Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

MÔN dẫn NHẬP TRIẾT học PHẬT GIÁO đề tài bản CHẤT và mục TIÊU NIẾT bàn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.26 KB, 16 trang )

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP.HỒ CHÍ MINH


MƠN DẪN NHẬP TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO

Đề tài:
BẢN CHẤT VÀ MỤC TIÊU NIẾT BÀN
Giảng Viên Phụ Trách: TT.TS. Thích Nhật Từ
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thu Nga
Pháp danh: TN.Chánh Y
Mã sinh viên: TX 6258
Lớp: ĐTTX Khóa VI
Chun ngành: Triết Học Phật Giáo

TP. Hồ Chí Minh, năm 2021

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM


HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP.HỒ CHÍ MINH


MƠN DẪN NHẬP TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO

Đề tài:
BẢN CHẤT VÀ MỤC TIÊU NIẾT BÀN

Giảng Viên Phụ Trách: TT.TS. Thích Nhật Từ
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thu Nga
Pháp danh: TN.Chánh Y


Mã sinh viên: TX 6258
Lớp: ĐTTX Khóa VI
Chuyên ngành: Triết Học Phật Giáo

TP. Hồ Chí Minh, năm 2021

MỤC LỤC


A.MỞ ĐẦU. ..........................................................................................................................................1
B.NỘI DUNG..........................................................................................................................................2

Chương 1:KHÁI QUÁT VỀ NIẾT BÀN
1.1 Niết bàn là gì?...........................................................................................................2
1.2. Khái niệm Niết bàn trong Phật giáo Tiểu thừa và Phật giáo Đại thừa.....................4
Chương 2:BẢN CHẤT VÀ MỤC TIÊU NIẾT BÀN
2.1. Bản chất Niết bàn.....................................................................................................6
2.2.Mục tiêu Niết bàn.....................................................................................................7
C.KẾT LUẬN........................................................................................................................................12
D.DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................14


A.MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài:
Có những con người đi qua cuộc đời như một cuộc phiêu lưu đày ải, nhưng cũng có
người xem đó là một chuyến rong chơi huyễn hoặc. Tất cả cũng chỉ có một nhưng có
mn vàn tướng trạng và cảm thọ khác nhau. Sống và chết, khổ đau hay hạnh phúc
vẫn luôn là niềm thao thức mn thuở của kiếp người. Chính những niềm thao thức đó
mà con người suốt một đời rong ruổi đi tìm cái ý nghĩa khơng cùng tận của kiếp nhân
sinh. Ta đã từng thấy đâu đó trong kinh điển bóng dáng Kiều Trần Như tôn giả một

thưở xa xưa nào lang thang trong cuộc lữ, tìm lại bóng dáng ngày xưa mà tự hỏi “bản
lai diện mục, đâu? ở đâu? Cho đến khi được gặp lại Sa môn Gotama, người đã đạt
được giác ngộ tối thượng sau một quá trình tìm đạo gian khổ khai thị Ngài mới bừng
ngộ như được trở về nhà sau nữa đời luân lạc.Đức Phật Gotama ngài đã dạy những
điều rất thực tế từ nơi chính con người của mỗi chúng ta và ngay trong đời sống này.
Thi sĩ Bùi Giáng có viết : “Đức Phật đã đem những não nùng sanh lão bệnh tử ra nói
lên cho kiếp phù du thể hội cái nghĩa não nùng, là phát nguyện bi tâm dìu tồn sinh về
bỉ ngạn. Cái chết được thể nghiệm sâu xa sẽ trở thành cái khả năng vơ thượng của con
người…”Có thể nói rằng trong suốt bốn mươi chín năm thuyết pháp, Đức Phật tựu
trung cũng chỉ nói đến một vấn đề duy nhất đó là sự thật của khổ và con đường chấm
dứt khổ đau. Ngài đã chỉ ra một trạng thái an tịnh, trạng thái này là cảnh giới giác ngộ
siêu việt sinh tử, là mục đích thực tiễn rốt ráo của Phật giáo, đó là Niết Bàn. Hành giả
nếu tu tập theo những phương pháp mà Đức Phật đã dạy sẽ chứng đạt Niết Bàn tối
thượng. Niết Bàn là danh từ trừu tượng, khó cho người thơng hiểu được dễ dàng, mà
cũng khó cho vị Pháp sư hay vị Trí thức nào có thể giảng giải được rõ rệt. Mặc dầu vị
Ðại trí tuệ thuở xưa nổi danh là vị thông hiểu Tam-tạng nhứt là Ðại-đức Na-tiên Tỳkheo, cũng vẫn cơng nhận là khó diễn tả được. Vì Niết Bàn là nơi Tuyệt đối mà vạn
vật trên thế gian này đều là vật tương đối nên không thể đem lại để so sánh thí dụ cho
dễ hiểu được. Cũng như người nằm mộng, không thể chỉ giấc mộng của mình cho ai
thấy được, hay là người đang nằm gần, ngồi gần mình, đang canh chừng mình cũng
khơng thấy người đang nằm mộng thấy những gì. Vì vậy nên Ðức Thế Tơn gọi là tự
đắc và tự mình thấy mà thơi. Vì vậy nên trong Thiền tơng hay gọi trạng thái này là
“ẩm thủy tự tri”.Phật giáo từ thời Đức Phật còn tại thế cho đến ngày nay cùng với sự
thăng trầm của lịch sử và các quốc độ mà nó du nhập đã có sự thay đổi ít nhiều nhằm
thích nghi, tồn tại và phát triển. Về mặt hình thức tuy có khác nhưng bản chất thì
giống nhau, Niết Bàn trong Theravada và Mahayana cũng như vậy.Đó là lý do Học
viên chọn đề tài:Bản chất và mục tiêu Niết bàn làm đề tài nghiên cứu.
2.Phương pháp nghiên cứu:
Học viên dùng phương pháp: nghiên cứu của Tôn giáo học, triết học như: phân tích,
tổng hợp, lơgic, lịch sử, khái qt hóa, trừu tượng hóa.
3.Nội dung nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu:

Vì kiến thức hạn chế,học viên chỉ đi xâu nghiên cứu :phân tích niết bàn theo quan
điểm của Phật giáo Theravàda
4.Bố cục tiểu luận:
Gồm 4 phần :
Mở đầu&Nội dung.Nội dung gồm 02 chương có 04 mục.
Phần kết luận & Danh mục tài liệu tham khảo
1


