Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

BTHK tố tụng Hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.27 KB, 32 trang )

A MỞ ĐẦU:
Hiện nay, pháp luật luôn đề cao và tôn trọng quyền con người, quyền công
dân, và quyền này cũng được đảm bảo ngay cả với bị can, người phạm tội. Điều
này được thể hiện thông qua nguyên tắc “ suy đốn vơ tội” trong bộ Luật TTHS
2015. Theo cách hiểu thơng thường, suy đốn là dựa vào cái này mà đoán ra
cái khác. Trong pháp luật, suy đoán là một trong những kỹ thuật lập pháp, là
suy đoán pháp lý nên phải chịu sự ràng buộc của pháp luật. Đó là giả thiết do
luật quy định và được công nhận là đúng cho đến khi chứng minh được điều
ngược lại. Đây là nguyên tắc hiến định, không ai có quyền vi phạm. Vậy để
hiểu rõ hơn về nguyên tắc này, em xin phép chọn đề 05: Nguyên tắc “suy đốn
vơ tội”của Bộ luật TTHS 2015.
B NỘI DUNG:
I. KHÁI NIỆM CỦA NGUYÊN TẮC:

1


1.

Theo từ điển Tiếng Việt:

Nguyên tắc: “ điều cơ bản định ra, nhất thiết phải tuân theo trong một loạt
việc làm”. Theo đó, nguyên tắc là những quy định có tính cơ bản và có hiệu lực
bắt buộc đối với cá nhân hoặc tập thể khi làm một việc gì đó.
Suy đốn: là “ đốn ra điều chưa biết, căn cứ vào những điều đã biết và
những giả định”. Thuật ngữ “ suy đoán” được hiểu là sự khẳng định một vấn đề
nào đó là đúng cho đến khi chưa bị bác bỏ.

2



Vơ tội: nghĩa là khơng có tội

3


Từ sự phân tích trên, ta thấy: Nguyên tắc suy đốn vơ tội trong TTHS là
những tư tưởng chủ đạo, cơ bản mang tính xuất phát điểm, là cơ sở cho việc
xây dựng và áp dụng pháp luật TTHS, bảo đảm người bị buộc tội có quyền
được coi là vơ tội cho tới khi lỗi của họ được chứng minh theo pháp luật.

4


5


2.

Theo Bộ luật TTHS 2015:

Bộ luật TTHS 2015 quy định về suy đốn vơ tội: Người bị buộc tội được coi
là khơng có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật
này quy định và có bản án kết tội của TA đã có hiệu lực pháp luật
Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình
tự, thủ tục do Bộ luật quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng phải kết luận người bị buộc tội khơng có tội.
II, QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TTHS 2015 VỀ NGUN TẮC SUY
ĐỐN VƠ TỘI:

6



1.

Nội dung của nguyên tắc:

Theo quy định của Bộ luật thì nguyên tắc này gồm 4 nội dung sau:

7


1.1

. Người bị buộc tội ( người bị giữ, bị can, bị cáo) chỉ bị coi là có tội khi
có bản án kết tội đã có hiệu lực của TA:

Người bị buộc tội trong trường hợp này được suy đoán vơ tội, có nghĩa đây là
một suy đốn pháp lý – một giả thiết được pháp luật quy định và được coi là đúng
cho đến khi xuất hiện những sự kiện, tình tiết nhất định. Khi nào chưa có bản án
kết tội có hiệu lực của TA thì giả thiết trên vẫn tồn tại, vẫn được thừa nhận là đúng.
Như vậy, người bị buộc tội không đồng nghĩa với người có tội hay người phạm tội.
Bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của TA là cơ sở pháp lý quan trọng, xác
định một người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà luật hình sự quy
định là tội phạm, chính thức coi là có tội. TNHS bắt đầu khi bản án kết tội của TA
có hiệu lực pháp luật, chứ khơng phải từ thời điểm có quyết định khởi tố bị can và
pháp luật cũng khơng quy định khi khởi tố bị can thì phải chứng minh đầy đủ lỗi
của bị can, mà chỉ quy định căn cứ khởi tố bị can là khi có đủ căn cứ xác định mối
quan hệ của người bị khởi tố với các hành vi có dấu hiệu phạm tội xảy ra.
Người bị buộc tội đã bị khởi tố, điều tra, truy tố thậm chí bị đưa ra xét xử với tư
cách là bị cáo nhưng họ chưa bị coi là có tội hay chưa bị coi là phạm tội nếu TA

