Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

BÀI TIỂU LUẬN môn văn học PĀLI đề tài GIÁO lý năm uẩn TRONG KINH TẠNG PĀLI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (323.6 KB, 16 trang )

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP.HỒ CHÍ MINH


BÀI TIỂU LUẬN MƠN VĂN HỌC PĀLI

Đề tài 3:
GIÁO LÝ NĂM UẨN TRONG KINH TẠNG PĀLI
Giảng Viên Phụ Trách: TS.NS.TN.Hiếu Liên
Sinh viên thực hiện: Lê Văn Can
Pháp danh: Trí Cường
Mã sinh viên: TX 6031
Lớp: ĐTTX Khóa VI
Chuyên ngành: Triết Học Phật Giáo

TP. Hồ Chí Minh, năm 2021

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM


HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP.HỒ CHÍ MINH


BÀI TIỂU LUẬN MÔN VĂN HỌC PĀLI

Đề tài 3:
GIÁO LÝ NĂM UẨN TRONG KINH TẠNG PĀLI
Giảng Viên Phụ Trách: TS.NS.TN.Hiếu Liên
Sinh viên thực hiện: Lê Văn Can
Pháp danh: Trí Cường
Mã sinh viên: TX 6031


Lớp: ĐTTX Khóa VI
Chuyên ngành: Triết Học Phật Giáo

TP. Hồ Chí Minh, năm 2021


MỤC LỤC
A.MỞ ĐẦU. ..........................................................................................................................................1
B.NỘI DUNG..........................................................................................................................................2
Chương 1:GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ VĂN HỌC PĀLI
1.1. GIẢI THÍCH CÁC KHÁI NIỆM.....................................................................................................2
1.1.1. Văn học là gì?................................................................................................................................2
1.1.2. Pāli là gì?.......................................................................................................................................2
1.2. Văn học Pāli là gì?............................................................................................................................2
1.3.Nguồn gốc tiếng Pāli..........................................................................................................................3
Chương 2:GIÁO LÝ NĂM UẨN TRONG KINH TẠNG PĀLI
2.1.ĐỊNH NGHĨA VỀ NĂM UẨN VÀ NỘI DUNG NĂM UẨN.........................................................4
2.1.1. Định nghỉa năm uẩn.......................................................................................................................4
2.1.2.Nội dung của Năm uẩn...................................................................................................................4
2.2.Những bài kinh trong kinh tạng pāli liên hệ tới năm uẩn ..............................................................6
Chương 3:ỨNG DỤNG SỰ TU TẬP NĂM UẨN TRONG ÐỜI SỐNG HIỆN TẠI
3.1.NHẬN DIỆN NĂM UẨN TRONG ĐỜI SỐNG CON NGƯỜI.....................................................10
3.1.1. Nguyên nhân của khổ đau của con người....................................................................................10
3.1.2.Phát triển tâm linh.........................................................................................................................10
C.KẾT LUẬN........................................................................................................................................12
D.DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................13


A.MỞ ĐẦU


Đạo phật ra đời cách đây hơn 2600 năm ,gắn với sự kiện đản sanh của bồ tát
Siddhārtha(Sĩ Đạt Ta)năm 624 BC tại Lumbini. Con vua Tịnh Phạn và hồng hậu
Maya. Năm 29 tuổi ngài cưới cơng chúa Da-du-đà-la. 10 tháng sau rời hồng cung,
gia đình vợ con, thành đạo sĩ. 6 năm tu khổ hạnh, mong tìm ra con đường diệt khổ.
Năm 35 tuổi giác ngộ dưới cội cây Bồ đề ở Gaya, sau 49 ngày thiền định.Chuyển
pháp luân tại Sarnath: Kinh Chuyển Pháp Luân, Kinh Vô ngã tướng, Kinh Thế gian
bốc cháy. Suốt 45 năm tiếp theo, thuyết giảng hàng ngàn Kinh về triết học, đạo đức,
giải phóng khổ đau. Năm 544 BC, qua đời tại Kusinagara, tròn 80 tuổi. Sự nghiệp 45
năm thuyết pháp độ sinh của đức Phật để lại nhiều ấn tượng lớn và lưu lại nhiều thành
quả văn hóa tâm linh sâu sắc khơng ngừng đánh thức và khuyến khích thiện tâm trong
lịng mọi người ở trong mọi thời đại.Theo đạo Phật, những nỗi khổ đau của con người
đều xuất phát từ sự thiếu hiểu biết, thiếu trí huệ. Vơ minh thường được coi là nỗi bất
hạnh lớn nhất của chúng sinh. Đức Phật dạy:
«Này các Tỳ kheo, tất cả những nỗi sợ hãi, thất vọng, vấp ngã và tai nạn đều do ngu
si mà sinh khởi. Tất cả những điều ấy không sinh khởi nơi người có trí tuệ, cũng như
ngọn lửa bùng cháy từ bụi lau, bụi cỏ làm cháy luôn cả nhà cửa, lầu gác và cung
điện. Cũng vậy, ngọn lửa ngu si bùng lên làm cho những nỗi sợ hãi, thất vọng, vấp
ngã và tai nạn có mặt« (Kinh Đa Giới, Trung Bộ kinh III). Đức Phật khuyên dạy mọi
người hãy trở thành kẻ hiền trí bằng cách suy tư quán chiếu để biết được bản chất của
nhân sinh và vũ trụ, qua đó dập tắt ngọn lửa ngu si, thành tựu trí tuệ và đoạn diệt khổ
đau. Đối tượng mà chúng ta cần suy tư và quán chiếu chính là đời sống của chính ta:
con người và thế giới mà chúng ta đang sống. Nhưng con người và thế giới q bao la,
thiên hình vạn trạng, mn màu muôn vẻ làm sao rõ biết hết được? Đối tượng của tư
duy là vô tận, vậy phải tư duy theo hướng nào?...
Để giải quyết vấn đề ấy, đạo Phật đã phân tích, hệ thống hóa, khái qt hóa những
cái tưởng như phức tạp ấy thành những phạm trù, những lãnh vực có thể nắm bắt
được, đó là Uẩn, Xứ, Giới .Sự biết rõ về Uẩn, Xứ, Giới nghĩa là biết rõ về bản chất
của thế giới hiện tượng bao gồm con người và thế giới mà con người đang sống..Đó
cũng là lý do mà học viên chọn đề tài “Giáo lý năm uẩn trong văn học Pāli” để làm
đề tài tiểu luận của mình. Vì kiến thức hạn chế,học viên chỉ đi xâu nghiên cứu :phân

tích năm uẩn -chú trọng về con người và nhấn mạnh phần tâm lý hơn vật lý.. gồm Mở
đầu&Nội dung, Phần kết luận & Danh mục tài liệu tham khảo.
Học viên cũng trình bày “Giáo lý Ngũ uẩn trong văn học Pāli” được dựa trên 5 bộ
Kinh Nikāya.Để đạt được mục đích và nhiệm vụ đã đề ra, tiểu luận dựa trên cơ sở thế
giới quan,đồng thời kết hợp với một số phương pháp nghiên cứu khoa học khác như
phương pháp: phân tích - tổng hợp, đối chiếu - so sánh, hệ thống hoá, diễn dịch, quy
nạp… để nghiên cứu, phân tích và trình bày tiểu luận,từ đó đi đến kết luận để làm
sáng tỏ đề tài nghiên cứu.

