Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

Giáo trình Thổ nhưỡng (Nghề: Khoa học cây trồng - Cao đẳng): Phần 1 - Trường Cao đẳng Cộng đồng Đồng Tháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 71 trang )

UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP
TRƯỜNG CAO ĐẲNG CỘNG ĐỒNG ĐỒNG THÁP

GIÁO TRÌNH
MƠN HỌC: THỔ NHƯỠNG
NGÀNH, NGHỀ: KHOA HỌC CÂY TRỒNG
TRÌNH ĐỘ: CAO ĐẲNG
(Ban hành kèm theo Quyết định Số:…./QĐ-CĐCĐ-ĐT ngày… tháng… năm
2017 của Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Cộng đồng Đồng Tháp)

Đồng Tháp, năm 2017


TUYÊN BỐ BẢN QUYỀN
Tài liệu này thuộc loại sách giáo trình nên các nguồn thơng tin có thể được
phép dùng nguyên bản hoặc trích dùng cho các mục đích về đào tạo và tham khảo.
Mọi mục đích khác mang tính lệch lạc hoặc sử dụng với mục đích kinh doanh
thiếu lành mạnh sẽ bị nghiêm cấm.

i


LỜI GIỚI THIỆU
Giáo trình Thổ nhưỡng được biên soạn trên cơ sở kế hoạch đào tạo ngành
Bảo vệ thực vật và ngành Khoa học cây trồng của Trường Cao đẳng Cộng đồng
Đồng Tháp. Giáo trình này cung cấp cho sinh viên những kiến thức cơ bản nhất
về đất trồng. Đây là môn khoa học cơ sở nhằm bồi dưỡng cho sinh viên kiến thức về
nguồn gốc hình thành đất, quy luật phân bố các loại trên địa cầu, những đặc tính về
hình thái, lý học, hóa học và sinh học của đất, cùng với phương hướng sử dụng, cải tạo
và bảo vệ đất, để nâng cao độ phì đất, nhằm đạt năng suất cây trồng cao và ổn định.


Trong khi biên soạn, tác giả đã cố gắng cập nhật những kiến thức mới có
liên quan đến nội dung chương trình đào tạo và phù hợp với mục tiêu đào tạo.
Nội dung lý thuyết và thực hành được biên soạn gắn liền nguyên lý cơ sở với nhu
cầu thực tế trong sản xuất đồng thời có tính thực tiễn cao.
Nội dung giáo trình được biên soạn với thời gian đào tạo hai tín chỉ gồm:
bốn chương
Chương 1: Nguồn gốc hình thành đát và hình thái đát
Chương 2: Vật lý đất
Chương 3: Hóa học đất
Chương 4: Phân loại đất ở Việt Nam
Chân thành cảm ơn! Tất cả thành viên trong hội đồng thẩm định phản biện,
đã đóng góp và điều chỉnh nội dung giáo trình được hồn chỉnh.
Mặc dù đã cố gắng biên soạn để đáp ứng được mục tiêu đào tạo nhưng
không tránh được những khiếm khuyết. Rất mong nhận được đóng góp ý kiến của
các thầy, cơ giáo, bạn đọc để giáo trình hồn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn.

Đồng Tháp, ngày…..tháng ... năm 2017
Chủ biên
Phan Thị Thanh Tuyền

ii


MỤC LỤC

Trang
PHẦN 1: LÝ THUYẾT
Chương 1


NGUỒN GỐC HÌNH THÀNH ĐẤT VÀ HÌNH THÁI CỦA ĐẤT

1

1.1.

Định nghĩa về đất

1

1.2.

Sự hình thành và phát triển của đất

2

1.2.1.

Q trình phong hóa đá

2

1.2.1.1.

Khái niệm

2

1.2.1.2


Các dạng phong hố đá và khống vật

2

1.2.2.

Q trình hình thành đất

6

1.2.2.1.

Sự ra đời của các vật liệu đầu tiên trong đất

6

1.2.2.2.

Các yếu tố hình thành đất

7

1.3.

Hình thái của đất

17

1.3.1.


Khái niệm

17

1.3.2.

Quá trình thành lập các tầng của đất

17

1.3.3.

Tên gọi các tầng trong đất

18

1.3.4.

Độ chặt của đất và giai đoạn thuần thục

20

1.3.4.1.

Độ chặt của đất

20

1.3.4.2.


Độ thuần thục của đất

22

1.5.

Vai trò của đất

23

CÂU HỎI ÔN TẬP

24

Chương 2

VẬT LÝ ĐẤT

25

2.1.

Màu sắc đất

25

2.1.1.

Màu nền đất


25

2.1.2.

Màu đốm rỉ

19

2.2.

Thành phần cơ giới (sa cấu đất)

30

2.3.

Cấu trúc đất

35

2.3.1.

Mô tả cấu trúc

37

2.3.2.

Tầm quan trọng của cấu trúc


38

2.3.3.

Nguồn gốc cấu trúc

39

2.3.4.

Sự suy thoái cấu trúc

41

iii


2.3.5.

Cải thiện cấu trúc

43

2.4.

Dung trọng đất

44

2.5.


Tỷ trọng đất

44

2.6.

Độ rỗng, độ xốp đất

46

2.7.

Nước và ẩm độ đất

50

2.7.1

Vai trò của nước

50

2.7.2.

Ẩm độ đất

54

CÂU HỎI ƠN TẬP


56

Chương 3

HĨA HỌC ĐẤT

57

3.1.

Khống sét và khống oxyt

57

3.1.1.

Khoáng Silicate

58

3.1.2.

Khoáng Oxide và hydroxide

63

3.2.

Sự trao đổi cation


63

3.2.1

Phản ứng trao đổi cation

64

3.2.2.

Các chỉ tiêu hóa học có liên quan đến khả năng trao đổi cation của đất

65

3.3.

Sự trao đổi anion

66

3.4.

Phản ứng của đất – pH đất

67

3.5.

Độ bão hòa bazơ


69

CÂU HỎI ÔN TẬP

69

Chương 4

PHÂN LOẠI ĐẤT

70

4.1.

Các loại đất chính ở vùng đồi núi Việt Nam

70

4.2.