A. NỘI DUNG
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ NIẾT BÀN
1.1 Niết bàn là gì?
Niết bàn, theo tiếng Sanscrit là Nirvana, tiếng Pali là Nibhana. Học giả Đồn Trung
Cịn giải thích: Niết bàn là “cảnh trí của nhà tu hành dứt sạch các phiền não và tự biết
rằng mình chẳng cịn luyến ái”, và theo lối triết tự thì: “Niết (Nir): ra khỏi, Bàn hay
Bànna (Vana): rừng, tức là ra khỏi cảnh rừng mê tối, rừng phiền não”(1). Pháp sư
Huyền Trang triết tự Niết bàn - Nirvana như sau: 1, Nir: ra khỏi, ly khai; vana: con
đường vòng vèo, quanh quẩn, đổi thay. Nirvana là ly khai con đường quanh quẩn,
chuyển dịch (bứt vịng sinh tử ln hồi); 2, Nir: khơng; vana: hơi tanh, dơ bẩn,
Nirvana là không hôi tanh, dơ bẩn (thanh tịnh, trong sạch); 3, Nir: xa lìa, đào thải;
vana: rừng rậm, Nirvana là xa lìa rừng rậm (đào thải những phiền tạp của đời sống).
Mặc dù các cách hiểu này khơng đồng nhất song đều có chung một nghĩa căn bản:
Niết bàn là sự đoạn trừ dục vọng, dứt nghiệp báo luân hồi, thanh tịnh tuyệt đối. Đó là
sự ngưng đọng vĩnh cửu của không - thời gian trong cõi tâm linh sâu thẳm của con
người. Như vậy, Niết bàn trong Phật giáo không phải là một cõi cực lạc có vị trí khơng
- thời gian như thiên đường của Thiên Chúa giáo, mà là một trạng thái tâm linh hồn
tồn thanh thản, n tĩnh, sáng suốt, khơng vọng động, diệt ái dục, xố bỏ vơ minh,
chấm dứt mọi khổ đau, phiền não.
Khi nói tới vấn đề con người, phần lớn các tơn giáo đều thừa nhận con người có hai

phần: phần xác và phần hồn; phần xác thì tồn tại tạm thời cịn phần hồn thì vĩnh cửu
nên sau khi thân xác bị huỷ hoại, linh hồn phải ở nơi nào đó để đầu thai vào một thân
xác mới, tiếp tục cuộc sống mới. Duy nhất có một tơn giáo - triết học Phật giáo khơng
thừa nhận có linh hồn bất tử, bởi thế cũng khơng cần có một khơng gian địa lý cho
linh hồn cư ngụ. Đích của giải thốt trong Phật giáo khơng phải là lên Thiên đường,
trở về với Chúa mà là sự tận diệt cái cá thể đầy những ham muốn dục vọng với sự u
tối của kiếp người để đạt tới Niết bàn.Thực ra, khái niệm Niết bàn không phải là sản
phẩm riêng của Phật giáo. Kinh Upanishad trong Ấn Độ cổ đại đã sử dụng khái niệm
này để chỉ trạng thái hoà nhập của linh hồn cá nhân (Atman) vào với linh hồn vũ trụ
(Brahman), của tiểu ngã vào với đại ngã. Ở đây, Niết bàn được đồng nhất với linh hồn
vũ trụ Brahman. Tới Phật giáo, khái niệm Niết bàn mang một nội dung mới mẻ và độc
đáo hơn so với khái niệm Niết bàn trong Upanishad. Kinh Phật nói như thế nào về
Niết bàn? Đã nhiều lần học trò của Phật hỏi ơng về khái niệm này. Ơng thường tránh
khơng trả lời hoặc đáp rằng: “Cái gì ta chưa bộc lộ sẽ khơng bao giờ được bộc lộ”. Có
gì bí mật trong khái niệm trừu tượng, siêu nghiệm này? Không thể nói về Niết bàn
bằng ngơn từ được. Ngơn từ sẽ trơn trượt, bất khả thuyết về cái bản thể tuyệt đối ấy.
Trong Ngũ bộ kinh, có tới 32 từ có nghĩa tương đương với Niết bàn như: “đáo bỉ
ngạn” (bờ bên kia), “đích cao cả”, “hồn thành”, “chân lý”, “đăng minh”, “an lạc”,
“giải thoát”... Đặc biệt, trong Kinh Niết bàn, khái niệm này đã được đề cập bằng ngôn
ngữ phủ định: “vô sinh”, “khổ diệt”, “vô minh diệt”, “ái diệt”, “vô uý”, “vô tác”, “vô
ám”, “vô ngại”, “vô xuất”... Trong lơgíc học và ngơn ngữ học, cách định nghĩa thơng
thường là quy một khái niệm nhỏ vào một khái niệm lớn hơn rồi chỉ ra những đặc
2


điểm riêng biệt của nó (Định nghĩa qua giống gần gũi và khác biệt về loài). Chẳng
hạn, muốn định nghĩa về “tam giác đều”, trước hết phải quy về khái niệm “tam giác”,
rồi sau đó chỉ ra đặc điểm riêng của tam giác đều để phân biệt với các loại tam giác
khác (có ba cạnh hoặc ba góc bằng nhau). Tuy nhiên, với những khái niệm rộng,
khơng cịn khái niệm nào rộng hơn nữa (phạm trù) thì có một cách định nghĩa độc đáo

là đặt khái niệm đó trong quan hệ với khái niệm đối lập. Trong triết học, có những
phạm trù đã được định nghĩa theo cách này (phạm trù vật chất,...). Trong giáo lý
nguyên thuỷ, Phật đã sử dụng cách định nghĩa độc đáo này, đó là đem đối lập Niết bàn
với thế giới thực tại. Nếu thế giới thực tại là khổ thì Niết bàn là “khổ diệt”, nếu thế
giới thực tại là “bờ bên này (bỉ ngạn) thì Niết bàn là “bờ bên kia” (đáo bỉ ngạn), thế
giới thực tại là mê lầm, không sáng suốt (“vơ minh”) thì Niết bàn là sáng suốt (“vơ
minh diệt”)... Có thể tìm thấy rất nhiều đoạn trong kinh Phật mô tả về Niết bàn: “Sự
tiêu tan của dục vọng là Niết bàn(2), “Sự im bặt của mọi sự vật bị giới hạn, sự dứt bỏ
mọi xấu xa, sự diệt dục vọng, sự giải thoát, chấm dứt, Niết bàn”(3), “Diệt hẳn, mát
mẻ, dứt bặt, gọi là đã lìa tất cả các thủ, ái tận, vô dục, tịch tĩnh, Niết bàn”(3), “Đấy là
sự chấm dứt rốt ráo của chính dục vọng, vứt bỏ nó, thốt khỏi nó, dứt khỏi nó”(4).
Phật ví sự tiếp nối giữa các đời trong vòng luân hồi như sự cháy tiếp nối của các cây
nến. Cây nến này tàn, cây nến khác lại được thắp lên. Sức nóng hay năng lượng của
cây nến cũ đã truyền sang cây nến mới. Giống như vậy, năng lượng của nghiệp truyền
qua các đời. Con người chỉ được giải thoát khi nào tắt dòng năng lượng, chấm dứt
nghiệp báo luân hồi. Có người hỏi Phật: Sau khi chết, người giác ngộ sẽ đi về đâu?
Phật sai người ấy lượm củi khô, nhóm lửa. Càng nhiều củi, lửa càng cháy mạnh, khi
khơng bỏ thêm củi nữa thì đám lửa lụi tàn dần. Phật hỏi: “Lửa đi về đâu?”, “Khơng!
Nó chỉ tắt”. Phật nói rằng, đó chính là điều xảy ra cho người giác ngộ. Dục vọng là
nhiên liệu cho ngọn lửa cháy, truyền năng lượng qua các kiếp luân hồi triền miên. Nếu
khơng ni dưỡng ngọn lửa đó nữa, nghĩa là khơng cịn dục vọng, nó sẽ lụi tàn. Khi
đó, Niết bàn được hiểu như sự thanh lương, mát mẻ. Đôi khi, Phật nói tới Niết bàn
như là cái khơng sinh, khơng tăng trưởng và không giới hạn. Trong Kinh Trung bộ,
Niết bàn được đồng nhất với chân lý tuyệt đối, vượt khỏi những ý niệm nhị nguyên,
tương đối.
Về thực chất, Niết bàn trong Phật giáo là một khái niệm phi thời gian, phi khơng
gian, vơ định về mọi mặt, khơng có điểm khởi đầu và cũng khơng có hồi kết thúc.
Vậy, có thể tìm thấy Niết bàn ở đâu khi Niết bàn không ở trong một không - thời gian
cụ thể? Phật trả lời rằng, có thể tìm thấy Niết bàn không phải ở nơi tận cùng của thế
giới mà ở ngay trong tấm thân một thước mấy của con người. Theo Phật, chính tư duy

