Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Giáo trình Côn trùng nông nghiệp (Nghề: Khoa học cây trồng - Cao đẳng): Phần 2 - Trường Cao đẳng Cộng đồng Đồng Tháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.68 MB, 95 trang )

CHƯƠNG 4
CÔN TRÙNG HẠI CÂY ĂN TRÁI
Giới thiệu:
Nội dung chương tập trung về thành phần, triệu chứng gây hại, đặc điểm
hình thái và biện pháp phịng trừ một số lồi sâu hại chủ yếu trên cây xoài, cây
nhãn và cây có múi.
Mục tiêu:
Kiến thức:
+ Trình bày thành phần lồi cơn trùng gây hại quan trọng trên cây ăn trái.
+ Trình bày đặc điểm hình thái và triệu chứng gây hại của các loài gây hại
trên cam quýt, xoài và nhãn.
+ Trình bày các điều kiện ảnh hưởng đến sự phát sinh phát triển và tập tính
gây hại của các lồi quan trọng trên cây ăn trái.
Kỹ năng:
+ Nhận diện được đặc điểm hình thái và triệu chứng gây hại của các loài gây
hại trên cam quýt, xoài, nhãn.
+ Điều tra mật số cơn trùng hại ngồi đồng.
+ Tổng hợp, phân tích, đánh giá và đề xuất giải pháp phù hợp để kiểm sốt
sự gây hại của cơn trùng trên cây cam quýt, xoài, nhãn.
Năng lực tự chủ và trách nhiệm: có tinh thần tự học, có phương pháp làm
việc khoa học sáng tạo.
* Nội dung Bài:
1. Đặc điểm hình thái và cách gây hại
1.1. Thành phần côn trùng hại quan trọng trên cây có múi
a. Sâu đục trái Cipestis sagittiferella Moore
Họ Ngài sáng (Pyralidae) - Bộ Cánh vảy (Lepidoptera)
* Phân bố: Malaysia, Thái Lan, Indonesia, Singapore, Brunei và Việt Nam.
* Ký chủ: Bưởi, chanh, cam.
* Đặc điểm hình thái: thành trùng là một lồi ngài đêm có màu nâu đỏ,
chiều dài thân: 11-13 mm, chiều dài sải cánh: 24-25 mm. Cánh trước sậm màu có
rất nhiều vảy nhỏ, hầu hết các vảy có màu nâu, vì vậy nhìn bằng mắt thường thành


trùng có màu nâu tuy nhiên rải rác trên cánh cũng có những đốm vảy màu trắng
hoặc màu đỏ.
115


Cánh sau có màu nâu nhạt. Trên cánh trước, đốm vảy nằm ngay phía dưới
phần ngực có màu nâu đen nên khi nhìn từ phía lưng của thành trùng sẽ thấy có 2
vệt màu nâu đen khá đặc trưng. Rìa cánh có màu nâu. Cơ thể (thân, cánh và chân)
phủ đầy vảy sáng, có ánh bạc. Râu đầu dài, 3 cặp chân mỏng mảnh, màu vàng ngã
sang nâu nhạt. Ở trạng thái nghỉ, ngài thường đưa phần trước của cơ thể cao lên.
Thành trùng cái có kích thước lớn hơn thành trùng đực. bụng của thành trùng đực
thon nhỏ so với thành trùng cái. Trứng trịn, hơi bầu dục, hình vảy cá, xếp chồng
lên nhau. Trứng có kích thước: 1,4 x 1,2 mm. Lúc mới đẻ, trứng có màu trắng
đục, sau đó trở nên hồng sậm, khi sắp nở, có thể quan sát có thể thấy một chấm
lớn màu đen xuyên qua vỏ trứng, đó là đầu của sâu non sắp nở. Sâu có 5 tuổi, trải
qua 4 lần lột xác. Sâu tuổi 1 (T1) có đầu lớn so với ngực và bề ngang của cơ thể.
Cơ thể màu hồng, trên mỗi đốt cơ thể có nhiều lơng, xếp đều theo chiều ngang
của đốt, vùng có lơng này có màu sậm hơn phần còn lại của đốt.
Mới nở sâu dài khoảng 1,6-1,8 mm, khoảng vài giờ sau khi nở, sâu đã dài
2,6-3,0 mm. Từ tuổi 2 trở đi, cơ thể sâu có màu đỏ hồng quân nhạt. Vào tuổi 5,
sâu dài khoảng 20-22 mm, đầu màu nâu nhạt và phần lưng ngực có màu nâu.
Trước khi hóa nhộng, sâu có màu xanh rất đặc trưng. Sâu hóa nhộng trong một
cái kén bằng đất được kết với các sợi tơ do sâu tiết ra.
* Đặc điểm sinh học: trong điều kiện phịng thí nghiệm (T0C: 28-30; RH%:
75-85) thời gian của vịng đời biến động từ 25-28 ngày, với giai đoạn trứng 5-6
ngày, giai đoạn sâu non: 10-12 ngày và giai đoạn nhộng 8-9 ngày, tiền dẻ trứng
2-3 ngày.
Sau khi phát triển đầy đủ, sâu chui xuống đất để hóa nhộng, nhộng thường
được phát hiện ở vị trí từ 1 đến 2 cm từ mặt đất. Thành trùng hoạt động (bắt cặp,
đẻ trứng) chủ yếu vào ban đêm, cả thành trùng và ấu trùng đều di chuyển rất

nhanh. Ban ngày, thành trùng thường nằm yên trong tán lá. Thành trùng thường
đẻ trứng thành từng cụm ở mặt dưới hoặc mặt bên của trái, mỗi ổ trứng có từ 3
đến 12 trứng.
* Triệu chứng: trên trái (đặc biệt ở phần cuối trái) có nhiều lỗ đục, bên ngồi
lỗ đục có rất nhiều chất thải do sâu thải ra, các chất thải này được kết lại với nhau
bằng chất keo dính do trái bị xì mủ. Sự gây hại của sâu trên những trái đang phát
triển sẽ làm trái rụng sớm, trên những trái đã phát triển, sự gây hại của sâu trên
phần thịt của trái (múi bưởi) sẽ làm trái bị thối rất nhanh do bị bội nhiễm và trái
cũng bị rụng sau đó.
* Sự gây hại: sâu gây hại cả trái non (đường kính trái khoảng 4,5 cm) và trái
chuẩn bị thu hoạch. Do trứng được đẻ trên trái nên ngay sau khi nở ra, sâu di

116


chuyển để tìm chỗ đục vào bên trong trái. Thường sâu đục vào trái ở gần nơi trứng
được đẻ ra.
Để đục vào vỏ trái, sâu T1 cần một thời từ 1,3 - 2,0 giờ, sau đó sâu mới chui
hẳn vào trong trái. Trong quá trình xâm nhập vào trái, sâu cắn vỏ trái, sau đó đẩy
phần vỏ bị cắn cùng với phân của sâu ra ngoài lỗ đục.
Đường đục trong trái thường được lót bằng một lớp tơ và sâu nằm trong lớp
màng bằng tơ này để gây hại. Sự gây hại của sâu trên phần thịt của trái (múi của
trái) sẽ làm trái thối rất nhanh và làm trái bị rụng sớm. Tùy theo số lượng sâu gây
hại bên trong trái mà trái bị hủy hoại nhanh hay chậm, khi bị gây hại nặng, có thể
có từ 6-10 con sâu trong một trái. Sâu được ghi nhận gây hại trên bưởi, chanh,
cam. Tuy nhiên, sự gây hại trên bưởi da xanh là quan trọng hơn cả. Hai loại bưởi
có giá trị kinh tế cao như bưởi da xanh và bưởi năm roi đều bị gây hại nặng.
* Thiên địch: Trong điều kiện tự nhiên, trứng sâu thường bị tấn cơng bởi
các lồi ong ký sinh như ong mắt đỏ Trchogramma và ong thuộc họ Encyrtidae.
Tại Việt Nam, ong mắt đỏ ký sinh trứng cũng đã được ghi nhận trên các vùng bị

nhiễm sâu đục trái bưởi, tuy nhiên mật số thường thấp do các nhà vườn sử dụng
nhiều loại thuốc trừ sâu để phòng trừ sâu đục trái bưởi.
b. Sâu đục vỏ trái Praya endocarpa Meyrick
Họ Yponomeutidae - Bộ cánh vảy (Lepidoptera)
Tên khác: do hình dạng và đặc điểm sinh học của Prays endocarpa
(Kalshoven, 1981) rất giống với Prays citri, nên trước đây loài này được ghi nhận
dưới tên là Prays citri Milliere (Nguyễn Thị Thu Cúc, 2000).
* Phân bố: Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan, Ấn Độ, Bihar,
Karnataka, Indonesia, Java, Sumatra, Sri Lanka, quần đảo Pacific và Mariana
* Ký chủ: Bưởi, cam, chanh. Tại Việt Nam, loài này chủ yếu gây hại trên
bưởi (Nguyễn Thị Thu Cúc và Phạm Hoàng Oanh, 2002).
* Triệu chứng: Vỏ trái bị nổi u, sần.
* Đặc điểm hình thái: Trưởng thành có hình dạng tương tự như lồi Prays
citri Milliere gây hại trên bơng của nhóm cây có múi (Citrus) tại nhiều quốc gia
thuộc vùng Địa Trung Hải. Về hình dạng, cánh có nhiều vảy phấn trắng ánh bạc
xen lẫn với những vảy phấn màu nâu đen, chiều dài thân 3,95 mm và chiều dài sải
cánh khoảng 7,84-8,00 mm. Trứng dẹp, mới đẻ có màu trắng trong, đường kính
0,4 mm. Trứng nhìn từ bên ngồi rất bóng, giống như túi tinh dầu trên vỏ trái. Vỏ
trứng có dạng như các mắt lưới. Sâu mới nở có chiều dài 0,8 mm, màu vàng nhạt,
cơ thể trong, đầu hơi vàng có hai mắt đen, phần đầu nhỏ hơn phần bụng. Sâu tuổi

117


lớn hơn cơ thể có màu vàng, đầu màu vàng đậm, phần đầu tương đồng với phần
thân.
Khi chuẩn bị hóa nhộng, cơ thể sâu có màu xanh ngọc, mỗi đốt bụng có một
sọc màu đỏ quanh thân. Khi vừa hóa nhộng, nhộng có màu xanh đọt chuối, phần
đầu ngực và phần cánh có màu vàng tươi. Nhộng cái có kích thước trung bình
4,75 x 1,35 mm, nhộng đực 3,95 x 1,04 mm.

