ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ HUẾ
ĐỀ TÀI: “Di cư từ Nông Thôn ra Thành Thị
Thực Trạng và Giải Pháp”
Giáo viên hướng dẫn: Nhóm sinh viên thực hiện: N07
1. Trần Đức Mạnh.
2. Hồ Huy Lục.
3. Nguyễn Ngọc Tuấn.
4. Nguyễn Tuấn Thọ.
5. Phomvongsa Phetoudone.
6. Hồ Đức Dũng.
7. La Thành Đạt
Huế, 05/2013
1
Trần Đoàn Thanh Thanh
ĐẶT VẤN ĐỀ.
Con người sinh ra có nhu cầu tồn tại và phát triển. Để phục vụ nhu cầu thiết yếu của
bản thân mình, từ ngày xưa con người đã phải di chuyển từ địa điểm này đến địa điểm
khác tìm những nơi thích hợp cho sự sinh tồn. Khi xã hội ngày càng phát triển, con người
di cư theo nhu cầu tăng lên không ngừng. Như vậy chúng ta thấy di cư là một hiện tượng
mang tính quy luật khách quan.
Đối với mỗi đất nước trong đó có Việt Nam, việc di cư của người dân cũng thể hiện
sự tồn tại của mỗi quốc gia trước thách thức cuộc sống và có ý nghĩa quan trọng trong
việc phân công lao động lãnh thổ, thể hiện sự phù hợp với xu thế chung của sự phát triển.
Trong lịch sử Việt Nam di dân luôn gắn liền với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước.
Từ khi bước vào thời kỳ “Đổi Mới”, di cư trong nước và tác động của nó tới quá
trình đô thị hóa đã trở thành một bộ phận quan trọng của quá trình tăng trưởng kinh tế
nhanh chóng ở Việt Nam. Di cư trong nước đã tăng lên nhanh chóng với tốc độ chưa
từng có trong hai thập kỷ qua. Cụ thể theo số liệu thống kê của Tổng cục thống kê năm
2009 thì số lượng dân di cư giữa các tỉnh tăng từ 1,3 triệu người năm 1989 lên 2 triệu
người năm 1999 và lên 3,4 triệu người năm 2009 trong đó nhóm di cư từ nông thôn ra
thành thị là nhóm di cư có tốc độ tăng nhanh nhất bởi sức hấp dẫn về chất lượng, điều
kiện cuộc sống ở các thành phố lớn đã thúc đẩy sự tăng trưởng dân số mạnh mẽ ở khu
vực thành thị. Điều này đã có tác động to lớn tới quá trình phát triển kinh tế của đất
nước. Trong khi có đóng góp tích cực cho bản thân người di cư và sự phát triển của nơi
đến thì bên cạnh đó di cư cũng góp phần làm gia tăng khoảng cách kinh tế - xã hội giữa
thành thị và nông thôn. Các khu vực nông thôn và các vùng xuất cư chịu nhiều thiệt thòi
hơn trong khi khu vực thành thị đặc biệt là các thành phố lớn, vùng nhập cư lại được
hưởng lợi từ những người di cư trẻ tuổi, thường là những người có vốn xã hội tốt hơn.
Di cư trong nước, Nguyên nhân chủ yếu vì lý do việc làm hay tìm kiếm một cuộc
sống tốt hơn đã trở thành một phần của quá trình tăng trưởng kinh tế nhanh, nhưng đồng
thời cũng tạo ra những thách thức lớn cần phải giải quyết trong quá trình phát triển kinh
tế và con người của đất nước. Vì vậy, cần có sự quan tâm lớn hơn đối với vấn đề di cư và
đô thị hóa của Nhà nước, chính quyền địa phương.
Xuất phát từ những điều nêu trên nhóm chúng tôi chọn chuyên đề “Di cư từ nông
thôn ra thành thị - Thưc trạng và giải pháp” làm chuyên đề cho học phần “nguyên lý
phát triển nông thôn” để tìm hiểu nguyên nhân, lợi ích cũng như những tiêu cực mà quá
trình di cư từ nông thôn ra thành thị để lại. Từ đó đề xuất những giải pháp để có thể phát
huy những thuận lợi và khắc phục những tiêu cực mà quá trình di cư gây ra.
NỘI DUNG
I. Di cư và nguyên nhân của việc di cư.
2
1. Khái niệm di cư.
Ngày nay, đã có rất nhiều các lý thuyết nghiên cứu về hiện tượng di dân. Di dân, hiểu
theo nghĩa rộng là sự dịch chuyển bất kỳ của con người trong một không gian và thời
gian nhất định kèm theo sự thay đổi nơi cư trú tạm thời hay vĩnh viễn. Hiểu theo nghĩa
hẹp thì di dân là sự di chuyển dân cư từ một đơn vị lãnh thổ này đến một đơn vị lãnh thổ
khác, nhằm thiết lập nơi cư trú mới trong một không gian, thời gian nhất định.
Theo Liên hiệp quốc năm 1958 thì “Di dân là một hình thức di chuyển trong không
gian của con người từ một đơn vị địa lý hành chính này đến một đơn vị hành chính khác,
kèm theo sự thay đổi chỗ ở thường xuyên trong khoảng thời gian di dân xác định”.
Di dân hay di cư bao gồm hai quá trình: xuất cư và nhập cư.
- Xuất cư (emigration): là quá trình chuyển đi của dân cư tự một vùng hay một quốc gia
này sang một vùng hay một quốc gia khác để sinh sống thường xuyên hoặc tạm thời
(trong một khoảng thời gian dài).
- Nhập cư (immigration): là quá trình chuyển đến của dân cư từ một vùng hay một quốc
gia khác để sinh sống thường xuyên hay tạm thời (trong một khoảng thời gian dài).
Cả hai quá trình xuất cư và nhập cư đều có những ảnh hưởng đến cơ cấu và động lực
tăng dân số của một vùng hay một quốc gia, nhất là quá trình nhập cư đôi khi đóng vai
trò quyết định trong việc hình thành dân cư ở một số khi vực.