sai lầm đã ngăn cách khơng cho con người thấy được Niết bàn trong thực tại. Bởi thế,
để đạt được Niết bàn, trước hết, con người phải khắc phục những sai lầm trong nhận
thức của mình, thốt khỏi vơ minh, giác ngộ được lẽ “vơ thường” và “vô ngã”. Niết
bàn là “vô ngã”: “Niết bàn là cái gì tuyệt đối khơng dung ngã. Niết bàn khơng có hạn
lượng, khơng có nơi chốn, vì Niết bàn là vơ tướng - vơ tướng nên khó vào. Muốn vào
Niết bàn ta cũng phải vô tướng như Niết bàn. Cửa Niết bàn rất hẹp, chỉ bằng tơ tóc,
nên ta khơng thể mang theo hành lý mà hy vọng vào được Niết bàn. Cái thân đã không
mang theo được, mà cả ý niệm về tôi, về ta cũng không thể mang theo được. Cái ta
càng to thì càng xa Niết bàn. Nên biết rằng: hễ hữu ngã là luân hồi mà vô ngã là Niết
bàn”(5).

3


Thoát khỏi cái bản ngã là đạt tới Niết bàn, nếu con người cịn chấp ngã thì sẽ khơng
thốt khỏi những khổ đau nhân thế. Niết bàn là bản thể tuyệt đối với đặc tính thường lạc - ngã - tịnh, trái ngược với vô thường - khổ - vô ngã - bất tịnh của thế giới thực tại.
Walpola Rahula đã phân tích khá sâu sắc trạng thái này: “Người đã chứng ngộ chân lý,
Niết bàn là người hạnh phúc nhất trần gian. Người ấy đã thoát khỏi mọi mặc cảm và
ám ảnh, mọi phiền não và lo âu làm cho những người khác bị điêu đứng. Sức khoẻ và
tinh thần của người ấy thật hồn tồn. Họ khơng hối tiếc quá khứ cũng không mơ
mộng về tương lai. Họ sống hoàn toàn trong hiện tại. Bởi thế họ thưởng thức và vui
hưởng sự vật một cách thuần tuý, không dự phóng. Họ vui vẻ, hoan hỷ thưởng thức sự
sống thuần khiết, sáu giác quan khinh an, không lo lắng, bình thản và thanh thốt. Vì
họ giải thốt khỏi dục vọng ích kỷ, thù hận, vơ minh, kiêu căng ngã mạn và trên cả
những thứ bất tịnh xấu xa ấy. Họ trong sạch, từ hồ, đầy lịng thương bao qt, từ bi,
tử tế, thiện cảm và khoan dung. Họ phục vụ kẻ khác một cách trong sạch nhất, vì
khơng cịn nghĩ gì về mình. Họ khơng kiếm chác, tích chứa gì ngay cả những gì thuộc
địa hạt tâm linh, bởi họ thốt ra khỏi cái tơi và lịng khao khát trở thành...”(6)
1.2. Khái niệm Niết bàn trong Phật giáo Tiểu thừa và Phật giáo Đại thừa
Sau thời Phật giáo nguyên thuỷ (tính từ khi Phật tại thế tới 100 năm sau khi ông mất),

Phật giáo dần dần chia thành hai nhánh: Phật giáo Tiểu thừa và Phật giáo Đại thừa.
Hai nhánh này có quan niệm khơng giống nhau về Niết bàn. Xuất phát từ lập trường
thực tại luận, Tiểu thừa cho rằng, thế giới này tồn tại thực sự, con người cũng tồn tại
thực sự nên những khổ đau của con người cũng là có thật chứ khơng phải chỉ là những
gì thuộc về cảm giác. Từ đó, họ đi tới kết luận, chỉ có thể giải thốt khỏi khổ đau bằng
con đường lánh đời, thoát tục, xuất gia tu hành, lấy “diệt tận là cứu cánh” với phương
châm diệt (diệt mọi phiền não), tận (chấm dứt mọi nghiệp sinh tử), ly (giải thoát khỏi
nỗi khổ trong ba cõi), diệu (đạt tới Vô dư Niết bàn). Niết bàn mà Tiểu thừa hướng tới
là Niết bàn xuất thế, lánh đời, đạt được bằng lối tu kham nhẫn. Với Tiểu thừa, vì vô
ngã là Niết bàn nên muốn đến được Niết bàn, con người phải từ bỏ những thú vui trần
thế, những u thương và khao khát “trở thành”. Khơng cịn những sôi động, buồn vui
nơi nhân thế, Niết bàn chỉ là sự tịch diệt, cô đơn, vắng lặng, cô đơn, buồn tẻ và vô
cảm. Lý tưởng Niết bàn Vô dư tịch tĩnh đã khiến Phật giáo mất dần sức hấp dẫn, khó
thực hiện với mọi người, chỉ dành cho thiểu số người có cơ duyên đặc biệt.
Sự ra đời của Phật giáo Đại thừa thực chất là một phong trào chấn hưng Phật giáo,
xuất phát từ nhu cầu khắc phục những hạn chế trong Tiểu thừa, mong tìm lại chỗ đứng
trong xã hội. Độc đáo nhất trong Đại thừa là quan niệm về Niết bàn. Khái niệm Niết
bàn trong Đại thừa được đẩy lên một nấc thang mới. Nếu Tiểu thừa đề cao Vơ dư Niết
bàn thì Đại thừa nghiêng về phía Hữu dư Niết bàn với một cái nhìn mới mẻ, độc đáo
hơn. Đối với Đại thừa, Niết bàn và ln hồi khơng có gì sai khác. Theo họ, vì bị bóng
tối của đám mây vơ minh bao phủ nên con người mới nhầm lẫn hiện tượng ảo giả với
bản chất đích thực của thế giới. Do đó, giải thốt không cần sự chối bỏ cuộc sống mà
chỉ cần “xuất tự thế gian tướng” để đạt tới trạng thái không còn phân biệt bờ bên này sinh tử và bờ bên kia - giải thốt, khơng cịn phân biệt chúng sinh và Phật, mê và ngộ.
Sinh tử tức Niết bàn, phiền não tức Bồ đề. Niết bàn và luân hồi chỉ là một nhưng nhìn
trong vơ minh thì là ln hồi, nhìn khi giác ngộ là Niết bàn, giống như nhìn sợi dây
thừng trong bóng tối là con rắn nhưng nhìn trong ánh đèn thì chỉ là sợi dây thừng,
khơng cịn đáng sợ nữa. Vì vậy, phải chấp nhận sống trong luân hồi thì mới chi phối
được nghiệp báo luân hồi. Trong Đại thừa, phái Duy thức bổ sung thêm hai loại Niết
4



