Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

CẢM NHẬN SÔNG ĐÀ SÔNG HƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.74 KB, 14 trang )

NGƯỜI LÁI ĐỊ SƠNG ĐÀ (Nguyễn Tn)
I.Tìm hiểu chung:
1.Tác giả:
Có thể nói, Nguyễn Tuân là một hiện tượng độc đáo của nền văn học Việt nam thế kỉ XX. Tác
phẩm của Nguyễn Tuân thể hiện sự chuyển biến từ nhà văn lãng mạn thành nghệ sĩ cơng dân gắn
bó với sự nghiệp Cách mạng. Thành công lớn nhất của Nguyễn Tuân là thể loại tùy bút, bút ký –
đây cũng là sự đóng góp lớn nhất của Nguyễn Tuân cho văn học hiện đại.
Về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân, sách Văn 12 có viết: "Nguyễn Tuân có phong cách
nghệ thuật rất độc đáo và sâu sắc. Phong cách ấy, trước hết có thể thâu tóm trong mấy chữ phóng
túng, tài hoa và uyên bác". Nguyễn Tuân tài hoa trong việc dựng người, dựng cảnh, trong những
hiện tượng so sánh táo bạo, bất ngờ. Nguyễn Tuân uyên bác trong việc vận dụng sự hiểu biết
thuộc nhiều ngành khác nhau để quan sát hiện thực cuộc sống. Từ sự quan sát tinh tế, kĩ lưỡng và
vốn sống phong phú, ông sáng tạo hình tượng, mang đến cho người đọc một khối lượng tri thức
đa dạng, phong phú. Bởi thế, văn Nguyễn Tuân vừa đĩnh đạc, cổ kính, vừa trẻ trung, hiện đại.
Nguyễn Tuân thường tiếp cận, phát hiện, miêu tả sự vật ở phương diện văn hóa thẩm mỹ, tài hoa.
Nhân vật trong tác phẩm của ông là những con người nghệ sĩ, thiên nhiên trong văn ông là nguồn
tư liệu phong phú, ẩn chứa cái đẹp cao cả, thiêng liêng. Từ tình u thiên nhiên tha thiết, ơng có
phát hiện tinh tế và độc đáo về thiên nhiên của đất nước, nhà văn có cảm hứng đặc biệt trước
những phong cảnh tuyệt mĩ, những gió bão thác ghềnh dữ dội.
Nguyễn Tuân có đóng góp lớn cho sự phát triển của ngơn ngữ văn học nước nhà. Ơng có kho từ
vựng phong phú, có khả năng tổ chức câu văn giàu giá trị tạo hình, giàu nhạc điệu, gợi sự liên
tưởng độc đáo, bất ngờ.
Nhận định:
- Nhà văn lớn Nguyễn Tuân được mệnh danh là “Người săn tìm cái đẹp” (Nguyễn Thành),
hoặc “Người đi tìm cái đẹp, cái thật” (Nguyễn Đình Thi)
- Nguyễn Tuân là “một cách định nghĩa về người nghệ sĩ” (Nguyễn Đăng Mạnh)A
2.Tác phẩm:
a.Hoàn cảnh sáng tác:
“Người lái đó Sơng Đà” là kết quả của nhiều dịp Nguyễn Tuân đến với Tây Bắc, đặc biệt là
chuyến đi thực tế năm 1958. Đây là một trong 15 bài tuỳ bút in trong tập Sông Đà (1960) – tập
tuỳ bút cho thấy diện mạo của một Nguyễn Tuân đã đổi thay, để trở thành một nhà văn mới trong


thời đại mới.
b.Chủ đề:
Qua hình ảnh con Sơng Đà hung bạo và thơ mộng, người lái đò giản dị mà anh dũng, tài hoa,
Nguyễn Tuân ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên và con người vùng Tây Bắc của Tổ quốc.
3.Đặc diểm nghệ thuật:


Tác phẩm mang đậm phong cách Nguyễn Tuân: Tài hoa, uyên bác, yêu cái đẹp, câu văn tạo hình
gợi cảm, liên tưởng độc đáo, nhạc điệu trầm bổng.
Tác giả vận dụng thơ cổ kim, đông tây, vận dụng kiến thức lịch sử, địa lí, hội hoạ, điện ảnh, quân
sự, võ thuật, thể thao…
Dùng các biện pháp nhân hoá, so sánh tài tình và sinh động.
II.Tìm hiểu văn bản:
1.Hình tượng Sơng Đà:
Sông Đà dài hơn 900 km bắt nguồn từ dãy núi Vân Nam, Trung Quốc, chảy qua biên giới đến
Việt Nam bắt đầu từ Lai Châu chảy qua các tỉnh Điện Biên, Sơn La, Hịa Bình, Phú Thọ, dài
543km, với 83 thác nghềnh hiểm trở.
Dịng Sơng Đà được Nguyễn Tn hình dung như một con người với hai đặc tính trái ngược,
mâu thuẫn mà thống nhất: Hung bạo, dữ dội, nguy hiểm và thơ mộng, trữ tình. Cả hai đặc tính
này đều rất đậm nét.
a. Tính hung bạo, dữ dội của sơng Đà (ở thượng nguồn)
Hình tượng sơng Đà được Nguyễn Tuân dồn nhiều bút lực và tâm huyết vì thế mà hung bạo của
dịng sơng hiện lên thành hình, thành khối, đầy âm thanh dữ dội.
- Dịng chảy: Tính chất hung bạo, dữ dội của Sông Đà trước hết là ở hướng chảy độc đáo, ngang
ngược:
“Chúng thuỷ giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”
(Mọi dịng sơng đều chảy về hướng đơng – chỉ có Sơng Đà chảy theo hướng Bắc)
Cũng là đứa con của mẹ thiên nhiên nhưng sơng Đà chọn riêng cho mình một hướng chảy khác
biệt. Giữa những dãy núi trùng điệp của vùng Tây Bắc, sơng Đà hùng vĩ hoang sơ và bí hiểm,
đến cả cát sông Đà cũng “đục thủng gan bàn chân lỗ rỗ như vệt hà đục thủng đáy và mạn dưới