* Đặc điểm sinh học: sau khi nở, sâu tuổi 1 sẽ đục thẳng vào trong trái để
gây hại. Sâu tuổi 1 ăn phá phần non của vỏ trái và thải phân ngay trong các đường
đục của trái, mỗi lỗ đục chỉ có một ấu trùng. Trong điều kiện phịng thí nghiệm
(T0C: 25-30; RH%: 67-92), tuổi thọ của ngài đực và ngài cái lần lượt là 2-7 ngày
và 2-11 ngày. Thời gian nhộng 4-7 ngày. Thời gian ủ trứng từ 3-4 ngày. Trứng
được đẻ thành từng cái riêng lẻ trên lá non, trưởng thành đẻ khoảng 46 trứng, dao
động từ 35-58 trứng. Sâu thường làm nhộng trên lá gần trái bị đục hoặc ở phần
cuống trái và trên những trái rất non (đường kính trái từ 1-2 cm). Ngài trưởng
thành hoạt động, bắt cặp và đẻ trứng. Chu kỳ sinh trưởng kéo dài trong khoản 2730 ngày. Tỷ lệ đực, cái khoảng 1:2. Sâu chủ yếu gây hại trên trái, khơng gây hại
trên bơng. Sau khi hồn thành giai đoạn ấu trùng trong trái, sâu chui ra khỏi trái
để nhả tơ làm nhộng, lúc này các sọc màu đỏ quanh thân của sâu mất dần.
* Sự gây hại: sâu gây hại trong phần vỏ, không đục vào trong phần thịt của
trái. Sâu chủ yếu hại trên trái non. Nếu bị nhiễm sâu nặng, trái sẽ phát triển rất
kém, biến dạng và bị rụng. Nếu nhiễm nhẹ, trái sẽ tiếp tục phát triển nhưng sẽ bị
biến dạng với những u sần nhiều khi rất to, đặc biệt là trên bưởi .
Mặc dù chất lượng của trái không bị ảnh hưởng vì sâu chỉ ăn phần vỏ và
khơng đục vào trong phần múi nhưng với các u sần trên vỏ, trái bị mất giá trị
thương phẩm. Sâu hiện diện vào giai đoạn cây ra trái non. Gây hại nặng trên bưởi,
đặc biệt là bưởi 5 roi. Trên cam, chanh, sự gây hại của sâu khơng đáng kể do vỏ
của các lồi trái cây này mỏng.
* Thiên địch: P. citri thường bị nhiều lồi ký sinh và ăn mồi tấn cơng như
Ageniaspis fuscicollis, Nemo-rillaculosa, Metaseiulus occidentalis, Bacillus
thuringiensis. Tại đồng bằng sông Cửu Long, tỷ lệ sâu bị ong ký sinh rất cao. Từ
tháng 8 đến tháng 10 dl, tỷ lệ ký sinh có thể lên đến 56,7% (Nguyễn Thị Thu Cúc,
2000).
c. Rầy chổng cánh Diaphorina citri Kuwayama
Họ Rầy nhảy (Psyllidae) - Bộ Cánh đều (Homoptera)

118



*Phân bố: Afghanistan, Bangladesh, Brazil, Nhật, Macau, Myanmar,
Indonesia, Singapore, Campodia, Trung Quốc, Đài Loan, Ấn Độ, Lào, Malaysia,
Nepal, Pakistan, Philippines, Việt Nam, Paraguay và Uruguay.
* Ký chủ: chanh, cam, quýt, bưởi, nguyệt quế, cần thăng, kim quýt.
* Đặc điểm hình thái:
Trứng màu vàng, hình trái lê, dài khoảng 0,3mm, phía trên nhọn tạo thành
một cuống nhỏ rất đặc biệt.
Ấu trùng rất nhỏ, hình bầu dục dẹp, mới nở có màu vàng tươi, phần đi có
một sợi sáp màu trắng dài. Qua tuổi 2 (T2) và tuổi 3 (T3) ấu trùng thường có màu
xanh, T4 và T5 có màu nâu vàng. Ấu trùng mang 2 mầm cánh nhỏ, di chuyển
chậm, sống thành từng đám trên đọt non.
Ấu trùng tuổi 5 dài khoảng 1,5mm với 2 mắt màu đỏ, các đốt cuối của râu
đầu màu đen. Thành trùng có kích thước nhỏ, thân dài từ 2,5 - 3,0mm, nâu xám,
cánh có màu nâu vàng, chân có màu xám nâu. Phần giữa cánh trong suốt, kéo dài
thành một dãy trắng từ gốc cánh đến cuối cánh, bị gãy về phía cuối cánh. Đầu
nhọn, màu nâu nhạt. Mắt có màu đỏ. Râu đầu ngắn có 5 đốt, đốt cuối râu đầu có
màu đen.
Bụng của con cái sắp đẻ và đang đẻ có màu hồng, ống đẻ trứng nhọn, màu
đen, hiện diện rất rõ ở phần cuối bụng. Bụng của con đực thon nhọn, có màu xanh
nhạt. Khi đậu, phần bụng của thành trùng nhổng cao nên được gọi là rầy chổng
cánh.
* Đặc điểm sinh học:
Trong điều kiện tự nhiên, sau khi vũ hóa 4 - 5 ngày thành trùng bắt cặp và
con cái thường đẻ trứng ngay sau khi bắt cặp. Trứng thường được đẻ vào ban
ngày, thành từng khối hay từng nhóm 2, 3 hàng trong các nách lá hoặc trên các
đọt lá non, đặc biệt là trong các lá non còn xếp lại.
Thành trùng thường chích hút mặt dưới của lá, dọc theo gân chính. Con cái
có thể đẻ khoảng 200 - 800 trứng, liên tiếp trong 2 tháng.Thời gian ủ trứng kéo
dài 2 - 11 ngày, giai đoạn ấu trùng gồm 5 tuổi, kéo dài từ 12 - 22 ngày, thời gian

sống của thành trùng là 14 ngày.
Ấu trùng mới nở thường nằm cố định tại chỗ để chích hút trong 1 - 2 ngày
sau đó di chuyển sang chỗ khác. Sang T5, ấu trùng thường di chuyển xuống phần
dưới của lá để lột xác thành thành trùng. Thành trùng rất hoạt động, có thể nhảy
rất nhanh khi bị động.

119


Chu kỳ sinh trưởng của D. citri kéo dài khoảng 20 ngày, có thể có 12 - 14
thế hệ/năm. Thành trùng có thể sống trong nhiều tháng. Sự biến động quần thể
chủ yếu dựa vào các thời điểm ra đọt non vì rầy chổng cánh gần như chỉ đẻ trứng
trên các chồi non.
* Sự gây hại:
Khi mật số cao, cả thành trùng và ấu trùng chích hút làm cho chồi bị khô,
rụng lá, gây hiện tượng khô cành, ảnh hưởng đến sự phát triển của cây và sự ra
trái. Mật ngọt do rầy chổng cánh tiết ra tạo điều kiện cho nấm bồ hóng phát triển,
ảnh hưởng đến q trình quang hợp của cây. Tuy nhiên, trong điều kiện tự nhiên,
mật số của rầy thường thấp trên cam, quýt nên chưa ghi nhận như vừa nêu trên.
Mật số cao thường chỉ được ghi nhận trên chanh.
Sự gây hại quan trọng nhất của D. citri hiện nay là do chúng truyền vi khuẩn
Liberobacter asiaticum gây bệnh vàng lá gân xanh (greening) cho cây có múi. Do
đó, rầy chổng cánh trở thành đối tượng dịch hại nguy hiểm nhất hiện nay cho
nhiều vùng trồng cây có múi trên thế giới và Việt Nam. Tại Việt Nam, bệnh hiện
diện trên khắp các vùng trồng cây có múi từ Bắc đến Nam và trầm trọng nhất là
ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Chúng truyền bệnh từ cây bệnh sang cây khỏe
qua kim chích và nước bọt.
Triệu chứng vàng lá gân xanh: trên các chồi non, phiến lá thường hẹp, mọc
thẳng đứng, lá có màu vàng nhưng gân lá còn xanh hoặc lá bị vàng loang lỗ. Trái
nhỏ, tâm trái bị lệch, hạt nhỏ và thường bị nâu đen. Trong vườn có cây bệnh nặng,

có cây lại khơng bệnh. Trên cây có nhánh bệnh, có nhánh khơng biểu hiện triệu
chứng. Khi bị nhiễm nặng, một số cành sẽ bị chết khô. Cây cằn cỗi, trái nhỏ, năng
suất giảm rõ rệt.
* Thiên địch:
Trong điều kiện tự nhiên của nhiều vùng tại Đông Nam Á, thành phần thiên
địch của rầy chổng cánh rất phong phú, quan trọng nhất là các loài ong ký sinh
Tamarixia radiata và Diaphorencyrtus. Các cơng trình nghiên cứu của Bộ mơn
Bảo vệ thực vật, Khoa Nông nghiệp & Sinh học ứng dụng, Trường Đại học Cần
Thơ đã ghi nhận kiến vàng Oecophylla smaragdina có khả năng hạn chế cao sự
bùng phát của rầy chổng cánh và tỉ lệ bệnh greening cũng rất thấp so với những
vườn khơng có sự hiện diện của kiến vàng.
d) Sâu vẽ bùa Phyllocnistis citrella Stainton
Họ Gracillariidae, Bộ Cánh Vảy (Lepidoptera)
* Phân bố và ký chủ
Sâu xuất hiện nhiều ở các vùng trồng cam, quít trên thế giới như Ấn Độ,
120