bàn nữa, là Tự tính thanh tịnh Niết bàn và Bất trụ Niết bàn. Thực chất, đó cũng chỉ là
những dạng thức mới của Hữu dư Niết bàn. Tự tính thanh tịnh Niết bàn chính là bản
tính thanh tịnh vốn có ở cái tâm của mỗi người mà khi đạt tới đó, con người được giải
thốt. Cịn Bất trụ Niết bàn là khái niệm nói về trạng thái của những con người sống
ngay trong thế giới hiện thực, tồn tại trong luân hồi nhưng vẫn tự do tự tại, làm chủ
bản thân mình; đồng thời, tích cực hoạt động cứu giúp những người khác cùng được
giải thốt như mình. Họ sống giữa cõi đời với cái tâm “vô sở đắc” (tâm không cầu
được) với khát vọng giúp cho mọi người cùng được giải thốt khỏi khổ đau như mình.
Cuộc đời của Phật Thích Ca là cuộc đời của một con người “Bất trụ Niết bàn” vì ơng
đã đạt tới Hữu dư Niết bàn từ năm 35 tuổi nhưng không dừng lại mà quay về với cuộc
sống trần tục, tích cực hoạt động truyền giáo trong 45 năm cho lý tưởng cứu độ chúng
sinh. 45 năm đó là 45 năm Bất trụ Niết bàn của người đã đặt chân tới Niết bàn nhưng
không một phút ở yên trong Niết bàn tịch tĩnh.
Như vậy, từ tun ngơn “lìa sinh tử chứng Niết bàn” (thoát khỏi sinh tử mới đạt tới
Niết bàn) của Tiểu thừa tới tuyên ngôn “liễu sinh tử, đắc Niết bàn” (rõ được sinh tử là
đạt tới Niết bàn) của Đại thừa, Phật giáo đã trở nên gần gũi hơn, có sức hấp dẫn hơn
với mọi người. Tới đây, sinh tử hay ln hồi cũng khơng có gì đáng sợ nữa. Khổ đau
đã trở thành cơ duyên giúp con người vươn tới, đạt được lý tưởng cao siêu của giải
thoát. Căm ghét khổ đau khơng giúp con người thốt khỏi khổ đau. Khơng thể xa lìa
sinh tử của cuộc đời trần thế mà cầu tịch diệt, cách ly thế giới hiện tượng mà cầu giải
thốt tâm linh; cũng khơng thể thanh thản, n tĩnh một mình với sự giải thốt trước
những khổ đau nhân thế. Một Niết bàn vô vi, vô cảm, tịch tĩnh và cô đơn trong Tiểu
thừa đã được thay thế bằng một Niết bàn nhân bản, nhập thế, hoạt động cùng những
buồn vui nhân thế của Đại thừa. Theo Đại thừa, để tới được Niết bàn, con người, một
mặt, phải giác ngộ được lẽ vô thường; mặt khác, phải đạt được tự do tinh thần, không
bị ngoại cảnh chi phối, khi nào thoát khỏi chấp ngã (mắc vào cái tơi cá nhân), khi đó
con người đạt tới Niết bàn. Con đường tu đó khơng bao giờ chấm dứt, nên Đại thừa
thường có câu: “Tu đến thành Phật cũng khơng thơi”. Hay cũng có thể nói rằng, đó là
con đường vĩnh viễn luân hồi, vĩnh viễn giải thoát. Sự khác nhau trong quan niệm về

Niết bàn của Tiểu thừa và Đại thừa quy định hai lối tu khác nhau. Với Vô dư Niết bàn,
Tiểu thừa thực hành lối tu xuất thế, lánh đời. Với Hữu dư Niết bàn, Đại thừa thực
hành lối tu nhập thế, sống hoà cùng đời tục nhưng vươn lên giữa cuộc đời.
Có thể thấy rằng, khái niệm Niết bàn trong Phật giáo là một cuộc cách mạng trong
lịch sử tư tưởng Ấn Độ, đem lại một diện mạo mới với sức sống mới cho Phật giáo.
Từ con người cá nhân cô đơn trong lộ trình thăm thẳm tìm về cõi tâm linh bí ẩn tìm
giải thốt trong Niết bàn của Tiểu thừa tới con người sống cùng những buồn vui nhân
thế của Đại thừa, khái niệm Niết bàn đã trở nên hấp dẫn hơn, thể hiện một triết lý sống
nhân bản của tôn giáo - triết học Phật giáo.

5


Chương 2
BẢN CHẤT VÀ MỤC TIÊU NIẾT BÀN
2.1. Bản chất Niết bàn
Niết Bàn không phải là một thực thể, nếu nó là một vật thì nó sẽ là tạo tác, hữu vi,
vơ thường chi phối mà đó là một trạng thái của tâm. Trạng thái vắng mặt hoàn toàn
khổ đau và không thỏa mãn. Trạng thái an lạc cao cấp nhất. Có thể chứng đạt hiện tiền
thơng qua sự thực hành hịan hảo giới, định, tuệ .
Tìm lại được bản chất của chính mình thơng qua giới định tuệ, bản chất của Niết Bàn
chính là bản chất của thân tâm chúng ta. Nhưng vì chúng ta quên đi bản thể, chấp ngã
chấp pháp nên chúng ta không thể thấy được bản chất của Niết Bàn.
Bên cạnh Niết Bàn của Bậc Thánh, Đức Phật cịn giải thích thêm về Niết Bàn tạm thời
của phàm phu, Ngài dạy:
“Đói là chứng bệnh lớn lao
Vô thường ngũ uẩn khổ đau nhất đời,
Nếu ai hiểu đúng vậy rồi,
Coi như đạt đến cực vui Niết Bàn”
(Pháp Cú. 203)