1


A. NỘI DUNG
Chương 1
GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ VĂN HỌC PĀLI
1.1. GIẢI THÍCH CÁC KHÁI NIỆM
1.1.1. Văn học là gì?
Vincent B. Leitch và một số tác giả khác trong quyển “The Norton Anthology of
Theory and Criticism” cho biết, định nghĩa về Văn học thay đổi theo thời gian.
Về mặt từ nguyên, ‘văn học’ bắt nguồn từ tiếng Latin ‘Literatura’, trong đó ‘Litera’ có
nghĩa là ‘chữ cái trong bảng chữ cái’ hay ‘chữ viết tay’’ ‘tura’ là hậu tố thêm vào danh
từ. Do đây, ‘Literatura’ được dùng để chỉ các tài liệu được viết thành văn.
Theo nghĩa rộng, ‘Văn học’ chỉ cho các tác phẩm được viết thành văn; theo nghĩa
hẹp, ‘Văn học’ là một dạng văn bản có giá trị nghệ thuật và trí tuệ.
Dựa vào các định nghĩa hiện đại, ‘Văn học’ bao gồm các văn bản thành văn và Văn
học dân gian (Văn học truyền miệng). Ngày nay, với sự phát triển của công nghệ
thông tin, Văn học bao gồm cả Văn học điện tử.
1.1.2. Pāli là gì?
a.Định nghĩa:
Theo ngài Buddhaghosa, ‘Pāli’ dùng để chỉ cho Chánh tạng như trong cụm từ

“Pāliñca Aṭṭhakathañca” (Chánh tạng và Chú giải). Ở đây, Pāli được hiểu là lời dạy
của đức Phật và chư vị Thánh Tăng thời Phật.Trong Saddanīti, ngài Aggavaṃsa Thera
định nghĩa: “Atthaṃ pāletīti Pāli”; nghĩa là: “Ngơn ngữ có thể giữ được nguyên nghĩa
của từ được gọi là Pāli”.
Theo B.C.Law trong ‘A History of Pāli Literature’, Pāli là tên viết tắt của một ngôn
ngữ, viết đầy đủ là: ‘Pāli-bhāsā’, trong đó ‘Pāli’ nghĩa là ‘Kinh điển’ và ‘bhāsā’ nghĩa
là ‘ngôn ngữ’.
b.Giải tự
Trong tác phẩm ‘An Introduction to Pāli Literature’, Tiến sĩ S.C. Banerji đưa ra 3
giả thuyết khác nhau về cách giải tự từ Pāli:
-Pāli thoát thai từ chữ Pamkti. Tiến trình biến hóa ngữ âm như sau:
Pamkti - Pamti -Paṃti - Paṃli - Pāli
Pāli có nguồn gốc từ chữ Pālli.
Pāti -Patti - Paṭṭi -Pālli - Pāli
Pāli là tên gọi ngôn ngữ thành Pātaliputta.
-Pātaliputta - Pātali –Pāli
1.2. Văn học Pāli là gì?
Như đã định nghĩa: “Văn học chỉ chung cho các tác phẩm viết hoặc truyền miệng”;
và Pāli, theo nghĩa ‘Pāli-bhāsa’, là tên ngôn ngữ dùng để chuyển tải những lời dạy của
đức Phật và chư vị Thánh Tăng. Do đây, Văn học Pāli chỉ chung cho các tác phẩm văn
học được viết hoặc nói bằng tiếng Pāli.
+ Văn học Pāli truyền miệng: gồm Tam tạng Kinh điển được truyền tụng từ thời đức
Phật cho đến thế kỷ I trước Tây lịch.
2


+ Văn học Pāli thành văn: gồm các văn bản được viết từ thế kỷ I trước Tây lịch cho
đến hiện nay.
1.3.Nguồn gốc tiếng Pāli
Pàli là ngôn ngữ xưa nhất trong nhóm ngơn ngữ Ấn Âu trung đại.

Chữ "Pàli" được dùng để chỉ các Tam Tạng Kinh Luật Luận (hệ Phật Giáo Nam
1

truyền). Theo Childers , tiếng Magadhi (Ma-Kiệt-Đà) là một trong những tiếng bản xứ
Prakrits hoặc Arya của thời Ấn Độ cổ. Ngơn ngữ Prakrits này được nói ở thế kỷ thứ
6 trước CN ở Magadha (Ma- Kiệt-Đà), gần tỉnh Bihar ngày nay, là một trong những
trung tâm quan trọng nhất của nền văn minh Ấn Độ vào thời của Đức Phật. [1A
Dictionary of the Pali Language (Từ Điển Ngôn Ngữ Pali), tác giả Robert Caesar
Childers, tái bản năm 1974, Nxb Buddha Sasana Council, Yangon, Myanmar.]
Một nghĩa trong từ Pali có nghĩa là “đường thẳng, hàng, dãy” và Phật Giáo Nguyên
Thủy dùng từ này để biểu thị ý nghĩa là những hàng, dãy hay hệ thống kinh sách đã
tạo nên kho tàng Kinh Điển Phật Giáo. Vì vậy, từ Kinh Điển Pali (tiếng Anh: Pali
Text), là đồng nghĩa với “Kinh Điển Phật Giáo Nguyên Thủy”. Và Pāḷi-bhāsā có
nghĩa là “ngơn ngữ của kinh điển đó, ngơn ngữ dùng trong kinh”, và dĩ nhiên nó đồng
nghĩa với chữ: “ngơn ngữ magadhi” (Ma-Kiệt-Đà) là tên ngôn ngữ duy nhất được
dùng trong kinh sách của Phật Giáo Nguyên Thủy, được xem là ngôn ngữ thiêng
liêng của Phật giáo. Là một ngôn ngữ, tiếng Pali là nhất quán trong một ý nghĩa đó là:
được bảo tồn hoàn toàn (để sử dụng) cho một chủ đề, đó là chỉ để ghi chép một chủ
đề là ‘Giáo Pháp của Đức Phật’, chứ không phải là một ngôn ngữ được bảo tồn để sử
dụng vào những mục đích giao tiếp, ghi chép khác.
Thật rõ một điều là các Trưởng Lão (Theras) đã thật sự ghi nhớ được tất cả kinh
Pháp (Dhamma) và kinh Luật (Vinaya) bằng ngơn ngữ gốc của Đức Phật vốn sau đó
đã trở thành một ngơn ngữ trong Kinh văn cổ (khơng cịn là ngơn ngữ nói như xưa).
Nhờ vào lịng nhiệt tâm tôn giáo, sự cống hiến tận tụy và kỹ năng về trí nhớ của
những Tỳ kheo thời cổ xưa trong việc bảo tồn và lưu truyền những Giáo Pháp của
Đức Phật thông qua con đường truyền miệng (cho đến kỳ kiết tập Kinh Tạng lần thứ 3
(khoảng 235 năm sau khi Đức Phật nhập Niết bàn.) Tiếng Pali là ngôn ngữ ‘nói’,
khơng có chữ viết đi theo và trong những đất nước nó được dùng như ngơn ngữ
thiêng, thánh ngữ của cư dân mình, như: Tích Lan (Sri Lanka), Miến Điện
(Myanmar) và Thái Lan, Pali được viết theo bộ chữ viết riêng của mỗi nước.