Các loại đất chính ở vùng đồng bằng Việt Nam

73

CÂU HỎI ÔN TẬP

77

iv



v


GIÁO TRÌNH MƠN HỌC
Tên mơn học: THỔ NHƯỠNG
Mã mơn học: CNN245
Vị trí, tính chất, ý nghĩa và vai trị của mơn học:
- Vị trí: Là mơn học bắt buộc được bố trí trong khung các mơn học cơ sở.
- Tính chất: Đây là một trong những môn học kỹ năng quan trọng giúp cho sinh
viên có kiến thức cơ bản về đất.
- Ý nghĩa và vai trị của mơn học: Môn học cung cấp cho sinh viên những kiến
thức cơ bản về tính chất, đặc điểm ảnh hưởng đến khả năng cung cấp dinh dưỡng
của đất từ đó mà có thể quy hoạch cây trồng cho phù hợp
Mục tiêu của môn học:
- Về kiến thức:
+ Hiểu được mối quan hệ giữa đất, dinh dưỡng và sự sinh trưởng, phát triển của
cây trồng.
+ Đánh giá được khả năng cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng.
+ Hiểu được những tính chất quan trọng của đất mà nó sẽ ảnh hưởng đến độ phì
nhiêu của đất.
- Về kỹ năng:
+ Phân tích được những yếu tố ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của
cây trồng.
+ Thành thạo việc nhận diện đất với một số tính chats hóa học, vật lý đặc trưng
- Về năng lực tự chủ và trách nhiệm:
Học tập tích cực, chủ động trong q trình học và có ý thức vận dụng kiến thức
vào thực tiễn.
Nội dung của môn học:

Thời gian (giờ)
Tên các chương trong
Số TT
môn học

Tổng số

Kiểm tra
Thực hành, thí
(định
Lý thuyết nghiệm, thảo luận,
kỳ)/Ơn
thi,
bài tập
Thi kết

vi


thúc mơn
học

1

Chương 1: Nguồn gốc
hình thành đất và
hình thái của đất
1. Định nghĩa về đất
2. Sự hình thành và phát
triển của đất

3. Hình thái của đất
4. Vai trị của đất
5. Thực hành

7

3

4

2

Chương 2: Vật lý đất
1. Màu sắc đất
2. Thành phần cơ giới
(sa cấu đất)
3. Cấu trúc đất
4. Dung trọng đất
5. Tỷ trọng đất
6. Độ rỗng, độ xốp đất
7. Nước và ẩm độ đất
Thực hành

14

6

8

Kiểm tra


1

1LT

Chương 3: Hóa học
đất
1. Khống sét và
khoáng oxyt
2. Sự trao đổi cation
3. Sự trao đổi anion
4. Phản ứng của đất – pH
đất
5. Độ bão hòa bazơ
Thực hành

14

6

7

Chương 4: Phân loại
đất ở Việt Nam
I.
1. Các loại đất
chính ở vùng đồi núi
Việt Nam

6


4

0

3

4

vii

1TH


II.

2. Các loại đất
chính ở đồng
bằng Việt
Nam

Ơn thi
Thi kết thúc môn học
Cộng

40

19

viii


19

2


Chương 1
NGUỒN GỐC HÌNH THÀNH ĐẤT VÀ HÌNH THÁI CỦA ĐẤT
NN410-1
Mục đích của chương: Giới thiệu mơn học, các khái niệm về đất, nhận biết các vai
trò của đất
Thổ nhưỡng (Pedology) có nguồn gốc từ Tiếng Hy Lạp pedon là "đất" và logos
"kiến thức". Thổ nhưỡng học là môn khoa học cứu về đất trong mơi trường tự nhiên
của nó. Ngày nay, thổ nhưỡng học được xem là một nhánh của khoa học đất và nhánh
khác đó là edaphology (mơn khoa học nghiên cứu đất đai như môi trường sinh sống cho
thực vật và các sinh vật khác); đôi khi nó được sử dụng như là từ đồng nghĩa với khoa
học đất. Thổ nhưỡng học là môn khoa học tự nhiên nghiên cứu nguồn gốc của đất, cấu
tạo, thành phần, tính chất, quy luật phân bố, biện pháp sử dụng hợp lý và nâng cao độ
phì của đất.
Thổ nhưỡng học giải quyết những vấn đề quan trọng nhất của nền sản xuất xã
hội có liên quan đến đất. Gồm có: phân loại đất (chia nhóm có hệ thống theo kiểu, kiểu
phụ, loại, dạng...); vật lý đất (tính chất vật lý của đất, các quá trình lý học xảy ra trong
đất: cơ học, nhiệt, thủy văn, điện tử...); hóa học đất (thành phần, kiến trúc các hợp chất,
tính chất hóa học, hóa lý, hóa keo của phần khống và hữu cơ của đất, những biến
động và tác động tương hỗ của chúng trong q trình hình thành đất, các phương pháp
hóa học nghiên cứu đất..); khoáng vật học đất (thành phần khống vật của đất gồm có
sự hình thành, phân hủy, biến đổi, tính chất và phân bố địa lý các khoáng vật đất); địa
lý thổ nhưỡng (quy luật phân bố đất, sự liên quan với môi trường địa lý); bản đồ đất
(phân bố đất trên toàn hành tinh, từng quốc gia, từng địa phương với tỷ lệ khác nhau);
phát sinh học đất (nguồn gốc, hình thành, phát triển từng loại đất, đặc tính: cấu tạo, thành

phần, tính chất, chế độ hiện tại); hình thái học đất: đặc điểm hình dạng bên ngồi của
đất, qua các phẫu diện; vi hình thái học đất: bằng kính hiển vi nghiên cứu đất ở trạng
thái nguyên, chưa bị phá hủy (cấu tạo, hình thái, thành phần...)
1.1. Định nghĩa về đất
Đất là một phần của vỏ trái đất, nó là lớp phủ của lục địa mà bên dưới nó là đá
và khống sinh ra nó, bên trên là thảm thực bì và khí quyển.
Đất là lớp mặt tơi xốp của lục địa có khả năng sản xuất ra sản phẩm của cây trồng.
Như vậy khả năng sản xuất ra sản phẩm cây trồng (độ phì của đất là thuộc tính khơng
thể thiếu được của đất (William).

1


Theo nguồn gốc phát sinh, tác giả Đôkutraiep định nghĩa: Đất là một vật thể tự
nhiên được hình thành do sự tác động tổng hợp của năm yếu tố là: Khí hậu, đá mẹ, địa
hình, sinh vật và thời gian. Đất được xem như một thể sống, nó ln ln vận động, biến
đổi và phát triển.
Đất được cấu tạo nên bởi các chất khoáng (chủ yếu từ đá mẹ) và các hợp chất
hữu cơ do hoạt động sống của sinh vật cung cấp. Vì vậy sự khác nhau cơ bản giữa đất
và sản phẩm vỡ vụn của đá là: Đất có độ phì nhiêu trong khi đá và khống lại khơng có.
1.2. Sự hình thành và phát triển của đất
1.2.1. Q trình phong hóa đá
1.2.1.1. Khái niệm
Đá và khống sau khi hình thành dưới tác động của các yếu tố ngoại cảnh dần bị
biến đổi. Tổng hợp những sự biến đổi lâu dài phức tạp làm cho đá, khoáng bị phá huỷ
và q trình đó được gọi là q trình phong hoá.
Sự phong hoá đá, khoáng là tổng hợp những quá trình phức tạp, đa dạng làm biến
đổi về lượng và chất của chúng dưới tác dụng của môi trường. Kết quả của sự phong
hoá là làm cho đá và khống bị phá huỷ, biến thành tơi xốp, có khả năng thấm khí và
nước tốt. Những chất mới này được gọi là "Mẫu chất".