Đức Phật ví Niết Bàn như một trạng thái khi đói được ăn cơm, đó có thể xem là Niết
Bàn tương đối của người đói bụng. Đối với người thế gian những cảm thụ hay những
ước muốn như ý được được xem là Niết Bàn tương đối. Như vậy ngồi ba bản chất
của Niết Bàn được trình bày trên thì cảm thụ no bụng sau khi ăn hay cảm thụ hết bệnh
cũng được xem là Niết Bàn tương đối của phàm phu.
Ngoài khái niệm Niết Bàn của Truyền thống nguyên thủy cũng có những khái niệm
Niết Bàn của truyền thống Phật giáo phát triển. Những khái niệm này nhằm đánh tan
quan niệm cho rằng Niết Bàn là một cõi, một thực thể. Trong kinh Lăng già Đức Phật
nói:
“Vơ hữu Niết Bàn Phật.
Vơ hữu Phật Niết Bàn”
(khơng có Đức Phật chứng Niết Bàn, và cũng khơng có Niết Bàn của Phật chứng).
Khẳng định “khơng có” người chứng Niết Bàn (Niết Bàn Phật) là phá tư tưởng chấp
ngã (nhân vô ngã), và “khơng có” Niết Bàn của Phật (Phật Niết Bàn) là nổ phá chấp
pháp (pháp vô ngã) của người học về Niết Bàn, chứ không phải phủ nhận sự hiện hữu
của người chứng và pháp chứng.
Như vậy, bản chất Niết Bàn theo đại thừa, như kinh Viên Giác nói, chính là “tri huyễn
tức ly, ly huyễn tức giác”, tức là hiểu rõ bản chất của con người và thế giới là huyễn
(tri huyễn), nên khơng bị huyễn trói buộc (ly huyễn), ngay nơi đó nhận ra (tức giác
ngộ) bản thể khơng, vơ ngã của các hiện tượng huyễn đó, đó chính là Niết Bàn. Ví dụ
thấy tham là huyễn sẽ ly tham, khi đã ly tham sẽ nhận ra tham phải khơng có thực thể
(tánh khơng, vơ ngã) mới ly được nó, tức là giác ngộ, Niết Bàn.

6


2.2.Mục tiêu Niết bàn
Niết-bàn là một phạm trù luôn được mọi hành giả Phật giáo quan tâm, bởi đấy là
đích đến rốt ráo, là sự thoát khỏi luân hồi sanh tử của tất cả chúng sanh. Đức Phật đã
khẳng định rằng: “Bất cứ khổ đau nào sinh khởi đều bắt nguồn từ ái dục, với ái dục là

cội nguồn, vì ái dục là gốc rễ của khổ đau” (W. Rahula, Đức Phậtđãdạy những gì,
Thích nữ Trí Hải dịch).
Ở bài kinh khác, Đức Phật lại cho rằng: “Này các Tỳ-kheo, trong tất cả pháp, dù là
pháp hữu vi hay vô vi, pháp giải thoát ly tham là cao cả nhất. Ấy nghĩa là giải thoát
khỏi kiêu mạn, diệt trừ tham, nhổ tận gốc sự chấp thủ, cắt đứt sự tiếp tục, dập tắt khát
ái, giải thoát, chấm dứt, Niết-bàn” (Kinh Tăng chi bộ I, chương IV - Bốn pháp, phẩm
Bánh xe) hay “Đoạn diệt khát ái, này Ràdha, là Niết-bàn” (Kinh Tương ưng bộ III,
thiên Uẩn, chương II - Tương ưng Ràdha).
Như vậy, Niết-bàn là một trạng thái khơng cịn khổ đau, phiền não. Niết-bàn chính là
sự chấm dứt mọi khát ái nơi tâm của mỗi con người.
Bản chất của Niết-bàn là vơ sinh và vơ ngã. “Bởi vì có cái không sinh, không trở
thành, không bị giới hạn, không được kết hợp, cho nên có lối thốt cho cái đã sinh ra,
trở thành, bị giới hạn, được kết hợp” (W. Rahula, Đức Phậtđãdạy những gì, Thích nữ
Trí Hải dịch).
Vơ sinh là khơng cịn bị sinh tử trói buộc, chi phối, tự tại giữa sinh tử luân hồi.
Trong tác phẩm Vô ngã là Niết-bàn, cố HT.Thích Thiện Siêu đã viết: “Niết-bàn là cái
gì tuyệt đối khơng dung ngã. Niết-bàn khơng có hạn lượng, khơng có nơi chốn, vì
Niết-bàn là vơ tướng nên khó vào. Muốn vào Niết-bàn ta cũng phải vơ tướng như
Niết-bàn. Cửa Niết-bàn rất hẹp, chỉ bằng tơ tóc, nên ta không thể mang theo hành lý
mà hy vọng vào được Niết-bàn. Cái thân đã không mang theo được, mà cả ý niệm về
tôi, về ta cũng không thể mang theo được. Cái ta càng to thì càng xa Niết-bàn. Nên
biết rằng: hễ hữu ngã là luân hồi mà vô ngã là Niết-bàn”.
Theo quan điểm của Phật giáo, vô ngã có nghĩa là phủ nhận sự tồn tại về một cái tơi
(ngã) khơng thay đổi trong mọi hình thức. Bản chất của tất cả các pháp đều tuân thủ
theo quy luật Dun khởi, khơng hề có bản thể bất biến ở đằng sau chúng, mà ta
thường gọi là “cái ngã trường cửu”. Vì khơng có chủ thể, nên chúng luôn chịu sự thay
đổi không ngừng theo quy luật vô thường. Nếu chấp vào ngã, đồng nghĩa với việc ta
mong nó sẽ tồn tại thường cịn. Nên khi chúng có sự thay đổi, thì sẽ dẫn ta tới phiền
não, đau khổ. Nếu chấp vào ngã là đang đi ngược lại con đường đưa đến hạnh phúc
chân thật mà ta gọi là Niết-bàn.

Niết-bàn là hạnh phúc, phát sinh từ sự buông bỏ. Bng bỏ càng nhiều thì hạnh phúc,
an lạc trong tâm càng lớn, làm cho hành giả càng gần với Niết-bàn hơn.
Quan niệm về Niết-bàn cũng có sự sai khác. Phật giáo Nam tông chia Niết-bàn thành
hai loại là Vô dư y và Hữu dư y. Vô dư y là Niết-bàn diệt luôn cả phiền não lẫn ngũ
uẩn. Hữu dư y là Niết-bàn diệt được phiền não nhưng vẫn còn lại ngũ uẩn.
Phật giáo Bắc tông bổ sung thêm hai loại Niết-bàn nữa, đó là Tự tính Niết-bàn và Vơ
trụ xứ Niết-bàn. Thực chất đây chỉ là sự khai triển thêm của Hữu dư y Niết-bàn. Tự
tính Niết-bàn chính là sự thanh tịnh vốn sẵn có của tâm trong mỗi con người, mà khi
đạt tới thì con người sẽ giải thốt.
Thiền sư Đại Trí đã nhìn nhận Tứ diệu đế dưới con mắt của Thiền tông như sau:
“Hướng tâm ra ngoài là Nguyên nhân của khổ (Tập đế), hậu quả của việc hướng tâm
ra ngoài là Khổ (Khổ đế), quay về với bản tâm của mình là Con đường diệt khổ (Đạo
7