2. Nguyên nhân di cư.
Có nhiều yếu tố tác động dẫn đến sự di chuyển của dân cư.Các yếu tố này thuộc về
các điều kiện tự nhiên (như khí hậu, địa hình, đất đai, tài nguyên…) hay các điều kiện
kinh tế, chính trị, xã hội và chính sách dân số của quốc gia. Sự thuận lợi hay khó khăn
của các yếu tố này ở các vùng sẽ tạo nên lực hút hay lực đẩy của mỗi vùng mà có ảnh
hưởng tới sự chuyển đến hay ra đi của dân cư. Qúa trình di dân xảy ra khi có sự khác biệt
nhất định giữa vùng đi và vùng đến về một số yếu tố đặc trưng như kinh tế, việc làm, thu
nhập, tài nguyên thiên nhiên và môi trường; yếu tố dân cư và xã hội; sự thay đổi về tiến
bộ kỹ thuật và công nghệ. Ngoài ra, yếu tố lực hút và lực đẩy còn bao gồm những yếu tố
cá nhân như tình trạng hôn nhân, gia đình, thay đổi nghề nghiệp, việc làm,…; các yếu tố
khác như thiết chế xã hội.
Từ những điều đó chúng ta có thể rút ra những nguyên nhân chủ yếu của hiện tượng
di cư của người dân từ nông thôn ra thành thị có thể đưa ra một số nguyên nhân cơ bản
sau:
- Thứ nhất: nguyên nhân kinh tế: hầu hết các nhà kinh tế học, các nhà xã hội học đều
nhất trí rằng hiện tượng di cư của người dân từ nông thôn ra thành thị có thể được giải
thích chủ yếu bằng nguyên nhân kinh tế. Những nhân tố này bao gồm không chỉ bởi lực
đẩy quen thuộc từ nơi xuất cư như: thiếu đất canh tác, thiếu việc làm, thu nhập thấp,…
mà còn bởi lực hút từ những nơi nhập cư: cơ hội việc làm có tính ổn định, thu nhập cao
hơn so với nơi ở cũ… Các nghiên cứu gần đây cho thấy: tiền lương, thu nhập, việc làm,
mức độ thất nghiệp… đều ảnh hưởng đến việc đưa ra quyết định di cư của người dân.
3
- Thứ hai, nguyên nhân vấn đề chất lượng cuộc sống: những người di dân muốn có cuộc
sống tốt đẹp hơn thông qua cuộc sống ở thành thị, nơi có ánh đèn rực rỡ của thành phố,
nơi đó có các phương tiện giao thông, phương tiện thông tin đại chúng… được hiện đại
hóa, nơi có hệ thống giáo dục, y tế, dịch vụ phát triển;
- Thứ ba, nguyên nhân vấn đề về phong tục tập quán và các nhân tố xã hội khác cũng
tác động sâu sắc tới quá trình di dân từ nông thôn ra thành thị, ví dụ như những người di
dân muốn thoát khỏi những ràng buộc truyền thống, những phong tục tập quán cổ hủ, lạc
hậu ở nông thôn; vấn đề đi học của con cái và đoàn tụ gia đình cũng là những lực hút của
dòng di dân từ nông thôn ra thành thị.
- Thứ tư, nguyên nhân về môi trường tự nhiên đang là tác nhân đã và đang tác động đến
xu thế di cư. Người ta đánh giá rằng tác động lớn nhất của sự thay đổi khí hậu đối với con
người chính là việc khiến họ phải di chuyển. Điều kiện khí hậu ven biển, hiện tượng xói
mòn ven biển gia tăng và mùa màng thất bát là nguyên nhân khiến hàng triệu người phải
rời khỏi nơi cư trú của mình. Các số liệu khoa học cho thấy sự thay đổi về khí hậu toàn
cầu, Việt Nam sẽ là một trong những nước chịu nhiều thiệt hại nặng nề nhất của sự thay
đổi khí hậu, trong đó người nghèo, người dân tộc thiểu số, phụ nữ nông thôn, người già
và trẻ em chịu sự tác động nặng nề hơn các đối tượng khác. Di cư sẽ trở thành phương
thức giúp người dân đương đầu và thích nghi với những thay đổi này bằng cách di cư tạm
thời hoặc di cư lâu dài nhằm đảm bảo đảm sự an toàn và ổn định cuộc sống.
Lý thuyết lực hút và lực đẩy đã đưa ra quy luật chung của di dân là dân cư sẽ di
chuyển từ nơi có đời sống thấp đến nơi có đời sống cao hơn, từ vùng có điều kiện tự
nhiên kém thuận lợi đến vùng có điều kiện tự nhiên thuận lợi hơn. Phong trào di dân ngày
càng mạnh mẽ theo sự tiến bộ ngày càng cao của xã hội. Chính sự thay đổi về tiến bộ
khoa học kỹ thuật dẫn đến sự hình thành các vùng trung tâm phát triển như khu công
nghiệp, hiện đại hóa sản xuất nông nghiệp… sẽ thu hút các dòng dân di cư.
Cụ thể ở vùng nông thôn xa xôi thường là nơi ra đi của lực lượng lao động trẻ, bởi vì
ở đó không có các cơ hội kinh tế, lối sống buồn tẻ, ít cơ hội phát triển. Ngược lại, các
trung tâm công nghiệp, đô thị hay thành phố lớn thường là những nơi có sức hấp dẫn
mạnh mẽ đối với giới trẻ vùng nông thôn vì có nhiều cơ hội việc làm, học tập, tiện nghi
sinh hoạt và những triển vọng tương lai đầy sáng lạng… từ đó hình thành nên luồng
chuyển cư đặc trưng nông thôn - thành thị.
Ở nước ta, theo nghiên cứu thì di cư từ nông thôn – thành thị có 3 dòng chính sau:
- Di cư từ Đồng bằng sông Cửu Long, Miền Trung, Miền núi phía Bắc, và miền đồng bằng
sông Hồng đến miền Đông Nam Bộ.
- Di cư từ miền núi phía Bắc xuống Đồng bằng sông Hồng.
- Di cư từ Duyên hải miền Trung, Miền núi phía Bắc, đồng bằng sông Hồng đi Tây
Nguyên.
II. Thực trạng di cư hiện nay ở Việt Nam.
4
1. Di cư, đặc biệt là di cư giữa các tỉnh đã tăng mạnh cả về số lượng và tỷ lệ hơn hẳn
so với thập kỷ trước đó.
Tốc độ di dân gia tăng nhanh, quy mô ngày một lớn, tác động không nhỏ tới mỗi gia
đình và từng quốc gia. Trên thế giới, di dân đã được khẳng định là vấn đề của thời đại,
mang tính toàn cầu.Đây cũng là vấn đề lớn mà Việt Nam đang phải đối mặt.