Nepal, Nhật, Pakistan, Philippines, Trung Quốc, các vùng miền bắc châu Úc, Việt
Nam.
Loài sâu này chủ yếu gây hại trên nhóm cây Cam, Qt, Chanh, nhưng mức
độ thiệt hại khác nhau tùy theo giống.
* Đặc điểm hình thái và sinh học
Ngài rất nhỏ, dài khoảng 2 mm, sải cánh rộng từ 4 - 5 mm. Tồn thân có màu
vàng nhạt, hơi có ánh bạc. Cánh trước có dạng hình lá liễu, gốc cánh màu xám
nhạt, phần còn lại màu trắng bạc hơi ngả vàng. Từ gốc cánh có hai vân dọc màu
đen kéo dài đến giữa cánh. Khoảng 1/3 về phía đầu cánh có 1 vân xiên giống hình
chữ Y. Phần đầu cánh có rìa lơng khá dài màu đen. Cánh sau rất hẹp, màu xám
đen, 2 rìa lơng bên ngoài rất dài màu xám nhạt. Thời gian sống của ngài từ 4 - 5
ngày. Một ngài cái đẻ từ 40 - 50 trứng.

Trứng hình bầu dục dẹp, rất nhỏ, khoảng 0,20 - 0,30 mm. Trứng mới đẻ trong
suốt, sắp nở có màu trắng đục hơi ngả vàng. Thời gian ủ trứng từ 2 - 7 ngày.
Sâu mới nở dài khoảng 0,5 mm, thân màu xanh nhạt, gần như trong suốt, đầu
màu nâu. Sâu lớn đủ sức dài khoảng 4 mm, màu vàng xanh, cơ thể khơng cịn
trong suốt. Mình sâu dẹp, có 13 đốt, hai đầu thon nhỏ, chân ngực và chân bụng
đều thối hóa, đốt cuối có hình ống dài. Ở giai đoạn chuẩn bị hóa nhộng, cơ thể
sâu khơng cịn dẹp mà chuyển sang dạng hình ống màu trắng ngả vàng đục. Sâu
có 4 tuổi, phát triển trong thời gian từ 5 - 20 ngày tùy điều kiện ngoại cảnh.
Nhộng dài từ 2 - 3 mm, hai đầu thon nhỏ, lúc mới hình thành màu vàng nhạt,
sau chuyển thành màu nâu vàng với một gai rất nhỏ trên đầu. Nhộng phát triển
trong thời gian từ 7 - 15 ngày.
* Tập quán sinh sống và cách gây hại
Ngài ít bị thu hút bởi ánh sáng đèn. Ban ngày ngài ẩn trốn trong tán lá cây,
ban đêm bay ra hoạt động và đẻ trứng, mạnh nhất từ 19 - 21 giờ. Từ 12 - 15 giờ
sau khi bắt cặp ngài cái bắt đầu đẻ trứng. Khoảng 85% số trứng được đẻ trong
vòng 2 ngày đầu. Trứng thường được đẻ ở mặt dưới lá, trung bình 2 - 3 trứng trên
một lá hay một chồi non. Phần lớn trứng tập trung hai bên gân chính. Ngài thích
đẻ trứng ở những vườn cam, quít dưới 4 năm tuổi.
Sâu mới nở đục ngay vào dưới biểu bì lá và tiếp tục đục ăn thành những
đường ngoằn ngoèo như đường vẽ trên các lá bùa nên sâu có tên gọi là “sâu vẽ
bùa”. Sâu sống bên trong đường đục và cạp ăn lớp tế bào nhu mơ diệp lục. Lớp
biểu bì khi mới bị tách khỏi lớp nhu mơ thường trong bóng, do đó rất dễ nhầm lẫn
với vệt chất nhầy của ốc sên để lại trên mặt lá khi di chuyển. Sâu đục ăn tới đâu
thường bài tiết phân đến đấy, nên vệt phân là một đường liên tục, giống như sợi

121


chỉ chạy dài theo đường đục của sâu ở phía chính giữa. Phân sâu lúc đầu có màu
xanh vàng, sau thành màu nâu sẫm. Đường đục kéo dài và lớn dần theo tuổi sâu.

Đặc điểm của sâu này là đường đục của một con sâu ngoằn ngoèo khắp mặt lá
nhưng không bao giờ cắt ngang hoặc nhập chung vào đường đục của những sâu
khác sống trên cùng một lá. Sâu chỉ có thể sống được trong điều kiện ẩm độ khơng
khí cao nhưng khi mưa to, gió lớn, lớp biểu bì trên đường đục bị rách sâu sẽ chết
sau một thời gian ngắn. Khi lớn đủ sức sâu thường đục ra bìa phiến lá nhả tơ, dệt
kén kéo bìa lá lại che kín tổ kén. Cũng có đơi lúc sâu hóa nhộng ngay giữa phiến
lá nhưng vẫn có khả năng kéo cả phiến lá che tổ kén. Tổ kén sâu vẽ bùa có màu
rỉ sắt. Sau khi bướm vũ hóa thì võ nhộng thường nhơ một phần ra ngồi tổ kén.
Lá bị sâu tấn công sẽ quăn queo làm hạn chế rất lớn sự quang hợp, chồi non
ngừng tăng trưởng. Ngoài ảnh hưởng trên, những vết thương do sâu đục trên bề
mặt lá hoặc chồi sẽ tạo điều kiện cho vi khuẩn Xanthomonas campestris pv. citri
phát triển mạnh, gây ra bệnh loét cho cây cam, sau cùng các chồi non sẽ bị hủy
diệt.
Các lá cam, quít hay chanh quăn queo, co rúm do sâu vẽ bùa tạo nên còn là
nơi trú ẩn của nhiều loài sâu hại khác.
* Các yếu tố ảnh hưởng đến mật số
- Thức ăn: giống cây có lá cứng, mật độ túi tinh dầu trên lá cao thường ít bị
lồi sâu này tấn cơng. Sâu thích các vườn ươm hay vườn cây dưới 4 năm tuổi.
- Thời tiết: nhiệt độ nóng và khơ các chồi non bị mất nước, sâu có thể bị hại
đến 50%. Mưa nhiều đường đục bị rách, sâu bị chết nhiều.
- Thiên địch: ở giai đoạn sâu non và nhộng có thể bị Ong thuộc các họ
Encyrtidae, Eulophidae ký sinh.
e. Các loài rầy mềm
Họ Rầy mềm (Aphididae) - Bộ Cánh đều (Homoptera)
Trên cam qt có 2 lồi rầy mềm gây hại chủ yếu: Toxoptera aurantii và
Toxoptera citricidus.
* Phân bố.
Rầy mềm được ghi nhận xuất hiện ở các quốc gia trồng cam quít trên thế giới
như Ấn Độ, Đài Loan, Hàn Quốc, Indonesia, Malaysia, Myanmar, Nhật, Sri Lanka, Trung Quốc, Philippines, châu Úc.
* Ký chủ

Ngồi cam qt, các lồi rầy mềm cịn gây hại trên cây chanh, nhưng không
quan trọng, trên mãng cầu, mít. Riêng lồi Toxoptera aurantii cịn có thể sống trên
122


cây cacao, cây thuộc họ bầu ,bí, dưa ...
* Đặc điểm hình thái và sinh học
+ Toxoptera aurantii Boyer de Fonscolombe
Thành trùng có 2 dạng như các lồi rầy mềm khác:
- Dạng có cánh: chân và râu đầu màu vàng nâu hơi nhạt, cuối mỗi đốt màu
nâu. Râu đầu 6 đốt, ngắn hơn cơ thể. Cơ thể dài từ 1,44 - 1,80 mm. Vịi chích hút
kéo dài đến đốt chậu chân sau. Ống bụng dài màu nâu đến nâu đỏ gần như nâu
sẫm.
- Dạng không cánh: cơ thể dài từ 1,70 - 1,80 mm, màu nâu đỏ. Râu đầu 6
đốt.
+ Toxoptera citricidus Kyrkaldy
Thành trùng có 2 dạng:
- Dạng có cánh: cơ thể từ màu nâu đỏ đến đen, nhưng ngực đậm hơn. Râu
đầu ngắn hơn cơ thể, màu nâu đỏ, chân và đoạn cuối của râu màu trắng, các đoạn
nối các đốt râu cũng màu trắng. Chiều dài cơ thể từ 1,6 - 2,1 mm, rộng từ 0,8 - 1
mm. Vịi chích hút kéo dài khỏi đốt chậu chân sau, đốt cuối vòi nhọn và hẹp. Các
chân màu sậm, riêng đốt chày màu nhạt. Bụng màu nhạt, có nhiều đốm đậm nằm
rải rác. Ống bụng dạng trụ màu đậm.
- Dạng không cánh: cơ thể màu nâu đỏ, lớn hơn dạng có cánh, chiều dài từ
1,7 - 2,1 mm, rộng từ 1,1 - 1,35 mm. Trên cơ thể có nhiều lơng dài và nhiều đốm
màu rải rác.
Loài này thường đẻ con. Một rầy mềm cái có thể đẻ từ 1 - 16 con trong một
ngày và đẻ trên 100 con trong suốt thời gian sống là 12 - 33 ngày.
Ấu trùng lột xác 4 lần trong khoảng thời gian từ 4 - 16 ngày tùy điều kiện
môi trường và thức ăn. Dạng có cánh phát triển khi mật số nhiều và thức ăn khơng

cịn thích hợp và dạng khơng cánh hình thành khi thức ăn non mềm, điều kiện thời
tiết thích hợp. Rầy mềm hồn thành vịng đời khoảng 3 tuần, nếu điều kiện thích
hợp có thể có 12 thế hệ trong một năm.
* Tập quán sinh sống và cách gây hại
Cả ấu trùng và thành trùng đều gây hại cho cây bằng cách chích hút nhựa lá
và cành non làm giảm khả năng tăng trưởng của cây; lá non bị cong và biến dạng.
Đồng thời sự gây hại của rầy mềm cũng làm cho trái bị chín sớm và giảm phẩm
chất. Ngồi ra phân do rầy mềm thải ra có chứa đường sẽ thu hút nấm đen tới
đóng trên thân hay lá sẽ làm giảm khả năng quang hợp của cây.