cái thuyền gỗ”
- Bờ sông Đà: không phải là bờ sơng hiền hịa, bãi bồi phù sa mà là vách đá thẳng đứng, cao
hàng chục sải tay: “Đá bờ sông dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt
trời”, có “Vách đá thành chẹt lịng Sơng Đà như một cái yết hầu” gây khó khăn cho con người
đi lại trên sông.
- Ghềnh Sông Đà thật ghê gớm gây ấn tượng mạnh mẽ đến người đọc “ … quãng mặt ghềnh
Hát Lóong, dài hàng cây số nước xơ đá, đá xơ sóng, sóng xơ gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè
suốt năm như lúc nào cũng địi nợ xt bất cứ người lái đị Sơng Đà tóm được qua đấy.” Kết
cấu câu văn trùng điệp, gấp gáp khẩn trương như sự chuyển vận của gió to vào sóng nước.
- Những cái hút nước Sơng Đà mới đáng sợ, chúng giống như những giếng bê tông được thả
xuống sông. Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Hình thái của dịng sơng được nhà
văn nén vào một thứ văn “cheo leo” gây chấn động mạnh vào thần kinh cảm thụ của người đọc
“Trên mặt cái hút xốy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ những cách quạt đàn”. Cái hút nước hiểm
ác ấy khiến cho không con thuyền nào dám bén bảng, thuyền nào cũng cố chạy thật nhanh. Con
thuyền nào chẳng may bị cái hút ấy nó hút xuống “thuyền trồng ngay cây chuối ngược, rồi vụt
biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lịng sơng, mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sơng dưới”.
Nhà văn đã xoay lật dịng sơng, quay cận cảnh. Ơng tưởng tượng một người quay phim táo tợn
nào đó ngồi vào thúng xuống cái hút nước đó. Thuyền quay trịn, người quay lia máy ngược lên
mà bấm máy. Những thước phim quay cảnh thật đẹp nhưng thật kinh hoàng “một cái mặt giếng


mà thành giếng xây bằng nước sông xanh ve như một áng thủy tinh khối đúc dày, khối xanh pha
lê như sắp vỡ tan ụp vào cả máy, cả người quya phim, cả người đang xem”
Cách miêu tả độc đáo, sáng tạo, mang lại cảm giác thật mới mẻ cho người đọc, thấy dịng
sơng là một thực thể sống đang vận động một cách mạnh mẽ, ghê gớm, vô cùng nguy hiểm
với người lái đị.
- Thác nước sơng Đà “Tiếng nước thác nghe như là ốn trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại
như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu
mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa
cũng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng…”. Nghệ thuật so sánh, nhân hóa làm sồn Đà

hiện lên như một lồi thủy qi khổng lồ, khơn ngoan mà nham hiểm, hung ác, vây bủa, dữ tợn,
khi liều mạng, khi khiêu khích, khi van xin, lại khi chế giễu đối với những người lái đò.
- Đá trên Sông Đà qua cảm nhận và tưởng tượng của Nguyễn Tuân thật sinh động. Cả một chân
trời đá mai phục, ẩn nấp, khi lừa đánh du kích, khi quật khuýp vu hồi với người lái đò. “Đá ở
đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lịng sơng…, mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện…là
một số hịn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền”. “Mặt hòn đá nào trơng cũng ngỗ ngược, hịn
nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này.” “Đám tảng đám hịn chia làm ba
hàng chặn ngang trên sơng địi ăn chết cái thuyền…”. Tác giả tưởng tượng đá Sông Đà bày
thành trận địa để đón đánh người lái đị. Bằng tưởng tượng và nghệ thuật nhân hoá, so sánh,
Nguyễn Tuân đã thổi hồn vào những hịn đá vơ tri vơ giác, tạo nên sắc diện, thái độ, suy nghĩ,
hành động của chúng. Sơng Đà bày thạch trận trên sơng địi ăn chết cái thuyền. Ở trùng vây
thạch trận thứ nhất vừa rồi nó “mở ra năm cửa trận, bố cửa tử, mộ cửa sinh, của sinh nằm lập lờ
phía bờ tả ngạn”, có hai thằng “đá tiền vệ, trơng y như là sơ hở nhưng chính là đề dụ cái thuyền
vào”. Cái thuyền vào đây sẽ bị của những luồng nước “khp quật vu hồi” lại, khó mà thốt
được, nếu cái thuyền lọt qua được luồng nước thì đã có những boong ke chìm và pháo đài đá nổi
với nhiệm vụ tiêu diệt thuyền trưởng, thủy thủ đợi sẵn. Trùng vi thứ 2 sông Đà tăng thêm nhiều
cửa tử và cửa sinh lại lệch qua phía bờ hữu ngạn. Trùng vi thứ 3, ít của hơn nhưng bên phải bạn
trái đều là luồng chết, luồng sống ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Chúng đánh bằng
nhiều cách: đánh giáp lá cà, đánh khuýp quật vu hồi, đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm…
vào cái thuyền, vào người lái đò.
Như một nhà bác học, nhà địa lí uyên bác, Nguyễn Tuân đã khảo cứu tường tận dịng Sơng Đà.
Ơng làm rõ tính hung bạo của nó không chỉ bằng việc gọi từng cái trong 83 con thác từ trên
xuống mà còn vận dụng đủ các giác quan, dùng hình ảnh so sánh, ẩn dụ, nhân hố, tưởng tượng,
dùng ngôn ngữ điện ảnh, quân sự, võ thuật để tả thác đá, ghềnh đá Sông Đà theo cấp độ tăng dần.
Nguyễn Tuân đã khiến người đọc ngạc nhiên, thú vị và thán phục bởi kiến thức sâu rộng, khả
năng diễn đạt chính xác sống động và độc đáo của mình.
b. Tính thơ mộng, trữ tình:
Vẻ thơ mộng trữ tình của Sơng Đà được tác giả miêu tả ở nhiều góc độ, trong nhiều thời điểm
nên dáng vẻ, màu sắc thật sinh động:
Chọn góc nhìn bao qt từ trên cao, trên máy bay kết hợp so sánh, sông Đà như một người

phụ nữ kiều diễm mơ màng giữa núi rừng tây Bắc “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng
tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng


hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân.” Nguyễn Tuân có tài hội họa, một thứ hội
họa không phải bằng màu sắc, đường nét mà bằng ngôn ngữ. Đọc câu văn của ông, người đọc
như được chiêm ngưỡng chân dung của một thiếu phụ đẹp – một vẻ đẹp tinh khôi, duyên dáng.
Cũng từ trên cao, nhà văn ngắm nhìn dịng nước sơng Đà qua mây mùa xn, mùa thu với
những đổi thay kì diệu:“Mùa xn dịng xanh ngọc bích chứ nước Sơng Đà khơng xanh màu
xanh canh hến của sông Gâm, sông Lô. Mùa thu nước Sơng Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một
người bầm đi vì rượu bữa.” Sắc màu của dịng sơng được nhà văn phối trí bằng mắt và bằng tâm
hồn của “một người yêu nước mình” nên sáng đẹp như ánh sáng, óng ả mượt mềm như lụa.
Sơng Đà gợi cảm, với mỗi người sông Đà gợi một cách khác. Với Tản Đà là “Dải sông Đà bọt
nước lênh đênh/ bao nhiêu cảnh bấy niêu tình” thì với Nguyễn Tuân, con sông giống như một cố
nhân lâu ngày gặp lại. Sau chuyến đi rừng dài ngày, từ bờ sông, tác giả đã thấy Sông Đà thật gợi
cảm “như một cố nhân”. Nhìn mặt nước Sơng Đà thấy “loang lống như như trẻ con nghịch
chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy”. Đó là “màu nắng tháng ba Đường thi”, cùng với hình
ảnh bờ Sơng Đà, bãi Sơng Đà đầy những “chuồn chuồn bươm bướm” tạo nên một cảnh sắc hấp
dẫn. Nhà văn đã bộc lộ cảm xúc khi nhìn con sông bằng những so sánh tài hoa: “Chao ôi, trông
con sơng, vui như thấy nắng giịn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”
Sông Đà thơ mộng, hiền hòa khi nhà văn tạo một đường viền bằng những nét tả ngoại vi quanh
dòng chảy. Hai bên bờ Sông Đà vừa hoang sơ nhuốm màu cổ tích, vừa trù phú, tràn trề nhựa
sống. Ven sơng có những nương ngô “nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa”, có cỏ gianh đồi núi
“đang ra những nõn búp”, có “đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”. Nhà văn
đã có một liên tưởng độc đáo, thơ mộng: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sơng hồn
nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Sơng Đà gợi cảm làm khách trên đị chợt mơ màng
như nghe tiếng con hươu thơ ngộ đang thủ thỉ “Hỡi ơng khách sơng Đà, có phải ơng cũng nghe
thấy một tiếng cịi sương?” . Dịng sơng qng này “lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác
xa xơi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc”.
Ta có cảm tưởng Nguyễn Tuân đang đề thơ lên núi rừng Tây Bắc, lên sóng nước Sơng Đà. Một

áng thơ văn xi tràn trề cảm xúc với tình yêu thiên nhiên đất nước thiết tha.
Với kiến thức uyên thâm, kết hợp so sánh và tưởng tượng, liên hệ thơ phú kim cổ một cách tự
nhiên và phù hợp, Nguyễn Tuân đã đẻ lại những trang tuyệt bút viết về Sơng Đà.
Tóm lại, hình tượng Sơng Đà được tác giả khắc họa độc đáo, nổi bật với hai đặc điểm: vừa hùng
vĩ, hung bạo, vừa thơ mộng, trữ tình. Qua hình tượng con Sông Đà, nhà văn ca ngợi vẻ đẹp của
thiên nhiên Tây Bắc, thể hiện tình cảm tha thiết của mình với đất nước. Hình tượng con Sơng Đà
trong bài tùy bút gợi lên ở người đọc suy nghĩ về trách nhiệm bảo vệ mơi trường cho những dịng
sơng, bởi đó là quà tặng vô giá của thiên nhiên giành cho con người.
2.Hình tượng người lái đị Sơng Đà:
Người lái đị là một trong hai hình tượng trung tâm của tùy bút nhưng lại được tác giả giới thiệu
rất sơ lược. Trong tác phẩm Nguyễn Tuân chỉ gọi là ông lái đị Lai châu / ơng lái/ ơng đị. Những
cái tên chỉ mang tính chất phiếm chỉ, có lẽ đây là một dụng ý của tác giả khi cố tình làm mờ đi


những nét thuộc về cá thể để làm nổi bật tính cách của người lao động nói chung – mà ông là
người đại diện.
a. Là người dày dặn kinh nghiệm sơng nước:
Ơng lái đó ở Lai Châu làm nghề lái đị suốt 10 năm, đã thơi làm đị đơi chục năm, xuôi ngược
trên Sông Đà hơn 100 lần. 60 lần chính tay ơng cầm lái. Gần 70 tuổi, tóc đã bạc nhưng “nhãn
giới cao vòi vọi, cái đầu quắc thước đặt trên một thân hình gọn quánh như chất sừng, chất
mun”, vẫn thích phiêu lưu mạo hiểm, rất giàu ý chí, kinh nghiệm vượt thác, lịng can đảm và
thơng minh tài trí trước sóng to gió cả. Đặc biệt tài nghệ lái đị của ơng ít ai theo kịp. Ơng am
hiểu tường tận lịng sơng, nhớ tỉ mỉ từng luồng nước, từng con thác hiểm trở với lũ đá ngỗ ngược
bài binh bố trận địi dìm chết thuyền ơng. Với ông lái, sông Đà là bản trường thiên anh hùng ca
mà ơng đã thuộc lịng từng chương từng chữ từng dấu chấm câu, dấu phẩy.
Tóm lại: việc tích lũy kinh nghiệm cho nghề lái đò là một phẩm chất đẹp đẽ giúp ơng lái đị
chinh phục được con sơng Đà vốn hung bạo và dữ dội.
b. Là người tài trí và dũng cảm:
Theo nhà văn Nguyễn Tuân, cuộc sống của những người lái đị sơng Đà là một cuộc chiến đấu
hàng ngày với thiên nhiên hung bạo và dữ tợn. Vì thế, cuộc sống của họ là ngày nào cũng giành

