Tải bản đầy đủ (.doc) (114 trang)

Đời sống văn hóa ở thành phố bảo lộc, tỉnh lâm đồng hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 114 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Văn hóa có vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội, Đảng và Nhà
nước ta luôn coi trọng sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, đã xác định
vị trí và vai trị quan trọng của văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc
đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Từ năm 1986 đến nay, quan điểm của Đảng ta về văn hóa tiếp tục được
bổ sung và phát triển trong các văn kiện của Đảng qua các Đại hội và Hội
nghị Trung ương. Đại hội VIII của Đảng chỉ rõ phát triển văn hóa, xây dựng
con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cơng cuộc đổi mới. Hội nghị
Trung ương năm khóa VIII đã ban hành Nghị quyết về Xây dựng và phát triển
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đây là Nghị quyết có
ý nghĩa chiến lược về xây dựng và phát triển văn hóa của nước ta trong thời
kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đại hội lần thứ X của Đảng khẳng
định tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hoá tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế
- xã hội, làm cho văn hoá thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đại
hội XI của Đảng vừa qua lại tiếp tục khẳng định:
Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh
thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hoá gắn kết chặt chẽ và
thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần
vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển [18, tr.75-76].
xác định nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một trong tám đặc
trưng của chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đang xây dựng. Để xây dựng và phát
triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc cần phải tập trung sức
mạnh của toàn Đảng, của bộ máy Nhà nước, các đoàn thể chính trị-xã hội
và tồn thể các tầng lớp nhân dân, làm cho văn hóa thấm sâu vào tồn bộ



2
đời sống và hoạt động của cá nhân và cộng đồng, phản ánh chất lượng và
trình độ sống của xã hội, xây dựng đời sống tinh thần cao đẹp, khoa học
phát triển, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp đổi mới đất nước, làm cho văn
hóa thực sự trở thành môi trường nhân văn, trở thành động lực thúc đẩy
kinh tế-xã hội phát triển.
Đời sống văn hóa là một bộ phận của đời sống xã hội, phản ánh nhu
cầu văn hố của xã hội. Trong cơng cuộc đổi mới hiện nay, cùng với sự biến
đổi mạnh mẽ trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, thì lĩnh vực văn hóa - xã hội
cũng đang có sự biến đổi sâu sắc. Cơng tác xây dựng đời sống văn hố ở cơ
sở đã được các cấp uỷ đảng, chính quyền, các đồn thể và quần chúng nhân
dân quan tâm xây dựng rộng khắp trên mọi miền đất nước, tạo nên sự thay đổi
của cộng đồng dân cư, nhất là ở cơ sở.
Đời sống văn hoá ở cơ sở đã được nâng lên tác động đến nhiều lĩnh
vực, góp phần phát huy dân chủ ở cơ sở, ổn định chính trị, giữ gìn an ninh,
trật tự an tồn xã hội, đấu tranh phịng chống các tệ nạn xã hội. Thông qua
việc xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở, các yếu tố văn hoá và nhân tố con
người đã được phát huy tạo ra động lực thúc đẩy kinh tế phát triển, góp phần
xố đói giảm nghèo, giải quyết các chính sách xã hội, thực hiện các mục tiêu
phát triển văn hoá, làm cho văn hoá thấm sâu vào mọi hoạt động xã hội, từng
bước xây dựng nếp sống văn minh và mơi trường văn hố tinh thần lành
mạnh; góp phần giữ gìn và phát huy các giá trị tốt đẹp của văn hoá dân tộc,
nâng cao đời sống tinh thần cho các tầng lớp cư dân. Ở miền núi, vùng sâu,
vùng xa, đời sống văn hóa tuy cịn thấp so với đơ thị và đồng bằng nhưng đã
có những cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, đi liền với sự phát triển thì đời sống
văn hóa đang đặt ra nhiều vấn đề, chất lượng xây dựng đời sống văn hóa cịn
nhiều hạn chế. Đó là sự xuống cấp về đạo đức, lối sống của một bộ phận xã
hội ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống tinh thần và mơi trường văn hóa của
cộng đồng.



3
Bảo Lộc là một thành phố trẻ của tỉnh Lâm Đồng, thuộc đô thị miền núi
của khu vực nam Tây Nguyên, nằm trên cao nguyên Di Linh, là trung tâm
kinh tế khu vực phía Nam của tỉnh. Tuy là một thành phố đô thị loại 3, nhưng
Bảo Lộc lại là thành phố có tính chất đặc thù riêng, hồn tồn khác so với các
thành phố khác trong cả nước. Đó là thành phố miền núi vừa có thành thị và
nơng thơn, với 11 đơn vị hành chính, gồm 6 phường và 5 xã; là địa bàn cư trú
của 26 dân tộc anh em sinh sống. Với 4 tơn giáo chính gồm Phật giáo, Cơng
giáo, Tin lành, Cao đài, trong đó tín đồ các tơn giáo chiếm tỷ lệ trên 66% dân
số toàn thành phố hiện nay [83].
Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ thành phố Bảo
Lộc, nhân dân Bảo Lộc không ngừng phấn đấu, thi đua lao động sản xuất, xây
dựng phát triển kinh tế - xã hội nhằm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ
thị xã (nay là thành phố) lần thứ III, Nghị quyết Đảng bộ thành phố Bảo Lộc
lần thứ IV nhiệm kỳ 2010-2015 và Nghị quyết 07-NQ/TU của Ban thường vụ
Tỉnh ủy về “Phát triển thành phố Bảo Lộc trở thành trung tâm dịch vụ công
nghiệp của tỉnh giai đoạn 2011-2015”. Với sự lãnh đạo của các cấp chính quyền
địa phương, các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, các tôn giáo trên địa bàn thành
phố đã đoàn kết, đồng thuận vượt qua mọi khó khăn hồn thành các nhiệm vụ
chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, quốc phịng an ninh trong từng năm. Cùng với
đó, đời sống văn hóa vật chất và tinh thần của nhân dân trên địa bàn không
ngừng được nâng lên. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, đời sống văn
hóa trên địa bàn cịn có những hạn chế nhất định, địi hỏi cần phải nghiên cứu,
chỉ rõ những nguyên nhân, đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần cho các tầng lớp nhân dân trên địa bàn.
Là người đang cơng tác trong ngành văn hóa thơng tin tại Thành phố
Bảo Lộc, tôi chọn đề tài “Đời sống văn hóa ở thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm
Đồng hiện nay” làm Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ chuyên ngành Văn hóa học

tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài


4
Cho đến nay đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về đời sống văn hóa ở
những khía cạnh khác nhau, trong đó tiêu biểu là một số cơng trình sau đây:
- Về sách:
Cuốn “Văn hóa một số vấn đề lý luận” của PGS. Trường Lưu, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999; “Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng
văn hóa ở nước ta hiện nay” của GS,TS. Hồng Vinh, Nxb Văn hóa Thơng
tin, Hà Nội, 1999; “Một số kinh nghiệm xây dựng đời sống văn hoá cơ sở”
của Bộ Văn hố - Thơng tin nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xuất bản,
Hà Nội, 2001; “Báo cáo tổng kết Đời sống văn hoá và xu hướng phát triển văn
hoá một số dân tộc vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ trong thời kỳ cơng
nghiệp hố, hiện đại hố” của GS,TS. Trần Văn Bính thuộc chương trình khoa
học cơng nghệ cấp Nhà nước KX-05, Hà Nội, 2005;“Cẩm nang Văn hoá ứng xử
và giao tiếp cơng sở” của Võ Bá Đức, Nxb Văn hố Thơng tin, 2009; Truyền
thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Bảo Lộc (1930
- 1975); Lịch sử Đảng bộ thị xã Bảo Lộc (1975 - 2000); đề tài khoa học
“Những giải pháp thúc đẩy phong trào tồn dân đồn kết xây dựng đời sống
văn hóa, đưa kết luận hội nghị Trung ương X (khóa IX) về văn hóa đi nhanh
vào cuộc sống” của Ban tuyên giáo Trung ương, Mã số KHBĐ (2006) - 11
- Về Luận văn Thạc sĩ: Đã có một số luận văn Thạc sĩ viết về lĩnh vực
này, tiêu biểu là: “Đời sống văn hóa của dân tộc Mơng ở tỉnh Hà Giang hiện
nay” của Vũ Thị Hòa, luận văn Thạc sĩ Văn hóa học, Học viện Chính trịHành chính Quốc gia Hồ Chí Minh năm 2008; “Đời sống văn hóa ở nơng
thơn huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội hiện nay” của Lê Thị Thanh Nhàn,
luận văn Thạc sĩ Văn hóa học, Học viện chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ
Chí Minh năm 2011…
- Về báo, tạp chí: Có một số bài viết của các tác giả đăng trên Tạp chí