123


Rầy mềm còn là tác nhân truyền bệnh "Tristeza". Lá bị bệnh “Tristeza" trông
rất giống triệu chứng cây bị thiếu dưỡng chất và rễ cây bị suy yếu, tiếp theo là
chết các cành non.
* Biện pháp phịng trị
Rầy mềm có rất nhiều thiên địch. Nếu thiên địch không khống chế được mật
số rầy có thể sử dụng các loại thuốc trừ sâu thông dụng để trị; tuy nhiên rầy rất dễ
phát triển mật số trở lại vì khả năng sinh sản rất cao và vì vậy nên rầy mềm có thể
truyền bệnh từ cây này sang cây khác một cách dễ dàng.
f) Các lồi rệp sáp
Có nhiều lồi rệp sáp gây hại cam qt ở đồng bằng sơng Cửu Long, chủ yếu
gồm các loài sau:
+ Rệp sáp mềm xanh lục, Coccus viridis (Green)
(Coccidae, Homoptera)
* Phân bố và ký chủ
Rệp sáp mềm có diện phân bố khá rộng, đã phát hiện được tại nhiều vùng
trồng cam quít trên thế giới. Ở nước ta các vùng trồng cam qt đều có lồi này
hiện diện và đây là loài gây hại nguy hiểm cho cam qt.

Ngồi cam, chanh, qt, bưởi chúng cịn có thể phá hại trên ổi và một số loại
cây ăn trái khác.
* Đặc điểm hình thái và sinh học
Rệp cái trưởng thành của lồi này có cơ thể hình bầu dục khá đều đặn (gần
như đối xứng hai bên), màu xanh lục hơi ngả vàng, hơi dẹp so với các lồi rệp sáp
khác, dài 3-4 mm. Về phía đầu có hai đốm mắt đen nhỏ. Chân khá phát triển, có
thể nhìn thấy từ mặt trên và có thể di chuyển được.
Con cái sinh sản mà không cần bắt cặp. Trứng nở bên trong mai sáp mỏng
và ấu trùng tuổi 1 có chân để bị đi tìm chỗ cố định, lột xác sang tuổi 2 và sau đó
thì trưởng thành. Vịng đời vào khoảng 4-6 tuần lể.
* Tập quán sinh sống và cách gây hại
Lồi này có khả năng di chuyển khơng những ở thời kì rệp non mới nở mà
cả ở giai đoạn chuẩn bị đẻ trứng, nhưng chỉ phát tán một khoảng cách ngắn đến
các cành lá gần nơi sinh sống. Chúng tấn công chủ yếu là ở các chồi non, lá non
hoặc trái non.
Rệp thường được các loài kiến bảo vệ để ăn mật, trong đó có cả kiến vàng.
Tài liệu cho biết kiến ăn mật có thể làm hạn chế tỉ lệ chết của ấu trùng tuổi 1 vì

124


nếu mật tích luỹ nhiều q có thể lây bệnh hoặc dính chân rệp non trong khi di
chuyển.
+ Rệp sáp đỏ Aonidiella aurantii (Maskell)
(Diaspedidae, Homoptera)
* Phân bố và ký chủ: loài rệp này phân bố khá rộng, đã phát hiện thấy ở
châu Mỹ, châu Phi, Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản. Ở Việt Nam các vùng trồng
cam đều thấy chúng xuất hiện. Ngồi cây trong họ cam, qt, lồi này cịn phá hại
trên đu đủ, ổi, trà...
* Ký chủ: lồi này chủ yếu sống trên cam quít, nhưng tại các nước ơn đới

chúng cịn có thể sống trên các loại cây như táo, đào, nho và một số loài cây dại
khác.
* Đặc điểm hình thái và sinh học
Thành trùng cái khơng cánh, thân trịn màu đỏ, đường kính độ 1,8-2 mm, cơ
thể được phủ bằng mai sáp mỏng nhưng hoàn chỉnh và gắn chặt trên thân cây,
nhánh hoặc trên các cành cây nhỏ. Thành trùng đực có cánh và có thể bay đi tìm
thành trùng cái để bắt cặp.
Sau khi bắt cặp, con cái đẻ thẳng ra từ 100-150 con non theo tần suất 2-3
con/ngày, có chân để bị đi tìm nơi định cư. Thời gian sống của thành trùng từ 6 8 tuần tùy điều kiện sống.
Sau khi tìm được nơi thích hợp ấu trùng tuổi 1 bắt đầu chích hút và tiết ra
một mai sáp nhỏ, trịn, màu trắng. Sang tuổi 2 trở đi chúng có màu đỏ.
Sự phát triển của phái tính có thể xác định được qua hình dạng và kích thước
của mai sáp: sau tuổi 2 thì mai sáp của con đực có hình bầu dục trong khi của con
cái thì hình trịn. Con đực trải qua giai đoạn tiền-nhộng và nhộng trong mai sáp
rồi vũ hố thành con đực có cánh. Con đực bị quyến rũ bởi con cái bằng
pheromone và chết sau khi bắt cặp.
* Tập quán sinh sống và cách gây hại
Cả thành trùng và ấu trùng đều chích hút nhựa cây hoặc cành làm cho cành
bị khô, cây nhỏ bị chết dễ dàng. Rệp cịn tiết phân có chứa chất đường bám quanh
thân hay cành làm cản trở quang hợp, cây phát triển kém.
+ Rệp sáp tím Lepidosaphes beckii (Newman)
(Diaspididae, Homoptera)
* Ký chủ: đa ký chủ: xoài, ổi, nhãn, bơ..
* Đặc tính sinh học

125


Vỏ sáp có hình dấu phẩy, dài 3-4mm và màu tím, cơ thể rệp dưới vỏ sáp dài,
màu trắng đục. Mai sáp của con đực ngắn, hẹp và màu lợt hơn. Mai sáp của loài

này giống với Unasbis citri (Comstock), được gọi là rệp sáp trắng tuyết (snow
scale), nhưng lớn hơn và màu của con kia nâu đậm.
Cũng như các lồi rệp sáp khác, con đực có cánh và tìm đến bắt cặp với con
cái nhờ pheromone. Sau khi bắt cặp, một rệp cái đẻ từ 50 - 100 trứng ở dưới mai
sáp.
Trứng màu trắng đục, thời gian ủ trứng thay đổi tùy thời tiết, trời nắng nóng
có thể khoảng 2 tuần, trời lạnh ở vùgn ơn đới có thể đến 1 hoặc 2 tháng.
Ấu trùng khi nở ra thường di chuyển tìm nơi thích hợp để định cư tạo vỏ sáp
mới. Vòng đời vào khoảng 6-8 tuần.
* Khả năng gây hại
Rệp tấn công mọi bộ phận của cây. Chúng thường ở rải rác cách xa nhau, chỉ
tập trung ở nơi hai trái dính chùm lại.
* Biện pháp phịng trị chung đối với các lồi rệp sáp hại cam qt:
- Vì rệp có lớp sáp bao phủ nên tương đối khó trị. Có thể áp dụng các loại
thuốc nhũ dầu làm tan lớp sáp để diệt được chúng.
- Có thể phun dầu khoáng để làm ngạt thở hoặc giảm khả năng đẻ trứng của
con cái.
- Bảo tồn thiên địch ăn thịt hoặc ký sinh như bọ rùa, ong ký sinh...
+ Rầy bông (rệp sáp giả) Planococcus citri (Risso)
Họ Pseudococcidae - Bộ cánh đều (Homoptera)
Thành trùng hình thon, dài khoảng 3 mm, màu vàng nhạt đến vàng cam với
18 đôi tua sáp 2 bên hơng và 1 đơi phía sau đi. Chất sáp chỉ bao phủ phần lưng
của cơ thể. Một rệp cái đẻ từ 300 - 500 trứng.
Trứng màu vàng, nằm trong 1 túi do rệp cái tiết ra. Trứng được đẻ trên trái,
lá hay chỗ nứt của vỏ. Thời gian ủ trứng từ 3 - 6 ngày.
Rệp gây hại bằng cách chích hút phần non cũa cây. Phân của rệp thu hút nấm
đen tơi bám quanh nơi rệp định cứ làm ảnh hưởng đến quang hợp.
+ Rệp dính Unaspis citri (Comstock)
Bộ Homoptera - Họ Diaspididae
Phân bố


