Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Tài liệu Ảnh hưởng của các mức bổ sung bột lá sắn khác nhau trong khẩu phần đến lượng thức ăn thu nhận, tỷ lệ tiêu hoá và khả năng sinh trưởng của trâu tơ 13 - 18 tháng tuổi pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.41 KB, 9 trang )

ảnh hưởng của các mức bổ sung bột lá sắn khác nhau trong khẩu phần đến lượng thức
ăn thu nhận, tỷ lệ tiêu hoá và khả năng sinh trưởng của trâu tơ 13 - 18 tháng tuổi
Trịnh Văn Trung*, Mai Văn Sánh và Nguyễn Công Định,
Bộ môn nghiên cứu trâu – Viện Chăn nuôi
*Tác giả để liên hệ: NCS. Trịnh Văn Trung
ĐT: 04.8386125/ 0982.985827
ABSTRACT
Effect of different supplementing levels of cassava leaf meal in the diets on feed intake, nutrient
digestibility and performance of growing buffaloes 13-18 months of age
Sixteen growing buffaloes aging13 months old weighing 149 - 155kg were used in an experiment to
evaluate the effect of supplementing cassava leaf meal (CLM) on feed intake, digestibility, growth rate, and
FCR. Experimental animals were divided into 4 treatments with randomized block design (4 each). All growing
buffaloes were fed on the basal diet of green grass ad libitum and 1.0kg cassava root meal daily. CLM was
supplemented with levels of 0 kg (control); 0.5 kg (T1); 1.0 kg (T2) and 1.5 kg (T3).
Daily DM, and CP intake increased following the increasing levels of CLM. There was a significant
difference between treatments in CP intake. Digestibility of DM, OM and CF also increased following the
increasing levels of CLM. Growth rate was highest in T3 (629.9 g), then T2 (577.1 g), T1 (475.0 g) and lowest in
control group (319.4 g). Feed conversion ratio was best in T3 (9.27 kg). It was concluded that CLM can be used
as supplemented feed for growing buffaloes to improve digestibility, growth rate and feed conversion ratio.
Key words: cassva leaf meal, cassava root meal, green grass, growing buffaloes.
Đặt vấn đề
Trâu chủ yếu được chăn thả trên đồng, tự thu nhặt cỏ cũng như nước uống và đầm tắm,
khi về nhà, thường được nhốt trong chuồng và ít được bổ sung thêm thức ăn mặc dù việc tự
gặm cỏ tự nhiên chưa đáp ứng nhu cầu của cơ thể. Đặc biệt ở giai đoạn 13 - 18 tháng tuổi, tốc
độ sinh trưởng cao, đòi hỏi một lượng protein và năng lượng nhất định để đảm bảo cho nhu
cầu duy trì và sinh trưởng. Việc chăm sóc nuôi dưỡng chưa tốt, chế độ dinh dưỡng không đáp
ứng đủ nhu cầu dẫn đến trâu phát triển chậm, năng suất thấp. Bổ sung thêm thức ăn tinh, đặc
biệt thức ăn giàu protein cho trâu ở giai đoạn này để khắc phục tình trạng thiếu dinh dưỡng là
một trong các yếu tố quan trọng giúp cho trâu tăng trọng nhanh, đạt năng suất cao. Mục đích
của nghiên cứu này là xác định ảnh hưởng của các mức bột lá sắn bổ sung khác nhau trong
khẩu phần đến lượng thức ăn thu nhận, tỷ lệ tiêu hoá thức ăn, tốc độ sinh trưởng và hiệu quả