 Mẫu chữ Pāli tại các quốc gia

Devanagari

Sinhala

Thailand

Khrme

Latin

Bước qua thời kỳ hiện đại, bảng chữ cái La-tinh (the Roman alphabets) đã được sử
dụng rộng rãi (để ghi chú nhiều ngôn ngữ trên thế giới, như Việt Nam, Mỹ, Anh, v
v…), cho nên sự hữu ích này cũng được nhìn thấy rõ và người ta đã phiên chuyển
3


cách viết tiếng Pali bằng mẫu tự La-tinh: dễ đọc, rõ ràng, dễ đánh máy. Từ đó, việc
học và phổ biến Kinh Điển Pali được phát triển theo hướng này đến ngày hôm nay
Chương 2
GIÁO LÝ NĂM UẨN TRONG KINH TẠNG PĀLI
2.1.ĐỊNH NGHĨA VỀ NĂM UẨN VÀ NỘI DUNG NĂM UẨN
2.1.1. Định nghỉa năm uẩn.
Năm uẩn, Phạn ngữ là Pãnca-skandha (Sanskrit), Pãnca khandha (Pāli). Pãnca là
năm; Khandha là nhóm, là yếu tố là tích tụ, Ngài Huyền Trang dịch là Ngũ uẩn; Ngài
La Thập dịch là Ngũ ấm, ấm nghĩa là ngăn che, chướng ngại (che mất chân tánh) Năm uẩn là năm yếu tố hay năm nhóm kết hợp lại tạo thành con người; hay nói cách
khác, con người là một hợp thể của năm yếu tố, gồm có: Sắc uẩn (Rūpa) là yếu tố sinh
lý - vật lý; Thọ uẩn (Vedanā) là yếu tố cảm giác; Tưởng uẩn (Sãnnã) là yếu tố tri giác,

là sự nhận biết đối tượng giác quan hay tâm lý; Hành uẩn (Sankhāra) là yếu tố tâm lý
hoạt động ngoài Thọ và Tưởng là những tâm lý tạo động lực đi tới tạo nghiệp và kết
quả của nghiệp như ước muốn, quyết định... thuộc ý chí cịn gọi là Tư; Thức uẩn
(Vinãna) là yếu tố nhận thức, phát hiện sự có mặt của đối tượng, gồm có sáu thức.
Thức làm nền tảng cho Thọ, Tưởng và Hành, theo Duy thức học thì có tám thức. Thức
là Tâm vương (Citta); Thọ, Tưởng, Hành là Tâm sở (Cetasika).
2.1.2.Nội dung của Năm uẩn
Các yếu tố hình thành con người
Năm thủ uẩn (Pañcupādāna-kkhandha): D. III.278; S.III.47; PS.II.109; Vism.505:
1. Sắc thủ uẩn (Rūpūpādānakkhandha), nội sắc uẩn (lục phủ ngũ tạng...), ngoại sắc
uẩn (địa, thủy, hỏa, phong). Thắng Pháp: Sắc pháp được cấu tạo bởi bốn đại chủng:
đất, nước, gió, lửa (mahabhutani) và tứ đại sở tạo sắc (upadaya rupani) là sắc do 4 đại
hợp thành. Cái gì cứng là địa đại, ướt là thủy đại, nóng là hỏa đại, động là phong đại.
2. Thọ thủ uẩn (Vedanūpādānakkhandha), khổ, lạc, ưu, hỷ, xả. Câu xá luận: ‘Thọ lãnh
nạp tùy xúc’ có nghĩa là sự lãnh nạp tùy theo cảnh của xúc .. thọ y nơi xúc mà sanh
vậy’
3. Tưởng thủ uẩn (Saññūpādānakkhandha), kinh nghiệm, hồi tưởng và ký ức về sắc,
thinh, hương, vị, xúc, pháp. Gồm có tưởng sắc, thọ, tưởng... thức tưởng. Câu xá luận:
‘Tưởng thủ tượng vi thể’, nghĩa là tưởng có cơng năng đối cảnh rồi chấp giữ các hình
tượng sai khác. - Thành duy thức luận nói: Tác nghiệp của tưởng là thi thiết các loại
ngơn từ và tên gọi để xây dựng các cảnh tướng. ‘Cũng như những cảm giác (thọ),
tưởng được phát sanh do sự tiếp xúc giữa 6 căn với ngoại giới. Chính những tri giác
này, nhận biết sự vật là vật lý hay tâm linh’
4. Hành thủ uẩn (Saṅkhārūpādānakkhandha) tư duy, nghĩ thiện ác bao gồm mọi hoạt
động xấu hay tốt của ý chí và những gì được xem là nghiệp (kamma). - Ðại Thừa ngũ
uẩn luận: ‘Tư là chủ của hành uẩn vì nó dẫn đầu tất cả các pháp’, vì chức năng của tư
là hướng ý đi vào phạm vi các hành động. Hành bao gồm sắc tư, thọ tư, . . thức tư, là
sự thể hiện, hình thành các pháp hữu vi. Cũng chính là nghiệp thiện, ác dẫn chúng
sinh đi thọ thai và luân hồi sanh tử.
5. Thức thủ uẩn (Viññāṇūpādānakkhandha), sáu thức giác quan.- Thiền sư Khuê