đế), nhận ra được và sống được với bản tâm của mình thì là Khổ diệt (Diệt đế)”. Vì
vậy mọi vấn đề của đau khổ hay chấm dứt đau khổ đều phát khởi từ tâm.
Tông chỉ của Thiền tông là “Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ nhân tâm,
kiến tánh thành Phật”, nghĩa là không dựa trên văn tự, truyền ngồi giáo mơn, thẳng
ngay chân tâm, nhận ra và sống được với tánh giác của mình thì liền được thành Phật.
Bản tâm ấy chưa bao giờ từng sinh cũng chưa bao giờ từng diệt, luôn hiện hữu trong
mỗi người. Nhưng vì vơ minh, phiền não, tham ái, chấp thủ che mờ, nên thường chấp
vào ta (ngã) và cái của ta (ngã sở), làm cho không nhận ra được bản tâm thanh tịnh đó
ln hiện hữu trong mình, từ đó tạo tác mn vàn những nghiệp nhân bất thiện. Nên
chúng ta chỉ cần quay trở về, sống với bản tâm ấy dưới sự soi sáng của trí tuệ Bát-nhã,
thấy mọi pháp đúng như thật tính của nó, do dun sanh giả có, khơng có thực thể cố
định, ln chịu sự thay đổi, hoại diệt, nên khơng cịn tham ái nơi cảnh trần. Từ đó,
khơng nảy sinh sự dính mắc, chấp thủ nơi cảnh trần nữa, vì vậy mà tiêu diêu tự tại nơi
làn sóng sanh tử. Đó chính là yếu chỉ của Tự tính Niết-bàn.
Khi đã sống được với tự tính thanh tịnh của chính mình, thì nơi nơi chỗ chỗ đều là

cõi thanh tịnh của tâm. Mọi hoạt động đều là diệu dụng của bản tâm. Sống ngay tại thế
giới thực tại này, tồn tại trong cõi luân hồi này, nhưng vẫn tự do tự tại, làm chủ bản
thân mình, đồng thời, tích cực hoạt động cứu giúp những người khác cùng được giải
thoát giác ngộ như mình. Xem cõi uế trược này là Niết-bàn của chính mình. Đó chính
là yếu nghĩa của Vơ trụ xứ Niết-bàn, mà các hàng Bồ-tát hướng tới với phương châm
“Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác” (Phật pháp tại thế gian, không rời thế
gian mà giác ngộ).
Giáo lý về quá trình chấm dứt khổ đau để đạt được trạng thái an lạc, hạnh phúc mà
ta gọi là Niết-bàn, không chỉ là một lý thuyết suông, mà nằm trong chính sự thực tập
hàng ngày của mỗi hành giả. Trong kinh Tập sinh, Đức Phật dạy “Cái gì đã xảy ra cho
ta, nếu ta quán chiếu sâu sắc vào tự thân nó, là ta đã bắt đầu đi trên con đường giải
thoát”.Nghĩa là khi ta bắt đầu nhận diện được cái khổ trong ta, chấp nhận được
Nguyên nhân của Khổ (Tập đế), thì ngay lúc ấy con đường diệt khổ cũng bắt đầu hiện
hữu. Khổ có chứa đựng cả nguyên nhân, chứa đựng cả sự chấm dứt và con đường tu
tập để đưa đến chấm dứt đau khổ.
Thiền sư Thường Chiếu từng nói: “Đại thiên sa giới ngoại, hà xứ bất vi gia” nghĩa là
trong tam thiên đại thiên thế giới này, đâu chẳng phải là nhà của mình, nghĩa là chỗ
nào cũng là Niết-bàn cả. Hay như Thiền sư Thạch Sương - Khánh Chư cũng đã từng
viết: “Tùy thuận chúng duyên vô quái ngại/Niết-bàn sanh tử đẳng không hoa”. Nghĩa
là buông bỏ tham ái nơi cảnh trần tùy theo dun mà tâm khơng ngăn ngại, thì Niếtbàn hay sanh tử đều là hoa đốm giữa hư không. Hương vị của Niết-bàn đó chính là
tính giải thốt. Giải thốt ngay trong lịng thực tại nhiệm màu này chứ khơng phải ở
một nơi nào khác. Giải thốt tức là khơng bị ràng buộc, không bị nô lệ cho quá khứ,
cho tương lai, cho sự thèm khát, giận hờn, lo lắng, và buồn phiền. Giải thốt cịn là sự
trở về sống trọn vẹn với hiện tại nhiệm mầu, sống có chánh niệm, tỉnh giác với sự soi
chiếu của trí tuệ nơi bản tâm, từ đó chế tác được hạnh phúc. Và chính hạnh phúc này
sẽ tiếp tục nuôi dưỡng và trị liệu những khổ đau trong ta.
Vì vậy ngay cả cõi Ta-bà đầy uế trược này cũng có thể là Niết-bàn khi mà chúng ta
nhận ra, buông bỏ mọi chấp trước về Ta và của Ta, buông bỏ mọi tham ái bắt nguồn từ
sự vô minh, thiếu hiểu biết để biến các chất liệu khổ đau thành hạnh phúc. Khi ấy, cõi
Ta-bà này sẽ trở thành cõi Niết-bàn hay Tịnh độ. Hiểu về Niết-bàn, càng làm chúng ta

8


có thêm niềm tin kiên cố vào giá trị của bản thân, rằng mình là “Phật sẽ thành”, cũng
có khả năng đạt được giác ngộ giải thốt như Thế Tơn, bắt đầu bằng việc xây dựng
nền tảng Niết-bàn trong hiện tại. Đó chính là tính chất hiện pháp lạc trú: “Q khứ
khơng truy tìm/Tương lai khơng ước vọng/Q khứ đã đoạn tận/Tương lai lại chưa
đến/Chỉ có pháp hiện tại/Tuệ quán chính ởđây” (Kinh Trung bộ 2, Kinh Nhứt dạ hiền
giả).
Qua phần tìm hiểu về Niết Bàn trong Nguyên thủy và Đại thừa ở các mục trên
chúng ta thấy rằng, cả hai thời kỳ Phật giáo đều có quan niệm rằng Niết Bàn là cảnh
giới không thể diễn tả bằng ngôn ngữ, là trạng thái đoạn trừ phiển não nhiễm ô mà
người tu Phật có thể đạt được bằng sự nỗ lực tự thân.
Niết-bàn như thế là rời khỏi mọi chấp thủ. Vì rời chấp thủ, nên rời khỏi mọi tướng
trạng, mọi ý niệm; vì ly niệm nên Niết-bàn khơng thể được diễn đạt bằng ngơn ngữ
khái niệm. Do đó, mọi câu hỏi và mọi câu trả lời trực tiếp về Niết-bàn đều không được
chấp nhận.
Nhưng nếu diễn đạt như thế này thì người nghe do thiếu tỉnh giác có thể cho rằng
Niết-bàn chỉ là trống không. Ðể tránh khỏi ngộ nhận đáng tiếc ấy, các nhà biên khảo
thường trưng dẫn câu chuyện nổi tiếng về “Con rùa và con cá”. Nếu rùa khơng thể nói
cho cá nghe về những gì ở trên đất cạn, thì cũng thế, ngơn ngữ khái niệm của con
người khơng thể nói lên được những gì của Niết-bàn. Ðối với cá, trái đất không phải
là không có; cũng thế, đối với chúng ta, những phàm phu, Niết-bàn khơng phải là
trống khơng. Làm sao có thể nói lên được Niết-bàn khi chính Niết-bàn là sự đoạn diệt
vọng tưởng?Niết bàn này của Phật giáo Đại thừa thực ra cũng chỉ là thừa kế Niết bàn
của Phật Giáo Nguyên thủy trên phương diện tích cực nhập thế độ sanh mà thơi. Về
mặt hình thức thì có khác nhưng bản chất vẫn là một.
Theo Bắc Truyền thì nói thủ diệt tức Niết Bàn, cịn các kinh tạng Pali thì nói ái diệt
tức Niết Bàn. Tuy nhiên dù nói với hình thức nào đi nữa, thì chúng ta nên biết rằng, ở
đâu có mặt tuệ giác, vơ ngã hồn tồn thì ở đó có Niết Bàn.Trong thời kỳ Phật giáo Bộ