sử dụng thức ăn của trâu tơ 13 - 18 tháng tuổi.
vật liệu và Phương pháp nghiên cứu
Đối tượng và vật liệu
- Đối tượng: trâu tơ 13-18 tháng tuổi.
- Vật liệu: bột lá sắn, bột sắn, cỏ voi.
Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm được bố trí theo phương pháp khối ngẫu nhiên hoàn chỉnh. Tổng số 16 trâu
13 tháng tuổi có khối lượng từ 149 đến 155 kg, chia ngẫu nhiên làm 4 lô, mỗi lô 4 con, các lô
đồng đều nhau về khối lượng. Trâu được tẩy giun sán trước khi bắt đầu thí nghiệm và nhốt
riêng mỗi con một ô để theo dõi cá thể. Thời gian làm thí nghiệm là 180 ngày (không kể 2
tuần cho trâu tập ăn). Trâu được nuôi dưỡng theo khẩu phần sau:
- Lô đối chứng (ĐC): khẩu phần cơ sở (gồm cỏ voi cho ăn tự do với 1,0 kg bột sắn
con/ngày)
- Lô thí nghiệm1 (TN
1
): khẩu phần cơ sở và bổ sung thêm 0,5 kg bột lá sắn/con/ngày.
- Lô thí nghiệm 2 (TN
2
): khẩu phần cơ sở và bổ sung thêm 1,0 kg bột lá
sắn/con/ngày.
- Lô thí nghiệm3 (TN
3
): khẩu phần cơ sở và bổ sung thêm 1,5 kg bột lá sắn/con/ngày.
Các chỉ tiêu và phương pháp theo dõi
- Lượng thức ăn ăn vào: thức ăn cung cấp và thừa được cân hàng ngày để xác định
lượng thức ăn ăn vào. Lượng chất khô ăn vào được tính như sau:
Chất khô ăn vào = (Thức ăn cho ăn x % chất khô của thức ăn cho vào) - (Thức ăn còn
thừa x % chất khô của thức ăn còn thừa). Các chất dinh dưỡng khác ăn vào được tính tương
tự.
- Tỷ lệ tiêu hóa chất dinh dưỡng: xác định tỷ lệ tiêu hoá các chất dinh dưỡng trong

khẩu phần theo phương pháp thu phân toàn bộ. Xác định thành phần dinh dưỡng của thức
ăn và phân. Căn cứ vào sự chênh lệch giữa thức ăn và phân để tính ra tỷ lệ tiêu hoá.
- Tăng trọng của trâu: tất cả trâu đều được cân trước khi thí nghiệm và mỗi tháng
một lần vào 2 buổi sáng liên tục sau đó lấy giá trị trung bình.
- Tiêu tốn thức ăn: được xác định bằng cách lấy tổng lượng thức ăn ăn vào/tổng số kg
tăng trọng của trâu.
Xử lý số liệu
Số liệu được xử lý thống nhất theo phương pháp phân tích phương sai (ANOVA) qua
mô hình thống kê tuyến tính tổng quát trên phần mềm Minitab version 13.0 (2000).
Kết quả và thảo luận
Lượng thức ăn thu nhận hàng ngày
Tổng lượng vật chất khô (VCK) thu nhận được hàng ngày cao nhất ở lô TN
3
, tiếp đến
lô TN
2
và lô TN
1
, thấp nhất lô ĐC. Tăng mức bổ sung bột lá sắn trong khẩu phần từ 0kg
đến 1,5 kg/con/ngày lượng VCK trâu thu nhận được hàng ngày tăng từ 4,25kg lên 5,85
kg/con/ngày. Có sự khác nhau rõ rệt giữa lô TN
2
và lô TN
3
so với lô ĐC (P < 0,05).
Lượng chất khô thu nhận được hàng ngày tính trên 100kg khối lượng cơ thể cũng
tương tự như tổng lượng chất khô thu nhận được đều tăng dần theo mức bổ sung bột lá
sắn trong khẩu phần. Song, chỉ có sự sai khác ở mức bổ sung cao nhất (1,5 kg/con/ngày)
so với mức không bổ sung.
Lượng protein thô thu nhận được hàng ngày tăng từ lô ĐC đến lô TN

1
, tiếp đến
lô TN
2
và lô TN
3
. Tăng cao nhất ở lô TN
3
và cao gấp hai lần so với lô ĐC.
Theo tiêu chuẩn ăn cho trâu sinh trưởng của Kearl (1982) đối với trâu có khối
lượng trung bình 200kg để tăng trọng 500 g/con/ngày cần 5,1kg VCK và 543g protein
thô thì lượng thu nhận được hàng ngày của trâu lô TN
2
(khẩu phần có bổ sung 1,0kg
bột lá sắn/con/ngày) có giá trị gần tương đương, lô TN
3
cao hơn, lô TN
1
thấp hơn còn
lô ĐC chỉ đáp ứng được 68% về protein thô và 83% về VCK.
Bảng 1. Lượng thức ăn thu nhận được hàng ngày của trâu thí nghiệm

Chỉ tiêu
Đơn
vị
ĐC
(0)
TN
1


(0,5)
TN
2

(1,0)
TN
3

(1,5)
SEM
Lượng cỏ voi (VCK) kg 3,380 3,550 3,620 3,650 0,170
Lượng bột sắn Kg 0,868 0,868 0,868 0,868
Lượng bột lá sắn kg 0 0,442 0,885 1,327
Tổng lượng VCK kg 4,250
a
4,860
ab
5,380
bc
5,850
c
0,170
Lượng VCK/100kg
KLCT
kg 2,290
a
2,470
ab
2,630
ab