Xây dựng đời sống văn hóa, như: “Chăm lo xây dựng, phát triển văn hóa
trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước” của PGS, TS. Phạm Duy Đức
(Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh), số 102, 2010; “Vấn
đề văn hóa, văn học nghệ thuật trong các văn kiện Đại hội lần thứ XI của


5
Đảng” của GS,TS. Đinh Xuân Dũng, số 109, 2011; “Bảo tồn phát triển văn
hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam trong thời kỳ hội nhập” của Ngơ Quang
Hưng, Phó vụ trưởng Vụ văn hóa dân tộc - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, số
78, 2008; “Vai trị của văn hóa trong q trình phát triển đất nước” của TS. Vũ
Ngọc Am, số 93, 2010; “Kết quả 10 năm thực hiện phong trào Toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hóa ở Lâm Đồng” của Lê Văn Trình - Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch Lâm Đồng, số 111, 2011; “Thị xã Bảo Lộc với phong trào
Tồn dân đồn kết xây dựng đời sống văn hóa” của Tạ Xn Lý, số 86, 2009…
Những cơng trình nghiên cứu trên đã góp phần làm rõ quan niệm về
văn hóa và xây dựng đời sống văn hóa cả về lý luận và thực tiễn. Nhiều
nghiên cứu đã đề cập đến những vấn đề chung của đời sống văn hóa cũng như
việc xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở. Đây là những nguồn tư liệu quý để
tác giả luận văn này tiếp thu trong quá trình thực hiện đề tài của mình.
Ngồi ra, cịn có một số bài viết về địa phương Thành phố Bảo Lộc của
tác giả luận văn đăng trên Tạp chí Xây dựng đời sống văn hóa của Cục văn
hóa cơ sở - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch như: “Hiệu quả từ phong trào
xây dựng gia đình văn hóa ở thị xã Bảo Lộc”, số 90, 2009; “Phong trào xây
dựng Câu lạc bộ Gia đình văn hóa ở thị xã Bảo Lộc”, số 93, 2010; “Thành
phố Bảo Lộc xây dựng nông thôn mới”, số 122, 2012; “Xã đạt chuẩn văn hóa
Đamb’ri”, số 124, 2012; “Phường II, thành phố Bảo Lộc đạt chuẩn văn hóa
cấp tỉnh”, số 108, 2011; “Khu phố 5A, phường Lộc Sơn, Thành phố Bảo Lộc
- điểm sáng xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở”, số 109, 2011; “Làng văn
hóa dân tộc Châu Mạ Đamb’ri phát triển du lịch kết hợp bảo tồn văn hóa dân

tộc”, số 104, 2011; bài “Bảo Lộc xây dựng cơ quan, đơn vị đạt chuẩn văn
hóa” đăng trên Báo Đại biểu nhân dân, số 277, ra thứ 4, ngày 03/10/2012; bài
Tiếp tục đẩy mạnh phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa” ở thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng đăng trên thơng tin Văn hóa và
phát triển của Viện Văn hóa và Phát triển, số 39, 2014…
Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có một cơng trình nào nghiên cứu một
cách cụ thể, toàn diện, sâu sắc và trực tiếp đến đời sống văn hóa ở Thành phố


6
Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng. Cho nên, việc nghiên cứu đề tài “Đời sống văn hóa
ở thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng hiện nay” làm luận văn của bản thân
là một nội dung mới, hồn tồn khơng trùng lặp với những cơng trình viết về
địa phương đã từng cơng bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở làm sáng tỏ một số lý luận và thực tiễn về đời sống văn hóa, vai
trị của xây dựng đời sống văn hóa đối với việc phát triển kinh tế - xã hội, luận văn
đi sâu đánh giá thực trạng đời sống văn hóa ở thành phố Bảo Lộc và đề xuất một
số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng xây dựng đời sống văn hóa ở thành phố
Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ khái niệm đời sống văn hóa, cấu trúc của đời sống văn hóa, vai trị
của xây dựng đời sống văn hóa đối với phát triển kinh tế - xã hội làm cơ sở lý luận
chung cho toàn bộ luận văn.
- Đánh giá tổng quát thực trạng đời sống văn hóa trên địa bàn Thành phố
Bảo Lộc từ năm 2005 đến nay, chỉ ra những thành tựu và hạn chế của địa phương
trong việc xây dựng đời sống văn hóa. Từ đó, đúc rút kinh nghiệm và đề ra những
giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng xây dựng đời sống văn hóa hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

Đời sống văn hóa là một khái niệm rất rộng, bao gồm đời sống văn hóa của
cá nhân, gia đình và cộng đồng gắn liền với hệ thống các giá trị, chuẩn mực, gắn
liền với các hoạt động văn hóa, các quan hệ văn hóa, liên quan đến tư tưởng, tình
cảm của xã hội. Vì điều kiện thời gian có hạn, trong khn khổ của một Luận văn
Thạc sĩ chun ngành Văn hóa học, tơi xin phép chỉ đi sâu vào khảo sát đời sống
văn hóa ở Thành phố Bảo Lộc trên một số lĩnh vực có tầm ảnh hưởng chung tới
cộng đồng. Đó là các lĩnh vực sau: giáo dục đào tạo; tín ngưỡng tơn giáo; hoạt
động văn hóa thơng tin; thể dục thể thao; các thiết chế văn hóa; cảnh quan mơi
trường văn hóa; thực trạng chăm sóc sức khỏe và một số hoạt động khác.


7
Thời gian khảo sát, đánh giá: từ năm 2005 đến 2013, đây là thời gian
10 năm thành phố Bảo Lộc triển khai cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, 5 năm triển khai phong trào toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung
ương 5 khóa VIII “về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc”; đồng thời là thời gian Đảng bộ, Chính quyền và các
tầng lớp nhân dân trên địa bàn quyết tâm xây dựng Bảo Lộc đạt tiêu chí đơ thị
loại III và trở thành thành phố trực thuộc tỉnh Lâm Đồng.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử; những quan điểm, chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước về văn hóa và xây dựng đời sống văn hóa. Đề tài
sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh kết hợp với khảo sát điền
dã, điều tra xã hội học, kết hợp phương pháp liên ngành và chuyên ngành để
thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu. Đề tài đã tiến hành xây dựng
bảng hỏi, điều tra, tiến hành khảo sát 450 phiếu tại 3 đơn vị gồm Phường II,
xã Lộc Thanh và xã Lộc Nga của Thành phố Bảo Lộc.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn

- Góp phần hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về đời sống văn hóa;
khái qt một cách tương đối tồn diện về đời sống văn hóa Thành phố Bảo
Lộc, tỉnh Lâm Đồng từ năm 2005 - 2013.
- Trên cơ sở đánh giá thực trạng đời sống văn hóa ở địa phương, đề
xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm góp phần nâng cao chất lượng đời
sống văn hóa trên địa bàn Thành phố trong những năm tới.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ cho cơng tác nghiên cứu
về đời sống văn hóa.
- Kết quả của luận văn góp phần cung cấp cơ sở khoa học cho các cấp
ủy Đảng và Chính quyền địa phương trong việc triển khai công tác xây dựng
đời sống văn hóa ở địa phương trong thời gian tới.