Trong số hơn 78 triệu dân từ 5 tuổi trở lên trong năm 2009, có 2,1 % hay tương ứng
với 1,6 triệu người di cư trog huyện; 2,2% hay 1,7 triệu người di cư giữa các huyện; 4,3%
hay 3,4 triệu người di cư giữa các tỉnh, và có một tỉ lệ rất nhỏ chiếm 0,1 % hay 40.990
người nhập cư quốc tế. Kết quả đó thể hiện qua bảng 2.1.
Bảng 2.1: Dân số di cư và không di cư theo loại hình di cư, 1989 - 2009
1989 1999 2009
Số người % Số người % Số người %
Di cư trong huyện - -
1.342.568
2,0 1.618.160 2,1
Không di cư trong huyện - -
64.493.309
93,5
71.686.913
91,4
Di cư giữa các huyện
1.067.298
2,0
1.137.843
1,7 1.708.896 2,2
Không di cư giữa các
huyện
51.797.097
95,5
65.835.877
95,5
73.305.072
93,5
Di cư giữa các tỉnh
1.349.291
2,5
2.001.408
2,9 3.397.904 4,3
Không di cư giữa các tỉnh
52.864.395
97,4
66.973.720
97,1
75.013.968
95,7
Nhập cư quốc tế 65.908 0,1 70.389 0,1 40.990 0,1
Không nhập cư quốc tế
54.213.686
99,9
68.975.128
99,9
78.411.872
99,9
Nguồn: Theo Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2009.
Xu hướng gia tăng di cư cả về số lượng lẫn tỉ lệ người di cư được quan sát thấy trong
hai thập kỉ qua, những xu hướng gia tăng này chỉ nổi bật rõ rệt trong vòng một thập kỉ
vừa qua. Có rất nhiều lí do có thể dẫn tới sự gia tăng này, trong đó phải kể đến việc giảm
thiểu hệ thống hợp tác xã, việc chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung bao cấp sang nền kinh
tế thị trường, việc dỡ bỏ các quy định hạn chế sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân,
sự phát triển của giao thông vận tải, sự gia tăng khác biệt giữa các vùng và sự nới lỏng
các quy định hạn chế di cư. Dân số di cư giữa các huyện tăng thêm hơn 50% và lên tới
1,7 triệu người vào năm 2009. Tỷ lệ dân số di cư giữa các huyện giảm từ 2% xuống 1,7
% trong giai đoạn 1989-1999,nhưng sau đó tăng lên 2,2% trong năm 2009.
Dân số di cư giữa các tỉnh có xu hướng ngày càng gia tăng rõ rệt. Số người di cư giữa
các tỉnh tăng từ 1,3 triệu người năm 1989 lên 2 triệu người năm 1999 và lên tới 3,4 triệu
5
người năm 2009. Tỉ lệ của nhóm di cư này trong tổng dân số cũng tăng tương ứng từ 2,5
% trong năm 1989 lên 2,9% năm 1999 và 4,3% năm 2009. Những kết quả này cho thấy tỉ
lệ tăng dân số di cư cao hơn tỷ lệ tăng dân số tự nhiên. Điều này được thể hiện qua hình
2.2.
Hình 2.2: Tỷ lệ dân số di cư qua thời gian, 1989 - 2009
Nguồn: Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2009.
Xem xét di cư ở các cấp địa giới hành chính cho thấy ở cấp càng cao thì tỉ lệ tăng dân
số di cư cũng cao hơn. Các nhóm dân số di cư giữa các tỉnh tăng mạnh mẽ nhất, di cư
giữa các huyện tăng chậm hơn và tăng chậm nhất là nhóm di cư trong huyện. Có thể lí
giải cho sự khác biệt này là việc tăng thu nhập hộ gia đình, cải thiện giao thông vận tải,
tăng cơ hội học hành và thông tin phong phú hơn thông qua các phương tiện truyền thông
đại chúng rõ ràng đã đem lại nhiều cơ hội lựa chọn cho người dân để di chuyển và tạo
điều kiện để họ có thể di chuyển trong khoảng dài hơn và vượt ra ngoài ranh giới quen
thuộc của họ.
2. Hiện tượng nữ hóa di cư.
Số liệu tổng điều tra đã cung cấp bằng chứng rõ ràng về một hiện tượng rất được chú
ý trong các nghiên cứu di cư thường được biết với tên gọi “nữ hóa di cư”. Điều này được
thể hiện rất rõ qua hai chỉ số. Thứ nhất, dân số nữ di cư chiếm khoảng một nữa tổng số
dân di cư. Thứ hai, tỉ lệ dân số nữ di cư trên tổng số dân di cư liên tục tăng trong hai thập
6
kỉ qua. Ngay từ năm 1989, nữ giới đã chiếm hơn một nữa dân số di cư trong huyện và di
cư giữa các huyện trong giai đoạn 1984-1989. Nữ giới chiếm dưới một nữa dân số di cư
giữa các tỉnh năm 1989 nhưng đến năm 1999, tỉ lệ nam và nữ trong dân số di cư đã cân
bằng. Đến năm 2009, số lượng nữ giới đã nhiều hơn số lượng nam giới trong tất cả các
nhóm dân số di cư. Kết quả phân tích các bộ số liệu khác nhau như điều tra quốc gia về vị
thành niên và thanh niên Việt Nam 2003, điều tra di cư 2004, hay điều tra biến động dân
số 2007 cũng cho các kết quả tương tự. Sự giảm cầu lao động trong các hoạt động nông
nghiệp tại nông thôn và tăng các cơ hội việc làm cho phụ nữ tại các thành phố và khu
công nghiệp là những lí do chính cho hiện tượng gia tăng số lượng và tỉ lệ nữ giới di cư
này. Xu hướng ngược lại được quan sát thấy trong nhóm dân số không di cư vơi tỉ lệ dân
số nữ không di cư giảm dần theo thời gian. Điều này thể hiện qua hình 2.3.
Hình 2.3: Tỷ lệ nữ di cư qua thời gian, 1989 – 2009.
Nguồn: Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2009.
Một xu hướng nhất quán được thấy qua cả ba cuộc tổng điều tra dân số đó là nữ giới
di cư trong phạm vi địa giới hành chính nhỏ hơn, tỉ lệ nữa giới di cư trong cả ba cuộc
điều tra đêu cao nhất trong dân số di cư trong huyện, nhỏ hơn trong di cư giữa các huyện
và nhỏ nhất trong nhóm dân số di cư giữa các tỉnh.