2,810
b
0,120
Tổng lượng protein thô g 369,300
a

490,900
b
602,800
c
710,400
d
16,700
- 0; 0,5; 1,0 và 1,5 là lượng bột lá sắn bổ sung trong các khẩu phần (kg/con/ngày)
- Các số trung bình mang chữ cái khác nhau trong cùng một hàng khác nhau có ý nghĩa thống kê (P
< 0,05)
Lượng chất khô ăn vào ở khẩu phần có bổ sung bột lá sắn cao hơn so với khẩu phần
không bổ sung và có xu hướng tăng dần theo mức tăng của bột lá sắn có thể là do thành
phần dinh dưỡng của bột lá sắn cao, đặc biệt là lượng protein cao đã góp phần cải thiện
môi trường dạ cỏ và rút ngắn pha chậm trong quá trình lên men hydratcacbon có cấu trúc
và tăng tốc độ chuyển dời thức ăn trong đường tiêu hoá. Bổ sung bột lá sắn vào khẩu
phần làm tăng nồng độ NH
3
- N, ABBH tổng số, số lượng vi khuẩn cũng như số lượng
protozoa trong dịch dạ cỏ (Trịnh Văn Trung và Mai Văn Sánh, 2006), (Duong Nguyen
Khang, 2004) nghĩa là cải thiện hệ sinh thái dạ cỏ cho phép làm tăng tốc độ và tỷ lệ tiêu
hoá xơ cũng như tăng sinh khối protein đi xuống dạ cỏ. Cả hai ảnh hưởng này kích thích
con vật tăng lượng thu nhận khẩu phần (Nguyễn Xuân Trạch, 2003).
Lượng chất khô thu nhận của trâu tính trên 100kg khối lượng cơ thể ở mức bổ sung
1,0kg và 1,5kg bột lá sắn/con/ngày không có sự sai khác về thống kê (P > 0,05). Điều này

có thể là do với mức bổ sung 1kg bột lá sắn/con/ngày có lẽ đã đủ để tạo ra môi trường dạ
cỏ phù hợp cho quá trình lên men và phân giải thức ăn trong dạ cỏ.
Kết quả trên cho thấy bột lá sắn có tính ngon miệng cao đối với trâu. Tăng lượng bột
lá sắn bổ sung trong khẩu phần đến 1,5 kg/con/ngày làm tăng lượng thức ăn thu nhận của
trâu. Hàm lượng protein cao của bột lá sắn làm tăng hàm lượng protein khẩu phần và
tổng lượng protein thu nhận.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của Đào Lan
Nhi (2002) nghiên cứu bổ sung hỗn hợp bột sắn và bột lá sắn (theo tỷ lệ 1/1) cho trâu
nhận thấy, lượng thức ăn thu nhận được hàng ngày của trâu tăng theo mức bổ sung thức
ăn hỗn hợp trong khẩu phần cho tới mức bổ sung 2,6 kg/con/ngày. Hàng ngày trâu thu
nhận được trung bình 2,67kg - 2,94kg VCK/100 kg khối lượng cơ thể.
Tỷ lệ tiêu hoá một số thành phần dinh dưỡng trong khẩu phần
Tỷ lệ tiêu hoá là chỉ tiêu quan trọng biểu thị khối lượng các chất dinh dưỡng thu nhận
của trâu thông qua đường tiêu hoá, đồng thời đánh giá giá trị dinh dưỡng của khẩu phần thí
nghiệm. Tỷ lệ tiêu hóa VCK, chất hữu cơ (CHC), xơ thô và protein thô được trình bày ở
Bảng 2.
Kết quả Bảng 2 cho thấy: tăng lượng bột lá sắn từ 0kg lên 1,5 kg/con/ngày thì tỷ lệ
tiêu hoá các chất dinh dưỡng trong khẩu phần đều có xu hướng tăng lên. Tỷ lệ tiêu hoá
VCK ở lô TN
3
trâu ăn khẩu phần có bổ sung 1,5kg bột lá sắn cao nhất, tiếp đến lô TN
2