Phong nói: ‘Thức như huyễn và mộng mị, chỉ bản tâm là thực có’.
4


b) Vô ngã luận (anatta vada)- S.I.134: “Tự ngã (atta/ atman) chẳng phải tự có, chẳng
do ai tạo, do nhân duyên (ketum paticca) mà sinh, do nhân duyên mà diệt, cũng như
hạt giống ngoài đồng ruộng gặp đất, nước và ánh sáng mà nảy nở.” Kinh Thủ Lăng
Nghiêm:(1) Thân thể giống như hoa đốm: chẳng phải ngẫu nhiên, tự nhiên.(2) Cảm
giác do dun tiếp xúc, hội đủ dun thì có, thiếu duyên thì tan, vốn là hư vọng.(3) Tri
giác giống như việc tưởng trái mơ chua thì tiết ra nước miếng, nghĩ đến leo dốc cao
thì lịng bàn chân ghê rợn => hư vọng. (4) Tâm tư như dòng nước chảy mạnh, làn
sóng nối tiếp, lớp trước lớp sau chẳng vượt khỏi nhau. (5) Thức ấm như hư không, đặt
trong dụng cụ nào thì có hình thù đó.- Trị liệu khổ đau: Tương Ưng bộ III, 95. 96
(TMC dịch): “Thế nào là năm uẩn? Bao gồm sắc, thọ, tưởng, hành, thức, quá khứ,
hiện tại, vị lai thuộc nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần... Cần phải
như thật quán với chánh trí huệ: năm uẩn là vơ thường, cái gì vơ thường cái đó gây
khổ đau, cái gì khổ đau thì hãy quán chiếu rằng ‘Cái này không phải là của tôi, cái này
không phải là tôi, cái này không phải là tự ngã của tôi’”.
Nguồn gốc con người
a) Các học thuyết căn bản
* Thần ý luận (issara nimmana hetu) => Duy thần = Đại phạm thiên là đấng sáng thế,
* Ngẫu nhiên luận (ahetu apaccaya). * Duy vật luận.* Duy tâm luận
b) Vòng luân hồi 12 mắc xích (Paṭiccasamuppāda):
Vin.I.1; S.II.1; Vbh.135; Vism.517: Mười hai duyên sinh = hữu luân (bhavacakka) =
bánh xe sanh tử.
1. Vô minh (Avijjā) si mê, thiếu trí tuệ về nhân quả và đạo đức.
2. Hành do duyên vô minh (Avijjāpaccayā saṅkhārā) phi phúc hành, phúc hành và bất
động hành.
3. Thức do duyên hành (Saṅkhārapaccayā viññāṇaṃ) gồm sáu thức giác quan do
nghiệp hành tạo ra.

4. Danh sắc do duyên thức (Viññāṇapaccayā nāmarūpaṃ). Danh là ba uẩn sở hữu tâm
đồng sanh với thức uẩn quả. Sắc ở đây là sắc nghiệp tục sinh.
5. Lục nhập do duyên danh sắc (Nāmarūpa-paccayā saḷāyatanaṃ), còn gọi là sáu nội
xứ: nhãn xứ, nhĩ xứ, tỷ xứ, thiệt xứ, thân xứ, và ý xứ.
6. Xúc do duyên lục nhập (Saḷāyatanapaccayā phasso) sự tiếp xúc giữa căn với cảnh
và thức, gồm có nhãn xúc, nhĩ xúc, tỷ xúc, thiệt xúc, thân xúc và ý xúc.
7. Thọ do duyên xúc (Phassapaccayā vedanā) gồm khổ, lạc và phi khổ, phi lạc, hoặc
khổ, lạc, ưu, hỷ và xả.
8. Ái do duyên thọ (Vedanāpaccayā taṇhā) dục ái, hữu ái và phi hữu ái.
9. Thủ do duyên ái (Taṇhāpaccayā upādānaṃ) gồm dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ và
ngã chấp thủ.
10. Hữu do duyên thủ (Upādānapaccayā bhavo). Hữu ở đây là nghiệp hữu, tức là thân
nghiệp, khẩu nghiệp, và ý nghiệp có thiện và bất thiện.
11. Sanh do duyên hữu (Bhavapaccayā jāti) tức sanh hữu, cõi sống của chúng sanh
như là dục hữu, sắc hữu và vô sắc hữu, hoặc ngũ uẩn hữu, tứ uẩn hữu và nhất uẩn hữu.
12. Lão, tử => sầu, bi, khổ, ưu, ai do duyên sanh (Jātipaccayā jarāmaraṇaṃ
sokaparidevadukkhado-manassupādāyāsā).
A- Ba thời (Addhā):
1. Quá khứ: gồm hai chi là vô minh và hành.
2. Hiện tại: gồm tám chi là thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu.
5


3. Vị lai: gồm hai chi là sanh, Lão-tử, (sầu - bi - khổ - ưu - ai).
B- Bốn yếu lược (Saṅkhepa):
1. Nhân quá khứ: vô minh, hành.
2. Quả hiện tại: thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ.
3. Nhân hiện tại: ái, thủ, hữu.
4. Quả vị lai: sanh, lão-tử-sầu-bi-khổ-ưu-ai.
C- Hai mươi hành tướng (Ākāra):

a) 5 nhân quá khứ: vô minh, hành, ái, thủ, hữu.
b) 5 quả hiện tại: thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ.
c) 5 nhân hiện tại: vô minh, hành, ái, thủ, hữu.
d) 5 quả vị lai: thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ.
D- Ba luân (Vaṭṭa):
1. Phiền não luân: vô minh, ái, thủ.
2. Nghiệp luân: hành và hữu.
3. Quả luân: thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, sanh, lão-tử-sầu-bi-khổ-ưu-ai.
E. Tương tích nghiệp và nhân cách
- Nghiệp và quả rất thỏa đáng. Bảo toàn nhân cách đời trước và đời sau.
F. Chặt đứt sanh tử
a) Thuyết thuận chiều (Anuloma), là trình bày theo khía cạnh tập khởi của khổ uẩn
(Dukkhakkhandhassa samudayo hoti). Như là "Avijjāpaccayā saṅkhārā (Vô minh
duyên hành) v.v... => thấy rõ khổ tập thánh đế.
b) Thuyết nghịch chiều (Paṭiloma), là trình bày theo khía cạnh đoạn diệt của khổ uẩn
(dukkhak-khandhassa nirodho hoti). Như là Avijjāya tveva asesavirāganirodhā
saṅkhāranirodho (do sự đoạn diệt vơ nhiễm hồn tồn đối với vô minh nên hành diệt)
v.v..."
Giải quyết các vấn nạn con người (Ariyasaccāni) D.III.277, S.V.421, Vbh.99, Vin.I.9
1. Khổ thánh đế (Dukkhaṃ ariyasaccaṃ). Như sanh già bệnh chết, oán hội ngộ, ái biệt
ly, cầu biết đắc, tóm lại ngũ thủ uẩn là khổ.
2. Khổ tập thánh đế (Dukkhasamudayo ariya-saccaṃ). Gồm tham ái (dục ái, hữu ái và
phi hữu ái), sân hận, si mê, chấp thủ.
3. Khổ diệt thánh đế (Dukkhanirodho ariya-saccaṃ) trạng thái đoạn diệt hồn tồn
khát ái, khơng cịn thủ truớc, vơ nhiễm, an tịnh và giải thốt.
4. Khổ diệt đạo lộ thánh đế (Dukkhanirodha-gāminīpaṭipadā ariyasaccaṃ) gồm chánh
kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm
và chánh định.
Tóm lại, năm uẩn là hợp thể của sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn,
là một kết hợp giữa tâm lý và vật lý để tạo nên một chúng sanh (con người) mà điểm