chưa đưa ra bản án kết tội có hiệu lực pháp luật. Điều này có nghĩa trong tất cả các
giai đoạn TTHS, người bị buộc tội không bị coi là có tội. Tức là họ có đầy đủ
quyền công dân, do vậy các cơ quan tiến hành tố tụng phải đảm bảo cho họ thực
hiện đầy đủ quyền bào chữa và các quyền khác theo quy định của Bộ luật TTHS.
Bên cạnh đó, để làm sáng tỏ bản chất của VAHS, các cơ quan tiến hành tố tụng có
thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhằm đảm bảo thu thập và ghi nhận chứng
cứ, các biện pháp ngăn chặn, thực hiện các biện pháp điều tra… Tất cả các biện
pháp mà cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện trong q trình chứng minh nói trên,
đều được quy định trong pháp luật TTHS.
Khi xét xử, các TA phải đảm bảo cho mọi cơng dân bình đẳng trước pháp luật,
thực sự dân chủ, khách quan. Thẩm phán và Hội thẩm độc lập xét xử và chỉ tuân
theo pháp luật. Việc phán quyết của TA phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng
tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm
sát viên, của người bào chữa, bị cáo, người làm chứng, bị hại, nguyên đơn dân sự,
bị đơn dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án… để ra bản án,
quyết định đúng pháp luật và trong thời hạn do pháp luật quy định. Bản án kết tội
hiểu là bản án hình sự mà nội dung của nó là thực hiện TNHS, vì trong bản án đó,
8


TA dựa trên các căn cứ pháp luật do luật định tại phiên tịa tun bị cáo là có tội.
Bên cạnh đó, bản án kết tội phải có hiệu lực pháp luật. Bản án phúc thẩm của TA
cấp phúc thẩm đương nhiên có hiệu lực từ ngày tuyên án, nhưng bản án sơ thẩm
chỉ có hiệu lực khi khơng bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn nhất định do
pháp luật quy định.

9


1.2


. Trách nhiệm chứng minh tính có lỗi của người bị buộc tội về các cơ
quan tiến hành TTHS. Người bị buộc tội khơng phải chứng minh mình
là vơ tội:

Vì chưa bị coi là có tội nên người bị buộc tội ( người bị tạm giữ, bị can, bị cáo)
không phải chứng minh gì cả. Do vậy, để chứng minh người bị buộc tội có tội thì
cơ quan tiến hành tố tụng phải tiến hành chứng minh được lỗi của những người
này. Khẳng định trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành
tố tụng, cũng có nghĩa là nếu cơ quan tiến hành tố tụng không thể chứng minh
được tội phạm, thì phải coi người bị buộc tội là không phạm tội. Như vậy, việc vận
dụng ngun tắc suy đốn vơ tội có ý nghĩa góp phần hạn chế tối đa những trường
hợp oan sai có thể xảy ra khi xử lý VAHS.
Trách nhiệm chứng minh của các cơ quan tiến hành tố tụng trong mỗi giai đoạn
TTHS có những đặc điểm riêng, bởi ở mỗi giai đoạn lại có những nhiệm vụ riêng:

10


+ Ở giai đoạn khởi tố VAHS: Cơ quan có thẩm quyền khởi tố có trách nhiệm
chứng minh có hay khơng có căn cứ khởi tố VAHS

11


+ Trong giai đoạn điều tra VAHS: CQĐT có trách nhiệm xác định một cách đầy
đủ, khách quan, toàn diện, chính xác tất cả những sự kiện, tình tiết phải chứng
minh trong VAHS. Các chứng cứ đều phải được cơ quan điều tra phát hiện, thu
thập và đánh giá theo đúng những quy định của pháp luật TTHS. Trong giai đoạn
này, CQĐT có thể ra quyết định khởi tố bị can.