3. Có sự khác biệt về luồng di cư giữa các vùng và các tỉnh.
7
Việt Nam có sự khác biệt về kinh tế-xã hội rõ rệt giữa các vùng. Có thể thấy những
khác biệt không chỉ giữa nông thôn và thành thị mà còn giữa các vùng kinh tế-xã hội và
giữa các tỉnh/thành phố trong cả nước. Những khác biệt này có nguồn gốc lịch sử, văn
hóa và xã hội lâu đời, sự đa dạng trong điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, cũng
như sự đa dạng văn hóa đã tạo ra những đặc trưng riêng của các vùng miền. Các chính
sách phát triển kinh tế - xã hội mới của đất nước như chính sách phát triển kinh tế theo
vùng trọng điểm và mức độ đâu tư kinh tế khác nhau giữa các vùng hay giữa các tỉnh
cũng góp phần không nhỏ trong việc tạo ra sự khác biệt này. Nhìn chung khu vực phía
Nam phát triển hơn về kinh tế và trở nên hấp dẩn hơn với người di cư. Nhiều thành phố
có nền kinh tế năng động như 5 thành phố trực thuộc trung ương củng thu hút nhiều
người nhập cư hơn.
Các kết quả phân tích số liệu TĐTDS cho thấy rõ sự khác biệt lớn giữa các vùng kinh
tế xã hội. Tỉ lệ người di cư trên tổng dân số thay đổi đáng kể theo vùng kinh tế-xã hội và
loại hình di cư. Số liệu TĐTDS năm 2009 cho thấy vùng Đông Nam Bộ có tỉ lệ người
nhập cư cao nhất, đặc biệt là nhóm người di cư giữa các tỉnh. Dân số di cư giữa các tỉnh
chiếm trên 14% tổng dân số của vùng Đông Nam Bộ năm 2009 trong khi tỉ lệ này chỉ
nằm ở mức đưới 5% ở tất cả các vùng khác. Kết quả này củng không nằm ngoài dự đoán
khi 4 trong số 6 tỉnh của vùng Đông Nam Bộ (bao gồm Bình Dương, Đông Nai, Bà Rịa-
Vũng Tàu và thành phố Hồ Chí Minh) có mức độ tập tung cao của các khu công nghiệp
và phát triển kinh tế noi chung với nhu cầu lớn về lao động mà lực lượng lao động địa
phương không đáp ứng được.
8
Nguồn: Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2009.
Ngoài Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và đồng bằng Sông Hồng là 2 vùng kinh tế xã hội
có tỉ lệ người di cư giữa các tỉnh tương đối lớn, lớn hơn so với các vùng khác. Mặc dù
năm 2009 không còn chương trình xây dựng vùng kinh tế mới tại Tây Nguyên, tiềm năng
phát triển kinh tế rất lớn của Tây nguyên cộng với đà phát triển của di cư theo các
chương trình phát triển kinh tế mới trước kia khiến khu vực này vẫn tiếp tục trở thành
điểm đến hấp dẫn đối với người di cư. Sức hấp dẫn của vùng đồng bằng sông Hồng đối
với người di cư củng không nằm ngoài dự đoán do đây là vùng kinh tế trọng điểm ở
Đông Bắc Bộ và là nơi tập trung các thành phố trọng điểm về phát triển kinh tế ở miền
Bắc như Hà Nội và Hải Phòng.
Kết quả điều tra dân số nhập cư, xuất cư và di cư thuần trong 5 năm trước thời điểm
tổng điều tra dân số năm 2009 (xem Hình 2.5) cho thấy đông Nam Bộ và Tây Nguyên là
hai vùng đã được “lợi” về dân số thông qua di cư trong khi các vùng khác bị mất dân số
thông qua cùng quá trình di cư này. Mặc dù vùng đồng bằng sông Hồng có tỷ lệ người
nhập cư tương đối cao, đây cũng là vùng xuất phát chính của người di cư và có nhiều
người xuất cư hơn là nhập cư đến vùng này. Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền
Trung và vùng đồng bằng sông Cửu Long là các vùng có số lượng người xuất cư lớn
nhất.
9
Nguồn: Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2009.
Bức tranh di cư giữa các vùng theo số liệu tổng điều tra dân số năm 2009 có thế mô
tả như sau: Tây Nguyên và Đông Nam Bộ là những vùng được lợi về dân số qua di cư
trong giai đoạn 1994-1999 và vẫn tiếp tục là những vùng được lợi về dân số qua di cư
giai đoạn 2004-2009; ngược lại, các vùng khác cũng vẫn tiếp tục là những vùng bị mất
dân số qua di cư. Mặc dù Tây Nguyên vẫn được lợi về dân số thông qua di cư, sức hấp
dẫn của khu vực này đã giảm đi rõ rệt: số lượng người nhập cư đến Tây Nguyên đã giảm
xuống nhanh chóng trong khi số lượng người xuất cư khỏi vùng này lại tăng nhẹ trong
thời gian qua. Số lượng người nhập cư đến vùng Đông Nam Bộ tiếp tục áp đảo số lượng
người xuất cư khỏi vùng này và chênh lệch giữa dân số nhập cư và xuất cư đã tăng lên rất
rõ khi số người nhập cư trong giai đoạn 2004-2009 đã tăng hơn 2,5 lần so với số người
nhập cư trong giai đoạn 1994-1999 trong khi số người xuất cư vẫn giữ nguyên trong cùng
giai đoạn. vùng đồng bằng sông Hồng cũng thu hút nhiều người nhập cư hơn nhưng ở
quy mô nhỏ hơn hai vùng trên, trong khi số lượng người xuất cư hầu như không thay đổi
trong 10 năm qua. Ngược lại, số người xuất cư từ đồng bằng sông Cửu Long và vùng Bắc
Trung Bộ và Duyên hải miền Trung đã tăng nhanh chóng trong khi số người nhập cư
không thay đổi nhiều.