Lớp vỏ trái đất ở đó diễn ra q trình phong hố thì gọi là vỏ phong hoá. Căn cứ
vào các yếu tố tác động, phong hoá được chia thành 3 dạng: phong hoá lý học, phong
hoá hoá học và phong hoá sinh học. Sự phân chia này là tương đối vì các loại phong hố
thường xảy ra đồng thời và có liên quan với nhau.
1.2.1.2 Các dạng phong hoá đá và khoáng vật
a. Phong hoá vật lý
Phong hố vật lý là q trình phá huỷ đá về mặt cấu trúc, hình dạng nhưng khơng
làm thay đổi về thành phần hoá học.
Trong những yếu tố gây ra phong hố vật lý thì nhiệt là yếu tố phổ biến và quan
trọng hơn cả, ngồi ra cịn do gió, nước, hoạt động địa chất v.v . . .
* Nhiệt độ: Các khoáng vật và đá đều bị giãn nở phụ thuộc vào nhiệt độ. Mỗi loại
khống vật có hệ số giãn nở vì nhiệt khác nhau. Biên độ nhiệt độ càng lớn sẽ làm đá bị
giãn nở và co lại đột ngột. Do trong đá chứa các khoáng vật khác nhau có hệ số giãn nở
khác nhau, gây nên sự giãn nở không đều dẫn đến đá bị nứt nẻ vỡ vụn ra. Trong thực tế

2


nhiều nơi trên vỏ trái đất có biên độ nhiệt độ ngày đêm lên đến 400 – 600C đã làm cho
đá càng chóng bị phá huỷ.
Do đó tốc độ phá huỷ đá do nhiệt độ phụ thuộc rất lớn vào các yếu tố sau:
+ Sự chênh lệch nhiệt độ ngày đêm, theo mùa trong năm: biên độ nhiệt độ càng
lớn thì quá trình phá huỷ càng mạnh.
+ Phụ thuộc vào thành phần khống vật chứa trong đá: đá có cấu tạo bởi càng
nhiều khống vật thì càng dễ bị phá huỷ.
+ Phụ thuộc vào màu sắc và cấu trúc của đá: đá có màu sẫm, cấu trúc mịn, dễ hấp
thu nhiệt nên bị phá huỷ mạnh hơn đá màu sáng, cấu trúc hạt thơ.
Bên cạnh đó, phong hố vật lý được tăng cường khi có sự tham gia của nước.
Nước thấm vào kẽ nứt gây áp lực mao quản, những vùng giá lạnh khi nước đóng băng
thể tích của nó tăng lên làm đá bị phá huỷ mạnh.

* Dòng chảy, gió: Nước chảy mạnh, gió có thể cuốn đá va đập vào nhau và vỡ
vụn ra.
Kết quả của phong hoá vật lý là làm cho đá, khoáng vỡ vụn ra, tạo ra một số tính
chất mới mà đá nguyên chất trước đây khơng có, như khả năng thấm khí, nước v.v...
Phong hoá vật lý làm cho bề mặt tiếp xúc của đá, khống với mơi trường xung quanh
tăng lên và từ đó tạo điều kiện cho các q trình phong hoá khác tiếp theo được thuận
lợi hơn.
b. Phong hoá hoá học
Phong hoá hoá học là sự phá huỷ đá, khoáng bằng các phản ứng hố học. Do đó
phong hố hố học làm thay đổi thành phần và tính chất của đá, khống. Những tác nhân
quan trọng nhất trong q trình này là H2O, CO2 và O2. Các quá trình chủ yếu của phong
hố học là: q trình hồ tan, hydrat hố, hố sét và oxy hố.
* Q trình hồ tan:
Q trình hồ tan là hiện tượng các khống vật và đá bị hoà tan trong nước. Tất
cả các loại đá, khống khi tiếp xúc với nước đều bị hồ tan nhưng mức độ rất khác nhau.
Quá trình này đã làm thay đổi thành phần và tính chất của các loại đá, khoáng. Do tác
dụng của nước và CO2 đá sẽ bị phá hủy theo phản ứng hòa tan tạo thành chất dễ tan hơn.
Ví dụ:

CaCO3 + H2O + CO2
Đá vơi

Ca(HCO3)2
Bicacbonat canxi (dễ tan)

* Q trình hydrat hố:

3



Là quá trình nước tham gia vào mạng lưới tinh thể của khống vật, thực chất đây
là q trình nước kết hợp với khoáng vật làm thay đổi thành phần hố học của khống
vật.
Ví dụ:

CaSO4 + 2H2O
Anhydryt

CaSO4.2H2O
Thạch cao

Q trình này làm cho thể tích của khống vật tăng lên, thành phần hoá học thay
đổi độ bền liên kết giảm, tạo điều kiện tốt cho q trình hồ tan và các phản ứng hố
học khác.
* Q trình sét hố:
Các khống vật silicat, nhôm silicat do tác động của H2O, CO2 Sẽ bị biến đổi tạo
thành các khoáng sét. Các chất kiềm và kiềm thổ trong khoáng vật bị H+ chiếm chỗ trong
mạng lưới tinh thể được tách ra dưới dạng hoà tan. Như vậy thực chất của q trình sét
hố là các q trình hồ tan, hydrat hố chuyển các khống vật silicat, nhơm silicat thành
các khống vật thứ sinh, các muối và oxit.
Ví dụ:
K2O.Al2O3.6SiO2 + nH2O + CO2
4SiO2.nH2O
Phenpat kali

Al2O3.2SiO2.2H2O + K2CO3 +
Kaolinit

Opan


Q trình sét hố rất phổ biến và có tầm quan trọng trong phong hố hố học vì
phần nhiều các loại khống trong đất thuộc nhóm Silicat và Alumin - silicat.
* Q trình oxy hố:
Đa số các khống vật dễ bị oxy hố và phá huỷ nhanh chóng, nhất là các khống
vật có chứa sắt như Olivin, Ogit, Hoocnơblen, Pyrite, . . . có chứa nhiều Fe2+ nên rất dễ
tham gia vào q trình oxy hố:
Ví dụ:

FeS2 + n H2O + n O2
Pyrite

Fe2O3.n H2O + Fe(OH)3
Limonite

+ H2SO4

Vì lý do trên các loại đá có chứa sắt khi lộ ra ngồi khơng khí thường hình thành
lớp vỏ limonite có màu nâu đỏ rất cứng bảo vệ cho đá ít bị phong hoá tiếp. Đây là loại
phong hoá diễn ra mạnh trong khu vực nhiệt đới trong đó có nước ta. Càng lên cao nhiệt
độ càng giảm nên cường độ của loại phong hoá này càng giảm đi.
c. Phong hoá sinh học
Sự phá huỷ cơ học và sự biến đổi tính chất hoá học của đá, khoáng dưới tác dụng
của sinh vật và những sản phẩm từ hoạt động sống của chúng được gọi là sự phong hoá
sinh học.