8
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung luận văn gồm có 3 chương, 10 tiết.
Chương 1
ĐỜI SỐNG VĂN HÓA VÀ ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ, XÃ HỘI
Ở THÀNH PHỐ BẢO LỘC HIỆN NAY
1.1. QUAN NIỆM VỀ ĐỜI SỐNG VĂN HĨA

1.1.1. Văn hố và đời sống văn hóa
1.1.1.1. Quan niệm về Văn hố
Văn hóa là một thuật ngữ được sử dụng rộng rãi và phổ biến trong cuộc
sống hằng ngày và trong ngôn ngữ khoa học; là một khái niệm đa tầng, đa
nghĩa; nó gắn liền với tất cả hoạt động sống của con người. Cho đến nay, có
rất nhiều quan niệm khác nhau về văn hóa, mỗi quan niệm phản ánh một cách
nhìn nhận và đánh giá khách nhau.

Trong quan niệm của Phương Đơng, từ “văn hóa” xuất hiện rất sớm
trong ngôn ngữ của Trung Quốc, là làm cho nó đẹp hơn, hồn thiện hơn; là
văn trị, giáo hóa. Ở Phương Tây, từ văn hóa (cultus) bắt nguồn từ tiếng La
tinh, có nghĩa là trồng trọt. Từ nghĩa trồng trọt dần dần biến nghĩa thành vun
trồng trí tuệ, tinh thần. Như vậy, trong quan niệm ở cả phương Đơng và
phương Tây, văn hóa đều mang ý nghĩa giáo hóa con người.
Phải kể đến người đầu tiên trình bày định nghĩa văn hóa như một đối
tượng nghiên cứu khoa học, năm 1871 Nhà Nhân học người Anh Edward
B.Tylor nêu ra định nghĩa: “Văn hóa hay văn minh, hiểu theo nghĩa rộng nhất
về dân tộc học của nó, là tồn bộ phức thể bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ
thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục và những khả năng, những tập quán mà
con người có được với tư cách là thành viên xã hội” [37, tr.16-17].
Văn hóa theo quan niệm của những nhà sáng lập chủ nghĩa Mác, đó là
kết quả của q trình biến đổi bản thân con người. Văn hóa hiện ra như một


9
hình thức liên hệ, thống nhất con người với tự nhiên và bản tính tự nhiên của
con người. Văn hóa khơng phải là cái vốn có của tự nhiên, cũng khơng phải là
cái vốn có của lao động, mà văn hóa là sản phẩm của hoạt động người. Với tư
cách là sự hình thành lịch sử hiện thực của con người, theo đó văn hóa xuất
hiện từ lao động, là thực tiễn biến đổi các quan hệ qua lại giữa con người và
thế giới; là một quá trình cải biến con người thành chủ thể của sự vận động
lịch sử thành một cá nhân tồn vẹn. Văn hóa là sự phát huy các năng lực bản
chất của con người, là sự thể hiện đầy đủ nhất chất người, nó có mặt trong
mọi hoạt động của con người. Văn hóa với tư cách là sự phát triển của bản
thân con người chính là sức mạnh của con người đối với lực lượng của tự
nhiên. Đó là sự phong phú về nhận thức, sự giác ngộ về chính trị, sự cao đẹp
về đạo đức và sự xuất sắc về tài năng. Cùng với quá trình cải tạo thế giới, con
người đã nâng cao năng lực thể chất và tinh thần của mình.

Chủ tịch Hồ Chí Minh, vào năm 1943 đã đưa ra quan niệm về văn hóa:
Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, lồi người mới
sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật,
khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh
hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ
những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa [87, tr.41].
Theo quan niệm của Hồ Chí Minh, Văn hóa là tồn bộ những giá trị do
con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử, bằng lao động của mình, trên cả
hai lĩnh vực sản xuất vật chất và sản xuất tinh thần, nhằm đáp ứng nhu cầu
sinh tồn; đồng thời, cũng là mục đích cuộc sống của con người. Văn hóa, đó
là tồn bộ những phương tiện, những cơng cụ và cách thức sử dụng những
phương tiện, những công cụ ấy nhằm phục vụ cho sinh hoạt hằng ngày về ăn,
mặc, ở, về giao tiếp, trao đổi trong cuộc sống. Văn hóa là cơ sở tạo nên đời
sống xã hội, là đặc trung của xã hội loài người. Con người vừa là chủ thể của
văn hóa, vừa là sản phẩm của văn hóa. Từ quan niệm trên, Hồ Chí Minh đã
xem xét văn hóa trên hai mặt, một mặt là đời sống tinh thần xã hội nói chung,


10
tập trung vào những lĩnh vực trọng yếu như tư tưởng, lối sống, đạo đức,
phong tục tập quán, khoa học, giáo dục, văn học nghệ thuật, tơn giáo... Mặt
khác, đó là những giá trị văn hóa được tạo ra từ ngay trong đời sống văn hóa.
Nguyên Tổng giám đốc UNESCO, ông Federico Mayor Zaragoza phát
biểu trong buổi lễ phát động Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa cũng đã quan
niệm như sau: “Văn hóa là tổng thể sống động của các hoạt động sáng tạo
trong quá khứ và hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình
thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu - những yếu tố
xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc” [87, tr.41].
Quan niệm này cho thấy, văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng
quát và sống động mọi mặt của cuộc sống đã diễn ra trong quá khứ cũng như

hiện tại, trải qua thời gian, nó cấu thành nên hệ thống những giá trị, truyền
thống, thẩm mỹ, lối sống mà dựa trên đó mỗi dân tộc tự khẳng định bản sắc
riêng của mình. Hệ thống các giá trị mà ơng đề cập đó là hệ thống các giá trị
vật chất, tinh thần, các giá trị nhân cách. Các giá trị này đều tương tác và có
mối quan hệ biện chứng với nhau, khơng có hệ thống giá trị nào mà khơng có
mối quan hệ hữu cơ với các hệ thống giá trị kia.
Tại hội nghị quốc tế họp tại Mehicô do UNESCO chủ trì, trong tuyên
bố chung đã đưa ra một quan niệm chung về văn hóa, đó là:
Trong ý nghĩa rộng nhất, văn hóa là tổng thể những nét riêng biệt về
tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một
xã hội hay một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật
văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người,
những hệ thống các giá trị tập tục và tín ngưỡng [87, tr.41-42].
Chính văn hóa đem lại cho con người khả năng suy xét về bản thân, có
lý tính, có óc phê phán và dấn thâm một cách đạo lý; chính nhờ văn hóa mà
con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự biết mình, là một phương
án chưa hoàn thành đặt ra để xem xét những thành tựu của bản thân, tìm tịi