khẩu phần bổ sung 1,0 và lô TN
1
khẩu phần bổ sung 0,5kg bột lá sắn/con/ngày, thấp nhất
lô đối chứng không bổ sung bột lá sắn. Tăng mức bổ sung bột lá sắn từ 0kg lên 1,5
kg/con/ngày, tỷ lệ tiêu hoá VCK tăng từ 53,56% lên 62,38%. Có sự khác nhau rõ rệt giữa
các lô thí nghiệm so với lô đối chứng (P < 0,05).
Tỷ lệ tiêu hoá chất hữu cơ bị ảnh hưởng rõ rệt bởi mức bổ sung bột lá sắn trong khẩu

phần. ở tất cả các lô thí nghiệm trâu được ăn khẩu phần có bổ sung bột lá sắn đều cao
hơn so với lô ĐC không bổ sung bột lá sắn (P < 0,05).
Một điều đáng được quan tâm là tăng mức bổ sung bột lá sắn làm tăng tỷ lệ tiêu
hóa xơ thô trong khẩu phần. Tăng mức bổ sung bột lá sắn từ 0kg đến 1,5 kg/con/ngày
làm tăng tỷ lệ tiêu hoá xơ thô từ 52,57% (ở lô ĐC) lên 61,97% (ở lô TN
3
). Có sự sai khác
giữa lô TN
2
và lô TN
3
so với lô ĐC và lô TN
1
(P < 0,05).
Bảng 2. Tỷ lệ tiêu hóa một số chất dinh dưỡng trong khẩu phần

Chỉ tiêu
Đơn
vị
ĐC TN
1
TN
2
TN
3

SEM

Số trâu thí nghiệm
con 4 4 4 4

Thời gian theo dõi ngày 5 5 5 5
Tỷ lệ tiêu hoá VCK % 53,56
a
57,37
a
62,23
b
62,38
b
1,07
Tỷ lệ tiêu hoá CHC % 56,39
a
63,40
b
65,28
bc
66,33
c
1,04
Tỷ lệ tiêu hoá xơ thô % 52,57
a
55,35
a
61,30
b
61,97
b
1,10
Tỷ lệ tiêu hoá protein % 60,53
a

62,31
ab
64,66
bc
65,36
c
0,98
- 0; 0,5; 1,0 và 1,5 là lượng bột lá sắn bổ sung trong các khẩu phần (kg/con/ngày)
- Các số trung bình mang chữ cái khác nhau trong cùng một hàng khác nhau có ý nghĩa thống kê (P
< 0,05)
Tỷ lệ tiêu hóa protein thô cũng tương tự như tỷ lệ tiêu hoá VCK và chất hữu cơ có xu
hướng tăng dần theo mức bổ sung bột lá sắn trong khẩu phần cho tới mức bổ sung 1,5
kg/con/ngày. Song, giữa mức không bổ sung và bổ sung 0,5kg, giữa mức bổ sung 0,5kg
và 1,0kg cũng như mức 1,0kg và 1,5 kg/con/ngày không có sự sai khác về thống kê (P >
0,05).
Thức ăn cho trâu chủ yếu là cỏ tự nhiên, rơm rạ, cỏ khô, và các phụ phẩm nông
nghiệp, có hàm lượng xơ cao. Chất xơ không có ý nghĩa dinh dưỡng đối với động vật dạ
dày đơn do chúng tiêu hoá chất xơ kém, nhưng chất xơ lại có vai trò quan trọng trong
việc cung cấp dinh dưỡng cho gia súc nhai lại. Đối với trâu, chất xơ được tiêu hoá chủ
yếu nhờ men của VSV sống trong dạ cỏ tiết ra. Ngoài nguồn năng lượng cần thiết cho
quá trình lên men vách tế bào thức ăn thực vật, VSV dạ cỏ cần có đủ ni tơ để tổng hợp
protein cho bản thân chúng. Rơm rạ cũng như các loại thức ăn xơ thô chất lượng thấp
khác chứa rất ít ni tơ và tỷ lệ tiêu hoá ni tơ của chúng rất thấp. Điều đó có nghĩa là để cho
các loại thức ăn xơ chất lượng thấp này được phân giải và lên men tốt thì trước hết cần
phải cung cấp đủ lượng ni tơ cần thiết cho VSV dạ cỏ. Việc bổ sung protein và NPN có
thể được sử dụng để điều chỉnh sự thiếu hụt ni tơ của thức ăn nghèo dinh dưỡng (Nguyễn
Xuân Bả, 2006). Tăng mức bột lá sắn bổ sung khác nhau trong khẩu phần của trâu đã
làm tăng tỷ lệ tiêu hoá VCK, chất hữu cơ, xơ thô và protein thô của khẩu phần. Điều này
là do giá trị dinh dưỡng của bột lá sắn cao đã làm cải thiện tỷ lệ tiêu hoá khẩu phần và
làm cân bằng các chất dinh dưỡng cho quá trình lên men trong dạ cỏ. Tăng mức bổ sung