lấy cái sống từ tay những cái thác dữ.
Để chiến thắng thạch trận sơng Đà, người lái đị khơng chỉ dày dặn kinh nghiệm mà cịn
phải thơng minh tài trí dũng cảm
Cuộc sống của người lái đò là “cuộc chiến đấu” hằng ngày với thiên nhiên Tây Bắc, có nhiều lúc
trơng nó ra thành diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một của con người. Trong cuộc mưa
sinh đày gian khổ ấy, phẩm chất của người lái đò được bộc lộ một cách rõ nét, thể hiện qua “cuộc
chiến đấu gian lao” trên chiến trường Sông Đà, trên một quãng thủy chiến ở mặt trận Sông Đà.
Phẩm chất của người lái đò được thể hiện qua cuộc vượt tác sông Đà. Thác Sông Đà bày
ra “thạch trận” với ba vòng vây để tiêu diệt con thuyền. Trong cuộc chiến đấu khơng cân sức ấy
người lái đị hiện lên như một dũng tướng tài ba và quả cảm.
– Ở trùng vây thạch trận thứ nhất ơng đị đã rất bình tĩnh, chủ động, gan góc, dũng cảm đầy kinh
nghiệm. Thác Sơng Đà mở ra “năm của trận”, có bốn “cửa tử”, một “cửa sinh”. Cửa sinh nằm
“lập lờ ở phía tả ngạn”. Khi con thuyền xuất hiện, phối hợp với đá, nước thác reo hò làm
“thanh viện” cho đá, những hòn đá bệ vệ oai phong lẫm liệt. Có hịn đá trơng nghiêng thì y như
là đang hỏi cái thuyền “phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến”. Hịn đá khác thì lùi lại một
chút và “thách thức” cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào. Khơng một chút nao núng, ơng đị hai
tay giữ mái chèo để khỏi bị hất lên khi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Nhìn thấy con
thuyền và người lái đị, mặt nước “hò la vang dậy”, ùa vào mà “bẻ gãy cán chèo”, vũ khí của
người lái đị. Sóng nước thì như thể quân liều mạng, vào sát nách mà “đá trái mà thúc gối” vào
bụng và hơng thuyền, có lúc chúng “đội cả thuyền lên”. Nước bám lấy thuyền như đơ vật “túm
lấy thắt lưng ơng đị địi lật ngửa mình ra”… Ơng đị đã bị thương, nhưng ơng “cố nén vết
thương”, hai chân vẫn “kẹp chặt lấy cuống lái”. Cuộc chiến đã đến hồi quyết liệt, sóng nước
“đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm” vào chỗ hiểm. Nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo,


vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy “ngắn gọn tỉnh táo” của người cầm lái. Và ơng lái đị đã phá xong cái
“trùng vi thạch trận” vòng thứ nhất của thác Sông Đà.
– Ở trùng vây thạch trận thứ 2, ông đị vơ cùng nhanh nhẹn, quyết đốn, mạnh mẽ, bình tĩnh, tay
lái vững vàng, đầy bản lĩnh. Ở vòng thứ hai này, thác Sông Đà lại “tăng thêm nhiều cửa tử” để
đánh lừa con thuyền. Vẫn chỉ có một cửa sinh. Nếu ở vòng thứ nhất, cửa sinh nằm “lập lờ phía

tả ngạn”, thì ở vịng thứ hai này, cửa sinh lại “bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn”. Đó chính là khó
khăn, thách thức đối với người lái đị. Nhưng ơng lái đị đã “thuộc qui luật phục kích” của lũ đá
nơi ải nước hiểm trở này. Ơng hiểu rằng cưỡi lên thác Sông Đà phải “cưỡi đến cùng như là cưỡi
hổ”. Cuộc chiến của ơng lái đị ở vòng thứ hai đã bắt đầu. Nắm chặt cái bờm sóng đúng luồng,
ơng đị ghì cương lái bám chắc lấy luồng nước đúng mà “phóng nhanh vào cửa sinh” rồi “lái
miết một đường chéo” về phía cửa đá ấy. Thấy con thuyền tiến vào, bốn năm bọn thủy quân bên
bờ trái liền “xơ ra” định níu con thuyền “lơi vào tập đồn cửa tử” mà tiêu diệt. Nhưng “ơng đị
vẫn nhớ mặt bọn này”, đứa thì ơng tránh mà “rảo bơi chèo lên”, đứa thì ơng “đè sấn lên mà
chặt đôi ra” để mở đường tiến. Những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền, chỉ còn vẳng tiếng reo
hị của của sóng thác luồng sinh. Tuy vậy, bọn chúng vẫn “khơng ngớt khiêu khích”, dù cái thằng
đá tướng đứng ở cửa vào đã “tiu nghỉu cái mặt xanh lè” vì bị thua cái thuyền du kích nhỏ bé.
– Vượt qua vịng thứ hai, ơng lái đị cịn phải vượt qua vòng thứ ba nữa. Ở trùng vây thạch trận
này chúng ta thấy dược sự am hiểu binh pháp, sự thơng minh và táo bạo của người lái đị. Ở
vịng vây thứ ba, thác Sơng Đà ít cửa hơn nhưng bên phải bên trái đều là “luồng chết” cả. Cái
“luồng sống” ở chặng thứ ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ. Ơng lái đị đã hiểu điều đó. Ơng
cứ “phóng thẳng thuyền” chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền của ơng đị “vút qua” cổng đá cánh
mở cánh khép với ba tầng cửa: cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng. Con thuyền của ơng đị
“như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái lượn được” . Vượt
qua vòng vây thứ ba cũng là vượt qua hết thác Sông Đà. Ông lái đò như một người chỉ huy lão
luyện, đầy bản lĩnh và kinh nghiệm. Ông là một nghệ sĩ tài hoa với nghề vượt thác leo ghềnh.
Là người bình dị, khiêm tốn:
Ngày nào cũng chiến đấu với Sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy cái sống từ tay những
con thác nên chuyện vượt thác Sông Đà đối với những người lái đị nơi đây trở nên bình thường,
khơng có gì hồi hộp đáng nhớ. Sau khi chiến thắng dịng sơng hung dữ “nhà đị đốt lửa trong
hang đá, nưóng ống cơm lam và tồn bàn tán về cá anh vũ cá dầm xanh…”
Ơng lái đị là biểu tượng của con người lao động mới: cần cù, thông minh, dũng cảm, quyết
đốn. Thế nhưng con người được ví với khối vàng mười quý báu ấy chỉ là một người lái đị bình
dị, vật lộn với sóng nước hiểm nguy mỗi ngày, sống âm thầm, giản dị và vô danh. Chính nhờ
cuộc đấu tranh chinh phục thiên nhiên, con người trở nên lớn lao, kì vĩ.
Khắc họa hình tượng người lái đị Sơng Đà, nhà văn Nguyễn Tn đã sử dụng nhiều biện pháp

nghệ thuật đặc sắc. Miêu tả ông lái đò vượt thác, tác giả đã sử dụng tri thức của nhiều lĩnh vực
như thể thao, quân sự, võ thuật…, với những câu văn đa dạng, nhiều tầng, giàu nhịp điệu, hối hả,
gân guốc; với từ ngữ sống động, giàu hình ảnh, mới lạ, độc đáo.
Tóm lại, bằng nhiều biện pháp nghệ thuật, nhà văn Nguyễn Tuân đã khắc họa thành cơng hình