126


Rệp dính có nguồn gốc từ châu Á nhưng hiện nay chúng xuất hiện và gây
hại tại nhiều vùng trồng cây có múi trên thế giới thuộc châu Á, châu Úc, châu Phi,
Trung và Nam Mỹ. Tại Việt Nam rệp dính xuất hiện từ năm 1962, tuy nhiên chúng
chỉ thành dịch hại phổ biến và quan trọng trong vài năm gần đây.
Ký chủ
Ký chủ chính của rệp dính là các loại cây có múi như cam, quýt, bưởi,
chanh,… Tuy nhiên, rệp dính cịn gây hại trên nhiều loại cây trồng khác như mít,
khóm, mãng cầu xiêm. Tại đồng bằng sơng Cửu Long rệp dính cũng xuất hiện
trên dừa, ổi, xồi, thiên tuế.
* Triệu chứng gây hại
Trên cây có múi, rệp dính thường xuất hiện thành từng đám màu trắng, chúng
thường tấn cơng trên thân chính và các nhánh của cây. Mật số rệp dính cao và xảy
ra trong thời gian dài làm vỏ thân cây bị khô nứt, vết nứt mở đường cho các dịch
hại khác xâm nhập và gây hại cây.
Sự tấn cơng của rệp dính làm giảm khả năng sinh trưởng, phát triển của cây.
Trường hợp rệp gây hại nặng trên các nhánh nhỏ hoặc cây còn nhỏ có thể làm lá
vàng và rụng đi khiến nhánh hoặc cả cây bị chết. Rệp dính cũng tấn cơng và gây
hại trên lá và trái khi mật số cao, làm giảm năng suất và chất lượng trái. Phân của
chúng thải ra chứa nhiều dưỡng chất, nhất là đường, tạo điều kiện cho nấm bồ
hóng phát triển trên thân, lá. Rệp dính cịn truyền bệnh virus trên cây cam qt.
* Đặc điểm hình thái và sinh học
Trưởng thành đực và cái của rệp dính có hình dạng và màu sắc khác nhau.
Con cái có hình dạng như vỏ con trai, dài 1,5 – 2,25 mm; thân bên ngồi có màu
nâu tím đến đen với viền màu xám rất giống với màu của thân cây; bên dưới lớp
“áo giáp” cơ thể rệp dinh cái có màu kem đến màu cam sáng. Con đực trưởng
thành có cánh, thân màu vàng sáng; có 10 râu dài, nhỏ; 04 đốm mắt màu tím đen

và khơng có miệng. Rệp dính trưởng thành khơng ăn và hoạt động chính của
chúng là tìm đối tượng để bắt cặp.
Trứng của rệp dính có hình trái xoan, màu vàng sáng và dài khoảng 0,3 mm.
Trứng được đẻ rời từng trái và được che chở, bảo vệ bởi thân của con mẹ. Trứng
nở sau khi đẻ khoảng 30 phút đến 3 giờ. Con cái chỉ tiếp tục đẻ trở lại khi lứa
trứng trước đó đã nở. Một con cái có thể đẻ đến 150 trứng trong thời kỳ đẻ trứng
kéo dài từ 2 – 3 tháng.
Ấu trùng từ tuổi 2, rệp dính bắt đầu phân biệt về giới tính và lớp “áo giáp”
bằng sáp xuất hiện. “Áo giáp” của ấu trùng đực có màu trắng như tuyết nên rệp
dính cịn có tên là rệp trắng tuyết hại cam quýt (citrus snow scale); trong khi lớp

127


“áo giáp” của ấu trùng cái có màu xám. Ấu trùng đực dài khoảng 1 mm. Ấu trùng
đực chích hút nhựa cây và không di chuyển, chúng chỉ di chuyển sau khi chấm
dứt giai đoạn nhộng và trở thành con trưởng thành có cánh
Vịng đời của rệp dính cái có 3 giai đoạn gồm trứng, ấu trùng và thành trùng.
Trong khi, vịng đời con đực ngồi 3 giai đoạn kể trên cịn có thêm giai đoạn tiền
nhộng và giai đoạn nhộng.
+ Rệp sáp
Họ Rầy mềm (Aphididae) - Bộ Cánh đều (Homoptera)
Trên cam qt có 2 lồi rầy mềm gây hại chủ yếu: Toxoptera aurantii và
Toxoptera citricidus.
* Phân bố.
Rầy mềm được ghi nhận xuất hiện ở các quốc gia trồng cam quít trên thế giới
như Ấn Độ, Đài Loan, Hàn Quốc, Indonesia, Malaysia, Myanmar, Nhật, Sri Lanka, Trung Quốc, Philippines, châu Úc.
* Ký chủ
Ngồi cam qt, các lồi rầy mềm cịn gây hại trên cây chanh, nhưng không
quan trọng, trên mãng cầu, mít. Riêng lồi Toxoptera aurantii cịn có thể sống trên

cây cacao, cây thuộc họ bầu ,bí, dưa ...
* Đặc điểm hình thái và sinh học
+ Toxoptera aurantii Boyer de Fonscolombe
Thành trùng có 2 dạng như các lồi rầy mềm khác:
- Dạng có cánh: chân và râu đầu màu vàng nâu hơi nhạt, cuối mỗi đốt màu
nâu. Râu đầu 6 đốt, ngắn hơn cơ thể. Cơ thể dài từ 1,44 - 1,80 mm. Vịi chích hút
kéo dài đến đốt chậu chân sau. Ống bụng dài màu nâu đến nâu đỏ gần như nâu
sẫm.
- Dạng không cánh: cơ thể dài từ 1,70 - 1,80 mm, màu nâu đỏ. Râu đầu 6
đốt.
+ Toxoptera citricidus Kyrkaldy
Thành trùng có 2 dạng:
- Dạng có cánh: cơ thể từ màu nâu đỏ đến đen, nhưng ngực đậm hơn. Râu
đầu ngắn hơn cơ thể, màu nâu đỏ, chân và đoạn cuối của râu màu trắng, các đoạn
nối các đốt râu cũng màu trắng. Chiều dài cơ thể từ 1,6 - 2,1 mm, rộng từ 0,8 - 1
mm. Vịi chích hút kéo dài khỏi đốt chậu chân sau, đốt cuối vòi nhọn và hẹp. Các
chân màu sậm, riêng đốt chày màu nhạt. Bụng màu nhạt, có nhiều đốm đậm nằm
128


rải rác. Ống bụng dạng trụ màu đậm.
- Dạng không cánh: cơ thể màu nâu đỏ, lớn hơn dạng có cánh, chiều dài từ
1,7 - 2,1 mm, rộng từ 1,1 - 1,35 mm. Trên cơ thể có nhiều lơng dài và nhiều đốm
màu rải rác.
Loài này thường đẻ con. Một rầy mềm cái có thể đẻ từ 1 - 16 con trong một
ngày và đẻ trên 100 con trong suốt thời gian sống là 12 - 33 ngày.
Ấu trùng lột xác 4 lần trong khoảng thời gian từ 4 - 16 ngày tùy điều kiện
môi trường và thức ăn. Dạng có cánh phát triển khi mật số nhiều và thức ăn khơng
cịn thích hợp và dạng khơng cánh hình thành khi thức ăn non mềm, điều kiện thời
tiết thích hợp. Rầy mềm hồn thành vịng đời khoảng 3 tuần, nếu điều kiện thích

hợp có thể có 12 thế hệ trong một năm.
* Tập quán sinh sống và cách gây hại
Cả ấu trùng và thành trùng đều gây hại cho cây bằng cách chích hút nhựa lá
và cành non làm giảm khả năng tăng trưởng của cây; lá non bị cong và biến dạng.
Đồng thời sự gây hại của rầy mềm cũng làm cho trái bị chín sớm và giảm phẩm
chất. Ngồi ra phân do rầy mềm thải ra có chứa đường sẽ thu hút nấm đen tới
đóng trên thân hay lá sẽ làm giảm khả năng quang hợp của cây.
Rầy mềm còn là tác nhân truyền bệnh "Tristeza". Lá bị bệnh “Tristeza" trông
rất giống triệu chứng cây bị thiếu dưỡng chất và rễ cây bị suy yếu, tiếp theo là
chết các cành non.
* Biện pháp phịng trị
Rầy mềm có rất nhiều thiên địch. Nếu thiên địch không khống chế được mật
số rầy có thể sử dụng các loại thuốc trừ sâu thông dụng để trị; tuy nhiên rầy rất dễ
phát triển mật số trở lại vì khả năng sinh sản rất cao và vì vậy nên rầy mềm có thể
truyền bệnh từ cây này sang cây khác một cách dễ dàng.
g. Các lồi rệp sáp
Có nhiều lồi rệp sáp gây hại cam qt ở đồng bằng sơng Cửu Long, chủ yếu
gồm các loài sau:
+ Rệp sáp mềm xanh lục Coccus viridis (Green)
(Coccidae, Homoptera)
* Phân bố và ký chủ
Rệp sáp mềm có diện phân bố khá rộng, đã phát hiện được tại nhiều vùng
trồng cam quít trên thế giới. Ở nước ta các vùng trồng cam qt đều có lồi này
hiện diện và đây là loài gây hại nguy hiểm cho cam quít.

129


Ngồi cam, chanh, qt, bưởi chúng cịn có thể phá hại trên ổi và một số loại
cây ăn trái khác.