bột lá sắn làm tăng lượng protein trong khẩu phần. Khẩu phần có hàm lượng protein cao
sẽ tạo ra NH
3
- N cao. Mặt khác protein trong lá sắn khi vào dạ cỏ được phân giải thành
các axit amin và các peptid. Tăng mức bổ sung bột lá sắn trong khẩu phần làm tăng lượng
axit amin và peptid trong dạ cỏ. Cả hai điều trên làm cho số lượng vi khuẩn và ĐVNS
tăng sinh và phát triển (Nguyễn Xuân Trạch, 2003), giúp cho quá trình lên men và phân
giải các chất trong dạ cỏ tốt hơn.
Tỷ lệ tiêu hoá các chất dinh dưỡng trong khẩu phần tăng dần theo mức bổ sung bột lá sắn
cho tới mức bổ sung 1,5 kg/con/ngày. Giữa mức bổ sung 1,0kg và 1,5 kg/con/ngày không
có sự sai khác về thống kê (P > 0,05). Điều này có thể là với mức bổ sung 1,0kg bột lá
sắn/con/ngày đã đủ để tạo ra môi trường dạ cỏ phù hợp cho hoạt động phân giải thức ăn
của vi sinh vật.
Tăng trọng của trâu trong thời gian thí nghiệm
Tăng trọng của trâu có xu hướng tăng dần theo mức bổ sung bột lá sắn trong khẩu
phần cho tới mức bổ sung 1,5 kg/con/ngày. Khối lượng của trâu bắt đầu thí nghiệm ở các
lô thí nghiệm và đối chứng là tương đương nhau từ 149kg đến 155kg. Sau sáu tháng thí
nghiệm trâu ở lô TN
3
có khối lượng lớn nhất, tiếp đến lô TN
2
và lô TN
1
, thấp nhất lô đối
chứng. ở tất cả các lô thí nghiệm khối lượng của trâu đều cao hơn so với lô ĐC (P <
0,05). Song, giữa lô TN
2
và lô TN
3
không có sự sai khác về thống kê (P > 0,05).

Bảng 3. Tăng trọng của trâu trong thời gian thí nghiệm

Chỉ tiêu
Đơn
vị
ĐC (0) TN
1
(0,5)

TN
2
(1,0)

TN
3
(1,5)

SEM
KL bắt đầu TN kg 155,0 152,0 151,5 149,5 1,63
KL kết thúc kg 212,5
a
237,5
b
255,4
c
263,0
c
4,1
KL tăng cả giai đoạn kg 57,5
a

85,5
b
103,9
c
113,5
c
3,25
Tăng trọng trung bình/ngày g 319,4
a
475,0
b
577,1
c
629,9
c
18,1
Tăng trọng so với ĐC % 100 149 181 197
- 0; 0,5; 1,0 và 1,5 là lượng bột lá sắn bổ sung trong các khẩu phần (kg/con/ngày).
- Các số trung bình mang chữ cái khác nhau trong cùng một hàng khác nhau có ý nghĩa thống kê (P <
0,05).
Tăng trọng trung bình hàng ngày của trâu cũng tương tự như khối lượng tăng hàng
tháng đều tăng dần theo mức bổ sung bột lá sắn trong khẩu phần cho tới mức bổ sung 1,5
kg/con/ngày. Mức bổ sung 1,0kg không có sự sai khác về thống kê so với mức bổ sung
1,5 kg/con/ngày (P > 0,05). ở tất cả các lô thí nghiệm trâu được ăn khẩu phần có bổ sung
bột lá sắn đều cho tăng trọng cao hơn so với lô đối chứng (P < 0,05). Tăng cao nhất ở lô
TN
3
và lô TN
2
tiếp đến lô TN

