,
quá cảnh thực vật rừng, động vật rừng và các sản phẩm của chúng phải tuân
theo quy định của pháp luật Việt Nam và Điều ước Quốc tế mà Việt Nam ký
kết hoặc gia nhập. Việc nhập nội giống thực vật rừng, động vật rừng phải tuân
theo quy định của pháp luật về bảo tồn đa dạng sinh học, pháp luật về bảo vệ
và kiểm dịch thực vật, pháp luật về thú y, pháp luật về giống cây trồng, pháp
luật về giống vật ni.
1.2.2. Hình thức thực hiện pháp luật bảo vệ và phát triển rừng
Vì các quy phạm pháp luật rất phong phú, đa dạng cho nên hình thức
thực hiện chúng cũng rất phong phú và đa dạng. Căn cứ vào tính chất của hoạt
động thực hiện các quy phạm pháp luật, thực hiện pháp luật bảo vệ và phát
triển rừng được tiến hành dựa trên bốn hình thức là tuân thủ pháp luật, chấp
hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật.
- Tuân thủ pháp luật trong bảo vệ và phát triển rừng
Là hình thức thực hiện pháp luật trong đó các tổ chức, hộ gia đình, cá
nhân kiềm chế khơng tiến hành những hoạt động mà pháp luật ngăn cấm. Các



25
quy phạm pháp luật cấm được thực hiện ở hình thức này. Sự kiềm chế đó
được hiểu là các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân căn cứ vào những quy định của
pháp luật không thực hiện các hành vi làm ảnh hưởng đến sự phát triển bền
vững của rừng. Những quy định này được thể hiện tại các Điều 12, 40, 41, 42,
43, 44 của Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 2004.
Các hành vi mà pháp luật ngăn cấm như:
Chặt phá rừng, khai thác rừng trái phép; Săn, bắn, bắt, bẫy, nuôi nhốt,
giết mổ động vật rừng trái phép; Thu thập mẫu vật trái phép trong rừng; Huỷ
hoại trái phép tài nguyên rừng, hệ sinh thái rừng; Vi phạm các quy định về
phòng cháy, chữa cháy rừng; Vi phạm quy định về phòng, trừ sinh vật hại
rừng; Lấn, chiếm, chuyển mục đích sử dụng rừng trái phép; Khai thác trái
phép cảnh quan, môi trường và các dịch vụ lâm nghiệp; Vận chuyển, chế
biến, quảng cáo, kinh doanh, sử dụng, tiêu thụ, tàng trữ, xuất khẩu, nhập khẩu
thực vật rừng, động vật rừng trái với quy định của pháp luật; Lợi dụng chức
vụ, quyền hạn làm trái quy định về quản lý, bảo vệ và phát triển rừng; Chăn
thả gia súc trong phân khu bảo vệ nghiêm ngặt của khu rừng đặc dụng, trong
rừng mới trồng, rừng non; Ni, trồng, thả vào rừng đặc dụng các lồi động
vật, thực vật khơng có nguồn gốc bản địa khi chưa được phép của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền; Khai thác trái phép tài nguyên sinh vật, tài nguyên
khoáng sản và các tài nguyên thiên nhiên khác; làm thay đổi cảnh quan thiên
nhiên, diễn biến tự nhiên của rừng; làm ảnh hưởng xấu đến đời sống tự nhiên
của các loài sinh vật rừng; mang trái phép hoá chất độc hại, chất nổ, chất dễ
cháy vào rừng; Giao rừng, cho thuê rừng, chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa
kế, tặng cho, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng rừng, giá
trị rừng sản xuất là rừng trồng trái pháp luật; Phá hoại các cơng trình phục vụ
việc bảo vệ và phát triển rừng; Các hành vi khác xâm hại đến tài nguyên rừng,
hệ sinh thái rừng.
Cụ thể hóa các quy định của Luật Bảo vệ và Phát triển rừng, Nghị định

số 157/2013/NĐ-CP ngày 11 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản
quy định rõ mức hành vi và mức xử lý khi các chủ thể thực hiện hành vi vi


×