ảnh người lái đị Sơng Đà dũng cảm, tài năng, đầy bản lĩnh và kinh nghiệm. Qua hình tượng
người lái đò, tác giả ngợi ca người lao động Tây Bắc với những phẩm chất cao q.
Hình tượng người lái đị, cũng thể hiện quan niệm của nhà văn: người anh hùng khơng chỉ có
trong chiến đấu mà cịn có trong cuộc sống lao động thường ngày. Hình tượng người lái đò trong
bài tùy bút của Nguyễn Tuân gợi ra ở mỗi chúng ta suy nghĩ về nhiệm vụ của mình trong cơng
cuộc xây dựng Tổ quốc Việt Nam u q.
Hình tượng người lái đị sơng Đà cũng cho thấy sự thay đổi trong quan niệm về con người đẹp
của Nguyễn Tuân theo hướng tích cực. Nếu trước Cánh mạng tháng 8, trong Vang bóng một thời,
con người đeho theo Nguyễn Tn là con người trí thức, có thiên lương trong sáng, có khí phách
hiên ngang thì sau Cách mạng tháng Tám, con gười đẹp trong quan niệm của Nguyễn Tuân
không chỉ là con người có tri thức là cịn có cả nhừng người lao động bình thường nhưng lại phi
thường như người lái đị sơng Đà.
Tóm lai:
“Người lái đị Sơng Đà” là khúc hùng ca, ca ngợi con người, ca ngợi ý chí con người, ca ngợi lao
động vinh quang đưa con người tới thắng lợi huy hoàng trước sức mạnh tựa như thánh thần của
dịng sơng hung dữ.
II.Tổng kết:
“Người lái đị Sơng Đà” là một áng văn đẹp được làm bên từ tình yêu đất nước say đắm, thiết tha
của một con người muốn dùng văn chương để ngợi ca vẻ đẹp vừa kì ảo, hào hùng vừa trữ tình,
thơ mộng của thiên nhiên và nhất là của con người lao động bình dị ở miền Tây Bắc.
Tác phẩm cịn cho thấy cơng phu lao động nghệ thuật khó nhọc cùng sự tài hoa uyên bác của
người nghệ sĩ Nguyễn Tuân việc dùng chữ nghĩa để tái tạo những kì cơng của tạo hố và những
kì tích lao động của con người.
Một vài nhận định:


1. Và từ ấy đến nay, cho dù đã có biết bao người khác, vẽ và kể chuyện về sông Đà, làm thơ
và ca hát với sơng Đà thì có lẽ vẫn chưa ai vượt hơn được Nguyễn Tuân trong việc biến
vùng sông nước ấy thành nghệ thuật, thành một gợi cảm mênh mông. (Đỗ Kim Hồi)
2. Qua bài tùy bút, đặc biệt là qua đoạn tả cuộc vượt thác của ơng lái đị, Nguyễn Tuân muốn
nói với ta rằng: chủ nghĩa anh hùng đâu chỉ có ở nơi chiến trường. Nó ở ngay trong cuộc
sống của nhân dân ta hằng ngày phải vật lộn với thiên nhiên vì miếng cơm manh áo. Và trí
dũng tài ba khơng phải tìm ở đâu đâu, mà ở ngay những người dân lao động bình thường
kia. Cuộc đời ông lái đò vô danh nơi ngọn thác hoang vu khuất nẻo kia là cả một thiên anh
hùng ca, là cả một pho nghệ thuật tuyệt vời. (Nguyễn Đăng Mạnh)
3. “… Đọc Người lái đị sơng Đà, ta có ấn tượng rõ rệt về sự tự do của một tài năng, của một
đấng hóa cơng thực sự trong nghệ thuật ngôn từ… Khi gân guốc, khi mềm mại, khi nghiêm


nghị như một nhà bác học, khi hồn nhiên như một đứa trẻ thơ, những trang viết, những câu
văn của Nguyễn Tuân mang hơi thở ấm nóng của cuộc đời phức tạp, phong phú, đa dạng. Sự
tự ý thức sâu sắc về tài năng của mình khơng phải là một biểu hiện tiêu cực, trái lại, nó tạo
nên sự giải phóng năng lượng rất cần thiết để nhà văn có thể sáng tạo nên những tác phẩm kì
vĩ…”. (Phan Huy Đông, in trong Vẻ đẹp văn học cách mạng).
4. “… Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một con Sông Đà không phải là thiên nhiên vô tri, vô
giác, mà là một sinh thể có hoạt động, có tính cách, cá tính, có tâm trạng hẳn hoi và khá
phức tạp. Nó có hai nét tính cách cơ bản đối lập nhau như tác giả nói – “hung bạo và trữ
tình…” .(Nguyễn Đăng Mạnh)
5. “… Nguyễn Tuân – một cây bút vốn luôn khao khát những cảm giác, cảm xúc mới lạ,
nồng nàn, say đắm…”. (Nguyễn Đăng Mạnh)
Một vài dạng đề:
1. Phân tích hình tượng sơng Đà
2. Phân tích hình tượng người lá đị sơng Đà.
3. Về nhân vật ơng lái đị trong tùy bút “Người lái đị sơng Đà” của Nguyễn Tn, có ý kiến
cho rằng: “Ơng lái đị là một nghệ sĩ tài hoa”. Ý kiến khác thì nhấn mạnh: “Ơng lái đị là

một người lao động bình thường”.
Từ cảm nhận về nhân vật ơng lái đị, anh/chị hãy bình luận những ý kiến trên.
4. Tuỳ bút Sông Đà là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân đã thu hoạch được
trong chuyến đi gian khổ và hào hứng tới miền Tây Bắc rộng lớn, xa xôi của Tổ quốc,
nơi ông đã khám phá ra chất vàng của thiên nhiên cùng “thứ vàng mười đã qua thử lửa”
ở tâm hồn của những người lao động.
Anh (chị) hãy làm rõ “thứ vàng mười đã qua thử lửa” ở nhân vật người lái đị trong tuỳ
bút “Người lái đị sơng Đà” của Nguyễn Tuân.