1
, thấp nhất lô ĐC. Lô TN
2
và lô TN
3
trâu ăn khẩu phần có
bổ sung 1,0kg và 1,5kg bột lá sắn/con/ngày cho tăng trọng cao đạt 577,1g và 629,9
g/con/ngày và tăng gấp hai lần so với lô ĐC. Có sự tương quan khá chặt chẽ giữa các
mức bổ sung bột lá sắn khác nhau trong khẩu phần đến tăng trọng của trâu (R
2
= 0,93).
Mối tương quan này được thể hiện tại phương trình (1):
Y = - 0,0256944 X
2
+ 0,231806 X + 0,113542
(1)
Trong đó:
Y: tăng trọng trung bình hàng ngày của trâu (kg/ngày)
X: lượng bột lá sắn bổ sung trong khẩu phần (kg)
Tăng trọng của trâu có xu hướng tăng dần theo mức tăng bột lá sắn bổ sung trong
khẩu phần. Điều này được giải thích là do khi bổ sung bột lá sắn vào khẩu phần làm cho
tỷ lệ protein và năng lượng được cân đối hơn, môi trường dạ cỏ được cải thiện tạo điều
kiện cho quá trình lên men và phân giải thức ăn được tốt hơn nên khả năng tăng trọng của
trâu cao hơn. Devendra (1977), Wanapat (2003) cũng cho rằng bổ sung lá sắn cho các khẩu
phần có hàm lượng xơ cao, hàm lượng dinh dưỡng thấp làm tăng tỷ lệ protein và năng lượng
trong khẩu phần và do đó làm tăng khả năng sinh trưởng của vật nuôi, giảm chi phí trong
chăn nuôi.
Thông thường gia súc nhai lại phải phụ thuộc chủ yếu vào protein VSV dạ cỏ để thoả
mãn nhu cầu protein. Tuy nhiên protein VSV, đặc biệt là khi nuôi bằng thức ăn thô,
không thể đủ để thoả mãn nhu cầu protein cho sản xuất. Nhu cầu về axit amin chỉ có thể

đáp ứng nếu có đủ lượng protein thoát qua (by - pass protein) trong khẩu phần (ARC,
1984). Protein "thoát qua" không bị phân giải ở dạ cỏ và được tiêu hoá ở ruột non cung
cấp axit amin trực tiếp cho vật chủ để thoả mãn các nhu cầu sản xuất. Protein của lá sắn
có tỷ lệ phân giải dạ cỏ thấp, thoát qua và được tiêu hoá ở ruột non (Wanapat và cs,
1997). Tăng mức bổ sung bột lá sắn đáp ứng được nhu cầu dinh dưỡng thiếu hụt trong
khẩu phần, trâu cho tăng trọng cao hơn. Kết quả nghiên cứu trên cũng phù hợp với
nghiên cứu của Nguyễn Viết Hải (1990) cho rằng protein "thoát qua" đã làm tăng lượng
thức ăn ăn vào, cũng như làm tăng tốc độ sinh trưởng và tăng hiệu quả sử dụng thức
ăn ở gia súc.
Tốc độ tăng trọng của trâu tăng cao ở giai đoạn đầu thí nghiệm sau đó giảm dần.
Điều này có lẽ là do trước khi vào thí nghiệm trâu chăn thả tự do là chính, thức ăn chủ
yếu là cỏ tự nhiên và các phụ phẩm nông nghiệp, có hàm lượng xơ cao, tỷ lệ tiêu hoá thấp
không đáp ứng đủ nhu cầu dinh dưỡng cho trâu phát triển đúng với tiềm năng của chúng.
Vì vậy, trâu thường chậm lớn, tầm vóc nhỏ, thể trạng không tốt, năng suất thịt thấp. Sau
khi vào thí nghiệm được ăn khẩu phần có bổ sung bột lá sắn, các chất dinh dưỡng được
đáp ứng đầy đủ hơn, cân đối hơn trâu cho tăng trọng cao hơn để bù đắp lại thể trọng.
Điều này cũng phù hợp với quy luật sinh trưởng bù của trâu.
Duong Nguyen Khang (2004) nghiên cứu bổ sung lá sắn tươi, lá sắn ủ chua và lá sắn
khô ép viên cho bò cái tơ ăn khẩu phần rơm tươi có xử lý urê đã đưa ra kết luận: tăng
trọng của bò bị ảnh hưởng bởi các mức và các loại lá sắn khác nhau trong khẩu phần. Bổ
sung lá sắn tươi trong khẩu phần không ảnh hưởng đến khả năng tăng trọng của bò. Bổ
sung lá sắn ủ chua hay bột lá sắn vào khẩu phần, ở mức bổ sung thấp (50g protein thô từ
lá sắn ủ chua hay bột lá sắn/100kg khối lượng cơ thể) tăng trọng của bò tăng 50% và ở
mức bổ sung cao (100g protein thô từ lá sắn ủ chua hay bột lá sắn/100kg khối lượng cơ
thể) bò cho tăng trọng tăng 100% so với không bổ sung. Kết quả nghiên cứu của
chúng tôi cũng có sự tương đồng, với mức bổ sung 0,5kg và 1,5 kg/con/ngày trâu
cho tăng trọng tăng 49% - 97% so với mức không bổ sung.
Khả năng chuyển hoá thức ăn của trâu
Lượng thức ăn cần thiết để sản xuất 1kg khối lượng cơ thể phụ thuộc vào thức ăn trâu ăn
được hàng ngày và mức tăng trọng tương ứng. Thức ăn chất lượng và khẩu phần hợp lý