phái, Niết Bàn là sự tịch diệt vắng lặng, là cảnh giới của sự an ổn thụ động từ đó mà
khiến cho Phật giáo mất dần sự hấp dẫn, khó thực hiện được. Cho nên Phật giáo cần
có một sự thay đổi, khắc phục những hạn chế của Tiểu thừa để tìm lại vị trí trong lịng
xã hội. Đến thời kỳ Đại thừa thì quan niệm về Niết Bàn được đưa lên một nấc thang
cao hơn, thích nghi với thời đại, đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Đó là quan niệm
Niết bàn mang tính hoạt dụng tích cực hơn. Các vị Bồ tát với đại nguyện độ sinh nên
đi vào cuộc đời mà lịng khơng nhiễm trước thế gian, cái tâm khơng nhiễm trước đó
được gọi là Bất trụ Niến bàn hay Vô trụ xứ Niết bàn. Trên tinh thần này Phật giáo cần
một sự dấn thân, nhập thế để cứu khổ quần sinh như lời thệ nguyện của Bồ Tát Địa
Tạng : “Chúng sanh độ tận, phương chứng Bồ đề, địa ngục vị không, thệ bất thành
Phật.”Tinh thần của Bồ tát Địa Tạng là lý tưởng độ sanh khơng biết mỏi mệt, đó là Vơ
trụ xứ Niết Bàn của Đại thừa, ở nơi nào còn khổ đau ở đó Ngài có mặt. Một khi đã
hồn tồn giác ngộ thì ở nơi đâu cũng là đạo tràng thanh tịnh, khơng có một cảnh giới
Niết Bàn nào khác để tìm cầu, để nắm bắt, để đạt được.
Do đó, giải thốt không cần sự chối bỏ cuộc sống mà chỉ cần “xuất tự thế gian
tướng” để đạt tới trạng thái không còn phân biệt bờ bên này – sinh tử và bờ bên kia –
giải thốt, khơng cịn phân biệt chúng sinh và Phật, mê và ngộ. Sinh tử tức Niết bàn,
phiền não tức Bồ đề. Niết bàn và luân hồi chỉ là một nhưng nhìn trong vơ minh thì là
ln hồi, nhìn khi giác ngộ là Niết bàn, giống như nhìn sợi dây thừng trong bóng tối là
9


con rắn nhưng nhìn trong ánh đèn thì chỉ là sợi dây thừng, khơng cịn đáng sợ nữa.
Tuy sống trong ln hồi nhưng khơng cịn bị chi phối bởi lục trần.
Trong thời kỳ Đại thừa có nhiều quan niệm về Niết Bàn, Duy thức bổ sung thêm hai
loại Niết bàn nữa, là Tự tính thanh tịnh Niết bàn và Bất trụ Niết bàn. Thực chất, đó
cũng chỉ là những dạng thức mới của Hữu dư Niết bàn. Tự tính thanh tịnh Niết bàn
chính là bản tính thanh tịnh vốn có ở cái tâm của mỗi người mà khi đạt tới đó, con
người được giải thốt. Cịn Bất trụ Niết bàn thì ý nghĩa cũng giống như trước đã đề
cập đến. Cuộc đời của Đức Phật là một minh chứng cho cái gọi là “Bất trụ Niết bàn”,

vì Ngài đã đạt được Hữu dư y Niết bàn thế nhưng vẫn tiếp tục với thệ nguyện độ sanh
không mỏi mệt, không an trú trong Niết bàn tịch tĩnh.
Cịn Trung Qn thì cho rằng khơng thể có sự xác quyết nào về Niết Bàn và Niết Bàn
là thứ không thể thụ đắc:
Kinh Lăng-già: “Theo Lăng già, Niết Bàn khơng có trong sự phân biệt sai khác về
sanh tử hay luân hồi; vì phân biệt cái này với cái kia như thế là kết quả của sự phán
đoán sai lầm, tưởng tượng ra một tương lai khi mà thế giới của các giác quan hồn
tồn bị đoạn diệt thì đó là Niết bàn của các nhà Nguyên thủy nhưng Niết Bàn của Đại
thừa là vượt khỏi cái nhị biên của Niết bàn và luân hồi.”
Như vậy Đại thừa với tinh thần “sanh tử tức Niết bàn” đã chỉ cho nhân loại thấy rằng
sanh tử và Niết bàn không tách rời nhau, ngay giữa thế gian này mà đạt được giác
ngộ. Từ đó mà Phật giáo trở nên gần gũi hơn, làm cho con người có niềm tin rằng với
những khổ đau đang có mặt, họ có khả năng chuyển hóa chúng. Khơng thể xa lìa sinh
tử của cuộc đời trần thế mà cầu tịch diệt, cách ly thế giới hiện tượng mà cầu giải thốt,
khơng trú trong tịch diệt mà qn cứu chúng sanh khổ.
Một Niết bàn vô vi, tịch tĩnh trong Tiểu thừa đã được thay thế bằng một Niết bàn nhân
bản, nhập thế, hoạt động cùng những khổ đau của Đại thừa. Với tinh thần này ta có
thể tạm thi vị hóa rằng “Ta khơng mang những chứng tích ưu sầu, nhưng ta nguyện
đau cùng nhân thế, ta không dám và tuyên lời ước thệ, nhưng ta nguyện dâu bể cùng
nhân gian”.
Như vậy có thể thấy rằng quan niệm về Niết Bàn trong Nguyên thủy và Đại thừa về
mặt bản thể thì khơng có sai khác nhưng về phần hoạt dụng thì Niết Bàn của Đại thừa
có phần tích cực hơn. Sự thay đổi về mặt hiện tượng âu cũng là để thích nghi với thời
đại, đó là một tiến trình dài cùng với những đổi thay của thời cuộc, của vận mệnh tôn
giáo bên cạnh sự chuyển biến của lịch sử.Đại thừa là sự tìm về nguồn cội, làm hiển
bày những tinh hoa trong giáo lý Đức Phật, đứng trên lập trường thâm sâu để khôi
phục lại tinh thần Phật giáo Ngun thủy.
Chính vì vậy ta có thể nói rằng, Phật giáo Nguyên thủy là nền tảng, là gốc rễ vững
vàng để hình thành nên Phật giáo Đại thừa. Và ngược lại, Phật giáo Đại thừa là hoa, là
trái từ gốc cây ấy, làm cho cây phát triển và đầy sức sống hơn.Muốn đạt đến Niết Bàn