4


Trong quá trình sống, sinh vật trao đổi chất với môi trường, đặc biệt là môi trường
đất. Sự trao đổi đó đã làm xuất hiện hoặc thay đổi các quá trình hố học khác. Trong đời

sống của mình, sinh vật sử dụng những chất dinh dưỡng khoáng làm thay đổi hàm lượng
các chất đó trong đất, đưa vào mơi trường những chất mới đặc biệt là những axit: H2CO3,
HCl, H2SO4, HNO3, các axit hữu cơ. . . , đó là những lý do làm cho đá và khoáng bị phá
huỷ.
*Tác động cơ giới do rễ cây len lỏi vào các kẽ nứt của đá làm đá bị phá huỷ, hiện
tượng này thấy rất rõ trên các vách núi đá vôi có cây sinh sống.
Khi trên trái đất chưa có sinh vật thì đá và khống chỉ bị phá huỷ bởi q trình
phong hố lý học và hố học. Khi sinh vật xuất hiện trên trái đất, lúc đầu là các vi sinh
vật và cuối là thực vật thượng đẳng thì sự phong hoá sinh học trở thành phổ biến và quan
trọng, nhất là những vùng nhiệt đới ẩm.
Tóm lại: Tùy theo điều kiện cụ thể mà dạng phong hóa này hay phong hóa kia
chiếm ưu thế, nhưng nhìn chung chúng đều có tác dụng xúc tiến lẫn nhau và hỗ trợ nhau
để phát triển. Ở Việt Nam các quá trình phong hóa xảy ra mãnh liệt và triệt đề vì chịu
ảnh hưởng của điều kiện nhiệt đới ẩm. Trong các dạng phong hóa thì phong hóa hóa học
chiếm ưu thế.

5


1.2.2. Quá trình hình thành đất
1.2.2.1. Sự ra đời của các vật liệu đầu tiên trong đất
Cho đến nay thì người ta vẫn chấp nhận thuyết “Big Bang” để giải thích cho sự ra
đời của các hành tinh và các ngôi sao trong vũ trụ. Thuyết này cho rằng cách đây hàng
tỷ năm, mặt trời phát ra một tiếng nổ lớn, từ tiếng nổ này hàng triệu các mảnh vỡ được
bắn ra. Các mảnh vỡ này vừa quay lại vừa bay ra khỏi mặt trời. Trong số hàng triệu
mảnh vở bay ra có 9 mảnh nhận được lực cân bằng nên quay ổn định trên quỹ đạo của
nó, đó là 9 hành tinh quay quanh mặt trời (hiện nay còn 8 hành tinh), trong đó có trái
đất. Khi tách ra khỏi mặt trời, trái đất là một khối lửa đỏ. Qua thời gian hàng tỉ năm, trái
đất nguội dần và đá được hình thành. Với sự tác động của các yếu tố khí hậu và sinh vật
đá bắt đầu vỡ ra, tác động đó được gọi chung là “phong hóa” và từ đó tiến trình phong

hóa ln ln hiện hữu cho đến ngày nay và vẫn còn tiếp tục. Các mảnh vỡ do phong
hóa được gọi chung là “vật liệu phong hóa”. Các vật liệu phong hóa thì khơng thể đứng
yên dưới tác động của các yếu tố khí hậu (mưa, gió...) mà chúng bị mang đi và tích tụ
lại một nơi nào đó, thí dụ như: chúng rơi xuống từ trên cao do trọng lực, nước cuốn đi
do dòng chảy, gió mang đi,...). Vì tầm quan trọng của các yếu tố di chuyển các vật liệu
phong hóa đến đặc tính của đất sau này nên các nhà khoa học dùng chúng để đặt tên cho
“mẫu chất” và mẫu chất có thể hình thành đất khi có điều kiện. Chúng ta có các loại mẫu
chất như sau:
Tên mẫu chất
Vật liệu Do nước cuốn đi
phong hóa

Lắng tụ ở hồ
Lắng tụ do dịng chảy
Lắng tụ ở biển

Tích tụ do trọng lực

Trầm tích hồ
Phù sa
Trầm tích biển
Sườn tích, tụ thổ

Do băng hà di chuyển

Trầm tích do băng hà
Trầm tích ở cửa sơng,
phù sa, trầm tích biển

Phong hóa

tại chỗ

Di chuyển do gió

Trầm tích do gió cuốn

Hình 1.1: Các yếu tố làm di chuyển vật liệu phong hóa và các mẫu chất tương ứng.
Như kết quả trên cho thấy, đất được hình thành qua hai giai đoạn: (1) sự hình
thành mẫu chất và (2) sự hình thành đất. Như vậy, khi mẫu chất bị xáo trộn ở một mức

6


độ nhất định thì được gọi là đất. Sự xáo trộn này được thể hiện bằng sự phân tầng trong
mặt cắt theo chiều dọc của đất (gọi phẫu diện đất).

1.2.2.2. Các yếu tố hình thành đất
Yếu tố hình thành đất có thể là một tác chất, lực, điều kiện hoặc mối liên hệ hoặc
là sự kết hợp giữa các yếu tố đó lại. Các yếu tố có thể đang tác động hoặc đã tác động
đến mẫu chất để hình thành đất. Có thể có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến việc hình thành
đất nhưng các nhà nghiên cứu về nguồn gốc chỉ chọn 5 yếu tố đó là: mẫu chất, địa hình,
khí hậu, sinh vật và thời gian.
Đất = f(cl, o, r, p, t)
Trong đó: cl = khí hậu; o = sinh vật; r = địa hình; p = mẫu chất và t = thời gian.
Một số tác giả đề nghị các yếu tố hình thành đất nhiều hơn là 4 yếu tố. VD Rode
(1961) đề nghị 8 yếu tố, trong đó muốn kể thêm yếu tố về con người, trọng lực, nước.
a. Khí hậu
Các yếu tố khí hậu có ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp tới quá trình hình thành đất.
* Ảnh hưởng trực tiếp: mưa, nhiệt độ, gió,... đẩy mạnh q trình phong hóa đá tạo ra
mẫu chất. Mưa tạo ra độ ẩm cho đất, tạo ra sự xói mịn và rửa trơi các chất của đất; Nắng

kéo dài, đất mất nước trở nên khô hạn; Nước còn ảnh hưởng tới màu sắc của đất.
* Ảnh hưởng gián tiếp: các điều kiện của khí hậu có tác dụng đẩy mạnh hay kìm hãm
sự phát triển của sinh vật. Vì vậy, ở mỗi đới khí hậu khác nhau sẽ có những loại đất đặc
thù ở đó.
b. Sinh vật
Sinh vật là yếu tố chủ đạo cho quá trình hình thành đất vì sinh vật cung cấp chất
hữu cơ, yếu tố quan trọng nhất để biến mẫu chất thành đất. Đất là môi trường sôi động
của sự sống, là địa bàn sinh sống của vi sinh vật, thực vật, động vật.