trọng yếu khi phân tích một con người tồn diện thì ta thấy gồm hai yếu tố chính, đó
là thân và tâm hay vật chất và tinh thần.Trong năm uẩn sắc là thể chất, thọ là cảm tính
cảm giác, tưởng là tri giác là so sánh, hành là chọn lựa là quyết định, thức là nhận biết
phân biệt. Như vậy, con người chúng ta hiện hữu khơng có gì khác ngồi năm yếu tố
này mà danh từ chun mơn của Phật học được gọi là Ngũ uẩn. Tu tập theo giáo lý
Ngũ uẩn sẽ thành tựu giải thoát nếu quán chiếu thâm sâu thấu triệt được chúng đều là
Không, Duyên sinh-Vô ngã.
2.2.Những bài kinh trong kinh tạng pāli liên hệ tới năm uẩn

6


Kinh Đáng được ăn (Tương ưng III, 161)
3) Này các Tỷ-kheo, những Sa-mơn hay Bà-la-mơn nào có nhớ đến các đời sống ở các
kiếp trước, tất cả họ đều nhớ đến năm thủ uẩn hay nhớ đến một trong những uẩn này.
4)Thế nào là năm? - Này các Tỷ-kheo, có người nhớ rằng: “Trong quá khứ, thân ta
như thế này”. Nhớ như vậy, vị ấy nhớ đến sắc. - Hay có người nhớ rằng: “Trong quá
khứ, ta có cảm thọ như thế này”. Nhớ như vậy, vị ấy nhớ đến thọ. - Hay có người nhớ
rằng: “Trong quá khứ ta có tưởng... có các hành... có thức như thế này”. Nhớ như
vậy,vị ấy nhớ đến tưởng… hành… thức.
5)Này các Tỷ-kheo, thế nào gọi là sắc? Bị thay đổi, này các Tỷ-kheo, nên gọi là sắc.
Bị thay đổi bởi cái gì? Bị thay đổi bởi lạnh, bị thay đổi bởi nóng, bị thay đổi bởi đói,
bị thay đổi bởi khát, bị thay đổi bởi sự xúc chạm của ruồi, muỗi, gió, sức nóng và rắn.
Bị thay đổi, này các Tỷ-kheo, nên gọi là sắc.
6) Này các Tỷ-kheo, thế nào gọi là thọ? Được cảm thọ, này các Tỷ-kheo, nên gọi là
thọ. Cảm thọ gì? Cảm thọ lạc, cảm thọ khổ, cảm thọ phi khổ phi lạc. Được cảm thọ,
này các Tỷ-kheo, nên gọi là thọ.
7)Này các Tỷ-kheo, thế nào gọi là tưởng? Nhận rõ, này các Tỷ-kheo, nên gọi là tưởng.
Nhận rõ gì? Nhận rõ màu xanh, nhận rõ màu vàng, nhận rõ màu đỏ, nhận rõ màu
trắng. Nhận rõ, này các Tỷ-kheo, nên gọi là tưởng.

8)Này các Tỷ-kheo, thế nào gọi là hành? Làm cho hiện hành (pháp) hữu vi nên gọi là
hành. Làm cho hiện hành (pháp) hữu vi gì? Làm cho hiện hành sắc với sắc tánh - Làm
cho hiện hành thọ với thọ tánh - Làm cho hiện hành tưởng với tưởng tánh - Làm cho
hiện hành các hành với hành tánh - Làm cho hiện hành thức với thức tánh. Làm cho
hiện hành (pháp) hữu vi, nên gọi là các hành.
9)Này các Tỷ-kheo, thế nào gọi là thức? Rõ biết, này các Tỷ-kheo, nên gọi là thức. Rõ
biết gì? Rõ biết chua, rõ biết đắng, rõ biết cay, rõ biết ngọt, rõ biết chất kiềm... rõ biết
không phải chất kiềm, rõ biết mặn, rõ biết không mặn. Rõ biết, này các Tỷ-kheo, nên
gọi là thức.
10) Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Đa văn Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: “Nay ta bị sắc
chinh phục. Trong thời quá khứ, ta cũng bị sắc chinh phục, như ta bị sắc hiện tại chinh
phục. Nếu ta hoan hỷ đối với sắc vị lai, thời trong vị lai, ta sẽ bị sắc chinh phục, như
nay ta bị sắc hiện tại chinh phục”. Do suy nghĩ như vậy, vị ấy khơng có luyến tiếc đối
với sắc q khứ, khơng có hoan. hỷ đối với sắc vị lai, và thực hành sự yếm ly, ly tham,
đoạn diệt đối với sắc hiện tại.
12) “Ta nay bị thọ chinh phục…
13) “Ta nay bị tưởng chinh phục..”.
14) “Ta nay bị các hành chinh phục..”.
15) “Ta nay bị thức chinh phục. Trong thời quá khứ, ta cũng bị thức chinh phục như
vậy, như nay ta bị thức hiện tại chinh phục. Nếu ta hoan hỷ đối với thức vị lai, thời
trong thời vị lai, ta sẽ bị thức chinh phục, như nay ta bị thức hiện tại chinh phục”. Do
suy nghĩ như vậy, vị ấy khơng có luyến tiếc đối với thức q khứ, khơng có hoan hỷ
đối với thức tương lai, và thực hành sự yếm ly, ly tham, đoạn diệt đối với thức hiện
tại. Này các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào, sắc, thọ, tưởng, hành, thức là thường hay
vô thường? - Là vơ thường, bạch Thế Tơn. - Cái gì vơ thường là khổ hay lạc? - Là
khổ, bạch Thế Tôn. - Cái gì vơ thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi
quán cái ấy là: “Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi”? - Thưa
không, bạch Thế Tôn. Do vậy, này các Tỷ-kheo, đối với sắc, thọ, tưởng, hành, thức
7