* Đặc điểm hình thái và sinh học
Rệp cái trưởng thành của lồi này có cơ thể hình bầu dục khá đều đặn (gần
như đối xứng hai bên), màu xanh lục hơi ngả vàng, hơi dẹp so với các loài rệp sáp
khác, dài 3-4 mm. Về phía đầu có hai đốm mắt đen nhỏ. Chân khá phát triển, có
thể nhìn thấy từ mặt trên và có thể di chuyển được.
Con cái sinh sản mà không cần bắt cặp. Trứng nở bên trong mai sáp mỏng
và ấu trùng tuổi 1 có chân để bị đi tìm chỗ cố định, lột xác sang tuổi 2 và sau đó
thì trưởng thành. Vịng đời vào khoảng 4-6 tuần lể.
* Tập quán sinh sống và cách gây hại
Lồi này có khả năng di chuyển khơng những ở thời kì rệp non mới nở mà
cả ở giai đoạn chuẩn bị đẻ trứng, nhưng chỉ phát tán một khoảng cách ngắn đến
các cành lá gần nơi sinh sống. Chúng tấn công chủ yếu là ở các chồi non, lá non
hoặc trái non.
Rệp thường được các loài kiến bảo vệ để ăn mật, trong đó có cả kiến vàng.
Tài liệu cho biết kiến ăn mật có thể làm hạn chế tỉ lệ chết của ấu trùng tuổi 1 vì
nếu mật tích luỹ nhiều q có thể lây bệnh hoặc dính chân rệp non trong khi di
chuyển.
+ Rệp sáp đỏ Aonidiella aurantii (Maskell)
(Diaspedidae, Homoptera)
* Phân bố và ký chủ: loài rệp này phân bố khá rộng, đã phát hiện thấy ở
châu Mỹ, châu Phi, Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản. Ở Việt Nam các vùng trồng
cam đều thấy chúng xuất hiện. Ngồi cây trong họ cam, qt, lồi này cịn phá hại
trên đu đủ, ổi, trà...
* Ký chủ: loài này chủ yếu sống trên cam quít, nhưng tại các nước ơn đới
chúng cịn có thể sống trên các loại cây như táo, đào, nho và một số loài cây dại
khác.
* Đặc điểm hình thái và sinh học
Thành trùng cái khơng cánh, thân trịn màu đỏ, đường kính độ 1,8-2 mm, cơ
thể được phủ bằng mai sáp mỏng nhưng hoàn chỉnh và gắn chặt trên thân cây,
nhánh hoặc trên các cành cây nhỏ. Thành trùng đực có cánh và có thể bay đi tìm

thành trùng cái để bắt cặp.
Sau khi bắt cặp, con cái đẻ thẳng ra từ 100-150 con non theo tần suất 2-3
con/ngày, có chân để bị đi tìm nơi định cư. Thời gian sống của thành trùng từ 6 130


8 tuần tùy điều kiện sống.
Sau khi tìm được nơi thích hợp ấu trùng tuổi 1 bắt đầu chích hút và tiết ra
một mai sáp nhỏ, tròn, màu trắng. Sang tuổi 2 trở đi chúng có màu đỏ.
Sự phát triển của phái tính có thể xác định được qua hình dạng và kích thước
của mai sáp: sau tuổi 2 thì mai sáp của con đực có hình bầu dục trong khi của con
cái thì hình trịn. Con đực trải qua giai đoạn tiền-nhộng và nhộng trong mai sáp
rồi vũ hoá thành con đực có cánh. Con đực bị quyến rũ bởi con cái bằng
pheromone và chết sau khi bắt cặp.
* Tập quán sinh sống và cách gây hại
Cả thành trùng và ấu trùng đều chích hút nhựa cây hoặc cành làm cho cành
bị khô, cây nhỏ bị chết dễ dàng. Rệp cịn tiết phân có chứa chất đường bám quanh
thân hay cành làm cản trở quang hợp, cây phát triển kém.
+ Rệp sáp tím Lepidosaphes beckii (Newman)
(Diaspididae, Homoptera)
* Ký chủ: đa ký chủ: xồi, ổi, nhãn, bơ..
* Đặc tính sinh học
Vỏ sáp có hình dấu phẩy, dài 3-4mm và màu tím, cơ thể rệp dưới vỏ sáp dài,
màu trắng đục. Mai sáp của con đực ngắn, hẹp và màu lợt hơn. Mai sáp của loài
này giống với Unasbis citri (Comstock), được gọi là rệp sáp trắng tuyết (snow
scale), nhưng lớn hơn và màu của con kia nâu đậm.
Cũng như các lồi rệp sáp khác, con đực có cánh và tìm đến bắt cặp với con
cái nhờ pheromone. Sau khi bắt cặp, một rệp cái đẻ từ 50 - 100 trứng ở dưới mai
sáp.
Trứng màu trắng đục, thời gian ủ trứng thay đổi tùy thời tiết, trời nắng nóng
có thể khoảng 2 tuần, trời lạnh ở vùgn ơn đới có thể đến 1 hoặc 2 tháng.

Ấu trùng khi nở ra thường di chuyển tìm nơi thích hợp để định cư tạo vỏ sáp
mới. Vòng đời vào khoảng 6-8 tuần.
* Khả năng gây hại
Rệp tấn công mọi bộ phận của cây. Chúng thường ở rải rác cách xa nhau, chỉ
tập trung ở nơi hai trái dính chùm lại.
+ Rầy bơng (rệp sáp giả) Planococcus citri (Risso)
Họ Pseudococcidae - Bộ cánh đều (Homoptera)
Thành trùng hình thon, dài khoảng 3 mm, màu vàng nhạt đến vàng cam với

131


18 đôi tua sáp 2 bên hông và 1 đôi phía sau đi. Chất sáp chỉ bao phủ phần lưng
của cơ thể. Một rệp cái đẻ từ 300 - 500 trứng.
Trứng màu vàng, nằm trong 1 túi do rệp cái tiết ra. Trứng được đẻ trên trái,
lá hay chỗ nứt của vỏ. Thời gian ủ trứng từ 3 - 6 ngày.
Rệp gây hại bằng cách chích hút phần non cũa cây. Phân của rệp thu hút nấm
đen tơi bám quanh nơi rệp định cứ làm ảnh hưởng đến quang hợp.
+ Rệp dính Unaspis citri (Comstock)
Bộ Homoptera - Họ Diaspididae
* Phân bố
Rệp dính có nguồn gốc từ châu Á nhưng hiện nay chúng xuất hiện và gây
hại tại nhiều vùng trồng cây có múi trên thế giới thuộc châu Á, châu Úc, châu Phi,
Trung và Nam Mỹ. Tại Việt Nam rệp dính xuất hiện từ năm 1962, tuy nhiên chúng
chỉ thành dịch hại phổ biến và quan trọng trong vài năm gần đây.
* Ký chủ
Ký chủ chính của rệp dính là các loại cây có múi như cam, quýt, bưởi,
chanh,… Tuy nhiên, rệp dính cịn gây hại trên nhiều loại cây trồng khác như mít,
khóm, mãng cầu xiêm. Tại đồng bằng sơng Cửu Long rệp dính cũng xuất hiện
trên dừa, ổi, xồi, thiên tuế.

* Triệu chứng gây hại
Trên cây có múi, rệp dính thường xuất hiện thành từng đám màu trắng, chúng
thường tấn cơng trên thân chính và các nhánh của cây. Mật số rệp dính cao và xảy
ra trong thời gian dài làm vỏ thân cây bị khô nứt, vết nứt mở đường cho các dịch
hại khác xâm nhập và gây hại cây.
Sự tấn cơng của rệp dính làm giảm khả năng sinh trưởng, phát triển của cây.
Trường hợp rệp gây hại nặng trên các nhánh nhỏ hoặc cây còn nhỏ có thể làm lá
vàng và rụng đi khiến nhánh hoặc cả cây bị chết. Rệp dính cũng tấn cơng và gây
hại trên lá và trái khi mật số cao, làm giảm năng suất và chất lượng trái. Phân của
chúng thải ra chứa nhiều dưỡng chất, nhất là đường, tạo điều kiện cho nấm bồ
hóng phát triển trên thân, lá. Rệp dính cịn truyền bệnh virus trên cây cam qt.
* Đặc điểm hình thái và sinh học
Trưởng thành đực và cái của rệp dính có hình dạng và màu sắc khác nhau.
Con cái có hình dạng như vỏ con trai, dài 1,5 – 2,25 mm; thân bên ngồi có màu
nâu tím đến đen với viền màu xám rất giống với màu của thân cây; bên dưới lớp
“áo giáp” cơ thể rệp dinh cái có màu kem đến màu cam sáng. Con đực trưởng
thành có cánh, thân màu vàng sáng; có 10 râu dài, nhỏ; 04 đốm mắt màu tím đen
132


và khơng có miệng. Rệp dính trưởng thành khơng ăn và hoạt động chính của
chúng là tìm đối tượng để bắt cặp.
Trứng của rệp dính có hình trái xoan, màu vàng sáng và dài khoảng 0,3 mm.
Trứng được đẻ rời từng trái và được che chở, bảo vệ bởi thân của con mẹ. Trứng
nở sau khi đẻ khoảng 30 phút đến 3 giờ. Con cái chỉ tiếp tục đẻ trở lại khi lứa
trứng trước đó đã nở. Một con cái có thể đẻ đến 150 trứng trong thời kỳ đẻ trứng
kéo dài từ 2 – 3 tháng.
Ấu trùng từ tuổi 2, rệp dính bắt đầu phân biệt về giới tính và lớp “áo giáp”
bằng sáp xuất hiện. “Áo giáp” của ấu trùng đực có màu trắng như tuyết nên rệp
dính cịn có tên là rệp trắng tuyết hại cam qt (citrus snow scale); trong khi lớp

“áo giáp” của ấu trùng cái có màu xám. Ấu trùng đực dài khoảng 1 mm. Ấu trùng
đực chích hút nhựa cây và khơng di chuyển, chúng chỉ di chuyển sau khi chấm
dứt giai đoạn nhộng và trở thành con trưởng thành có cánh
Vịng đời của rệp dính cái có 3 giai đoạn gồm trứng, ấu trùng và thành trùng.
Trong khi, vòng đời con đực ngồi 3 giai đoạn kể trên cịn có thêm giai đoạn tiền
nhộng và giai đoạn nhộng.
g. Ngài chích hút
Họ Ngài đêm (Noctuidae) - Bộ Cánh vảy (Lepidoptera)
Ở đồng bằng sông Cửu Long thường gặp các loài sau đây:
- Ophideres fullonia Clerck, cịn có tên là Othreis fullonia Clerck
- Eudocima dividens Cramer, cịn có tên là Eudocima salaminia Cramer
- Artena dotata Fabricius, cịn có tên là Lagoptera dotata Fabricius
- Anua coronata Fabricius, cịn có tên là Ophiusa coronata Fabricius
* Phân bố: các loài ngài này ghi nhận gây hại quan trọng ở hầu hết các quốc
gia trồng cam quít trên thế giới.
* Ký chủ: ấu trùng chỉ ăn phá cây dại, chỉ có thành trùng tấn cơng trên trái
các loại cây như cam, táo, đào, nho, dứa, chuối.
* Đặc điểm hình thái và sinh học
+ Lồi Ophideres fullonia Clerck, cịn có tên là Othreis fullonia Clerck
Ngài có chiều dài thân từ 30 - 35 mm, sải cánh rộng từ 80 - 100 mm. Cánh
trước màu nâu với những đốm, vệt nhiều màu, giữa cạnh sau của cánh có 1 mảng
màu vàng, từ cạnh ngồi cánh có 1 đốm hình chữ C to màu đen. Vịi chích hút
màu đen, chóp nhọn, hóa cứng, có nhiều ngạnh gai và lơng cứng dọc đến khoảng
1/3 chiều dài của vòi. Đầu và ngực màu nâu. Râu môi dưới màu nâu, đỉnh đốt râu

133


thứ ba màu xanh lam. Chân màu nâu, đốt chày chân giữa khơng có gai và phủ
nhiều lơng rất dài. Một bướm cái đẻ từ 200 - 300 trứng.