7


* Vi sinh vật:
Một gam đất chứa hàng chục triệu thậm chí hàng tỷ vi sinh vật. Trung bình 1 gam
đất của Việt Nam chứa khoảng 60-100 x 106 vi sinh vật, chúng có vai trị rất lớn đối với
q trình hình thành đất, cụ thể : phân giải, tổng hợp và cung cấp chất hữu cơ cho đất.
Tuy nhiên ngồi mặt có lợi vi sinh vật đất cịn có một số mặt hại như: Làm mất đạm,
thải ra một số khí độc, làm giảm pH đất, gây bệnh cho cây. . .
* Thực vật
Thực vật đóng vai trị quan trọng trong quá trình hình thành đất. Tuỳ theo thảm
thực bì số lượng cũng như chất lượng chất hữu cơ trả lại cho đất khác nhau. Thông
thường 1 hecta đất rừng trả lại cho đất 10 tấn cành khô, lá rụng/năm, khoảng 80% lượng
chất hữu cơ trong đất có nguồn gốc từ thực vật.
Một số loại thực vật được dùng làm cây chỉ thị cho một số tính chất đất. Ví dụ:
Cây sim, mua chỉ thị đất chua; cây sú, vẹt chỉ thị cho đất mặn, cỏ năng chỉ thị đất phèn...
Tóm lại tác dụng của thực vật thể hiện ở các mặt sau:
+ Cung cấp chất hữu cơ, tăng hàm lượng mùn, cải thiện các tính chất lý, hố và sinh
học đất.
+ Tập trung dinh dưỡng ở tầng sâu lên tầng đất mặt.
+ Hút và trả lại cho đất các chất dinh dưỡng phù hợp hơn với thế hệ sau do hút dinh

dưỡng có chọn lọc.
+ Che phủ mặt đất, chống xói mịn.
* Động vật:
Có nhiều loại động vật sinh sống trong đất từ nguyên sinh động vật, giun, dế,
kiến, mối đến chuột... Tác dụng của chúng thể hiện qua các mặt sau:
+ Chúng chết đi cung cấp chất hữu cơ cho đất, tuy số lượng ít nhưng có chất lượng cao.
+ Chuyển hoá chất hữu cơ tạo thành các chất dễ tiêu cho cây.
+ Xới xáo làm cho đất tơi xốp. Đại diện như giun đất là "anh thợ cày " tích cực, 1
ha đất tốt có bón phân có thể có tới 2,5 triệu con giun.
c. Địa hình
Địa hình (relief) được định nghĩa là cao độ của mặt đất. Sự liên hệ giữa các thành
phần trong đất có thể được đề cập cho một vùng đất đặc thù nào đó chứ nó khơng thể
dùng cho tất cả, vì cường độ và ảnh hưởng của các yếu tố hình thành đất đều khác nhau
giữa nơi này và nơi khác. Các đặc tính của đất sau đây có liên quan đến địa hình cho bất

8


kỳ một vùng nào đó: (a) chiều dày của tầng đất; (b) chiều dày và hàm lượng hữu cơ
trong tầng mặt A; (c) ẩm độ tương đối của phẫu diện; (d) màu của phẫu diện đất; (e)
mức độ phát triển của các tầng; (f) pH của đất; (g) hàm lượng muối hòa tan; (h) loại và
mức độ phát triển của các tầng đế cày (pan); (i) nhiệt độ và (j) đặc tính của mẫu chất.
d. Mẫu chất
Mẫu chất (parent material) được xem là một yếu tố hình thành đất rất
quan trọng, trước đây (1800 -1810) các nhà thổ nhưỡng thường dùng thuật ngữ
“đất granite” hoặc “đất băng hà” để chỉ nguồn gốc địa chất của nó và thành
phần của các vật liệu ban đầu (vật liệu nguyên sinh là - vật liệu phóng thích ra
từ đá mà khơng qua q trình tái tổng hợp). Nhiều thí nghiệm đã được thực
hiện và kết luận rằng mẫu chất là yếu tố quan trọng, nó chi phối mọi yếu tố
khác.

Mẫu chất bao gồm nhiều loại đá khác nhau (đá magma, đá biến chất, đá trầm tích).
Đá lại gồm nhiều tinh khống, các tinh khống này có chỉ số phong hóa theo sự thay đổi
của thời tiết (weathering sequence) (Theo Jakson và Sherman).
1

Nhóm thạch cao (trong đó có thể kể thêm: muối mỏ, nitrate natri).

2

Nhóm calcite (kể cả dolomite, aragonite, apatite).

3

Nhóm hornblende (trong đó có thể kể: pyroxene, olivine).

4

Nhóm biotite.

5

Nhóm albite (kể cả anorthite, khiếm tràng, microcline).

6

Nhóm thạch anh.

7

Nhóm muscovite


8

Nhóm vermiculite.

9

Nhóm montmorillonite.

10 Nhóm kaolinite (halloysite).
11 Nhóm gibbsite (boehmite, allophan).
12 Nhóm hematite (goethite, limonite).
13 Nhóm anatase (zircon, rutile, corindon...)
Đất càng trẻ thì sự liên hệ của nó đến mẫu chất càng nhiều vì các yếu tố khác chưa
ảnh hưởng mạnh mẽ đến đất. Khi các tiến trình thổ nhưỡng và phong hóa tác động lên
mẫu chất càng nhiều thì ảnh hưởng của mẫu chất càng ít đi. Ở đất phong hóa mạnh và

9


đất già cỗi thì ảnh hưởng của mẫu chất rất ít. Khi nghiên cứu về mẫu chất thì cần chú ý
đến yếu tố nào vẫn còn ảnh hưởng cả về lượng lẫn về loại. Thường thì việc nghiên cứu
tác động của mẫu chất rất khó, do tính phức tạp của mơi trường trong q khứ và khó
có thể tách ảnh hưởng của mẫu chất ra khỏi ảnh hưởng của những yếu tố khác (tiêu
nước, khí hậu, thực vật). Ảnh hưởng của loại đá nơi mà mẫu chất xuất phát có ảnh hưởng
quan trọng đến thành phần của đất.
Mẫu chất là trầm tích do băng hà
Trầm tích do băng hà (glacial till) là vật liệu phong hóa mà thành phần của chúng
đã trải qua thời kỳ băng hà. Các vật liệu phong hóa do băng hà mang đi và trầm tích tại
nơi nào đó khi băng tan, thí dụ như ở Bắc Mỹ sa cấu có thành phần là loam (đất pha)