11
không biết mệt mỏi những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những cơng trình
vượt trội lên bản thân mình.
Đảng ta khẳng định văn hóa Việt Nam là tổng thể những giá trị vật chất
và tinh thần do cộng đồng các dân tộc Việt Nam sáng tạo ra trong quá trình
dựng nước và giữ nước…, là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều
nền văn minh thế giới để khơng ngừng hồn thiện mình. Văn hóa Việt Nam đã
hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ
vang của dân tộc. Trên cơ sở đó, Nghị quyết hội nghị trung ương V khóa VIII
của Đảng năm 1998 đã xác định xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, đưa ra chiến lược phát triển văn hóa quan trọng nhằm

giữ gìn và phát huy tồn bộ di sản văn hóa thiêng liêng của cha ông để lại và
xác lập mục tiêu thực hiện xây dựng nền văn hóa mới cho thời kỳ đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
Như vậy, văn hố là tổng hồ các giá trị mà con người sáng tạo ra trong
suốt quá trình hoạt động thực tiễn lịch sử - xã hội của mình, là một hệ thống các
sản phẩm và giá trị, bao gồm cả giá trị vật chất lẫn giá trị tinh thần do loài người
sáng tạo ra trong lao động và hoạt động thực tiễn nhằm đáp ứng nhu cầu và phục
vụ cuộc sống của con người. Nó biểu hiện trình độ phát triển của mỗi dân tộc
trong quá trình phát triển lịch sử của mình. Là trình độ người trong phát triển, thể
hiện khát vọng chân - thiện - mỹ của con người, dân tộc và nhân loại. Cho dù các
quan niệm văn hóa được xem xét trên nhiều khía cạnh và có khác nhau, nhưng
chúng đều có sự liên quan chặt chẽ đến đời sống văn hóa.
1.1.1.2. Quan niệm về đời sống văn hoá
Cũng giống như nhiều khái niệm khoa học khác, thuật ngữ “Đời
sống văn hóa” ra đời vào thế kỷ XX, được đề cập trong một số cơng trình
nghiên cứu của các nhà khoa học, được sử dụng khá phổ biến trên các
phương tiện thông tin đại chúng, trên báo, tạp chí cũng như trên các văn
bản quản lý của Nhà nước, của ngành văn hóa, thể thao và du lịch. Đồng


12
thời, đã có nhiều cách hiểu và quan niệm khác nhau về nội hàm khái niệm
đời sống văn hóa.
Trong cuốn “Lý luận văn hóa và đường lối văn hóa của Đảng”, do
PGS, TS. Đỗ Đình Hãng chủ biên, của Khoa văn hóa xã hội chủ nghĩa, Học
viện Chính trị Khu vực I đã đưa ra quan niệm:
Đời sống văn hóa là một bộ phận của đời sống xã hội, bao gồm tổng
thể các hoạt động sống, nhằm đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của
con người, hướng con người vươn tới các giá trị Chân - Thiện - Mỹ.
Đời sống văn hóa xuất phát từ nhu cầu tinh thần của con người,

nhưng nó khơng đồng nhất với nhu cầu tinh thần. Không phải tất cả
mọi nhu cầu tinh thần đều tạo nên đời sống văn hóa, mà chỉ những
bộ phận nhu cầu hướng tới các giá trị cao cả, và sự đáp ứng các nhu
cầu này góp phần phát triển con người theo hướng nhân bản hóa
mới làm nên đời sống văn hóa [27, tr.177].
Cịn GS, TS. Đình Quang và các cộng sự trong cơng trình “Đời sống
văn hóa Đơ thị và khu cơng nghiệp Việt Nam” lại cho rằng:
Đời sống văn hoá bao hàm tất cả những hoạt động để tồn tại của
con người từ lúc sinh ra cho đến lúc chết. Những hoạt động đó được
thực hiện trên những bình diện khác nhau, vì những mục đích khác
nhau. Có những bình diện thuần sinh học như ăn chỉ để cho khỏi
đói, có bình diện mang tính tinh thần như học tập, sáng tạo, có bình
diện mang tính cá nhân như tình u, có bình diện mang tính xã hội
như phong tục tập qn... [51, tr.45].
Nhìn chung, mọi hoạt động trong đời sống đều do những nhu cầu quyết
định, mỗi nhu cầu lại có nhiều biểu thị phong phú của mình, nhưng suy cho
cùng có 6 nhu cầu cơ bản, đó là nhu cầu sinh sống vật chất; nhu cầu lưu
truyền huyết thống; nhu cầu sinh hoạt chính trị; nhu cầu hiểu biết; nhu cầu
tâm linh, tín ngưỡng; nhu cầu sáng tạo và giải trí.
Tiến sĩ khoa học Phan Hồng Giang và những cộng sự trong đề tài “Đời


13
sống văn hóa ở nơng thơn đồng bằng sơng Hồng và sơng cửu Long” thì cho rằng:
Khái niệm đời sống văn hoá là một khái niệm phái sinh từ khái
niệm đời sống của sinh học. Mà đời sống sinh học là q trình trao
đổi chất... Bằng cách loại suy, có thể hiểu đời sống văn hố là q
trình hấp thụ - trao đổi văn hố và q trình này cũng bao gồm tất
cả các khâu: sáng tạo văn hoá - tác phẩm văn hoá - các khâu trung
gian và tiếp nhận (tiêu thụ) văn hố [26, tr.11].

Trong cơng trình nghiên cứu "Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng
văn hố ở nước ta" GS. Hồng Vinh cho rằng:
Đời sống văn hóa là một bộ phận của đời sống xã hội, mà đời sống
xã hội là một phức thể những hoạt động sống của con người, nhằm
đáp ứng các nhu cầu vật chất và tinh thần của nó. Nhu cầu vật chất
được đáp ứng làm cho con người tồn tại như một sinh thể, cịn nhu
cầu tinh thần thì giúp con người tồn tại như một sinh thể xã hội, tức
là một nhân cách văn hoá. Hai nhu cầu cơ bản này xuất hiện ngay
từ khi con người hình thành về mặt giống lồi, tức là từ buổi bình
minh của xã hội loài người. Tuy vậy, khi xã hội phát triển cao lên,
đạt tới các trình độ phát triển tương ứng. Từ hai nhu cầu cơ bản nêu
trên hình thành nhu cầu văn hố, thể hiện khía cạnh chất lượng của
trình độ đáp ứng nhu cầu [87, tr.262 - 263].
Đồng thời, GS. Hoàng Vinh cũng cho rằng:
Đời sống văn hóa là bộ phận của đời sống xã hội, bao gồm các yếu
tố văn hóa tĩnh tại (các sản phẩm văn hóa vật thể, các thiết chế văn
hóa) cũng như các yếu tố văn hóa động thái (con người và các dạng
hoạt động văn hóa của nó). Xét về một phương diện khác, đời sống
văn hóa bao gồm các hình thức văn hóa hiện thực và cả các hình
thức sinh hoạt văn hóa tâm linh [87, tr.268].
Như thế, theo quan niệm của GS. Hồng Vinh, đời sống văn hóa là các
hoạt động khơng chỉ hướng tới lí tưởng chân, thiện, mĩ mà còn nhằm làm đẹp


14
cho cả các hoạt động vật chất của con người và nâng cách thức hưởng thụ vật
chất của con người. Quan niệm này về cơ bản phản ánh được cấu trúc của đời
sống văn hóa, song vẫn chưa làm rõ được bản chất của đời sống văn hóa.
Khác với quan niệm của GS Hoàng Vinh, trong báo cáo tổng quan đề
tài "Những giải pháp thúc đẩy phong trào toàn dân đồn kết xây dựng đời