giúp cho gia súc ngon miệng và tăng trọng được cải thiện. Điều đó có nghĩa là tỷ lệ
chuyển hoá thức ăn tốt hơn, tiêu tốn các chất dinh dưỡng cho 1kg tăng trọng giảm. ảnh
hưởng của các mức bột lá sắn bổ sung khác nhau trong khẩu phần đến tiêu tốn thức ăn
cho 1 kg tăng trọng của trâu được trình bày ở Bảng 4.
Tiêu tốn VCK cho một kg tăng trọng của trâu có xu hướng giảm dần cho tới mức bổ sung
1,5kg bột lá sắn/con/ngày. Thấp nhất lô TN
3
và lô TN
2
, sau đến lô TN
1
, cao nhất lô ĐC. ở
mức bổ sung 1,0kg và 1,5 kg/con/ngày tiêu tốn VCK/kg tăng trọng đều thấp hơn so với
mức không bổ sung.
Bảng 4. Tiêu tốn thức ăn cho một kg tăng trọng của trâu thí nghiệm

Chỉ tiêu
Đơn
vị
ĐC (0) TN
1
(0,5)

TN
2
(1,0)

TN
3
(1,5)


SEM
Tổng VCK tiêu thụ kg 764,1 874,6 967,7 1053,1 29,76
Tổng lượng protein thô tiêu thụ kg 66,47 88,37 108,51 127,88 3,01
Tổng khối lượng tăng kg 57,5
a
85,5
b
103,9
c
113,5
c
3,25
Tiêu tốn VCK/kg tăng trọng kg 13,28
a
10,23
ab

9,31
b
9,27
b
0,99
Tiêu tốn protein/kg tăng trọng kg 1,19 1,03 1,04 1,13 0,09
- 0; 0,5; 1,0 và 1,5 là lượng bột lá sắn bổ sung trong các khẩu phần (kg/con/ngày)
- Các số trung bình mang chữ cái khác nhau trong cùng một hàng khác nhau có ý nghĩa thống kê (P <
0,05)
Có sự tương quan âm không chặt chẽ giữa mức bổ sung bột lá sắn khác nhau trong khẩu
phần với tiêu tốn VCK/kg tăng trọng (R
2

= 0,52) được thể hiện ở phương trình (2).
Y = 0,863742 X
2
- 5,74409X + 18,5529
(2)
Trong đó:
Y: tiêu tốn VCK/kg tăng trọng (kg)
X: lượng bột lá sắn bổ sung trong khẩu phần.
Wanapat và Wachirapakorn (1990) nghiên cứu bổ sung thức ăn tinh trong khẩu
phần của trâu tơ 18 - 24 tháng tuổi nhận thấy tiêu tốn từ 10,5kg đến 19,8kg VCK cho
1 kg tăng trọng. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn có thể được giải thích là
do khả năng tăng trọng của trâu ở giai đoạn 13 - 18 tháng tuổi cao hơn trâu ở giai đoạn
18 - 24 tháng tuổi.
Tiêu tốn protein cho một kg tăng trọng của trâu ở các lô thí nghiệm và lô ĐC đều
thấp từ 1,03kg đến 1,19kg. Không tìm thấy sự sai khác giữa các lô thí nghiệm và lô
đối chứng (P > 0,05). Kết quả nghiên cứu này cũng tương tự với kết quả nghiên cứu
của Ragheb và cs (1989) trâu tơ sử dụng 778g - 1543g protein thô cho 1kg tăng trọng.
Đào Lan Nhi (2002) cho rằng trâu tơ sử dụng 1010g đến 1230g protein thô cho 1kg tăng
trọng.
Kết luận
- Bổ sung bột lá sắn vào khẩu phần ăn của trâu tơ 13-18 tháng tuổi đã làm tăng lượng
thức ăn thu nhận và tỷ lệ tiêu hoá các chất dinh dưỡng trong khẩu phần.
-Tăng trọng của trâu tăng dần theo mức bổ sung bột lá sắn trong khẩu phần, lô bổ
sung 1,5 kg/con/ngày trâu cho tăng trọng cao nhất (629,9 g/ngày) sau đó là lô bổ sung
1,0kg (577,1 g/ngày), tiếp theo là lô bổ sung 0,5kg (475,0 g/ngày) và thấp nhất lô không
bổ sung (319,4g/ngày).
- Tiêu tốn thức ăn cho 1kg tăng trọng ở lô bổ sung 1,5kg bột lá sắn/con/ngày là thấp
nhất (9,27kg VCK/kg T.T). Nhưng, không có sự sai khác về thống kê (P > 0,05) so với
mức bổ sung 1,0 kg/con/ngày và cao nhất là ở lô đối chứng không bổ sung.
Bột lá sắn có thể dùng làm thức ăn bổ cho trâu tơ để nâng cao tỷ lệ tiêu hóa, khả năng