10
Các kết quả phân tích cũng cho thấy những khác biệt vùng rất lớn giữa khu vực nông
thôn và đô thị vùng đồng bằng sông Cửu Long và vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải miền
Trung “mất” dân số do di cư ở cả nông thôn và thành thị nhưng khu vực nông thôn ở các
vùng này bị “mất” nhiều người hơn so với khu vực thành thị. Ngược lại, cả nông thôn và
thành thị của vùng Tây Nguyên và vùng đông Nam Bộ đều được “lợi” dân số do di cư
nhưng khu vực thành thị của Đông Nam Bộ được “lợi” hơn rất nhiều so với khu vực
nông thôn. Tuy nhiên, khu vực thành thị của vùng Trung du và miền núi phía Bắc đã đổi
vai trò từ một vùng xuất cư thuần hay mất dân số do di cư trong giai đoạn 1994-1999
thành vùng nhập cư thuần hay được thêm dân số do di cư trong giai đoạn 2004-2009. Có
thể thấy di cư có tác động mạnh hơn đến đô thị hóa ở một số vùng của đất nước.
Quá trình phát triển kinh tế năng động đã khiến Đông Nam Bộ trở thành vùng có sức
hút đặc biệt với người di cư. Đông Nam Bộ nhận được 1,6 triệu người nhập cư từ các
vùng khác, cao hơn rất nhiều so với số người nhập cư từ các vùng khác đến đồng bằng
sông Hồng là vùng có lượng người nhập cư nhiều thứ hai với gần 290.000 người nhập cư
đến từ các vùng khác. Tây Nguyên là vùng có số lượng người đến nhiều thứ ba với
161.000 người nhập cư đến từ các vùng khác; Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung
nhận được 110.000 người; Trung du và miền núi phía Bắc nhận được 100.000 người; và
đồng bằng sông Cửu Long nhận được gần 70.000 người nhập cư từ các vùng khác. Dòng
11
di cư giữa các vùng lớn nhất là từ vùng đồng bằng sông Cửu Long đến vùng Đông Nam
Bộ với hơn 714.000 người. Dòng di cư lớn thứ hai là từ Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền
Trung tới vùng Đông Nam Bộ với hơn 570.000 người. Dòng di cư lớn thứ ba là từ vùng
đồng bằng sông Hồng tới vùng Đông Nam Bộ với hơn 195.000 người. Dòng di cư lớn
nhất đến vùng đồng bằng sông Hồng là từ vùng Trung du và miền núi phía Bắc với
155.000 người, tiếp đến là từ vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung với 98.000
người.
Nhìn chung, các kết quả phân tích cho thấy các vùng phía Nam nước ta tiếp tục thu
hút được nhiều người nhập cư hơn so với các vùng phía Bắc. Đông Nam Bộ là vùng có
sức hút lớn nhất đối với người di cư. Những vùng xuất cư chính là đồng bằng sông Cửu
Long, Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung. Trung du và miền núi phía Bắc cũng là
vùng xuất cư nhưng có số lượng người xuất cư rất nhỏ hơn nhiều so với hai vùng xuất cư
chính. Các vùng đồng bằng sông Hồng và Tây Nguyên vừa là những vùng nhập cư và
vừa là những vùng xuất cư quan trọng.
4. Lợi ích và Thách Thức.
4.1Lợi ích.
- Góp phần xóa đói giảm nghèo: Tại Hội thảo về “Di dân, phát triển và giảm nghèo” do
đại diện Liên Hợp Quốc tại Việt Nam phối hợp với Viện Khoa học xã hội Việt Nam
(VASS) tổ chức trong hai ngày 5 - 6/2010, ông Bruce Campbell, Trưởng Đại diện Quỹ
Dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA) cho rằng: Trong vòng 20 năm qua, tại Việt Nam, di cư
trong nước đã và đang góp phần tăng trưởng kinh tế nhanh chóng và giảm nghèo. Theo
TS Nguyễn Thanh Liêm (VASS), hiện với tỷ lệ thiếu việc làm ở nông thôn (khoảng 20%)
và tỷ lệ thất nghiệp đô thị khoảng 5%, trong khi các khu công nghiệp lại xảy ra tình trạng
thiếu lao động, thì di dân từ nông thôn ra thành thị đến các khu công nghiệp là giải pháp
giải quyết tình trạng mất cân đối này, giúp thanh niên kiếm được việc làm và thu nhập
cao hơn.
Có thể thấy, việc di cư đã giúp phần lớn những người di cư tìm kiếm được nguồn thu
nhập tốt hơn. Các khoản tiền mà họ chuyển về cho gia đình, người thân là một trong lợi
ích trực tiếp và quan trọng nhất. Báo cáo Phát triển con người 2009 đã ước tính, tổng số
tiền mà người Việt Nam di cư trong nước gửi về gia đình trong năm 2007 là 5,5 tỷ USD.
Trong đó, tính theo tổng lượng tiền gửi về thì Việt Nam đứng thứ 19/182 quốc gia và
vùng lãnh thổ, còn tính lượng tiền gửi về theo đầu người (trung bình là 63 USD/người)
thì Việt Nam đứng thứ 88.
- Quá trình di dân từ nông thôn - đô thị đã tạo điều kiện cho người di cư có cơ hội được
tiếp xúc thường xuyên với xã hội đô thị và họ dần dần làm quen với lối sống của người
đô thị, học hỏi thêm những kiến thức cần thiết phục vụ cho bản thân, cũng như sự phát
triển của gia đình. Việc áp dụng những kiến thức mới, những thành quả tiến bộ của khoa
12
học kỹ thuật vào phục vụ sản xuất có ý nghĩa không chỉ nâng cao năng suất lao động mà
còn nâng cao trình độ kỹ năng cho người nông dân, giúp họ giảm bớt thời gian lao động
và có điều kiện nghỉ ngơi phục hồi sức khoẻ. Có 48,9% người di cư khẳng định họ có
thêm được nhiều kỹ năng nghề nghiệp và trở nên thành thạo, có tay nghề vững vàng hơn;
20% người di cư học được nghề mới; 10% có thêm kinh nghiệm về thị trường giá cả. Sự
nhạy bén trong việc tiếp nhận những thông tin, kỹ năng hay nghề mới giúp người di dân
năng động, linh hoạt hơn trong tổ chức hoạt động kinh tế cho hộ gia đình, cũng như khả
năng phát triển, mở mang ngành nghề mới ở nông thôn. Như vậy, những tri thức, kinh
nghiệm người di cư học được không chỉ làm giầu vốn hiểu biết của bản thân mà những tri
thức mới, những kinh nghiệm đó đã được truyền tải về cho các thành viên khác trong gia
đình. Thông qua việc di chuyển đó người di cư được tiếp cận với môi trường mới và họ
học hỏi được nhiều kiến thức để mở rộng sản xuất, kinh doanh nhằm nâng cao thu nhập,
cải thiện điều kiện sinh hoạt. Điều này thúc đẩy tính năng động, sáng tạo của người nông
dân, xoá dần sức ỳ tâm lý của người dân ở nông thôn.