sống văn hóa, đưa kết luận hội nghị trung ương X (khóa IX) về văn hóa đi
nhanh vào cuộc sống" TS. Nguyễn Hữu Thức đã có một cách nhìn nhận mới
về đời sống văn hóa, phản ánh được bản chất của đời sống là vì con người và
từ con người, nhưng quan niệm này vẫn chưa thể hiện được các yếu tố cấu
trúc của đời sống văn hóa, đề cập tới phạm vi quá rộng, quan niệm:
Đời sống văn hóa là hiện thực sinh động các hoạt động của con
người trong môi trường sống để duy trì, đồng thời tái tạo sản phẩm
văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần theo những giá trị và chuẩn mực
xã hội nhất định nhằm không ngừng tác động, biến đổi tự nhiên, xã
hội và đáp ứng nhu cầu đổi mới, nâng cao chất lượng sống của
chính con người [5, tr.13].
Với quan niệm trên đây, đời sống văn hóa có thể hiểu đó là tất cả những
hoạt động của con người tác động vào đời sống vật chất, đời sống tinh thần,
đời sống xã hội để hướng con người vươn theo quy luật của cái đẹp, của
chuẩn mực giá trị chân, thiện, mĩ, đào thải những biểu hiện tiêu cực tha hóa
con người. Con người thơng qua các hoạt động của mình tác động vào đời
sống vật chất để con người biến đổi môi trường tự nhiên tạo lập môi trường
nhân văn, làm ra nhiều sản phẩm vật chất cho xã hội, tác động vào đời sống
tinh thần để con người đáp ứng các nhu cầu về tư tưởng, đạo đức, lối sống,
tình cảm, vào đời sống xã hội để xây dựng lên một hệ thống các giá trị chuẩn
mực của xã hội, qua đó hướng con người vươn tới những giá trị tốt đẹp.
Qua các cách quan niệm về đời sống văn hóa trên đây cho thấy, các
quan niệm tuy có khác nhau, nhưng điều quan trọng nhất liên quan đến đời
sống văn hóa mà các tác giả đều đề cập đến là các hoạt động văn hóa. Các


15
hoạt động này gắn liền với một chủ thể nhất định là cá nhân hay cộng đồng,
trong những không gian nhất định và nhằm thỏa mãn những nhu cầu của các
chủ thể trong việc hưởng thụ và sáng tạo các giá trị văn hóa. Trong q trình

diễn ra các hoạt động văn hóa, có sự hịa trộn giữa văn hóa cá nhân với văn
hóa cộng đồng, văn hóa vật thể với văn hóa phi vật thể và nhân cách văn hóa.
Kết quả của các mối quan hệ đó có tác động trực tiếp đến việc hình thành
phẩm giá, lối sống của con người và sự phát triển của xã hội. Con người bằng
các hoạt động của mình, tác động vào đời sống vật chất, đời sống tinh thần,
đời sống xã hội để hướng con người và xã hội vận động theo hướng ngày
càng hồn thiện hơn.
Như vậy, có thể hiểu đời sống văn hố chính là tồn bộ các sinh hoạt
văn hố diễn ra trong một khơng gian địa lý, gắn liền với các thiết chế văn
hoá và cơ sở vật chất nhất định. Những hoạt động này nhằm thoả mãn nhu
cầu của con người và nâng cao chất lượng mọi mặt cuộc sống của con người.
Là quá trình tạo dựng lối sống và các mối quan hệ lành mạnh, chuẩn mực;
làm cho con người thoả mãn nhu cầu về tư tưởng, tình cảm, thẩm mỹ, đạo
đức. Khi nói đến đời sống văn hóa là nói đến một lĩnh vực trong đời sống của
con người, trong đó đời sống của con người có rất nhiều lĩnh vực khác nhau
và có mối liên hệ với nhau như đời sống xã hội, đời sống văn hóa, đời sống
chính trị. Đời sống con người cũng được chia thành hai lĩnh vực là đời sống
vật chất và đời sống tinh thần, trong đó đời sống vật chất là những hoạt động
nhằm thõa mãn các nhu cầu vật chất làm cho con người tồn tại như một sinh
thể, cịn đời sống tinh thần hình thành trên những hoạt động nhằm thõa mãn
nhu cầu tinh thần, giúp con người tồn tại như một sinh thể xã hội, tức là một
nhân cách văn hóa.
Vì vậy, khi nghiên cứu về đời sống văn hóa cần có sự khu biệt cần thiết
về đời sống văn hóa trong tồn bộ hoạt động của đời sống xã hội. Tuy có rất
nhiều quan niệm khác nhau về đời sống văn hóa như trên, nhưng trong phạm


16
vi, yêu cầu của đề tài nghiên cứu, trên cơ sở kế thừa các quan niệm trên đây,
có thể quan niệm như sau:

Đời sống văn hóa chính là tổng thể những hoạt động văn hóa của con
người trong việc sáng tạo, lưu giữ, trao truyền và hưởng thụ những giá trị
văn hóa vật chất, tinh thần, qua đó nhằm nâng cao chất lượng sống của con
người, hoàn thiện nhân cách và xây dựng mơi trường văn hóa lành mạnh.
1.1.2. Cấu trúc của đời sống văn hóa
Như đã trình bày ở trên, đã có rất nhiều quan niệm về đời sống văn hoá
và gắn với chúng là những quan niệm cụ thể về cấu trúc của đời sống văn hoá.
Như các tác giả khoa văn hóa xã hội chủ nghĩa, Học viện Chính trị khu vực I
trong cuốn “Lý luận văn hóa và đường lối văn hóa của Đảng” cho rằng để đời
sống văn hóa được diễn ra thường xuyên và phát triển, cần có 3 yếu tố, đó là:
Các sản phẩm văn hóa của cộng đồng; các dạng hoạt động văn hóa của con
người; con người - chủ thể sáng tạo của văn hóa. Những yếu tố này tạo nên
cấu trúc của đời sống văn hóa. Cịn GS. Hồng Vinh, sau khi phân tích các
yếu tố đã cho rằng: “muốn cho các sản phẩm văn hóa nảy sinh và được vận
hành trong đời sống xã hội, thì phải có 3 yếu tố: sản phẩm văn hóa, thể chế
văn hóa, các dạng hoạt động văn hóa và những con người văn hóa. Ba yếu tố
đó tạo thành cấu trúc của đời sống văn hóa” [87, tr.266].
Trên cơ sở kế thừa quan điểm của các nhà nghiên cứu, đề tài xác định
cấu trúc của đời sống văn hoá gồm các bộ phận như sau: hệ thống các giá trị
văn hóa; Con người - chủ thể của hoạt động văn hóa; các hoạt động văn hóa;
hệ thống các thiết chế và cảnh quan văn hóa. Giữa các yếu tố này có sự tác
động lẫn nhau, phản ánh toàn bộ của đời sống xã hội.
- Hệ thống các giá trị văn hóa:
Khi nói đến hệ thống các giá trị văn hóa, chúng ta biết rằng giá trị cũng
như tập quán, chuẩn mực, tri thức... đó là sản phẩm của q trình tư duy, sản
xuất tinh thần của con người, nó là yếu tố cốt lõi nhất của văn hoá. Giá trị, giá
trị văn hoá là một hình thái của đời sống tinh thần, nó phản ánh và kết tinh đời