quá khứ, vị lai, hiện tại, thuộc nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng... xa hay gần,
tất cả cần phải như thật quán với chánh trí tuệ là: “Cái này không phải của tôi, cái này
không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi .“
Như vậy ,sau khi thấy biết rõ về ngũ uẩn, ta cần phải tập sự quán chiếu ngũ uẩn như
đã được Đức Phật hướng dẫn trong bài kinh. Nhờ sự như lý tác ý này mà tâm sanh
nhàm chán đối với ngũ uẩn. Do nhàm chán nên mới có thể tách ly tâm khỏi lòng tham
ái đối với chúng. Do ly tham đối với ngũ uẩn thì mới có thể giải thốt tâm khỏi mọi
trói buộc, dính mắc, chấp thủ đối với ngũ uẩn. Đó là con đường đưa đến sự đoạn tận
khát ái, sự giải thốt hồn tồn đối với ngũ uẩn, tâm đạt được tịch tịnh Niết-bàn.
Kinh Trăng rằm(Tương ưng III,182)
Bạch Thế Tơn, có phải có năm thủ uẩn này: tức là sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ
uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn? Này Tỷ-kheo, có năm thủ uẩn, tức là sắc thủ uẩn...
thức thủ uẩn.Lành thay, bạch Thế Tơn.Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy,
rồi hỏi thêm Thế Tôn một câu khác: Bạch Thế Tơn, năm thủ uẩn này lấy gì làm căn
bản? Này Tỷ-kheo, năm thủ uẩn này lấy dục làm căn bản.Lành thay, bạch Thế Tôn...
Bạch Thế Tôn, chấp thủ ấy là năm thủ uẩn ấy hay chấp thủ ngoài năm thủ uẩn? Này
Tỷ-kheo, chấp thủ ấy không tức là năm thủ uẩn ấy và chấp thủ cũng không phải ngồi
năm thủ uẩn. Nhưng chỗ nào có tham và dục, chỗ ấy có chấp thủ.
Dưới hình thức nào, bạch Thế Tơn, có định nghĩa về uẩn của các uẩn?
- Phàm sắc gì, này Tỷ-kheo, thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc nội hay ngoại, hoặc
thô hay tế, hoặc liệt hay thắng, hoặc xa hay gần; đây gọi là sắc uẩn. Phàm thọ gì...
Phàm tưởng gì... Phàm các hành gì... Phàm thức gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc
nội hay ngoại, hoặc thô hay tế, hoặc liệt hay thắng, hoặc xa hay gần; đây gọi là thức
uẩn. Dưới hình thức như vậy, này Tỷ-kheo, có định nghĩa về uẩn của các uẩn.
Kinh SAMÔN (Tăng chi I, 415)
1. - Này các Tỷ-kheo, có ba hạnh Sa-mơn cần phải làm này của Sa-mơn. Thế nào là
ba? - Thọ trì tăng thượng giới học, - Thọ trì tăng thượng tâm học, - Thọ trì tăng
thượng tuệ học. Đây là ba hạnh Sa-mơn cần phải làm của Sa-mơn.
2. Ví như, này các Tỷ-kheo, một con lừa đi theo sau lưng đàn bò nghĩ rằng : “Ta cũng

là con bò, ta cũng là con bị”, nhưng nó khơng có màu sắc giống như con bị. Nó
khơng có tiếng giống như con bị. Nó khơng có chân giống như con bị. Tuy vậy, nó
vẫn đi theo đàn bò, nghĩ rằng : “Ta cũng là con bò, ta cũng là con bò”. Cũng vậy, này
các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo đi theo sau lưng chúng Tỷ-kheo, nghĩ rằng : “Ta cũng là
Tỷkheo, ta cũng là Tỷ-kheo”. Nhưng vị ấy khơng có ước muốn thọ trì tăng thượng
giới học như các Tỷ-kheo khác. Vị ấy khơng có ước muốn thọ trì tăng thượng tâm học
như các Tỷ-kheo khác. Vị ấy khơng có ước muốn thọ trì tăng thượng tuệ học như các
Tỷ-kheo khác. Tuy vậy, vị ấy vẫn đi theo sau lưng chúng Tỷ-kheo, nghĩ rằng: “Ta
cũng là Tỷ-kheo, ta cũng là Tỷ-kheo”. Do vậy, này các Tỷ-kheo, hãy học tập như sau :
- “Sắc bén sẽ là ước muốn chúng ta để thọ trì tăng thượng giới học. - Sắc bén sẽ là ước
muốn chúng ta để thọ trì tăng thượng định học.Sắc bén sẽ là ước muốn chúng ta để thọ
trì tăng thượng tuệ học”. Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy cần phải học tập.
Ý nghĩa của bài kinh này thật là thâm thuý, sâu sắc, để người con Phật phản quan tự
kỷ, xem lại chính mình. Ví như một người cư sĩ tự nhận mình là con của Đức Phật
nhưng vị này khơng thực hành theo giới định tuệ mà Đức Phật đã hướng dẫn, thì dù vị
này tự xưng mình là cư sĩ nhưng vị này không thật sự là vị cư sĩ chân chánh con của

8


Đức Phật. Vì vậy, người cư sĩ này cần phải cố gắng tu tập và hành trì theo giới định
tuệ mà Đức Phật đã hướng dẫn.
Kệ pháp cú số 62
Kệ pāli: Puttā matthi dhanammatthi
iti bālo vihaññnati
Attā hi attano natthi
kuto puttā kuto dhanaṃ
Việt dịch: “Con tôi, tài sản tôi,
Người ngu sanh ưu não,
Tự ta, ta khơng có,