+ Trong giai đoạn truy tố: Trách nhiệm chứng minh chỉ giới hạn chủ yếu trong
phạm vi kiểm tra và đánh gia chứng cứ. Trong giai đoạn này, VKS có nhiệm vụ
kiểm tra lại toàn bộ hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra, yêu cầu CQĐT cung cấp
những tài liệu cần thiết liên quan đến vụ án để xem xét, ra quyết định truy tố bị can
trước TA bằng bản cáo trạng hoặc trả hồ sơ để điều tra bổ sung, đình chỉ hoặc tạm
đình chỉ vụ án.
+ Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm: Mọi tài liệu, chứng cứ của vụ án do CQĐT
thu thập đều được đưa ra xem xét một cách công khai. TA khơng bị ràng buộc bởi
những chứng cứ đã có trong hồ sơ vụ án mà có thể yêu cầu bị cáo, người bào chữa
và những người tham gia tố tụng khác cung cấp tài liệu, chứng cứ mới. Việc xét xử
trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tạo điều kiện cho TA xác định những tình tiết mới
của vụ án bằng cách hỏi và nghe ý kiến của bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân
sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm
chứng, người giám định, xem xét vật chứng và nghe lời bào chữa. TA chỉ ra bản án,
quyết định trên cơ sở những chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa.
+ Trong giai đoạn xứt xử phúc thẩm: TA cấp phúc thẩm xem xét kháng cáo,
kháng nghị, nếu thấy cần thiết có thể xem lại các phần khác khơng có kháng cáo,
kháng nghị. Trước khi xét xử hoặc khi xét hỏi tại phiên tịa, VKS có thể tự mình
hoặc theo yêu cầu của TA bổ sung những chứng cứ mới, cả chứng cứ cũ và mới
phải được xem xét tại phiên tòa. Bản án của TA cấp phúc thẩm phải căn cứ vào cả
những chứng cứ cũ và mới. Quá trình chứng minh trong giai đoạn này nhằm kết
luận kháng cáo, kháng nghị có căn cứ hay khơng để ra quyết định thuộc thẩm
quyền của mình.
Sau khi bản án buộc tội của TA đã có hiệu lực pháp luật, ngun tắc suy đốn vơ
tội chấm dứt hiệu lực. Tuy nhiên, điều này chỉ đặt ra đối với các quan hệ ở ngồi
khn khổ của TTHS. Trong TTHS, khi kiểm tra tính hợp pháp, tính có căn cứ của
bản án đã có hiệu lực pháp luật, thì ngun tắc suy đốn vơ tội khơng mất đi ý
12



nghĩa của mình với tính chất là một ngun lý, xác định phương hướng và trình tự
thực hiện tư pháp. Trong giai đoạn thi hành án hình sự, cơ quan thi hành án hình sự
có thể cung cấp cho CQĐT, VKS, TA những thông tin liên quan đến các trường
hợp bị kết án oan, sai. Điều này có thể giúp các cơ quan có thẩm quyền xem xét lại
q trình chứng minh trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. Ngồi ra, những
thơng tin về nhân thân người bị kết án trong thời gian thi hành án được cung cấp
cho CQĐT sẽ là tài liệu có giá trị phục vụ quá trình chứng minh trong trường hợp,
người bị kết án đã chấp hành án xong nhưng lại tiếp tục phạm tội.
Cùng với việc khẳng định trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ
quan tiến hành tố tụng, ngun tắc suy đốn vơ tội cịn thể hiện nội dung: người bị
buộc tội có quyền chứ khơng buộc phải chứng minh sự vơ tội của mình. Để thực
hiện quyền chứng minh mình vơ tội, người bị buộc tội có thể sử dụng những quyền
năng được luật TTHS quy định như quyền bào chữa hoặc nhờ người khác bào
chữa, quyền đưa ra chứng cứ và yêu cầu, quyền tranh tụng bình đẳng tại TA,…
Đây là những quyền mà pháp luật quy định cho người bị buộc tội và nhiệm vụ của
các cơ quan tiến hành tố tụng là phải đảm bảo cho họ thực hiện những quyền của
mình, khơng làm oan người vô tội.
Trước thời điểm bản án kết tội có hiệu lực pháp luật, mặc dù các cơ quan tiến
hành tố tụng có những chứng cứ nhất định là căn cứ pháp lý cho việc khởi tố vụ án,
khởi tố bị can, truy tố bị can…, nhưng những người tiến hành tố tụng khơng được
có thái độ định kiến là người bị buộc tội là người có tội. Vì vậy, ngồi việc thu thập
những chứng cứ buộc tội, còn phải thu thập những chứng cứ gỡ tội, bảo đảm
không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
1.3. Mọi sự nghi ngờ đối với người bị buộc tội( người bị bắt giữ, bị can, bị
cáo) đều phải được kiểm tra, chứng minh, làm rõ. Nếu không chứng minh làm
rõ được sự nghi ngờ thì sự nghi ngờ đối với người bị buộc tội phải được giải
thích theo hướng có lợi cho họ:
Nghi ngờ là trạng thái thiếu tự tin, lưỡng lự, không nhất quán về sự đúng đắn
hay khơng đúng đắn của một tình huống, giả thiết nào đó. Nguồn gốc của trạng thái
nghi ngờ là sự thiếu thơng tin, phản ánh chưa đầy đủ, tồn diện, chính xác, khách