17

sống văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần của con người. Giá trị văn hóa
chính là hạt nhân của đời sống văn hóa, mà trong đó đời sống văn hóa giống
như một biểu đồ phản ánh sự sáng tạo, truyền bá và tác động của các giá trị
thông qua hoạt động sống của con người.
Nếu nho giáo Trung Hoa đề cao Trung - Hiếu - Tiết - nghĩa, thì người
Nhật đề cao thiện - ích - mỹ. Và nếu xem xét hoạt động sống của con người từ
ba góc độ nhận thức, hành động và cảm xúc, chúng ta thấy hệ giá trị văn hóa
gồm ba phạm trù cơ bản là chân - thiện - mỹ. Trong đó, chân là đối tượng của
nhận thức và sáng tạo khoa học; thiện là đối tượng của nhận thức và hành vi
đạo đức; mỹ là đối tượng của nhận thức và hoạt động thẩm mỹ - nghệ thuật.
Chân, thiện và mỹ thống nhất với nhau, phản ánh quan niệm của con người về
những mối quan hệ ứng xử với tự nhiên và xã hội cũng như khả năng sáng tạo
của con người theo qui luật của cái đẹp.
Trong mỗi xã hội, giá trị văn hoá do con người sáng tạo ra trong quá
trình lịch sử, nhưng một khi hệ giá trị văn hố đã hình thành thì nó lại có vai
trị định hướng cho các mục tiêu, phương thức và hành động của con người
trong xã hội ấy. Cũng như văn hoá, giá trị được sản sinh từ các mối quan hệ
con người với tự nhiên, với xã hội. Giá trị văn hoá của mỗi cộng đồng bao giờ
cũng tạo nên một hệ thống, với ý nghĩa là các giá trị ấy nảy sinh, tồn tại trong
sự liên hệ, tác động hữu cơ với nhau, nó khơng tồn tại riêng lẻ. Vì thế, giá trị
như là hạt nhân tinh thần liên kết cộng đồng dân cư.
- Con người - Chủ thể của hoạt động văn hóa:
Con người là chủ thể sáng tạo ra văn hóa, đồng thời cũng là sản phẩm
của văn hóa. Phẩm chất văn hóa của con người thể hiện ở trình độ ứng xử với
thiên nhiên, xã hội và chính bản thân con người. Với tư cách là chủ thể lịch
sử, vừa là sản phẩm của lịch sử, con người đã gắn với q trình lịch sử văn
hóa của mình, con người hiện ra khơng chỉ là thực thể hoạt động mà còn là
thực thể tự phát triển. Trong văn hóa, hoạt động sản xuất xã hội của con người
đã biến bản thân con người thành mục đích và sản phẩm của mình. Các hoạt



18
động của con người dù có tính xã hội cũng thông qua các cá nhân. Sự tự hoạt
động của các cá nhân là một thực thể của quá trình văn hóa. Chủ thể hoạt
động văn hóa là tồn bộ các cá thể được kết hợp với nhau trong một cộng
đồng nhất định. Chủ thể hoạt động đã làm cho sự tồn tại của văn hóa dù là
hoạt động cá nhân cũng nằm trong tổng thể mối liên hệ của cá nhân này với
cá nhân khác.
Nói đến chủ thể hoạt động văn hóa, chúng ta cần chú ý đến các đặc
điểm của cộng đồng được biểu hiện ở một số khía cạnh như: học vấn, tuổi
thọ, lứa tuổi, sức khỏe, nghề nghiệp, tín ngưỡng, quan niệm sống, nhu cầu về
vật chất và tinh thần, những cá nhân có năng khiếu sáng tạo đặc biệt, ứng xử
văn hoá của cá nhân ở nơi cơng cộng.
- Các hoạt động văn hóa:
Hoạt động văn hoá là một bộ phận của hoạt động xã hội, là hoạt động
sản xuất tinh thần nhằm tạo ra nhưng sản phẩm đáp ứng nhu cầu tinh thần của
con người. Vì vậy, nó gắn liền với q trình sản xuất, bảo quản, phân phối, tiêu
thụ các sản phẩm văn hóa trong xã hội. Các hoạt động văn hóa này hướng tới các
giá trị chân - thiện - mỹ; các giá trị này sẽ được sản sinh, vận động và lan tỏa
trong đời sống xã hội. Với tư cách là loại hoạt động thực hiện các giá trị, hoạt
động văn hóa là hoạt động mang tính sáng tạo, thể hiện một cách tập trung nhất
năng lực văn hóa và khả khả năng sáng tạo theo các qui luật của cái đẹp.
Khi nhu cầu văn hóa của nhân dân ngày càng phong phú, đa dạng thì
các hoạt động để đáp ứng các nhu cầu ấy cũng hết sức phong phú và đa dạng.
Chúng ta có thể nêu lên một số dạng hoạt động văn hóa phổ biến sau đây:
Hoạt động sáng tạo các giá trị văn hóa: có thể kể đến một số hoạt động
như hoạt động sáng tác và biểu diễn nghệ thuật, hội họa, văn học nghệ thuật,
âm nhạc, điêu khắc...
Hoạt động lưu giữ, phát huy các giá trị văn hóa: đây là hoạt động có
tầm quan trọng trong đời sống văn hóa của cộng đồng, ảnh hưởng trực tiếp

đến sự bảo tồn và phát triển đời sống văn hóa. Có thể kể đến một số hình thức


19
như khai trí, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức, kiến thức cho mọi người,
diễn giảng, tọa đàm, thư viện, thông tin, bảo tàng, lưu trữ, triển lãm, sưu tập;
lễ hội, tín ngưỡng.
Hoạt động hưởng thụ các giá trị văn hóa: Hoạt động này rất phong phú
về hình thức nó tùy vào sở thích, nhu cầu, điều kiện của chủ thể văn hóa. Bao
gồm hoạt động tập luyện thể dục thể thao, đọc sách, báo, nghe âm nhạc, xem
nghệ thuật, phim ảnh, triển lãm, tham quan, du lịch, vui chơi giải trí...
- Hệ thống các thiết chế và cảnh quan văn hóa:
Hệ thống các thiết chế văn hóa đóng vai trò là nơi lưu giữ và chuyển tải
các giá trị văn hóa của cộng đồng đến với mỗi một con người sống trong xã
hội đó, là điều kiện vật chất để đảm bảo cho các hoạt động văn hóa được diễn
ra trong đời sống xã hội. Một thiết chế văn hóa bao gồm cả cơ sở vật chất, con
người - tổ chức bộ máy, lẫn thể chế vận hành mới mang đầy đủ ý nghĩa của
một thiết chế văn hóa.
Thiết chế văn hóa thơn, làng, bản, ấp, tổ dân phố là một bộ phận nằm
trong hệ thống thiết chế văn hóa thơng tin cơ sở nói chung. Xây dựng và tổ
chức hoạt động thiết chế văn hóa làng, thơn, ấp, bản, tổ dân phố là một nội
dung cơ bản trong xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở. Hệ thống thiết chế này
được xây dựng nhằm tổ chức các hoạt động văn hóa tại chỗ cho nhân dân; có
chức năng giáo dục, tuyên truyền về tư tưởng, đạo đức, lối sống, nếp sống
lành mạnh, góp phần xây dựng và phát triển kinh tế, thực hiện các nhiệm vụ
chính trị của địa phương; đồng thời đáp ứng nhu cầu sinh hoạt và hưởng thụ
văn hóa của nhân dân, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa tốt đẹp của địa
phương, góp phần vào việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; tổ chức tốt đời sống văn hóa trong các cộng
đồng dân cư, bảo đảm định hướng tư tưởng đúng đắn của Đảng trong mọi

sinh hoạt tinh thần của xã hội.
Hệ thống thiết chế văn hóa hình thành như một q trình và được hồn
thiện dần trong q trình hoạt động thực tiễn. Các thiết chế văn hố - xã hội


20
như là trường học, nhà mẫu giáo, sân vận động, trung tâm văn hoá, câu lạc bộ,
thư viện, nhà văn hóa, phịng truyền thống… có chức năng giáo dục con
người theo những nhu cầu chuẩn mực phù hợp với yêu cầu phát triển của xã
hội. Các thiết chế này làm tốt chức năng của nó sẽ cung cấp cho xã hội những
sản phẩm chất lượng cao. Các thiết chế văn hóa này chính là chiếc cầu nối
giữa sáng tạo, thưởng thức, đồng thời là nơi diễn ra quá trình chuyển tải các
giá trị văn hóa tới cộng đồng dân cư.
Nói tới cảnh quan văn hóa, đó là những sản phẩm tồn tại trong quan hệ
tương tác giữa con người và môi trường tự nhiên, môi trường xã hội, bao gồm
các thắng cảnh thiên nhiên, cơng trình kiến trúc, xây dựng, đường phố, tượng
đài, quy hoạch đô thị, làng xã, quảng trường…
Những cảnh quan văn hóa này, là nơi gắn liền trực tiếp với cuộc sống
của con người, nơi con người sinh hoạt và tồn tại trong đó. Vì vậy, cảnh quan
văn hóa chính là mơi trường vật chất, văn hóa để cho con người tồn tại và
hoạt động trong đó. Bằng thực tiễn, qua góc nhìn từ hệ thống cảnh quan, kiến
trúc, này mà chúng ta ít nhiều có thể khái quát lên được đời sống văn hóa của
một cộng đồng dân cư nơi đó.
Như vậy, các yếu tố nêu trên đây hình thành nên cấu trúc của đời sống
văn hóa, chúng có mối quan hệ chặt chẽ, qua lại gắn bó với nhau, trong đó
chủ thể văn hóa đóng vai trị quyết định đến đời sống văn hóa. Tuy nhiên, như
đã trình bày ở trên cấu trúc của đời sống văn hóa rất rộng, bao gồm nhiều yếu
tố, vì vậy trong luận văn này chỉ tập trung tìm hiểu, khảo sát một vài lĩnh vực
cơ bản của đời sống văn hóa.
1.2. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ - XÃ HỘI THÀNH PHỐ BẢO LỘC, TỈNH