(loam là loại sa cấu đất có phần trăm cát, thịt và sét gần bằng nhau) chiếm ưu thế vì băng
hà đã hình thành trên các vùng đá vơi và đá phiến sét (shale). Trong khi đó ở một số nơi
khác như Bắc Âu, Anh Quốc và phía Bắc nước Mỹ các trầm tích do băng hà có thành
phần là thịt pha cát vì băng hà đã thành lập trên vùng đá thô hạt và đá granite để cho ra
đất có thành phần cơ giới thơ, nhiều thạch anh, trầm tích nhiều silica và chua. Sét illite
(hoặc mica có kích thước bằng với kích thước của sét) là thành phần khống sét chính
trong trầm tích, bên cạnh illite cịn có một lượng đáng kể (từ trung bình đến nhiều)
montmorillonite và một lượng ít kaolinite, vermiculite và chlorite. Nếu trầm tích do băng
hà xuất phát từ các vật liệu đá vôi và đá phiến sét, có thể khống sét montmorillonite là
khống sét chủ yếu, có pH và độ bão hịa base. Chúng ít chịu ảnh hưởng của tiến trình
thổ nhưỡng vì trầm tích lắng tụ trên các địa mạo trẻ, khí hậu thay đổi khơng lớn. Nếu
trầm tích do băng hà xuất phát từ đá thơ hạt và đá granite thì pH và độ bão hịa base
thấp.
Mẫu chất là trầm tích do gió cuốn tạo nên
Mẫu chất là trầm tích do gió cuốn tạo nên (loess) được hình thành do gió mang tới
từ các đồng bằng ngập có băng hà trước đó. Ở đồng bằng Moscow, thành phần thịt trong
đất có được là từ loess có thể do dịng nước mang lại. Đây là một mẫu chất quan trọng
và có rất nhiều ở Trung, Tây, và Bắc Mỹ và ở Tây Âu. Trước khi mẫu chất này bị thay
đổi do phong hóa, nó có chứa một lượng lớn thịt, khoảng 10 - 20% sét (lượng sét thay
đổi tùy vào khoảng cách từ nơi xuất phát của mẫu chất này được thổi đi), có lượng
khống dễ bị phong hóa cao, độ bão hịa base cao hoặc kiềm, thành phần khống chủ
yếu là montmorillonite, có lượng illite thay đổi và có thể có một ít vermiculite. Khi mẫu

10


chất này hiện diện trên các địa mạo trẻ có khi hậu êm dịu, mẫu chất này bị phong hóa
tương đối ít. Kết quả là đất được hình thành trên mẫu chất này thì giàu thịt, độ màu mỡ
cao và thường có thành phần vật lý rất tốt như tính thấm nước, độ xốp cao, nhưng cấu
trúc thường phát triển kém và phụ thuộc vào sự hiện diện của sét.

Mẫu chất là trầm tích đồng bằng ven biển
Trầm tích đồng bằng ven biển là mẫu chất rất quan trọng của nhiều vùng ven biển.
Mẫu chất này hầu hết là có nguồn gốc từ biển (marine), ở cao độ thấp gần bờ biển. Ở
khu vực sâu trong đất liền thì thường có nguồn gốc sơng (alluvial) hoặc cả hai sơng và
biển cho các đồng bằng trẻ và có cả sườn tích (colluvial) thí dụ như Đồng Bằng Sơng
Cửu Long. Nhìn chung thì các trầm tích này là các trầm tích thứ sinh (vì nó trải qua một
lần trầm tích), xuất phát từ các địa mạo cao và lâu đời. Chúng thường xuất hiện ở các
vùng có lượng mưa và nhiệt độ cao. Do vậy, các vật liệu khởi đầu này thường chua, có
lượng khống dễ phong hóa từ thấp đến trung bình, sa cấu rất thay đổi từ cát tới sét tùy
vào các mơi trường trầm tích khác nhau. Mẫu chất này thường giàu kaolinite, chua và
chất dinh dưỡng thấp. Các mẫu chất xuất phát từ biển có hàm lượng sét cao, trong đó
chủ yếu là montmorillonite (nếu là trầm tích cửa sơng). Các mẫu chất có từ các bãi biển
hoặc từ giồng thường có thành phần cơ giới thơ (cát) và chua.
Mẫu chất là trầm tích cổ từ đá vơi và dolomite
Trầm tích cổ từ đá vơi và dolomite chứa trên 50% là carbonate, trong đá này có
một lượng cân bằng giữa thịt và sét. Đất được hình thành từ các vật liệu cổ từ sự hòa tan
của carbonate trong suốt thời gian phong hóa. Do đó đất được hình thành sẽ phụ thuộc
vào mức độ không tinh khiết của đá vôi. Nếu đá vôi bị lẫn nhiều sét sẽ cho ta một loại
đất có tính thấm rất kém vì đất khá chặt, có pH và độ bão hịa base cao. Nếu đá vơi có
lẫn nhiều cát và chert (các hạt silic kết tinh hoặc vơ định hình) sẽ cho ra đất loam thơ,
nhiều sỏi, chua, có base thấp. Nếu trong đá vơi có nhiều sắt như là hematite sẽ cho ra
đất đỏ, có pH chua ở vùng đất có khí hậu ẩm.
Mẫu chất từ đá thơ hạt
Mẫu chất từ đá thô hạt (sand stone) chứa trên 50% hạt ở cấp hạt của cát, chủ yếu
là thạch anh. Chất kết dính các hạt này thành đá là silica, sắt và carbonate. Cùng với các
chất lẫn khác, mẫu chất này có ảnh hưởng lớn đến đất được hình thành. Đất có thành
phần cơ giới thơ đặc biệt là tầng mặt, có tính thấm nước cao, base thấp, chất dinh dưỡng
và pH thấp. Tùy theo chất kết dính là chất gì trong đá cát mà nó cho ra các loại đất khác