Trứng có dạng hình cầu, đường kính khoảng 1 mm, trong suốt. Thời gian ủ
trứng tùy điều kiện ngoại cảnh, có thể từ 2 - 3 ngày hoặc 8 - 10 ngày và đôi khi
đến 14 hay 15 ngày.
Sâu màu nâu hơi ửng đỏ, chân màu đỏ; từ đốt thứ 3 đến đốt thứ 8 trên mặt
lưng màu nâu. Đốt thứ 8 nổi lên cao, hai bên sườn có đốm màu vàng. Sâu có 5
tuổi phát triển từ 4 - 5 tuần.
Sâu thường làm nhộng trong đất hoặc trên cây bằng cách kéo các lá lại và
sống bên trong. Nhộng phát triển từ 10 - 15 ngày.
+ Lồi Eudocima lividens Fabricius cịn có tên là Eudocima salaminia
Cramer
Ngài có chiều dài thân từ 30 - 35 mm, sải cánh rộng từ 75 - 85 mm. Cánh
trước màu nâu nhạt, có một đường cong từ đỉnh xiên vào bên trong cánh đến gốc
cạnh sau tạo thành một mảng hình tam giác màu nâu tím, cạnh ngồi cánh màu
nâu nhạt, phần phía trong màu trắng. Cánh sau màu vàng mơ, từ cạnh ngoài trở
vào chiếm 1/3 cánh là một mảng màu đen, gần giữa cánh có đốm đen hình cung.
Vịi hút có cấu tạo tương tự như loài Ophideres fullonia. Đầu và ngực màu nâu,
bụng màu vàng mơ.
Trứng trịn, đường kính 1 mm, màu xanh nhạt khi mới đẻ và chuyển dần sang
màu vàng sậm khi sắp nở, thời gian ủ trứng khoảng 3 ngày.
Sâu non màu nâu tối, trên thân có nhiều điểm trắng. Hai bên hông của đốt
bụng thứ nhất đến thứ ba có nhiều điểm màu vàng, 2 bên hơng đốt bụng thứ 2 và
3 có đốm hình mắt, chính giữa trắng, chung quanh màu đỏ đen. Đốt bụng thứ 8
nổi cao lên, mặt lưng màu hồng. Sâu non có 6 tuổi.
- Tuổi 1: mình sâu màu xanh nhạt, dần dần chuyển sang màu xanh đậm ở
cuối tuổi, kích thước từ 4 - 8 mm.
- Tuổi 2: cơ thể sâu chuyển hoàn tồn thành màu nâu đậm, có 2 chấm trịn
trắng trên lưng và 4 chấm nhỏ màu đen ở hai bên hông, dài từ 9 - 15 mm.
- Tuổi 3: màu cơ thể sâu vẫn như ở tuổi 2 nhưng 2 chấm trịn màu trắng trên
lưng kéo dài hơn thành hình vành khuyên và 4 chấm nhỏ đen bên hông lớn dần
cùng với tuổi sâu. Kích thước cơ thể từ 12 - 24 mm.

- Từ tuổi 4 đến tuổi 6: sâu có màu nâu tối, có các chấm nhỏ nằm rải rác trên
thân, các chấm này dần dần rõ hơn; đến cuối tuổi 6, các chấm này có màu trắng
hơi xanh, đồng thời 2 chấm trắng trên lưng lớn dần và có màu nâu đỏ vào giai

134


đoạn cuối tuổi 6.
Thời gian phát triển của sâu từ tuổi 1 đến tuổi 5 từ 3 - 4 ngày, riêng tuổi 6
sâu phát triển lâu hơn, khoảng 6 ngày.
Nhộng màu đen, có hình dáng và màu sắc tương tư như loài trên. Nhộng phát
triển từ 16 - 18 ngày.
+ Lồi Artena dotata Fabricius
Ngài có chiều dài thân từ 30 - 37 mm, sải cánh rộng khoảng 70 mm. Vịi
chích hút có phần cuối khơng nhọn, ít cứng, dọc xi theo chiều dài vịi có nhiều
lơng cứng. Tồn thân ngài có màu nâu sẫm.
Cánh trước màu nâu, giữa có 1 đốm màu nâu hồng hình quả thận. Cánh sau
màu nâu đậm, giữa cánh có một đốm cong hình cung màu trắng hoặc xanh lơ.
Bụng ngài màu nâu. Một ngài cái đẻ từ 40 - 45 trứng.
Trứng, sâu non, nhộng có hình dáng và thời gian phát triển khơng khác biệt
nhau nhiều so với các loài khác.
+ Loài Anua coronata Fabricius
Bướm có chiều dài thân khoảng 30 - 32 mm, sải cánh rộng từ 70 - 80 mm.
Cánh trước màu nâu, vân hình quả thận màu đen to, cánh sau màu vàng cam, có
2 mảng đen to cong theo chiều mép cánh. Vịi phát triển, đầu vịi nhọn, xung quanh
có nhiều lông cứng. Đầu và ngực màu nâu. Bụng màu vàng.
* Tập qn sinh sống
Sâu các lồi ngài này khơng gây hại cho cây thuộc họ cam, quít mà chỉ ăn
các loại dây leo khơng quan trọng, chỉ có ngài là gây hại.
Ngài là loài ngài đêm, khoảng 18 - 19 giờ ngài bay từ bụi rậm vào vườn cam

quít và hoạt động mạnh nhất từ 20 - 22 giờ đêm, khi trời sáng bay đi tìm nơi ẩn
náu. Ngài rất dễ nhận diện vào ban đêm do mắt bướm chiếu sáng và ánh lấp lánh
của cánh. Ngài bị quyến rũ nhiều bởi mùi của trái cây chín. Vì vậy, ngài có thể
bay một khoảng xa để đến nơi có trái cây chín.
* Cách gây hại
Các lồi này gây hại nhiều trên quít tiều, quít đường, cam... bắt đầu xuất hiện
khoảng tháng 10 - 11 dương lịch và kéo dài đến khi thu hoạch. Hiện diện phổ biến
và gây hại nặng trên quít tiều. Ngài gây hại cho trái cây bằng 2 cách:
- Trực tiếp: khi đậu trên trái ngài bắt đầu dị tìm vị trí thích hợp để chọc vịi
chích hút vào bên trong trái, chích hút dịch trái. Nếu khơng tìm được vị trí thích
hợp chúng rút vịi ra và tìm nơi khác thích hợp hơn. Trái mới bị chích rất khó phát

135


hiện, nếu thấy lỗ chích hút dùng tay bóp nhẹ sẽ có nước chảy ra.
- Gián tiếp: vỏ trái chung quanh vết chích sau một vài ngày trở nên mềm và
nấm bệnh cũng như vi trùng sẽ xâm nhập tiếp theo. Vết chích hút sẽ có màu nâu
và vùng chung quanh sẽ có màu nhạt hơn bình thường. Sau cùng trái sẽ vàng và
rụng ngay hoặc trong vòng một tuần. Trái rụng sẽ có mùi hơi thúi, ngài khơng
thích ăn trên đó nhưng rất thu hút ngài từ xa đến.
* Các yếu tố ảnh hưởng đến mật số
- Ngài thích những trái cây to, mỏng vỏ, mọng nước và ngọt.
- Riêng đối với qt thì ngài thích nhất giống qt Tiều.
- Trong cùng một vườn cây thì ngài thích những hàng cây phía ngồi hơn là
những hàng phía trong.
h) Bọ trĩ Scirtothrips citri Moulton
Họ Thripidae - Bộ Thysanoptera
* Đặc điểm hình thái và sinh học
Thành trùng màu vàng cam, nhỏ, khảng 0,1 mm. Một thành trùng cái đẻ

khoảng 25 trứng trong lá và trái non.
Ấu trùng không cánh, màu hổ phách nhạt, bụng nở to 2 bên, trên thân có
nhiểu lông nhỏ rất mịn. Ấu trùng tuổi 1 rất nhỏ, tuổi 2 có kích thước cơ thể tương
tự thành trùng, bắt đầu có râu đầu. Cuối tuổi 2 một số bng mình xuống đất làm
nhộng, một số khác làm nhộng trong các lá cuốn lại; sang tuổi 3 và 4 (giai đoạn
tiền nhộng và nhộng bắt đầu có mầm cánh), giai đoạn này hồn tồn khơng ăn.
* Tập qn sinh hoạt và cách gây hại
Thành trùng và ấu trùng bù lạch ẩn trong lá đài chích hút nhựa từ mơ biểu bì
phần vỏ trái gần cuống trái, khi trái phát triển có những mảng màu nâu nhạt có
dạng vịng trịn chung quanh cuống trái. Điểm đặc trưng của vết sẹo do bù lạch
gây ra trên trái là những vòng sẹo chung quanh cuống trái, về sau vết sẹo có màu
xám hay bạc. Trái dễ bị sẹo nhất trong thời gian từ sau khi cánh hoa rụng đến khi
trái có đường kính khoảng 4 cm. Vết sẹo làm giảm giá trị thương phẩm của trái.
Bù lạch chỉ tập trung xuất hiện cao nhất khi cam quít trổ hoa rộ. Tuổi 2 gây hại
nhiều nhất vì chủ yếu chúng tập trung dưới lá đài của trái non và cơ thể to hơn
tuổi 1. Bù lạch gây hại chủ yếu các trái ở ngồi trảng.
Trên lá non, Bù lạch chích hút gây ra hiện tượng phiến lá gần gân chính có
sọc dày ở cả 2 mặt lá; thường lá bị cong queo khi phát triển.
1.2. Thành phần côn trùng hại quan trọng trên cây xoài