quan về bản chất của sự vật, hiện tượng. Trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử,
thường xảy ra những tình huống khi thơng tin, chứng cứ về các sự kiện, tình tiết cụ
13


thể của vụ án liên quan đến lỗi của người bị buộc tội có mâu thuẫn, nên khơng thể
kết luận, khẳng định dứt khốt về sự kiện, tình tiết đó. Những nghi ngờ này tồn tại,
nhưng trong quá tình chứng minh, các cơ quan tiến hành tố tụng phải có trách
nhiệm làm rõ. Mọi sự nghi ngờ này, cũng như những vấn đề phải chứng minh trong
VAHS và các tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án, tồn tại
khách quan, độc lập với ý thức của những người tiến hành tố tụng, vậy nên điều
quan trọng nhất là những người này phải nhận thức đúng về chúng. Nếu nhận thức
không đúng, chủ quan, suy diễn về lỗi của người bị buộc tội, thì những tài liệu
phản ánh nhận thức của họ sẽ khơng thuộc tính khách quan, không được công nhận
là chứng cứ. Điều này đòi hỏi CQĐT, VKS, TA khi giải quyết VAHS phải xuất phát
từ thực tế của vụ án để nhận thức chúng, khơng áp đặt ý chí chủ quan, phải tơn
trọng sự thật khách quan, tránh thái độ chủ quan, nóng vội, phiến diện, không trung
thực.Mọi nghi ngờ về lỗi của người bị buộc tội phải được làm rõ bằng các chứng
cứ để xác định sự thật của VAHS, và phải được các cơ quan tiến hành tố tụng xác
minh, đánh giá, kết luận theo đúng trình tự, thủ tục cụ thể do pháp luật TTHS quy
định.
Sự nghi ngờ về lỗi của người bị buộc tội là một trong những vấn đề mà cơ quan
và những người tiến hành tố tụng phải làm rõ trong số những vấn đề phải chứng
minh trong VAHS. Trong q trình chứng minh, nếu có khả năng loại trừ những
nghi ngờ, thì việc giải thích theo hướng có lợi cho quyết định này hay quyết định
khác là khơng được phép- những nghi ngờ đó cần được loại trừ.
Nội dung trên chỉ liên quan đến khía cạnh sự kiện thực tế của VAHS: như những
dấu hiệu pháp lý hình sự, nhân thân bị can, tính hợp pháp và tính chính xác của
từng chứng cứ mà với sự giúp đỡ của chúng, có thể xác định về sự kiện phạm tội
và lỗi của người thực hiện tội phạm. Đối với vấn đề định tội danh và quyết định

hình phạt, những nghi ngờ không thể giải quyết bằng cách giải thích, mà phải làm
sáng tỏ ý nghĩa của các quy phạm pháp luật hoặc ra quyết định có căn cứ, đúng
pháp luật. Trường hợp không thể loại trừ được những nghi ngờ đó, thì ngun tắc
suy đốn vơ tội là một thành tố rất quan trọng của quyền được xét xử cơng bằng,
theo đó trách nhiệm chứng minh thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng và người bị
buộc tội được hưởng lợi từ những sự nghi ngờ. Bởi vì, trách nhiệm chứng minh
thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng, cho nên khi cơ quan tiến hành tố tụng không
chứng minh được sự nghi ngờ về lỗi của người bị buộc tội, thì phần lợi đương
nhiên thuộc về bị cáo. Còn nếu mọi sự nghi ngờ về lỗi của người bị buộc tội được
14


giải thích có lợi cho bên buộc tội, thì mọi việc được đảo chiều, từ suy đốn vơ tội
thành suy đốn có tội.
Trong TTHS, người yếu thế là những người bị buộc tội, họ phải đối mặt với
cả bộ máy CQĐT, VKS, TA. Nội dung trên vừa có vai trị đảm bảo quyền của
người bị buộc tội, đồng thời là một động lực buộc cơ quan tiến hành tố tụng phải
xác định được sự thật khách quan của vụ án. CQĐT, VKS cần phải thấy rằng các
tình tiết của vụ án liên quan đến lỗi của người bị buộc tội cịn chưa rõ ràng, vẫn
cịn mâu thuẫn thì sẽ khơng được TA chấp nhận, họ sẽ phải cố gắng tận dụng mọi
khả năng luật định để làm sáng tỏ các tình tiết đó trong q trình điều tra, truy tố.
Tn thủ u cầu này của ngun tắc suy đốn vơ tội, khơng những có lợi cho
người bị buộc tội mà cịn giúp các cơ quan tiến hành tố tụng khơng bỏ lọt tội phạm
và người phạm tội.
Trường hợp không loại trừ được sự nghi ngờ về lỗi của người bị buộc tội thì
mọi sự giải thích về sự nghi ngờ đó phải theo hướng có lợi cho họ. Nội dung này
của nguyên tắc thể hiện sự nhân đạo của luật TTHS đối với người bị buộc tội. Sự
nhân đạo này của Nhà nước đối với những người này phải dựa trên cơ sở quy định
của pháp luật chứ không được tùy tiện. Việc giải thích về sự nghi ngờ có lợi cho
người bị buộc tội được pháp luật quốc tế thừa nhận. Điều 82 Quy chế TA hình sự