11



nhau, thí dụ như nếu nó là chất sắt thì cho ra đất đỏ, cịn nếu là silica thì đất này kém
phát triển vì đặc tính của silica rất khó bị phong hóa. Nếu khống feldspar trong đá thơ
hạt trên 25% thì đất thành lập trên vật liệu này có nhiều sét vì feldspar bị phong hóa cho
ra sét, có khá nhiều chất dinh dưỡng.
Mẫu chất từ đá phiến sét
Mẫu chất từ đá phiến sét (shale) có dạng phiến, cịn thường được gọi là đá bùn.
Thành phần khoáng gồm các phiến silicate, feldspar, thạch anh và có một lượng nhỏ
mica và đơi khi có vơi. Các lớp silicate trong shale thường là illite, trừ ở các loại shale
rất chua thì có nhiều kaolinite. Các loại đất hình thành từ shale có nhiều sét, thì cho ra
đất có thành phần cơ giới là sét rất khó thấm nước, ít bị rửa trơi ion và có solum cạn.
Đất này có độ bão hịa base cao và có pH cao trừ đất hình thành từ các shale có màu đen
và màu xám. Illite và montmorillonite thường là khoáng sét được thành lập nên đá shale.
Các shale chua thì có nhiều kaolinite, khống này thành lập trong các loại đá mẹ sau đó
tạo thành shale. Đất hình thành từ shale có nhiều thịt thì cho ra đất có thành phần cơ giới
trung bình (thịt hoặc loam), có lượng dinh dưỡng từ trung bình đến cao.
Mẫu chất từ granite và granite gneiss
Mẫu chất từ granite và granite gneiss có màu vàng, xấp xỉ 25% là thạch anh, 65%
là khống K-feldspar, có ít lượng khống mica và có một lượng nhỏ khống hornblende.
Các loại đá này rất ít có sự khác biệt ở sản phẩm phong hóa về cấu trúc. Đá gneiss khi
tạo thành đất thì thường có cấu trúc xếp lớp. Mặc dù có cấu trúc xếp lớp như vậy nhưng
về tính chất cơ bản thì giống nhau. Đất hình thành từ saprolite (đất phong hóa tại chỗ,
mang nhiều đặc tính của mẫu chất bên dưới) do phong hóa hóa học từ các đá nêu trên
tạo ra, thường thì cho ra đất có thành phần cơ giới thơ hơn loam, tầng mặt đất xốp có
tính thấm cao, thường chua, base thấp, do lượng thạch anh cao. Lượng dinh dưỡng
thường thấp ở các loại đất trên trừ khi ở vùng ơn đới. Hàm lượng khống sét chủ yếu là
kaolinite ở các vùng ẩm và vermiculite, illite và montmorillonite ở các vùng khí hậu
lạnh và khơ cằn.
Mẫu chất từ schist

Mẫu chất từ schist có dạng gấp nếp (phiến mỏng), là đá biến tính, giàu mica, có
lượng thạch anh thay đổi và có một ít khống phong hóa khác. Vì lượng thạch anh thấp,
đất được thành lập có từ các saprolite có nguồn gốc từ mica schist thì nhiều thịt, ít các
cấp hạt thơ trừ các địa mạo cao và ẩm, vì nơi này đã trải qua một thời gian dài bị phong

12


hóa. Khống sét có ở đây chủ yếu là illite, vermiculite (trừ ở các loại đất phong hóa
mạnh thì kaolinite cao và ở đất có mùa khơ rõ rệt thì thường có montmorillonite hiện
diện). Đất hình thành từ các saprolite có nguồn gốc từ chlorite schist thì có nhiều sét,
dẻo và có rất nhiều montmorillonite và có thể có một lượng thừa magnesium.
Mẫu chất từ các loại đá tối màu giàu sắt, mangan
Mẫu chất từ các loại đá tối màu giàu sắt và mangan (diorite, basalt và hornblende
gneiss) đều giàu các loại khoáng chứa sắt và mangan. Các khoáng này phong hóa rất
nhanh và đất xuất phát từ đây sẽ có nhiều sét. Các khống này thường có base cao. Vì ít
lượng thạch anh trong đá này nên tỷ lệ cát rất thấp trong thành phần của đất. Đất hình
thành từ các saprolite bắt nguồn từ đá này thường có sét cao, ít cát so với đất có nguồn
gốc từ granite. Mặt đất thường là loam hoặc loam pha sét. Các đất này thường có màu
nâu tối đến xám do sắt cao. Base và pH thường cao. Thành phần khoáng thường là
kaolinite và halloysite nếu đất hiện diện trong môi trường thốt nước tốt, nhưng giàu
montmorillonite trong mơi trường thốt nước kém và trong những vùng có một mùa khơ
rõ rệt.
Mẫu chất có từ tro núi lửa
Tro núi lửa là một loại mẫu chất chứa các khống khơng có tinh thể (khống vơ
định hình), các hạt mịn, các mảnh vỡ của thủy tinh và một ít feldspar dễ phong hóa và
các khống có sắt - mangan và một lượng thạch anh biến động. Phần lớn tro núi lửa có
tính kiềm trung bình đặc biệt là vùng núi lửa Thái Bình Dương chúng có nhiều silic. Tro
núi lửa giàu sắt và mangan xuất hiện với một diện tích nhỏ. Tro núi lửa hình thành nên
đất có đặc tính rất đặc thù, một trong những đặc thù đó là allophane (nhóm - silicate vơ

định hình) và có lượng chất hữu cơ nhiều trên mặt, chất hữu cơ này thường ở dưới dạng
phức chất. Tuy nhiên đất được hình thành từ tro núi lửa ở các vùng khơ cằn và có mùa
khơ kéo dài thì có khuynh hướng tạo ra nhiều montmorillonite và khơng có màu đen.
Đất này có nhiều tên khác nhau: Ando (tên địa phương ở Mỹ), Andepts (USDA),
Kurobuku (Nhật), Alvisols (Tây Ban Nha) và Trumao (Chi Lê).
Các tính chất từ tro núi lửa giàu allophane là: Phẫu diện dày, dễ vỡ ở lớp đất mặt,
xếp lớp rõ rệt. Có nhiều hợp chất mùn màu xám ở đất mặt, vi sinh vật phân hủy tương
đối khó. Mẫu đất ở tầng dưới có màu nâu vàng nhạt, đất rất dễ bị lèn hoặc có tính nhớt
khi bóp. Dung trọng rất thấp, nhẹ, xốp. Tính giữ nước cao. Tính bền của cấu trúc kém,