136


a. Bọ cắt lá Deporaus marginatus Pascoe
Họ Vòi voi (Curculionidae) - Bộ Cánh cứng (Coleoptera)
* Đặc điểm hình thái và sinh học
Thành trùng là loài cánh cứng, chiều dài thân từ 5 - 8 mm, mỏ dài gần bằng
nửa thân mình. Đầu, ngực và bụng màu đỏ, râu đầu, cánh và chân màu nâu. Một
thành trùng cái đẻ từ 70 - 200 trứng.
Trứng được đẻ vào phần thịt của mặt trên của gân chính, tính từ chóp lá trứng

nằm ở khoảng 0,5 cm. Trứng có chiều dài khoảng 0,5 mm, thời gian ủ trứng từ 2
đến 3 ngày.
Ấu trùng có 3 tuổi, phát triển từ 6 - 10 ngày.
Nhộng được hình thành trong đất và phát triển từ 10 - 15 ngày.
* Tập quán sinh sống và cách gây hại
Đẻ trứng xong thành trùng cắt đứt lá, vết cắt có chiều dài từ 5 - 10 cm tính
từ chân cuống và rất sắc, trông giống như lá được cắt bằng dao hay kéo. Phần lá
bị cắt rời ra sẽ rơi xuống đất. Ấu trùng nở ra sẽ sống ngay trên phần lá rơi xuống
đất, khi lớn đủ sức chui xuống đất làm nhộng.
Thành trùng vũ hóa khi xồi vừa có lá non và gây hại cây xoài bằng 2 cách:
- Ăn phá lá non làm cây bị mất sức.
- Cây bị mất lá, đỉnh sinh trưởng bị kích thích, cây đâm nhiều chồi non, ảnh
hưởng đến sự ra trái.
b. Rầy bơng xồi Idiocerus niveosparsus Lethierry
Họ Rầy xanh (Cicadellidae) - Bộ Cánh đều (Homoptera)
Trên cây xồi thường có nhiều lồi rầy gây hại bơng. Ở Việt Nam chủ yếu
gặp lồi Idiocerus niveosparsus Lethierry.
* Phân bố và ký chủ
Rầy xuất hiện nhiều ở Ấn Độ, Malaysia, Philippines. Loài này chỉ gây hại
duy nhất trên cây xồi.
* Đặc điểm hình thái và sinh học
Thành trùng của lồi Idiocerus niveosparsus Lethierry có thân dài khoảng 4
mm, cánh màu nâu, trên cánh phần giáp với ngực có một băng trắng chạy ngang.
Trứng màu trắng trong khi mới đẻ, sắp nở chuyển sang màu vàng. Thời gian
ủ trứng từ 4 - 7 ngày.
Ấu trùng khi mới nở có màu trắng sữa, có 5 tuổi với thời gian phát triển từ 8
137


đến 10 ngày.

* Tập quán sinh sống và cách gây hại
Thành trùng mới vũ hóa rất linh động và liền sau đó di chuyển tới chồi, lá
non, bắt đầu đẻ trứng, ngay cả trên chồi non còn cuốn lại, hoặc trên gân chính của
lá, chúng cịn đẻ trứng trên từng hoa nhỏ hay trên cành nhỏ. Cả thành trùng và ấu
trùng đều sống trong lá xoài và nhảy xào xạc khi bị động đến. Khi xồi trổ bơng
thì rầy tập trung chích hút trên bơng, chồi non. Rầy cái dùng bộ phận đẻ trừng
nhọn ở cuối bụng đẻ trứng rải rác vào bên trong cuống của chồi non. Rầy đẻ trứng
và chích hút nhiều gây ra hai hiện tượng như sau:
- Số lượng trứng đẻ nhiều trên các bộ phận trên cành non, bông gây vết
thương làm cho các phần trên bị khơ, héo và có thể rụng.
- Sự tập trung chích hút của thành trùng và ấu trùng làm cây bị suy yếu. Rầy
còn tiết ra chất đường thu hút nấm đen tới đóng quanh nơi rầy bám hoặc các tầng
lá phía dưới làm cản trở quang hợp của cây.
Nếu mật độ rầy cao thì xồi sẽ khơng đậu bơng và rụng trái.
c) Xén tóc đục thân Batocera rufomaculata De Geer
Tên khoa học: Plocaederus ruficornis (Newman)
Họ Xén tóc (Cerambycidae) - Bộ Cánh cứng (Coleoptera)
* Phân bố và ký chủ
Loài này ghi nhận là gây hại trên cây xoài tại các quốc gia vùng nhiệt đới
như Ấn Độ, Sri Lanka, Thái Lan, Philíppin, đảo Bornéo thuộc Indonesia.
* Đặc điểm hình thái và sinh học
Xén tóc có thân màu nâu đen, dài từ 2,5 - 4 cm. Râu rất dài, màu đỏ, bằng
hoặc hơn thân mình (con đực); sáu chân cũng màu đỏ với đốm nâu đậm ở cuối
đùi và cẳng chân. Trên cánh cứng có những đốm gồ màu đen hoặc nâu. Ngực
trước có u nhỏ trơng gồ ghề, mỗi bên có một gai đưa ra giống như hai cái sừng.
Thành trùng có thể sống nhiều tháng, ăn mật và phấn hoa hoặc các phần non của
đọt cây.
Trứng tròn, màu trắng được đẻ rải rác trong các vết nứt của vỏ cây. Trứng nở
trong thời gian từ 2 - 3 ngày.
Ấu trùng có thân màu vàng nhạt, đầu rất nhỏ và hay rút xuống phía dưới,

chân thối hố cịn rất nhỏ, có đời sống rất lâu, có thể đến 7- 8 tháng ngay bên
trong thân cây, do đó khả năng phá hại rất cao. Mới nở ấu trùng rất mềm yếu
nhưng khoảng 1 tuần là trở nên cứng bình thường và rất linh động.

138


Trước khi làm nhộng ấu trùng đục một lỗ để sau thành trùng chui ra. Thời
gian nhộng có thể từ 1 đến 2 hay 3 tháng.
* Tập quán sinh sống và cách gây hại
Thành trùng thường bị thu hút bởi ánh sáng đèn vào đầu mùa mưa sau khi
vừa trưởng thành. Thành trùng cái đẻ trứng trong các cháng ba của cây, trong các
vết nứt hay vết thương ở trên thân cây. Ấu trùng sau khi nở ăn vỏ cây thành những
đường ngoằn ngoèo không đều nhau. Càng lớn ấu trùng ăn càng nhiều và gây ra
tiếng động rất dễ nghe thấy. Sau đó chúng đục vào thân do các vết bệnh trên thân
và đục dần lên. Đôi khi không có điểm thích hợp để đục vào, ấu trùng di chuyển
dần xuống phía dưới gốc và đục chui vào bên trong làm thành những đường hầm
ngoằn ngoèo bên trong thân, các đường này chứa phân do chúng thải ra. Nấm mốc
sẽ theo các vết đục này xâm nhập tiếp theo sau. Đường đục có thể dọc theo bên
ngồi thân cây hay đi thẳng vào trung tâm, và đường đục càng lớn dần với tuổi
của ấu trùng. Cây bị tấn công vào giai đoạn nhỏ sẽ ảnh hưởng đến sự tăng trưởng
rất nhiều, mạch dẫn nhựa tắt nghẽn làm cho cành bị khô héo và rụng lá, các lổ do
ấu trùng đục vào bị chảy nhựa và cành dễ gãy.
d. Sâu đục cành Chlumetia transversa Walker
Tên khoa học: Chlumetia transversa Walker
Họ Gelechidae - Bộ Cánh vảy (Lepidoptrea)
* Đặc điểm hình thái và sinh học
Thành trùng là một loài ngài màu nâu nhỏ, thân có chiều dài từ 8 - 10 mm.
Cánh sải rộng từ 17 - 20 mm. Cánh trước màu bạc óng ánh, phần giáp với thân
màu hơi sậm, cạnh ngồi có những sọc ngang gãy khúc rất nhỏ và 1 hàng chấm

đen ở sát bìa cánh. Cánh sau màu nhạt hơn.
Trứng được đẻ thành rải rác trên lá và chồi non và nở trong vòng từ 2 - 3
ngày. Ấu trùng màu hồng, dài từ 2 - 3 mm khi lớn đủ sức, phát triển trong thời
gian từ 8 - 15 ngày. Nhộng màu nâu, phát triển trong thời gian từ 8 - 12 ngày.
* Tập quán sinh sống và cách gây hại
Ngài bị thu hút nhiều bởi ánh sáng đèn, nhất là trong những đêm trời tối và
không có gió với ẩm độ khoảng 90%. Ngài đẻ trứng vào ban đêm, rải rác trên các
chồi và lá non.
Khi vừa nở, sâu đục vào gân chính của lá non mềm nhất; khoảng 2 ngày sau,
cơ thể to hơn, sâu chui dần vào chồi ngọn gần đỉnh sinh trưởng. Sâu thường sâu
chỉ ăn trong 1 lóng, nhưng nếu lóng có chiều dài ngắn hơn 5 cm, sâu có thể đục
xuyên qua mắt để sang lóng kế. Thường sâu chỉ ăn từ trên xuống. Lá các chồi bị

139


×