Con đâu, tài sản đâu.”
Bài kệ trong câu kinh Pháp cú này, đức Phật dạy rằng: Con người do vô minh sống
trong điên đảo nên khổ đau, phiền muộn, từ đó bị lầm chấp, bị tác động bởi người
thân: cha mẹ, con cái, tài sản, sự nghiệp, danh vọng, sắc dục, ăn ngon, ngủ nghỉ…
Nên con người bị chi phối, bị nô lệ bởi nghiệp. Nghiệp được xuất phát ở đây chỉ cho
con người chạy theo ngũ dục, đam mê theo những khát ái, khát vọng, vọng tưởng,
điên đảo. Say mê đắm nhiễm theo nên khổ, nên phải bị trầm luân sáu nẻo.
Cũng trong bài kinh Ðại kinh Giáo giới La-hầu-la (Mahā Rāhulovāda sutta) số 62
trong Trung Bộ Kinh(Majjhima Nikaya),Đức Phật cũng dạy con ngài là Rahula(LaHầu-La),quán sát năm uẩn là vô thường,khổ,vô ngã:
“Này Rahula, bất cứ sắc pháp nào, quá khứ, vị lai, hiện tại, nội hay ngoại, thô hay tế,
liệt hay thắng, xa hay gần, tất cả sắc pháp phải được quán sát như thật với chánh trí
tuệ: "Cái này khơng phải của ta, cái này không phải là ta, cái này không phải tự ngã
của ta".
-- Bạch Thế Tơn, có phải chỉ sắc mà thơi? Bạch Thiện Thệ, có phải chỉ sắc mà thôi?
-- Cả sắc, này Rahula; cả thọ, này Rahula; cả tưởng, này Rahula; cả hành, này Rahula;
và cả thức, này Rahula.”
Như vậy,Ngũ uẩn ngăn che trí tuệ sẵn có trong con người như những đám mây che
lấp ánh sáng mặt trời. Con người do những dục vọng luôn nảy sinh làm cho mê mờ,
không nhận thấy được cái ta chân thật, cái Phật tính tiềm ẩn trong mỗi con người. Con
người thường hay bám vào cái ta, cái của ta, đuổi theo dục vọng lại càng bị trói chặt
trong cuộc sống tội lỗi, khổ đau. Do đó, nếu khơng thấy rõ và khơng nắm vững giáo lý
ngũ uẩn thì chính ngũ uẩn làm cho con người ln ln đau khổ, trở thành gánh nặng
của con người.

9


Chương 3
ỨNG DỤNG SỰ TU TẬP NĂM UẨN TRONG ÐỜI SỐNG HIỆN TẠI
3.1.NHẬN DIỆN NĂM UẨN TRONG ĐỜI SỐNG CON NGƯỜI

3.1.1. Nguyên nhân của khổ đau của con người
Trong bài pháp đầu tiên tại Vườn Lộc Uyển, Đức Phật đã thuyết về Tứ Diệu đế như
sau: “…Này các tỷ kheo, đây chính là Khổ thánh đế: sinh là khổ, già là khổ, bệnh là
khổ, chết là khổ, oán ghét gặp nhau là khổ; thân ái biệt li là khổ, cầu không được là
khổ và chấp thủ năm uẩn là khổ…” .Trong tám cái khổ đó, cái khổ cuối cùng là Ngũ
ấm xí thạnh khổ tức là cái khổ do hiện hữu năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức), do
sự phát huy mạnh mẽ của năm uẩn, chính là cái khổ do chấp thủ vào ngũ uẩn gây ra.
Đạo Phật cho rằng khổ đau của con người có nguồn gốc sâu xa từ trong tâm thức.
Các bản kinh của Phật giáo khi đề cập đến nguyên nhân khổ đau của con người đều
nói đó chính là lịng tham. Do tham ái mà con người ta cố bám víu vào các đối tượng
của tham ái, sự khao khát về dục lạc sẽ dẫn đến nỗi khổ niềm đau kéo dài liên miên vì
lịng khao khát tham ái khơng bao giờ dừng, khơng bao giờ thỏa mãn. Phật giáo cũng
chỉ ra rằng nguyên nhân sâu xa hơn và là nguyên nhân căn bản đó là vơ minh, là si
mê, vì khơng thấy rõ bản chất của sự vật và hiện tượng đều do dun sinh, đều vơ ngã
và vơ thường. Vì thế cho nên con người ta chỉ thấy "cái tôi" và "cái của tôi" là quan
trọng nhất. Rõ ràng nếu không chấp ngã và dục vọng, không bị vị kỷ hay phiền não
khuấy động, chi phối, ngự trị trong tâm con người thì cuộc đời đầy an lạc và hạnh
phúc. Vì vậy muốn nhổ cái gốc Vô minh gây đau khổ cho chúng sinh thì phải nhổ tận
gốc cái chấp ngã với việc áp dụng giáo lý Mười hai nhân duyên và Ngũ uẩn. Vì vậy,
nếu ngay trong thế giới Ta bà này, con người làm chủ được cái khổ tức là đã diệt khổ.
Cịn nếu con người khơng có khả năng diệt khổ thì nỗi khổ niềm đau sẽ ln ln theo
như bóng theo hình dù cho họ có ở một thế giới nào mà không biết cách diệt khổ, họ
vẫn phải sống trong cảnh khổ đau.
3.1.2.Phát triển tâm linh
Trước hết, muốn xây dựng một cuộc sống hạnh phúc phải dựa vào pháp và chính bản
thân con người. Trên bình diện xã hội, dựa vào pháp có nghĩa là căn cứ theo quy luật
tự nhiên của xã hội và dựa vào bản thân, là không nương tựa vào Thượng Ðế hay một
quyền năng siêu nhiên nào. Về vấn đề này, Ðức Phật dạy Ngài A-nan:
‘Làm thế nào để có thể là hịn đảo hay chỗ trú ẩn của chính mình. Ấy là nhờ sự đào
luyện của ý thức về thân xác, cảm giác, tâm ... (tu tập Tứ niệm xứ)’[1]. Đức Phật đã

nói về các phương pháp quán chiếu để hiểu được ngũ uẩn là vô ngã, ngũ uẩn là vô
thường, khổ và chịu sự biến hoại để nhận rõ về mỗi uẩn chẳng phải là của Ta, chẳng
phải là Ta và chẳng phải là Tự ngã của ta. Phương pháp quán chiếu đó là phải quán
niệm như thật về mười một phương diện của năm thủ uẩn.
Phương pháp quán chiếu đó gồm:
+ Dùng thiền định(samatha)hay niệm Phật để áp chế mọi vọng tưởng có thể sảy ra
trong tư tưởng để có sự an lạc. Con người ta ai ai cũng ham mê về bản ngã (tức là
10