- Di dân nông thôn - đô thị còn có những tác động quan trọng góp phần thay đổi cuộc sống
gia đình ở nông thôn. Người nông dân vốn gắn bó với đồng ruộng, ít ra khỏi quê, họ thiếu
cơ hội tiếp cận với cuộc sống văn minh đô thị. Trong khi đó, những người di cư hàng
ngày tiếp xúc với cuộc sống mà ở đó có mức sống cao, điều kiện sinh hoạt vật chất và
tinh thần đầy đủ, trình độ dân trí cao, con người hiểu biết Do đó, lối sống đô thị ít nhiều
ảnh hưởng tới người di dân và chính họ sẽ là những người truyền tải những nét văn hoá:
trong giao tiếp, trong sinh hoạt hàng ngày của người đô thị về nông thôn. Xét ở một khía
cạnh nào đó, người di cư thông qua quá trình di chuyển đã và đang gián tiếp chuyển về
nông thôn lối sống đô thị có chiều hướng tích cực, làm thay đổi diện mạo cuộc sống ở các
vùng quê.
- Bổ sung nguồn lao động cho thành thị.
- Góp phần tạo nên sự đa dạng văn hóa trong dân cư thành thị.
- Góp phần tạo nên sự năng động cho nền kinh tế.
- Cải thiện cuộc sống cho một bộ phận dân cư nông thôn thông qua việc gửi tiền về quê
của người lao động.
Như vậy, di dân đóng vai trò không chỉ để tồn tại mà còn là để phát triển đối với các
gia đình ở nông thôn. Di dân không chỉ để giải quyết vấn đề kinh tế, không còn là vấn
đề “cơm, áo” phục vụ cho sinh hoạt hàng ngày. Mặt khác, trong quá trình phát triển kinh
tế - xã hội, cùng với quá trình đô thị hoá diễn ra hết sức mạnh mẽ, nhiều nhu cầu dịch vụ
mới xuất hiện, có những công việc mà người đô thị thực sự có nhu cầu sử dụng lao động,
những lực lượng lao động đô thị không đáp ứng được hoặc không muốn làm. Trong khi
đó, người lao động ngoại tỉnh, đặc biệt là số người di cư thời vụ sẵn sàng làm tất cả các
công việc nặng nhọc, độc hại…, với mục đích để có thu nhập. Nó phần nào giải quyết
được vấn đề “nhu cầu” lao động của các đô thị. Đồng thời, việc di chuyển tới đô thị làm
13
việc để tạo nguồn vốn đầu tư cho sản xuất, để học hỏi và tiếp nhận những kiến thức cần
thiết nhằm tạo ra sự phát triển toàn diện cho bản thân và con, em mình ở nông thôn.
4.2Thách Thức.
Ngoài những đóng góp tích cực của người di dân đối với gia đình nói riêng và làng
xã nói chung. Di dân nông thôn - đô thị cũng nảy sinh những vấn đề như: làm gia tăng tệ
nạn xã hội, tình hình an ninh, trật tự xã hội trở nên phức tạp hơn, gây sức ép về môi
trường, giao thông… Quá trình di dân cũng làm tăng một số tệ nạn xã hội như nghiện
hút, mại dâm, số đề, lối sống không lành mạnh…, về nông thôn.
4.2.1 Thách thức đối vơi nơi đến:
- Làm giảm giá trị sức lao động do lượng người lao động đổ dồn về thành phố ngày càng
nhiều trong khi đó lượng công việc thì hạn chế. Chính lí do này đã làm cho các chủ
doanh nghiệp chèn ép các lao động, họ trả tiền công thấp hơn mức bình thường cho các
công nhân.
- Gây sức ép lớn đối với hệ thống cơ sở hạ tầng, nhà ở, y tế, giáo dục…. Rất nhiều người
nghèo đặc biệt là những người mới di cư đến hiện đang sống trong những căn nhà trọ xây
tạm và ở những khu vực mà cơ sở hạ tầng nghèo nàn hoặc không có cơ sở hạ tầng, điện,
hệ thống thoát nước và hệ thống giao thông công cộng nghèo nàn hoặc không tồn tại159.
Nhiều người di cư khác lại sống trong những nhà trọ chất lượng thấp và trả tiền trọ hàng
ngày hoặc sống tại nơi làm việc mà thường là các công trường xây dựng. Những người di
cư này cố gắng giành dụm tiền cho tương lai hoặc gửi về cho gia đình, và vì thế phải
giảm thiểu chi phí cho các nhu cầu tối thiểu của mình. Họ chỉ sử dụng rất ít tiền cho việc
ăn uống và chăm sóc sức khỏe và thực tế này dẫn đến điều kiện sống tạm bợ và không an
toàn cho các cư dân và làm tăng các nguy cơ về các bệnh lây nhiễm và sức khỏe kém.
- Gia tăng sức ép về vấn đề lao động do lượng người di cư về thành phố ngày càng nhiều.
Gia tăng sức ép về việc làm cho thủ đô. Tình trạng thiếu việc làm, thất nghiệp ở Hà Nội
thực tế đã tồn tại nay lại được bổ sung thêm do tình trạng di dân ngoại thành vào thành
phố, điều đó làm cho số người có nhu cầu giải quyết việc làm mỗi năm tăng nhanh, gây
nên sức ép về việc làm tại thành phố ngày càng tăng. Đồng thời đây cũng là nguyên nhân
dẫn tới những mặt tiêu cực khác phát sinh, tạo ra gánh nặng về mặt kinh tế xã hội cho
thành phố.