tăng trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn.
Tài liệu tham khảo
Đào Lan Nhi. 2002. Nghiên cứu nuôi vỗ béo trâu 18-24 tháng tuổi bằng nguồn thức ăn sẵn có nhằm tăng
khả năng cho thịt, Luận án tiến sĩ Nông nghiệp, Hà Nội.
ARC. 1984. The Nutrient Requirements for Ruminant Livestock, Suppl 1, Commonwealth Agricultural
Bureau, Slough.
Devendra C 1977. “Cassava as a feed source for ruminants”, Cassava as animal feed, pp. 107-119.
Duong Nguyen Khang (2004), Cassava foliage as a Protein source for cattle in Vietnam, PhD Thesis, Swedish
University of Agricultural Sciences.
Kearl. C.1982. Nutrient requirements of ruminants in developing countries, International feedstuffs
Institute, UTAH, Agricultural Experiment Station, UTAN, State University, Logan December 1982.
pp. 109- 112.
Nguyễn Viết Hải. 1990. "ảnh hưởng của việc xử lý bột cá, khô dầu cao xu bằng nhiệt hoặc formaldehyde
đến độ hoà tan của protein, lượng thức ăn ăn vào và sinh trưởng của nghé Murrah", Kết quả nghiên
cứu khoa học kỹ thuật, tháng 5, tr. 142-151.
Nguyễn Xuân Bả. 2006. Đánh giá khả năng sử dụng cây dâu tằm (Morus alba), cây dâm bụt (Hibiscus Rosa
Sinensis) làm thức ăn cho gia súc nhai lại ở miền Trung, Việt Nam, Luận án tiến sĩ nông nghiệp, Huế.
Nguyễn Xuân Trạch. 2003. Sử dụng phụ phẩm nuôi gia súc nhai lại, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 2003.
Ragheb E. E., A. Z. Basiony, A. Y. El – Badawi. 1989. "Fattening performance of buffalo calves fed two
rations of different energy rations ratios", Proceedings of the third Egyptan British conference on
animals, fish and poultry production, 7-10 Oct. Alecxandria, Egypt. Vol. 2, pp. 563-570.
Trịnh Văn Trung và Mai Văn Sánh. 2006. "ảnh hưởng của tỷ lệ bột lá sắn trong khẩu phần ăn đến hệ VSV và
môi trường dạ cỏ của trâu", Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn, Tạp chí Khoa học - Công nghệ của
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, (3+4), tr. 77 - 79.
Wanapat M. (2003), "Manipulation of cassava cultivation and utilization to improve protein to energy biomass
for livestock feeding in the tropics", Asian - Australasian Journal of Animal Sciences 16 (3), pp. 463 -
472.
Wanapat M. and C. Wachirapakorn. 1990. "Utilization of roughage and concentrate by feedlot swamp
buffaloes (Bubalus bubalis)", Asian- Australian Journal of Animal Science 3, pp. 195-204.
Wanapat M., O., Pimpa A., Petlum and U. Boontao. 1997. “Cassava hay: A new strategic feeding for

ruminants during the dry season”, Paper presented at the International Workshop on local Feed
Resources – based Animal Production, Ministry of Agriculture, Forestry, Fisheries, Kingdom of
Cambodia and FAO/Zapan Regionnal Project./.

×