5. Cảm nhận của anh (chị) về hình tượng sơng Đà trong đoạn trích. Từ đó, anh (chị) hãy
đánh giá sự độc đáo trong quan niệm về cái đẹp của Nguyễn Tuân được thể hiện qua
hình tượng trên.
6. Về đoạn trích tuỳ bút Người lái đị sơng Đà của Nguyễn Tuân, có ý kiến cho rằng: Đó là
một cơng trình khảo cứu cơng phu. Nhưng ý kiến khác lại nhấn mạnh: Đó là một áng văn
giàu tính thẩm mĩ.
Từ việc phân tích đoạn trích tuỳ bút, anh/chị hãy bình luận những ý kiến trên
Một vài mở bài


1.
“Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lịng ta đã hóa những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiêng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu”
(Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên)
Tây Bắc đã trở thành vùng đất của thi ca nghệ thuật những năm 58-60 khi miền Bắc tiến lên
xây dựng chủ nghĩa xã hội, các nhà văn nhà thơ đến với nơi đây để tìm cho mình những nguồn
cảm hứng mới. Ta từng biết đến Tơ Hồi với tập “truyện Tây Bắc” mà nổi bật là truyện ngắn
“Vợ Chồng A Phủ”, hay Nguyễn Khải cũng đã từng làm thổn thức tâm hồn người đọc với “Mùa
Lạc” thì Nguyễn Tuân lại thăng hoa trên mảnh đất này với tập “Tùy bút Sông Đà” với linh hồn là

bài kí “Người lái đị Sơng Đà”. Là một nhà văn theo chủ nghĩa xê dịch, dấu chân của Nguyễn
Tuân đã đi khắp mảnh đất hình chữ S này, nhưng ông lại chọn Tây Bắc làm nơi cho ra đời đ ứa
con tinh thần của mình là bởi chỉ có nơi đây mới thỏa mãn thực đơn cho nhãn quan sáng tác của
ông. Tùy bút “Sông Đà” là những trang văn được viết bằng ngôn ngữ điêu luyện, những đoạn tả
đèo cao, vực sâu, thác nước dữ dội, hoặc cảnh thiên nhiên đẹp đến tuyệt đỉnh, nhưng lấp lánh
giữa những vẻ đẹp ấy là hình ảnh con sơng Đà hiện lên vừa hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng rất nên
thơ, trữ tình và lãng mạn.
2. Nguyễn Tuân là một trong những cây bút tiêu biểu của văn xuôi hiện đại Việt Nam. Mỗi tác
phẩm của ông là mỗi bài ca về vẻ đẹp của cuộc sống, của con người, với tư tưởng, tình cảm gắn
bó với đất nước quê hương. Bằng ngòi bút độc đáo, uyên bác, tài hoa, cùng lòng yêu thiên nhiên
sâu sắc và những khám phá mới mẻ trong chuyến đi trải nghiệm thực tế ngược dòng Tây Bắc,
Nguyễn Tuân đã viết nên những trang bút ký đặc sắc, tái hiện một cách độc đáo vẻ đẹp kỳ vĩ, thơ
mộng của sông Đà cũng như thiên nhiên hùng vĩ núi rừng Tây Bắc qua tuỳ bút “Người lái đị
sơng Đà”. Giữa thiên nhiên bao la rộng lớn của núi rừng Tây Bắc, nối bật lên là hình ảnh người
lái đị sơng Đà can trường, dũng cảm, độc hành đưa con đò mưu sinh chiến đấu với con sơng Đà.

AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DỊNG SƠNG?
(Hồng Phủ Ngọc Tường)
I.Tìm hiểu chung:
1.Tác giả:
Hồng Phủ Ngọc Tường là nhà văn trưởng thành trong thời kì chống Mĩ. Ơng là cây bút uyên
bác, tài hoa, chuyên viết bút kí nói về cảnh sắc, con người Việt Nam nhất là viết về xứ Huế.


Phong cách nghệ thuật đặc sắc ở sự kết hợp giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc
bén và suy tư đa chiều tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về nhiều mặt, lối hành văn hướng
nội, súc tích, mê đắm và tài hoa. Tác phẩm tiêu biểu Ai đã đạt tên cho dịng sơng?
2.Tác phẩm:
a.Hồn cảnh sáng tác:
“Ai đã đặt tên cho dịng sơng?” được viết tại Huế vào 1/1981, in trong tập bút kí cùng tên. Đây

là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách văn chương HPNT: tri thức phong phú, xúc cảm sâu lắng,
văn phong tao nhã.
Bài bút kí có ba phần, đoạn trích thuộc phần thứ nhất.
b.Chủ đề:
Cảm nhận và miêu tả sơng Hương ở nhiều góc độ, nhà văn bộc lộ tình yêu tha thiết say đắm với
thiên nhiên và con người xứ Huế qua cái tơi trữ tình tài hoa, un bác, giàu tình cảm và trí tưởng
tượng phong phú.
c.Ý nghĩa nhan đề:
Dùng câu hỏi để đặt tên cho bài kí, nhà văn khơng chỉ lưu ý người đọc về cái tên đẹp của dịng
sơng mà cịn gợi lên tình u sâu nặng và lịng biết ơn với những người đã khai phá vùng đất ấy.
II.Đọc - hiểu văn bản:
1.Vẻ đẹp sông Hương:
a.Sông Hương trong vẻ đẹp của thiên nhiên:
a.1.Sông Hương ở thượng nguồn:
Trong đại ngàn của Trường Sơn, Sông Hương được so sánh “là một bản trường ca của rừng già”
với nhiều cung bậc khác nhau: khi “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt vượt qua ghềnh
thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn” khi “dịu dàng và say đắm giữa những
dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”
Tác giả đã dùng nhiều động từ, tính từ kết hợp so sánh, nhịp điệu dồn dập phù hợp miêu tả vẻ
đẹp vừa mạnh mẽ vừa trữ tình của dịng sơng nơi thượng nguồn. Sơng Hương cịn được ví “như
một cơ gái Di-gan phóng khống và man dại”. Hình ảnh so sánh này cho ta thấy một Sơng
Hương phóng khống, tự nhiên như nó vốn có, chưa hề có bàn tay cải tạo của con người – một
vẻ đẹp ít người biết đến của Sông Hương.
Với những so sánh, liên tưởng, nhân hố, ngơn từ tinh tế, ấn tượng, tác giả cho thấy Sơng Hương
vùng thượng lưu tốt lên vẻ đẹp của một sức sống mãnh liệt, hoang dại, đầy cá tính. Những nhận
xét và cảm xúc của nhà văn đậm chất sử thi đem lại cho người đọc sự ngạc nhiên về kho kiến
thức mới mẻ và lí thú.
a.2.Sơng Hương ở ngoại vi thành Huế:
Trước khi trở thành người tình dịu dàng và chung thủy của cố đô, sông Hương đã trải qua một
hành trình đầy gian truân và thử thách. Trong cái nhìn tinh tế và lãng mạn của tác giả, tồn bộ