LÂM ĐỒNG

1.2.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, dân cư
- Vị trí địa lý:
Thành phố Bảo Lộc là một trong hai đô thị trung tâm lớn của tỉnh Lâm
Đồng sau thành phố Đà Lạt, là đô thị miền núi Tây Nguyên, nằm trên cao


21
ngun Di Linh, có vai trị là trung tâm kinh tế, văn hóa, xã hội quan trọng
của tỉnh. Phía bắc, phía nam, phía đơng của thành phố tiếp giáp các xã Lộc
Quảng, Lộc Thành, Lộc An của huyện Bảo Lâm, phía Tây giáp huyện Đạ
Huoai. Địa giới hành chính của thành phố, gồm có 6 phường và 5 xã, với tổng
diện tích đất tự nhiên là 23.256,28 ha, trong đó đất nội thị chiếm 6.744,77 ha
và đất ngoại thị là 16.511,51ha [84].
Nằm ở khu vực trung tâm của vùng nam Lâm Đồng, cách thành phố Đà
Lạt 110 km, thành phố Hồ Chí Minh 190 km, Biên Hịa 150 km, Vũng Tàu
200 km và tỉnh Bình Thuận 120km. Bảo Lộc có vị trí quan trọng về đầu mối
giao thơng, ảnh hưởng lớn đến các đô thị, theo trục Quốc lộ 20 nối liền Đà
Lạt và thành phố Hồ Chí Minh; theo trục quốc lộ 55 đi thành phố Phan Thiết Bình Thuận; theo trục quốc lộ 14 hướng tỉnh Đak Nông, Bình Phước, thành
phố Bn Mê Thuột và vùng nam Tây Nguyên, thành phố Bảo Lộc thực sự là
đầu mối giao thơng trọng yếu của vùng nam Lâm Đồng, có vai trị quan trọng
và có tiềm năng mở rộng mối giao lưu kinh tế - văn hóa giữa Lâm Đồng với
các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ và miền Đông Nam bộ [84].
- Điều kiện tự nhiên:
Bảo Lộc nằm trên cao nguyên Bảo Lộc - Di Linh, có độ cao trung bình
từ 600 - 800m. Địa hình có sự phân hố thành 3 dạng chính là núi cao, đồi
dốc và thung lũng. Địa hình núi cao tập trung ở khu vực Tây Nam thành phố,
bao gồm các ngọn núi cao từ 900 - 1.100m, với độ dốc lớn, khu vực địa hình
này chiếm 11% diện tích tự nhiên tồn thành phố, khoảng 2.500 ha; Địa hình

đồi dốc với các khối Bazan, Bảo Lộc bị chia cắt mạnh, tạo nên các ngọn đồi
và dải đồi dốc có đỉnh tương đối bằng phẳng từ 800 - 850m, độ dốc sườn đồi
lớn, dễ bị xói mịn. Dạng địa hình này chiếm 79,8% diện tích tồn thành phố,
là địa bàn sản xuất cây cơng nghiệp dài ngày như chè, cà phê, dâu tằm; Địa
hình thung lũng tập trung ở xã Lộc Châu và Đại Lào, chỉ chiếm 9,2% diện
tích tồn thành phố, là địa hình thấp, bằng phẳng, thích hợp phát triển cà phê


22
và chè, cây dâu và cây ngắn ngày. Bảo Lộc có địa hình xây dựng lý tưởng,
đẹp về cảnh quan thiên nhiên, thuận lợi về xây dựng, phát triển du lịch [84].
Về khí hậu: Bảo Lộc có khí hậu thuận lợi nhất trong vùng cao nguyên,
quanh năm mát mẻ, theo chế độ nhiệt đới gió mùa nhưng biến thiên theo độ
cao và hình thể địa hình. Nhiệt độ trung bình cả năm từ 21 - 22 0C, nhiệt độ
cao nhất trong năm 27,40C, nhiệt độ thấp nhất trong năm 16,6 0C. Lượng mưa
trung bình năm 2.513 - 2.514mm, phân bố trong năm tương đối đều và là
vùng có số ngày mưa nhiều nhất trong tỉnh. Lượng mưa cao nhất tập trung
vào các tháng 7, 8, 9; độ ẩm trung bình từ 80 - 85%, hầu như khơng có bảo.
Nhiệt độ trung bình cả năm thấp, ơn hịa, biên độ dao động nhiệt độ giữa ngày
và đêm lớn khá, mùa khô ngắn, khơng có tháng hạn [84].
Do địa hình bị chia cắt nhiều, lượng mưa lớn, mùa mưa kéo dài, vùng
sinh thủy rộng nên nguồn nước mặt ở Bảo Lộc khá phong phú và mật độ sơng
suối khá dày, bình qn 0,9 - 1,1km/km 2, gồm 3 hệ thống, đó là hệ thống sơng
Dar’Nga phân bố ở phía đơng thành phố; hệ thống suối Đại Bình phân bố chủ
yếu ở phía nam Quốc lộ 20 và hệ thống suối Đam’Bri là vùng đầu nguồn các
suối vùng phía bắc, có nghiều ghềnh thác [84].
Bảo Lộc cịn là nơi có nhiều khống sản có giá trị kinh tế cao, phong
phú về chủng loại, với trữ lượng khá lớn, tập trung và rất thuận tiện cho việc
khai thác chế biến. Khoáng sản nguyên liệu như than nâu, than bùn tập trung
ở xã Đại Lào; khống sản kim loại như Bơ xít nhơm tập trung ở phía Đơng

bắc thành phố đến Tân Rai - Bảo Lâm; cao lanh tập trung ở xã Lộc Châu…
- Dân cư:
Dân cư trên địa bàn thành phố hiện có 153.808 người, trong đó dân số
thành thị 96.360 người chiếm 62,64%, nông thôn 57.448 người chiếm
37,36%, sinh sống tại 174 thôn, tổ dân phố ở 6 phường và 5 xã. Có 26 dân tộc
anh em sinh sống, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số có 25 dân tộc với 5,122
người chiếm 3,33% dân số toàn thành phố Bảo Lộc. Trong số các dân tộc
thiểu số, dân tộc Mạ và Cơho là dân tộc bản địa gốc Tây Nguyên chiếm tỷ lệ