13


khơng có lớp phủ sét (cutans). Hồn tồn khơng có tính dính dẻo, có thể nổi trên mặt
nước. CEC cao (thay đổi theo pH)
e. Thời gian
Mối liên hệ giữa đất và thời gian có thể được thảo luận với các yếu tố (1) giai đoạn
phát triển tương đối; (2) định tuổi tuyệt đối của các tầng và phẫu diện đất; (3) mức độ
phát triển; (4) thời gian phát triển của các độ dốc, dạng của đất đai và các dạng phức do
phong hóa tạo nên và (5) sự khám phá từ thí nghiệm do con người sau đó ứng dụng ra
ngoài đồng ruộng và từ ngoài đồng tác động trở lại trong phịng thí nghiệm.
Giai đoạn phát triển tương đối
Các từ vựng đã được dùng để diễn tả thời gian tương đối là: trẻ, trưởng thành và
già. Các từ này được đặt ra để mô tả và nhận diện các địa mạo, sau đó đã sử dụng cho
đất. Từ đã sử dụng như là azonal soils bao gồm bộ Entisols (trẻ) và Inceptisols (bắt đầu
phát triển) các đất này có thể được xem là đất trẻ. Đất chưa trưởng thành có thuật ngữ
để chỉ là intrazonal soils, sự phát triển của đất này được thể hiện qua các yếu tố: có nhiều
nước, muối hoặc carbonate. Đất trưởng thành cịn được gọi là zonal soils, đất này được
phát triển trong một môi trường cân bằng (hoặc ổn định). Đất già là loại đất có sự tích
tụ của oxide kim loại trơ (nó khơng cịn phản ứng với các chất khác nữa) và các kim loại

nặng. Các chiều hướng phát triển của đất theo thời gian có thể là: (1) vẫn cịn giữ mãi là
zonal soils, phẫu diện của nó vẫn cịn giữ được trong lớp mẫu chất nguyên thủy vì tốc
độ xói mịn nhanh đồng thời với việc thành lập đất; (2) đất trở nên bị già cỗi; (3) trở nên
là mẫu chất của loại đất khác do sự thay đổi đột ngột của sinh vật, khí hậu hoặc các hoạt
động địa chất khác; (4) bị chôn vùi; hoặc (5) biến mất do xói mịn và là mẫu chất ở một
nơi khác.
Tuổi của các tầng đất và phẫu diện
Thường có hai cách để định tuổi của một tầng đất đó là dựa vào sự phát triển của
cây cổ thụ và sử dụng chất carbon 14C. Các vùng đồi nhiều vôi ở Anh Quốc được định
tuổi dựa vào cây Salix Repens và thời gian để rửa trôi vôi (ở vùng này khoảng 300 năm).
Để có một lượng chất hữu cơ ổn định trong đất thường mất khoảng 240 năm. Các vùng
đắp đê ngăn mặn ở Hà Lan thường mất một thời gian tương tự để rửa trôi lượng vôi.
Nhiều vùng đất rừng ở Alaska, đất phát triển trên mẫu chất có nguồn gốc do băng hà tạo
nên, ở đây có lớp hữu cơ trên mặt có tuổi khoảng 15 năm (đến năm 1969), bên dưới là
tầng A màu nâu, có thành phần cơ giới là loam pha thịt có tuổi là 250 năm và một biểu

14


loại đất Podzol có chiều dày là 25 cm có tuổi là 1.000 năm. Các loại đất phát triển trên
loại đá trơ có tuổi khoảng 2.000 năm và các loại đất ở vùng Bắc Âu có tuổi khoảng
72.000 năm và một số có tuổi khoảng 112.000 năm (các đất này có mẫu chất khác nhau).
Thang thời gian theo địa chất được phân chia như bảng 1.1.
Bảng 1.1: Tuổi địa chất
Thời gian bắt đầu
Kỷ nguyên

Khoảng thời gian

Niên đại


(Triệu năm)

(Era)

Period

(Epoch)

Kulp

Hough Hammond

(1961) (1958) (1970)
Cenozoic

Quaternary

Pleistocene

1

1

0-2

Pliocene

13


2

2

Miocene

25

28

11

Oligocene

36

40

25

Eocene

58

60

40

Paleocene


63

60

60

Cretaceous

135

130

70

Jurassic

181

155

135

Triassic

230

185

180


Permian

280

210

225

Tertiary

Mesozoic

Paleozoic

Holocene

Pennsylvanian

Carboniferous

235

Mississippian
Devonian

405

320

Silurian


425

360

Ordovician

500

440

Cambrian cao

530

Canbrian thấp

600

520

600

Thí dụ như ở Đồng Bằng Sơng Cửu Long thuộc vào kỷ đệ tứ (Quaternary), có hai
loại trầm tích chính (tính theo thời gian) là Holocene (phù sa mới) và Pleistocene (phù
sa cổ). Cần phân biệt tuổi địa chất và tuổi thổ nhưỡng, thí dụ: Đồng Bằng Sơng Cửu
Long có tuổi địa chất từ 10.000 - 20.000 năm nhưng nhiều nơi đất có tuổi về thổ nhưỡng

15



thậm chí khoảng 20 - 30 năm. Câu hỏi cần đặt ra là phải mất bao lâu mới có thể thành
lập được từ 2 - 3 cm đất. Các nhà thổ nhưỡng thì khơng tính theo chiều dày là cm mà
tính theo tầng đất, solum và phẫu diện. Một cách tổng quát, để thành lập được một tầng
đất thì phải mất một thời gian rất lâu trừ đất phèn. Bảng dưới đây cho thấy thời gian
hình thành của các tầng (Bảng 1.2).
Bảng 1.2: Tuổi của các tầng trong đất
Tầng đất (phẫu diện)

Tuổi

Chiều sâu Tốc độ

(năm)

(cm)

(cm/năm)

A1 gray-brown Podzolic ở Wisconsin

40

7

5,7

A1 của Hapludoll ở Iowa

400


33

12,0

Histosol có bề dày 2m

3.000

200

15,0

Một solum, có tầng B Podzolic ở Iowa

4.000

100

40,0

Một solum red-yellow Podzolic (Ultisol) ở Úc 29.000

300

97,0

Một solum đất nhiệt đới (Oxisol) ở Châu Phi

100


750,0

75.000

1.3. Hình thái của đất
1.3.1. Khái niệm
Tất cả những quá trình diễn ra trong đất đều để lại những dấu vết trong nó. Nghiên
cứu những dấu vết đó, ta biết được tính chất, đặc điểm của đất. Thậm chí, ta
cịn biết được lịch sử của sự hình thành đất và chiều hướng phát triển của nó. Đặc điểm
phân lớp là đặc điểm quan trọng của đất, mà nhiều tính chất lý hố học và độ phì của
đất phụ thuộc vào nó.
Mặt cắt thẳng đứng từ mặt đất xuống đến tầng đá mẹ, nó thể hiện các tầng đất
được gọi là phẫu diện đất.
Phẫu diện đó được mơ tả thơng qua những đặc điểm bề ngồi có thể cảm nhận
được bằng các giác quan thì gọi là hình thái phẫu diện đất. Từ hình thái, ta có thể suy ra
những tính chất bên trong của nó.
1.3.2. Q trình thành lập các tầng của đất
Sự tạo nên các tầng trong đất là kết quả của các tiến trình thành lập khác nhau tác
động lên mẫu chất trong một khoảng thời gian. Các tiến trình thành lập đất có thể chia
thành:

16


×