chấp ngã) ngoại trừ các hành giả đã chứng đạo.Bản ngã là nguồn gốc của vơ minh, từ
đó sinh ra ba thứ vơ mình căn bản tức ba độc tham, sân, si. Do ba độc mà nảy sinh ra
tham đắm về tài, sắc, danh, thực, thùy còn được gọi là đam mê theo ngũ dục lạc. Ngày
nào con người còn lặn hụp trong tài sắc danh lợi an ngon ngủ kỹ này thì cuộc đời
thường bị mê mờ, khơng bao giờ có được an vui, tự tại. Do đó tu theo sơ thiền sẽ làm
cho tâm ta dần dần xa lìa cái bản ngã, khiến cho những căn bản phiền não tham sân si
cũng dần dần tan biến làm cho thân tâm nhẹ nhàng, thanh tịnh và tự tại.
Trong phương pháp tu thiền, sau khi tu nhằm viễn ly, xa lìa bản ngã thì tiến tới tu định
tức là thiền để định tâm mà sinh hỷ lạc.
+ Dùng thiền quán(vipassana). Khi tâm đã định thì giai đoạn kế tiếp là tu Quán nghĩa
là tiếp tục thiền định đến khi nhận chân được chân lý tức là trí tuệ phát sinh. Chỉ có trí
tuệ mới có sức mạnh và cơng năng tiêu diệt ý thức, vọng tưởng. Đến đây thì những vi
tế tham sân si mới thật sự bị hủy diệt, tâm hằng tự tại thanh tịnh Niết bàn.Tu tuệ là
phương tiện cứu cánh để chứng đắc. Một khi trí tuệ đã thấu suốt thì biết đời là vơ
thường, là khổ nhưng khơng trốn tránh cái khổ mà dùng trí tuệ để tận diệt chúng để có
an vui tự tại. Nếu hành giả qn được vạn pháp giai khơng thì tâm khơng cịn dính
mắc, khơng cịn lưu luyến hay bị nhận chìm đọa lạc.Vì vậy Đức Phật đã dạy rằng nếu
xả bỏ tất cả thì sẽ được tất cả.
Tơn chỉ của đạo Phật là diệt khổ ngay trên cõi đời này chứ khơng trốn đời bởi vì khi
ta qn chiếu để thấy rằng cuộc đời là vô thường, là vô ngã, là khổ não, là tịch tịnh thì

ở đâu cũng thanh tịnh, làm việc gì cũng an vui tự tại. Vì vậy ta khơng cịn bám vào
ngũ uẩn và thủ uẩn để đi đến diệt hết nỗi khổ trên đời. Nắm vững giáo lý Ngũ uẩn
chính là bài học diệt khổ để sống an vui tự tại ngay trên cõi đời này. Đó chính là con
đường giải thốt mà đạo Phật hướng cho mọi chúng sinh đi tới.

11


C.KẾT LUẬN
Trong suốt chiều dài lịch sử truyền thừa của Phật giáo được đúc kết từ những lời dạy
của Đức phật hết sức căn bản và với những bài giảng gần gũi với tất cả mọi người mọi
chúng sanh.Nhưng được hình thành và phát triển là do cơng lao giữ gìn và sáng tạo
của các vị đại đệ tử của ngài.Những lời dạy này ngày nay được đúc kết lại trong tam
tạng Pali,Tam tạng này ngày nay là di sản văn hóa của thế giới,văn học Pali là những
tác phẩm lý giải những cuộc thuyết giảng của Đức phật thời bấy giờ được tóm lại
trong văn học Pali,phạm vi ảnh hưởng của văn học Pali rất rộng,các quốc gia trên thế
giới tiếp cận được phật giáo là nhờ văn học pali.Văn tạng Pali ( Canonical pali
literature )bao gồm nhiều pháp thoại do Đức phật thuyết giảng chỗ này hay chỗ khác
trên khắp đất nước Ấn độ cổ đại cho nhiều thành phần khác nhau với câu :''Evam me
sutam'' ngụ ý là sự ghi nhớ nội dung bài pháp bởi một hay nhiều tỳ kheo trực tiếp lắng
nghe bậc đạo sư thuyết giảng,hoặc được nghe lại từ người khác.Trong trường hợp giáo
pháp của bậc đạo sư dược tụng lại từ các kỳ kết tập có sự phong phú về thể loại và ổn
định về nội dung.Có rất nhều pháp thoại được tìm thấy trong văn tạng pali như: Na
tiên tỳ kheo,đây là sự nỗ lực của nhiều thế hệ tỳ kheo trong việc sưu tập và sắp xếp
những lời dạy của bậc đạo sư để lưu vào ký ức,đặc biệt thông qua 6 lần kết tập.
Văn học pali được chia thành ba phần:
- Kinh tạng ( Sutta-pitaka )
-Luật tạng ( Vinaya-pitaka )
-Luận tạng ( Abhidhamma-pitaka )
Ở đây kinh tạng tiêu biểu cho cơ sở giáo lý của Đức phât,luật tạng tiêu biểu cho cơ sở

giới luật do bậc đạo sư ban hành, nhằm hướng dẫn nếp sống kỷ cương của các tỳ kheo
và quy định các hoạt động của tăng già,luận tạng tiêu biểu cho cơ sở triết học và tâm
lý học phật giáo.Cũng qua tạng kinh người học phật sẽ đi xâu vào giáo lý cũng như
tìm cho mình một phương pháp tu tập thích hợp.
Quan nghiên cứu đề tài “giáo lý năm uẩn trong văn học Pāli” mà học viên có cái
nhìn trí tuệ về tự thân ,vì chấp thân năm uẩn mà khổ đau,phải quán chiếu năm uẩn này
do dun sinh,vơ thường,khổ ,vơ ngã đó là con đường đi tới an vui,giải thoát.
Văn phong văn học pāli:Kinh điển pāli dùng thể văn mô tả,tường thuật ký sự,nhiều
điệp từ.Đơn giản ,dễ hiểu,gần gũi đời thường,rõ ràng ,nhất quán.Trong khi đó văn học
kinh đại thừa có văn phong phân tích,âm điệu hấp dẫn,dùng các ẩn dụ ,lời nói bóng
bảy,nhiều nghĩa.

12


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Chú thích:
[1]Con đường thốt khổ, sđd, tr. 92.
Sách :
1. Thích Minh Châu (dịch). Trường Bộ Kinh. HCM: VNCPHVN, 1991.
2. Thích Minh Châu (dịch). Trung Bộ Kinh. HCM: VNCPHVN, 1992.
3. Thích Minh Châu (dịch). Tương Ưng Bộ Kinh. HCM: VNCPHVN, 1993.
4. Thích Minh Châu (dịch). Tăng Chi Bộ Kinh. HCM: VNCPHVN, 1996.
5. Thích Minh Châu (dịch). Tiểu Bộ Kinh, Tập I-X. HCM: VNCPHVN, 1999-2001.
6. Thích Minh Châu (dịch). Kinh Pháp Cú. HCM: Nxb Hồng Đức, 2013.
7. SC.Hiếu Liên,Đề cương môn học(văn học pāli),HVPG VN Tại TP.HCM.
8. Chơn Tín Tồn,Tóm tắt năm uẩn,NXB Hồng Đức,2017.
Báo chí và website trên mạng:
1. Đình Nhân,Đăng tải:27.08.2013,Truy cập:30/01/2021, />2. Ngũ uẩn trong Giáo Lý Nguyên Thủy của Ðức Phật, Đăng tải:22/04/2013, Truy
cập:30/01/2021, />

13



×