23
cao nhất. Nhân dân trên địa bàn theo 4 tôn giáo gồm Phật giáo, Công giáo,
Tin Lành và đạo Cao Đài, với 102.785 tín đồ các tơn giáo. Mật độ dân số 661
người/km2. Có 88.913 người trong độ tuổi lao động; lao động đang làm việc
trong các ngành kinh tế là 75.279 người [12], [83].
1.2.2. Đặc điểm kinh tế
Là vùng kinh tế trọng điểm phía Nam tỉnh Lâm Đồng, đồng thời là
trung tâm công nghiệp của cả tỉnh. Trên cơ sở thực hiện nghị quyết 02NQ/TU ngày 03/5/2006 của Ban thường vụ Tỉnh ủy Lâm Đồng về “Đột phá,
tăng tốc phát triển kinh tế - xã hội thị xã Bảo Lộc”, Nghị quyết 07-NQ/TU
của Ban thường vụ Tỉnh ủy về “Phát triển thành phố Bảo Lộc trở thành trung
tâm dịch vụ công nghiệp của tỉnh giai đoạn 2011 - 2015” và Nghị quyết đại
hội Đảng bộ thành phố lần thức IV, được sự quan tâm lãnh đạo của tỉnh, Đảng
bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc trên địa bàn thành phố đã đoàn kết
thống nhất, phát huy những điều kiện thuận lợi, vượt qua khó khăn, thử thách,
kịp thời đề ra các chủ trương, giải pháp phù hợp tổ chức thực hiện và đạt
những kết quả tốt. Kinh tế thành phố Bảo Lộc liên tục tăng trưởng và phát
triển ở mức cao. Cơ cấu kinh tế được chuyển dịch tích cực, phù hợp với tính
chất kinh tế đơ thị, tăng tỷ trọng các ngành phi nông nghiệp, theo đó Cơng
nghiệp - xây dựng chiếm 39,5%; thương mại - dịch vụ chiếm 44,5% và nông lâm nghiệp chỉ chiếm 16%. Thu nhập GDP bình quân đầu người đạt 38 triệu
đồng năm 2013; tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn 1,83% năm 2013 [82].

Trên lĩnh vực công nghiệp:
Là trung tâm công nghiệp của tỉnh, với thế mạnh là các ngành công
nghiệp chế biến nông sản, dệt may, tơ tằm, công nghiệp sản xuất vật liệu xây
dựng, khai thác, chế biến khóang sản va các ngành cơng nghiệp hỗ trợ, phụ
trợ… Thành phố xác định phát triển công nghiệp là nhiệm vụ trọng tâm, theo
đó tập trung phát triển cơng nghiệp, tiểu thủ cơng nghiệp theo hướng tiếp tục
đầu tư hồn thiện hạ tầng khu công nghiệp Lộc Sơn và triển khai đầu tư các
cụm công nghiệp đã được quy hoạch; củng cố, phát triển các ngành công


24
nghiệp truyền thống hiện có, thu hút đầu tư phát triển các ngành công nghiệp
mới khai thác hiệu quả tiềm năng, lợi thế của địa phương. Các khu, cụm công
nghiệp đã hình thành và đi vào hoạt động ổn định như khu công nghiệp Lộc
Sơn, cụm Công nghiệp - dịch vụ Lộc Phát, cụm công nghiệp Đại Lào…
Ngành công nghiệp với hàng trăm doanh nghiệp lớn, nhỏ đã có những đóng
góp đáng kể trong nền kinh tế của Bảo Lộc. Bên cạnh đó, khu vực cơng
nghiệp ngồi quốc doanh phát triển năng động, đa dạng quy mô và cơ cấu
ngành nghề, chiếm tỷ trọng ngày càng cao về giá trị sản xuất. Nhiều năng lực
sản xuất mới được đầu tư bổ sung như sản xuất vật liệu xây dựng công nghệ
mới, khai thác chế biến khoáng sản theo hướng chuyên sâu, góp phần bù đắp
sự sụt giảm giá trị sản xuất của ngành chế biến nông sản. Giá trị sản xuất hằng
năm tăng bình qn 20% và giữ vị trí trung tâm công nghiệp của tỉnh.
Trong lĩnh vực nông nghiệp:
Phát huy thế mạnh của các loại cây lâu năm trên địa bàn như trà, cà
phê, dâu tằm… Thành phố tập trung thực hiện các mơ hình ứng dụng nơng
nghiệp cơng nghệ cao, nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp. Giá trị sản
xuất ngành nơng nghiệp tăng bình qn 5%/năm, tỷ trọng ngành nông nghiệp
năm 2013 chiếm 16% trong cơ cấu kinh tế. Hình thành một số vùng nguyên
liệu tập trung, đồng thời tích cực cải tạo, chuyển đổi giống cây trồng 25,5%

diện tích chè, 40% diện tích cà phê, hơn 17% diện tích dâu tằm được chuyển đổi
các loại giống mới. Ngoài ra, một số lĩnh vực sản xuất mới hình thành theo định
hướng cơng nghệ cao, có triển vọng như nấm thực phẩm, nấm dược liệu, các loại
cây dược liệu… đã góp phần tạo thêm giá trị sản xuất nơng nghiệp, giá trị sản
xuất bình qn năm 2013 đạt 80 triệu đồng/ha canh tác [82].
Cùng với việc đẩy mạnh ứng dụng, chuyển giao công nghệ, tạo chuyển
biến trong chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng, vật nuôi, xây dựng vùng
nguyên liệu theo định hướng sản xuất sản phẩm an toàn phù hợp với điều kiện
thổ nhưỡng. Tổng diện tích cây cơng nghiệp dài ngày hiện có hơn 17 ngàn ha;
trong đó, diện tích cây chè 9.544 ha, sản lượng bình quân đạt trên 70 ngàn


25
tấn, cây cà phê 7.618 ha, sản lượng bình quân đạt 21.600 tấn, cây dâu 168 ha,
sản lượng bình quân đạt 2.770 tấn [82].
Ngành chăn nuôi đang được sự quan tâm đầu tư của các nơng hộ theo
hướng an tồn dịch bệnh, các tiến bộ khoa học được ứng dụng và phát huy
hiệu quả; Kinh tế trang trại phát triển. Đến nay, thành phố Bảo Lộc có trên
100 trang trại, gồm trang trại chăn nuôi và trang trại trồng trọt phát triển theo
hướng quy mô, tập trung, đảm bảo cung ứng nguyên liệu cho công nghiệp chế
biến. Đàn heo hiện có khoảng 79.052 con, gia cầm khoảng 105.000 con [82].
Các cơng trình hồ đập thủy lợi được quan tâm đầu tư bằng nguồn ngân
sách Nhà nước phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Với 10 đập thủy lợi, tưới
tiêu cho hơn 35% diện tích cây trồng, đồng thời góp phần ổn định nguồn nước
phục vụ sinh hoạt, bảo vệ môi trường sinh thái.
Sản xuất nơng nghiệp đang có xu hướng chuyển dịch cơ cấu theo
hướng tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi, chiếm 40% tỷ trọng trong ngành nông
nghiệp. Với định hướng xây dựng vùng nguyên liệu góp phần cho ngành cơng
nghiệp chế biến, thành phố đã triển khai mơ hình sản xuất chè an toàn theo
hướng Gap, với tổng diện tích là 900 ha, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ

thuật vào sản xuất nông nghiệp và thực hiện chuyển đổi giống cà phê cho
năng suất cao bằng phương pháp ghép mầm đạt 1.200ha [82].
Thương mại - Dịch vụ:
Trong những năm qua, giá trị sản xuất ngành dịch vụ có bước phát triển
khá, đảm bảo yêu cầu phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của đô thị phía Nam
tỉnh Lâm Đồng, tăng bình qn 14,6%, chiếm tỷ trọng 38,5% trong GDP.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng bình quân
20,7%. Các cơ sở kinh doanh tăng 1,17 lần, sử dụng lao động tăng 1,3 lần so
với năm 2006. Hệ thống trung tâm thượng mại, siêu thị, chợ trung tâm, chợ
khu dân cư, nhà hàng… được quan tâm đầu tư xây mới và nâng cấp; cơ sở lưu
trú phát triển mạnh với 64 khách sạn, nhà nghỉ [44], [82].


×