trong đạo Phật có rất nhiều con đường, rất nhiều pháp môn nhưng tất cả đều khơng
ngồi Tam vơ lậu học giới, điều cốt yếu là phải thực hành chánh pháp, tu tập phạm
hạnh và thiền định. Thiền định là con đường đưa con người vào Niết Bàn giải thoát.
Trong trạng thái thiền định con người thấy rõ chân bản của thế giới.
Thế giới muôn sai ngàn khác, với các sự vật hiện tượng khác nhau ở hình tướng,
nhưng đồng nhất với nhau ở mặt bản thể. Tất cả đều vô thường, vô ngã. Nhận chân
được bản thể của vũ trụ như vậy, con người phát khởi đại trí, đại bi, phút chốc bừng
nở tình thương vơ hạn đối với mn lồi mn vật.Niết Bàn là đạo quả đạt được
10


chứng ngộ như một đối tượng tinh thần. Nó là kết quả của sự nỗ lực, vươn tới hiểu
biết thực tại, thế gian như nó là. Đạo quả đó xuất phát từ lập trường chấp nhận mọi
khía cạnh của thực tại và giá trị của nó. Niết Bàn khơng phải là chạy trốn khỏi thế
giới, không phải là sự phủ nhận hay chối bỏ thế gian mà là tìm cách để chuyển hóa cái
tri kiến sai lầm về thực tại, tìm cách để thay đổi thái độ đối với thế giới làm cho nó trở
thành một nơi chốn dễ chịu và hạnh phúc hơn. Niết Bàn là sự giác ngộ mang tính trí
tuệ với thành quả là sự viên mãn nhân cách và hoàn hảo luân lý. Sự giác ngộ đó được
đặt căn bản trên nhận thức về chân tướng của thực tại, trên một tuệ giác chân chính về
thực tại. Niết Bàn là thanh tịnh, bất nhiễm, giải thoát, là trí tuệ tuyệt đối và tình
thương tuyệt đối và khi đó Niết Bàn chính là thực tại nhiệm mầu bị chúng ta lãng
quên.Con đường đi đến Niết-bàn ở Nikàya và A-hàm là đoạn trừ ái, thủ, vô minh, hay
đoạn trừ mười kiết sử (thân kiến, nghĩ, giới cấm thủ, dục, sân, hữu ái, vô hữu ái, mạn,
trạo cứ và vô minh).

11


C.KẾT LUẬN
Pháp lạc của bậc Thánh khơng có nơi giáo điều và trên lý thuyết, cũng khơng có nơi

hý luận hay tài hùng biện, mà nó chỉ được thật sự cảm nhận xuyên qua sự chú tâm và
công phu thực nghiệm. Đạo Phật không giống như những tôn giáo hay các hệ thống
triết học khác chỉ thỏa mãn tri thức con người, mà chỉ ra một con đường thiết thực giải
thốt mọi khổ đau.Cho nên có một Thiền sư từng nói rằng: “ Danh xưng chỉ là người
khách tạm của hiện thực, tiếc thay những người tu Phật chỉ biết bám víu vào ngơn từ
để già đi và trở nên lọm khọm. Những năm tháng lý luận quẩn quanh nào có ích gì.
”Có thể nói rằng Phật giáo khơng giống như những tôn giáo khác chỉ làm thõa mãn tri
thức của con người, vì rằng ngơn từ khái niệm chỉ làm cho con người lẩn quẩn trong
vòng chữ nghĩa, của tri thức thường nghiệm. Phật giáo cần một sự thể nhập bằng tự
tâm mới có thể đạt đến Niết Bàn. Vì Niết bàn là trạng thái vắng lặng, đoạn trừ phiền
não nhiễm ô, vượt ra khỏi những giới hạn tầm thường của ngôn ngữ.Về quan niệm
Niết bàn, Phật giáo Đại thừa có phần tích cực và nhập thế hơn so với Phật giáo
Nguyên thủy. Về hình thức thì hai quan niệm đó có khác nhau, nhưng về bản chất là
một. Niết Bàn của Đại thừa cũng chỉ là kế thừa tinh thần của Nguyên thủy nhưng phát
triển thêm để thích nghi với thời đại. Cho nên ta thấy có sự liên hệ mật thiết giữa hai
thời kỳ, đó là Phật giáo Đại thừa ra đời dựa trên nền tảng của Ngun thủy, nếu khơng
có Ngun thủy ắt hẳn sẽ khơng có Đại thừa vì Ngun thủy là gốc, Đại thừa là ngọn.
Và ngược lại Đại thừa ra đời làm hiển hưng, là kết tinh của Phật giáo Nguyên thủy,
khôi phục lại chân ý của Đức Phật. Nếu khơng có Đại thừa thì Phật giáo Ngun thủy
khơng biết đi về đâu giữa vịng quay của bánh xe lịch sử nếu khơng thích nghi để tồn
tại.Cho nên sự chuyển biến của Phật giáo qua các giai đoạn âu cũng là sự chuyển
mình để tồn tại cùng thời gian, nhờ đó mà Phật giáo có mặt trên cuộc đời này cho đến
ngày hơm nay.

12


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

CHÚ THÍCH:

(1) Đồn Trung Cịn. Phật học từ điển, t.1. Nxb TP. Hồ Chí Minh, 1995, tr 335.
(2) Thích Tuệ Sỹ (dịch). Kinh Trung A Hàm. Http://www.quangduc.com.
(3) Thích Tuệ Sỹ (dịch). Kinh Tạp A Hàm. Http://www.quangduc.com.
(4) Thích Minh Châu (dịch). Kinh Trường bộ. Http://www.quangduc.com.
(5) Thích Thiện Siêu. Vô ngã là Niết bàn. Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2000, tr 115.
(6) Walpola Rahula. Tư tưởng Phật học. Ban Tu thư Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn,
1994, tr 68 - 69.
TẠP CHÍ
1.Tạp Chí Triết Học - Viện Triết Học),đăng tải:17/01/2013,truy cập :20/03/2021,
/>2.Đức Kiên, đăng tải:03/02/2021, truy cập: 20/03/2021, />SÁCH
1.Phạm Kim Khánh dịch, Đức Phật và Phật pháp, Nxb Tơn giáo, 2005.
2. TT. Thích Viên Trí, Phật giáo Nguyên thủy và Đại thừa, tại HVPGVN
3.HT.Thích Quảng Độ dịch, Nguyên thủy Phật giáo tư tưởng luận, Nxb Tôn giáo,
2012
4. TT. Thích Nhật Từ, Đề cương mơn dẫn nhập triết học phật giáo, tại HVPGVN

13



×