- Về môi trường, quá trình đô thị hóa diến ra nhanh và điều đó cũng tất yếu dẫn tới mâu
thuẫn giữa môi trường và sự gia tăng dân số. Những mâu thuẫn đó đã tác động không tốt
tới đời sống của người dân thành phố, ví dụ như: Chất thải sinh hoạt, Nước sinh hoạt,
không khí và tiếng ồn,…
- Tình trạng gây mất trật tự công cộng và gia tăng sức ép về quản lý cho các cấp chính
quyền. Các cuộc điều tra cho thấy, những người di chuyển về Hà Nội có những hạn chế
nhất định về chuyên môn, tay nghề nên phần đông trong số họ phải làm đủ các loại công
việc. Cuộc sống tạm bợ qua ngày của những người lang thang và di dân tự do hình thành
14
nên các tụ điểm chợ lao động như: cầu Mai Động, Ngã tư Sở, dốc Minh Khai… gây mất
trật tự công cộng và mỹ quan thành phố. Sau khi làm việc căng thẳng và mệt mỏi, người
lao động thường tập trung qua đêm ở các xóm lao động và nhà trọ bình dân rẻ tiền. Điều
kiện nghỉ ngơi và sinh sống trong các khu vực này không được đảm bảo. Do tính chất
công việc, hàng ngày họ phải tiếp xúc với nhiều tầng lớp trong xã hội, họ dễ dàng tiếp thu
cả cái tốt và cái xấu. Vì vậy, ở họ rất dễ mắc các tệ nạn xã hội gây ảnh hưởng cho vấn đề
an ninh trật tự và khó khăn cho các nhà quản lý.
- Sức khỏe của người dân đô thị ngày càng giảm do các tệ nạn xã hội gia tăng kéo theo các
bệnh dịch như HIV, giang mai và tình trạng ô nhiễm môi trường gây ảnh hưởng lớn tới
sức khỏe dân cư thành phố. Những bệnh truyền nhiễm phổ biến ở các nước đang phát
triển như sốt rét, sốt xuất huyết, tả, thương hàn hay các bệnh của những quốc gia công
nghiệp phát triển, như tim mạch, tăng huyết áp, ung thư, tâm thần, bệnh nghề nghiệp…,
gần đây bệnh chân tay miệng đã có tác động xấu đến đời sống của các em nhỏ vùng ven
đô, do sự suy thoái môi trường đô thị tác động xấu đến những người nghèo sống trong
các khu ổ chuột và xóm liều do mật độ dân số cao, thiếu các dịch vụ vệ sinh và sức khỏe
công cộng
- Bên cạnh hàng loạt các hậu quả về xã hội và “chất lượng cuộc sống” do thiếu cơ sở hạ
tầng tại các khu vực đô thị, là hậu quả về kinh tế. Các hậu quả này bao gồm giảm đầu tư
trực tiếp nước ngoài đồng thời giảm đầu tư trong nước và thậm chí tác động tới du lịch -
đây là vấn đề đã được ghi nhận là đã xảy ra do việc tắc đường triền miên của Băng Kốc.
4.2.2 Thách thức đối với nơi đi.
- Di cư nó sẽ làm chững lại sự phát triển, thậm chí là trì trệ nền kinh tế ở nơi đi bởi vì các
lực lượng lao động trụ cột chủ yếu là đội ngũ thanh niên lao động trẻ họ tìm đến với các
đô thi, thành phố năng động với nhiều cơ hội việc làm và thu nhập cao hơn. Việc di cư
này làm mất sự cân bằng trong cơ cấu lao động ở nông thôn, đây là một thách thức lớn
cần giải quyết. Lực lượng lao động ở nông thôn ngày càng bị già hóa đi do đó sẽ ảnh
hưởng đến tốc độ phát triển của vùng nông thôn.
- Tác động đối với người già ở nhà: việc vắng bóng người chăm sóc khiến người già cảm
thấy cô đơn hơn dù những người di cư thường cố gắng điều chỉnh vấn đề này bằng cách
gửi tiền và quà về cho người già.
- - Phân công lại trách nhiệm trong gia đình: Nếu trong gia đình có người di cư là nam
giới, để lại vợ và gia đình lại quê hương thì khối lượng công việc mà người phụ nữ ở lại
phải gánh vác thường tăng hơn nhiều vì bên cạnh những công việc thường ngày phải làm,
họ phải làm những công việc sản xuất mà trước đây người chồng thường đảm nhiệm.
Điều này cho thấy các tác động của di cư lên hộ gia đình tại nơi đi có thể ảnh hưởng tiến
tới công bằng giới nhưng để đạt được điều này thì cần phải có những thay đổi hơn nữa về
mặt xã hội.
15
- Tác động xấu khi người di cư trở về nhà, quê hương: các kiến thức và hành vi mà người
di cư mang về cộng đồng không phải lúc nào cũng tốt. Đây dường như là một trong
những mối quan tâm lớn nhất của gia đình có người di cư. Họ cho biết vấn đề lây truyền
“tệ nạn xã hội” từ thành phố là một trong những mối quan tâm hàng đầu liên quan tới di
cư. Các tệ nạn này bao gồm cờ bạc, tội phạm, sử dụng ma túy và mại dâm. Một vấn đề
quan tâm nữa liên quan tới sự trở về của người di cư là liệu sự quay về này có làm tăng
nguy cơ lây nhiễm HIV cho vợ/chồng của họ hay không ?
- Những được, mất của di dân ngày càng hết sức phức tạp, vì vậy đã đến lúc cần phải có
nhận thức đúng vai trò của công tác di dân, đây không phải là vấn đề kinh tế- xã hội đơn
thuần mà phải coi di dân là vấn đề khoa học, phải có đối sách đúng tầm.