thủy trình của sơng Hương tựa như một cuộc tìm kiếm có ý thức của một người con gái trong
một câu chuyện nhuốm màu cổ tích. Vừa ra khỏi dãy Trường Sơn Sơng Hương nhanh chóng


chuyển mình mang một nét đẹp dịu dàng và trí tuệ “trở thành người mẹ phù xa của một vùng văn
hố xứ sở”. Câu văn khơng chỉ ngợi ca vẻ đẹp mà cịn đề cao giá trị của Sơng Hương
Đoạn khắc họa sông Hương xuôi về đồng bằng và ngoại vi thành phố Huế bộc lộ nét lịch lãm và
tài hoa của nhà văn. Giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại, dịng sơng là “người gái đẹp ngủ mơ
màng”. Nhưng khi vừa tỉnh giấc, sông Hương bừng lên sức trẻ và niếm khao khát của tuổi thanh
xuân trong sự chuyển dịng liên tục. Sơng Hương khi chảy theo hướng nam bắc, lúc tây bắc rồi
đơng bắc: Vịng những khúc quanh đột ngột, Uốn những đường cong thật mềm, Vẽ một hình
cung thật trịn, Ơm lấy chân đồi Thiên Mụ.
Sơng Hương vừa mạnh mẽ “đi trong dư vang của Trường sơn” vừa dịu dàng “mềm như tấm
lụa”. Sông Hương phản quang nhiều màu sắc, biến đổi kì ảo “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”
nên người dân xứ Huế gọi Sơng Hương là dịng sơng đa sắc. Khi qua những lăng tẩm đền đài
trong rừng thông u tịch, với giấc ngủ nghìn năm của vua chúa nhà Nguyễn, sơng Hương mang vẻ
đẹp trầm mặc “như triết lí, như cổ thi” – một thần thái rất riêng của cố đô Huế. Khi gặp tiếng
chuông chùa Thiên Mụ, sông Hương bừng sáng tươi tắn trẻ trung.
Hai bút pháp kể và tả được kết hợp nhuần nhuyễn và tài hoa trong đoạn văn làm nổi bật một
sơng Hương đẹp bởi sự phối cảnh kì thú và hài hồ giữa nó với thiên nhiên Huế phong phú, hài
hồ.
a.3. Sơng Hương giữa lịng thành phố Huế:
Như tìm đúng đường về, sơng Hương vui tươi hẳn lên giữa những bãi biền xanh mướt của vùng
ngoại ô Kim Long. Khơng đổi dịng liên tục nữa, sơng Hương “kéo một nét thẳng thực yên tâm
theo hướng tây nam – đơng bắc”. Ở cuối đường thẳng đó, sơng Hương gặp cầu Tràng Tiền “nhỏ
nhắn như một vằng trăng non”. Ngòi bút của tác giả thực sự thăng hoa khi khắc họa những hình
ảnh ấn tượng, những cảm nhận tinh tế, những liên tưởng so sánh đến bất ngờ. Sông Hương và
cầu Tràng Tiền tạo chất thơ cho Huế, Huế đẹp như bức tranh trăng nước hữu tình.
Sơng Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang Cồn Hến. “Đường cong này làm cho dịng sơng
mềm hẳn đi như tiếng “vâng” khơng nói ra của tình u”. Dịng sơng giống như một cơ gái bằng

lịng với tình u của mình.
Giống như sơng Xen của Pa-ri, sông Đa-nuýp của Bu-da-pet, sông Hương cũng nằm ngay giữa
lịng thành phố thân u của mình. Nhưng khác với những dịng sơng này, sơng Hương cùng với
Huế, trong tổng thể vẫn giữ được nguyên dạng một đô thị cổ. Sơng Hương mang vẻ đẹp cổ kính.
So với sơng Nê-va của Lê-nin-grat chảy q nhanh thì lưu tốc dịng nước “sơng Hương khi qua
thành phố đã trơi đi chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh”. Trong cách biểu
đạt tài hoa của tác giả, sơng Hương được cảm nhận ở nhiều góc độ. Bằng con mắt hội hoạ, sông
Hương và những chi lưu của nó tạo những đường nét tinh tế làm bên vẻ đẹp cổ kính của cố đơ.
Qua cách cảm nhận âm nhạc, sông Hương đẹp như điệu slow chậm rãi, sâu lắng, trữ tình dành
riêng cho Huế. Với cách nhìn say đắm của một trái tim đa tình, sơng Hương là người tình dịu
dàng và chung thuỷ “ngập ngừng như muốn đi muốn ở…như những vấn vương của một nỗi
lòng”, như lời thơ của nhà thơ Thu Bồn:
Con sông dùng dằng con sông không chảy
Sông chảy vào long nên Huế rất sâu.


Quả là tài tình trong sử dụng ngơn từ, sâu sắc trong suy nghĩ và tinh tế trong cảm nhận, nhà văn
đem đến cho ta những hiểu biết phong phú và mới lạ về sông Hương
a.4. Sông Hương từ biệt Huế để ra biển:
Sông Hương mang vẻ đẹp “mơ màng như sương khói…đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và
những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ”, “Và rồi như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột
ngột đổi dịng”. Đó là một sự gắn bó không thể thiếu của Sông Hương và Huế. Sông Hương làm
cho Huế đẹp hơn, Huế khiến sông Hương thêm sinh động.
Đã đi rồi cịn quay trở lại, đó là nỗi vương vấn của sông Hương khi phải xa Huế. Tác giả so sánh
sơng Hương với Huế như mối tình Th Kiều, Kim Trọng: “Sơng Hương đã chí tình quay trở lại
tìm Kim Trọng của nó, để nói một lời thề trước khi về biển cả”
Với cái nhìn say đắm, dạt dào cảm xúc yêu mến và tự hào, tác giả miêu tà sông Hương như một
cô gái dịu dàng, chung thuỷ. Đó cũng là biểu tượng tấm lịng chung thuỷ của người dân xứ Huế
với quê hương đất nước.
b. Sông Hương trong vẻ đẹp văn hố:

b.1. Sơng Hương là dịng sông của âm nhạc:
Trong cảm nhận tinh tế của nhà văn. Sơng Hương cịn hàm chứa trong bản thân mình nền văn
hóa phi vật thể. Bằng những liên tưởng thú vị, HPNT đã ví sơng Hương như “một người tài nữ
đánh đàn lúc đêm khuya”. Đó là một vẻ đẹp dịu dàng, thanh thoát, uyển chuyển đầy quyến rũ.
Và thật tự nhiên, tác giả khẳng định: Toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế được sinh thành trên mặt
nước sông Hương. Phải đến với Huế, vào một đêm khuya trên dịng sơng Hương lắng nghe tiếng
nước vỗ mạn thuyền, tiếng mái chèo khua, “tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya”
thì mới hiểu được âm nhạc cổ điển của Huế. Phải thưởng thức nhạc Huế trên sông Hương mới
thấy hết giá trị của nó. Tác giả cảm nhận vẻ đẹp của sơng Hương bằng nét văn hố của Huế.
b.2.Sơng Hương là dịng sơng thi ca:
Nếu nhìn ở phương diện thi ca thì sơng Hương là “dịng sơng khơng bao giờ tự lặp lại một mình
trong cảm hứng của các nghệ sĩ”: Trong thơ Tản Đà, sông Hương là “dịng sơng trắng lá cây
xanh”. Trong thơ Cao Bá Qt, sơng Hương có vẻ đẹp tha thướt, mơ màng mà hùng tráng “như
kiếm dựng trời xanh”. Trong thơ Bà Huyện Thanh Quan, sơng Hương đẹp với bóng chiều bảng
lảng từ nỗi quan hồi vạn cổ. Trong thơ Tố Hữu, sơng Hương mang vẻ đẹp sức mạnh phục sinh
của tâm hồn. Đặc biệt nhà văn nhận xét: “Sông Hương quả thực là Kiều, rất Kiều trong cái nhìn
thắm thiết tình người của tác giả Từ ấy”.
Lời nhận xét có nhiều ý nghĩa: “Kiều” chỉ những người con gái làm nghề ca kĩ trên sông Hương,
gợi lại một nỗi đau, một tấm chân tình trong “Tiếng hát sơng Hương” của Tố Hữu. Mặt khác,
“Kiều” cũng chính là vẻ yêu kiều của một dịng sơng hội đủ cả vẻ đẹp của thơ, ca, nhạc, hoạ.
Có thể nói Sơng Hương đã khơi nguồn cảm hứng bất tận cho thi ca. Với mỗi nhà thơ sông là một
khám phá, một tuyệt tác riêng.


c.Sông Hương trong vẻ đẹp của lịch sử:
Thời các vua Hùng, sơng Hương là dịng sơng biên thuỳ xa xơi của đất nước. Trong sách Dư địa
chí của Nguyễn Trãi, song Hương mang tên Linh Giang ( dịng sơng thiêng) có sứ mệnh bảo vệ
biên giới phía Nam của Đại Việt. Ở thế kỉ XVIII, sông Hương vẻ vang soi bóng kinh thành Phú
Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ. Thế kỉ XIX, sông Hương sống hết lịch sử bi tráng của
những cuộc khởi nghĩa. Nó chứng kiến cách mạng tháng Tám và bao chiến công rung chuyển

của cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc sau này.
Sơng Hương là dịng sông với những chiến công hùng tráng, qua bao thăng trầm của lịch sử, nó
là niềm tự hào, kiêu hãnh của Huế.
d.Sông Hương đẹp trong tưởng tượng tài hoa của tác giả:
Có lúc sơng Hương đẹp như “một cơ gái Di-gan phóng khống và man dại” .Có khi sơng Hương
như một thiếu nữ dịu dàngm sâu sắc, kín đáo và chung tình. Cũng có lúc sơng Hương như một cơ
dâu Huế trong màu áo điều lục “cũng chính là màu sơng khói trên sơng Hương”.
Tóm lại: Sơng Hương khơng chỉ đẹp trong lịch sử phối cảnh kì thú với thiên nhiên xứ Huế mà
dịng Sơng Hương cịn đẹp bởi sự gắn bó của nó với lịch sử, văn hố và cuộc sống đời thường
của nhân dân. Sông Hương không chỉ là niềm tự hào của Huế mà còn là niềm tự hào của dân tộc
Việt Nam.
2.Đặc sắc nghệ thuật:
Thể kí (bút kí) mang màu sắc cá nhân rõ nét. Nhà văn dùng cảm quan của mình để tả, kể, thuyết
minh về đối tượng.
Văn phong của tác giả: Sự kết hợp trì tuệ và trữ tình, sự am hiểu sâu sắc địa lí, lịch sử, thơ ca và
cảm xúc tha thiết bắt nguồn từ tình yêu quê hương đất nước. Giọng văn hướng nội tài hoa, ngơn
ngữ giàu chất thơ, có những liên tưởng kì diệu. Cái nhìn đa chiều, phát hiện vẻ đẹp sông Hương
trên nhiều phương diện…
III.Tổng kết:
Sông Hương như là cơng trình tuyệt vời của tạo hố, một vẻ đẹp rất thơ, khơi nguồn cho cảm
hứng thơ ca và gắn liền với nền âm nhạc cổ điển của Huế, tạo nên bề dày lịch sử, văn hoá Huế.
Nhờ ngịi bút tài hoa của Hồng Phủ Ngọc Tường, sơng Hương trở thành dịng sơng bất tử, chảy
mãi trong trí nhớ và tình cảm của người đọc.
Tác phẩm bồi đắp cho tình cảm đối với quê hương đất nước ở mổi người thêm đậm đà, sâu sắc.
Một vài nhận định:
1. Nhiều thế hệ văn nghệ sĩ đến Huế và đã bị con sơng này (sơng Hương) mê hoặc.
Nhưng với Hồng Phủ Ngọc Tường, người một đời gắn bó với Huế, bằng tình cảm tha
thiết, bằng tiềm năng văn hóa đã khám phá vẻ đẹp của Hương Giang một cách toàn diện,
đưa Hương Giang trở thành biểu tượng của đất cố đô. (Bùi Thị Hải Hạnh)



2. Hành trình của sơng Hương từ thượng nguồn ra biển chính là hành trình của đời người,
hành trình của tâm hịn xứ Huế, hành trình của nền văn hóa Huế… “Ai đã đặt tên cho
dịng sơng?” chẳng khác nào một bài thơ văn xuôi thấm được vẻ đẹp trữ tình, nó cho ta
thấy được: Huế là nhạc, là thơ, là họa, là tất cả những gì con người trận trọng họi lại bằng
hai chữ Nghệ Thuật. Đây thực sự là bài ca về tình yêu xứ sở, tình yêu quê hương đất
nước của Hoàng Phủ Ngọc Tường. (Nguyễn Văn Bính)
Một vài dạng đề:
1. Phân tích vẻ đẹp sơng Hương trong bài bút kí.
2. Cái tơi của Hồng Phủ Ngọc Tường trong đoạn trích Ai đã đặt tên cho dịng sông?



×