III. Giải Pháp.
Bên trên là những vấn đề cấp bách đặt ra do tình trạng di dân tự do vào thành thị để
kiếm việc làm. Vậy, giải pháp cho vấn đề nhằm tăng cường quản lý tình trạng di dân
ngoại tỉnh đến các thành phố được đặt ra như thế nào? Về quan điểm chúng ta phải thấy
rằng, di dân ngoại tỉnh vào thành phố lớn là một xu thế tất yếu. Hiện tượng di dân xuất
phát từ sự chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành thị. Ngoài những nguyên nhân
kinh tế, còn có những nguyên nhân kinh tế khác mà chúng ta đã thấy ở trên. Vì vậy, các
nhà nghiên cứu, các nhà quản lý cần phải nắm bắt tính quy luật nội tại của hiện tượng di
dân để vận dụng vào việc quy hoạch các chính sách, các biện pháp điều tiết nó vì mục
tiêu phát triển. Quan điểm ở đây là không để quá trình di cư (mà đặc biệt là di cư mạng
tính chất thời vụ) trở thành một quá trình tự phát, nhưng đồng thời cũng không nên duy ý
chí, quản lý quá trình này bằng mệnh lệnh hành chính một cách cứng nhắc. Chúng ta
không thể cưỡng chế nó bằng các biện pháp hành chính, nhưng cũng không khuyến khích
hiện tượng này hoặc từ chối nó một cách buông xuôi, tự phát. Vần đề quản lý và điều tiết
di hiện tượng di cư liên quan tới nhiều ngành, nhiều lĩnh vực và các cấp quản lý. Do đó
các giải pháp phải có tính đồng bộ cao. Các giải pháp quản lý và điều tiết tình trạng di cư
phải mang tính hiệu quả cao cả về mặt kinh tế và xã hội, cả về trước mắt cũng như lâu
dài. Ở đây, chúng ta có thể đề cập đến những nhóm giải pháp cơ bản sau:
- Thứ nhất, là nhóm giải pháp nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực của di dân. Vấn đề
này cần đặt ra một cách cơ bản và là trách nhiệm của các cấp chính quyền trung ương và
địa phương, bao gồm những vấn đề sau:
+ Cần phải có chiến lược quy hoạch mở rộng các thành phố lớn, phát triển các khu đô
thị vệ tinh, thông qua đó để giảm áp lực cho sự gia tăng dân số quá mức ở trong khu vực
nội thành, đồng thời tạo thế phát triển về kinh tế và xã hội cho thành phố đó trong tương
lai.
16
+ Chủ động thu hút và quản lý luồng di dân vào các ngành nghề phù hợp. Di dân
ngoại tỉnh vào các đô thị lớn là một xu hướng tất yếu trong quá trình phát triển của đất
nước. Do vậy cần có những biện pháp chủ động nhằm tổ chức thu hút lực lượng lao động
theo nhu cầu của thị trường thay vì hạn chế bằng các rào cản hành chính. Việc phát triển
các loại hình dịch vụ có tổ chức thông qua các trung tâm giới thiệu việc làm, các trung
tâm tư vấn, các lại hình doanh nghiệp…sẽ tạo điều kiện thu hút và quản lý có hiệu quả
hơn tình trạng di cư tránh được tình trạng tự phát như hiện nay.
+Hoàn thiện chính sách quản lý nhân khẩu, hộ khẩu. Trước kia, trong cơ chế tập
trung bao cấp, việc nhập khẩu vào những thành phố lớn, đô thị lớn được quản lí chặt chẽ
không chỉ vì lý do an ninh mà còn vì lý do kinh tế như chế độ phân phối lương thực- thực
phẩm…Nay chuyển sang cơ chế thị trường nên việc lưu chuyển lao động cũng linh hoạt
và đa dạng hơn. Nhu cầu về các loại lao động đa dạng hơn. Do đó, việc quản lý nhân
khẩu hộ khẩu không phải chỉ là việc thực hiện các thủ tục hành chính, mà còn lưu ý đến
các yếu tố kinh tế xã hội khác: đó là nhu cầu có việc làm và đảm bảo đời sống-quyền cơ
bản của người dân.
- Thứ hai, là nhóm giải pháp nhằm hạn chế những mặt tiêu cực của tình trạng di cư. Ở đây
có thể nêu lên những giải pháp cụ thể sau:
+Cần phải có quy hoạch nơi ở và nơi giao dịch việc làm cho người di dân theo mùa
vụ. Đối với người di cư mùa vụ là việc ở thành phố thì vấn đề thông tin việc làm đóng
một vai trò quan trọng. Tuy nhiên vấn đề nhà ở là một vấn đề khó khăn đối với họ. Do
vậy, việc hỗ trợ về chỗ ở cho người di cư, ví dụ như: dịch vụ cho thuê phòng trọ giá rẻ,
quy hoạch khu trọ cho người di dân và là nơi giao dịch việc làm là một việc làm thiết
thực cho người di dân, đồng thời đem lại hiệu quả tốt hơn cho nhà quản lý.
+ Xây dựng và phát triển các chính sách xã hội. Việc xây dựng các chính sách xã hội
và đưa chúng vào thực tế đối với người lao động đang là một yêu cầu thiết yếu hiện nay.
Các chính sách đó bao gồm một loạt các vấn đề như: Hỗ trợ việc làm, trợ cấp thất nghiệp,
xóa đói giảm nghèo, bảo hiểm y tế…Việc thực hiện các chính sách này cũng rất cần thiết
đối với người di dân tự do, nó giúp người lao động có điều kiện thực hiện các quyền cơ
bản của công dân, tạo điều kiện tốt cho họ tham gia vào thị trường lao động.
+Giáo dục, tuyên truyền nhằm nâng cao ý thức cộng đồng, xây dựng nếp sống văn
minh đô thị cho người di cư. Một vấn đề bức xúc trong hoạt đọng của người dân di cư
theo mùa vụ là ý thức cộng đồng cũng như những hành động tự phát của họ làm mất mỹ
quan đô thị còn kém. Vì vậy, cần có các chương trình tuyên truyền nếp sống văn minh
qua các phương tiện thông tin đại chúng. Bên cạnh đó cũng cần có những chế tài, những
17
hình thức xử phạt hành chính để nhắc nhở họ, qua đó để xây dựng nếp sống văn minh đô
thị ngày một tốt hơn.
+Thành lập các trung tâm hỗ trợ việc làm cho người di dân. Đây là một giải pháp
nhằm tạo điều kiện giúp người di dân tìm kiếm việc làm, đồng thời nhằm tăng cường
quản lý người dân di cư. Đây có thể là những tổ chức tư vấn việc làm nhằm hướng họ
vào những ngành nghề phù hợp với năng lực của họ. Đồng thời, từng bước hình thành
nên thị trường lao động có thể quản lý được giúp cho nhà quản lý thực hiện tốt chức năng
của mình.
IV. Kết Luận.
Di cư là một phần quan trọng không thể tách rời trong phát triển kinh tế xã hội Việt
Nam. Bằng việc đáp ứng hết nhu cầu lao động trong phát triển công nghiệp và đầu tư
nước ngoài khi thực hiện quá trình đổi mới và bằng việc gửi một phần tiền mình kiếm
được tới khu vực nghèo hơn của Việt Nam, di cư đóng một vai trò quan trọng trong nền
kinh tế Việt Nam và có thể góp phần vào việc xóa đói giảm nghèo góp phần vào xây
dựng và phát triển nông thôn hiện nay. Vì thế Đảng và Nhà nước ta cần có những sự quan
tâm hơn nữa đối với vấn đề này.
18