sự quốc tế năm 1998 đã quy định: “ Trong trường hợp tội phạm được hiểu theo hai
nghĩa thì phải giải thích có lợi cho người bị điều tra, truy tố, xét xử. Nếu có sự thay
đổi trong điều luật áp dụng đối với vụ án cụ thể, thì phải áp dụng điều luật theo
hướng có lợi cho người bị buộc tội”.
1.4. Bản án kết tội của TA không được dựa trên những giả định:
Bản án hình sự là văn bản pháp lý thể hiện kết quả hoạt động áp pháp luật về xét
xử VAHS của TA, là một nội dung rất quan trọng của hoạt động xét xử. Bản án kết
tội của TA đúng pháp luật, công bằng là tiền đề, điều kiện để đạt được các mục
đích của hình phạt, như: có khả năng cải tạo và giáo dục người bị kết án trở thành
người có ích cho xã hội, có tác dụng phịng ngừa tội phạm. Ngược lại, nếu bản án
kết tội không đúng pháp luật, không công bằng, tất yếu, khơng có khả năng đạt
được những mục đích trên. Có nghĩa là, bản án tuyên một người phạm tội khơng
xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, nhân thân người

15


phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS, hình phạt như vậy hoặc là quá
nặng hoặc quá nhẹ.
Theo từ điển Tiếng Việt, giả định được hiểu là việc “ đưa ra một khả năng như
có thật”. Như vậy, giả định có thể là sự thật nhưng cũng có thể khơng phải sự thật.
Bản án kết tội được tuyên đối với bị cáo phải đảm bảo tính xác định, tính có căn
cứ, tính hợp lý, khơng thể dựa trên những giả định, chưa được kiểm chứng. Tính
xác định của bản án được thể hiện ở chỗ hình phạt được quyết định đối với bị cáo
phải cụ thể về loại hình phạt và thời hạn. Tính có căn cứ của bản án kết tội buộc TA
khi tuyên phải nghiên cứu kỹ toàn bộ hồ sơ của vụ án trong một tổng thể thống
nhất bao gồm các tình tiết xác định tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của
tội phạm, các đặc điểm nhân thân của người phạm tội, các tình tiết tăng nặng và
giảm nhẹ TNHS. Khi ra bản án buộc tội, phải trên cơ sở các chứng cứ có trong vụ
án làm căn cứ, nhưng những chứng cứ đó phải được kiểm tra, đánh giá một cách

tổng thể và cơng khai trong q trình xét xử. Tính có căn cứ địi hỏi phải chỉ rõ các
lý do của việc ra bản án buộc tội. Đương nhiên, khi ra bản án buộc tội, TA còn phải
đảm bảo tính hợp lý, tính hợp lý thể hiện ở chỗ: trong số những phương án giải
quyết khác nhau mà pháp luật cho phép, TA cần lựa chọn loại và mức hình phạt
vừa đúng pháp luật, vừa đảm bảo các địi hỏi của ngun tắc cá thể hóa TNHS và
hợp lý nhất trên cơ sở phù hợp với các tình tiết cụ thể của tội phạm đã thực hiện,
nhân thân người phạm tội, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ TNHS. Đối với
những lĩnh vực áp dụng các quy định của luật hình sự để quyết định hình phạt, tính
hợp lý khơng mâu thuẫn với pháp chế, cơng bằng mà nằm trong mối quan hệ thống
nhất. Chỉ có việc ra bản án kêt tội hợp lý và trong phạm vi của luật cho phép mới
tạo điều kiện cho việc đạt được các yêu cầu của Nhà nước đối với hoạt động xét
xử.
Khi ra bản án buộc tội, TA phải cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã
hội của tội phạm đã thực hiện, chính là tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm.
Tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, trước hết được quyết định bởi ý
nghĩa, tính chất, tầm quan trọng và giá trị của các quan hệ xã hội bị tội phạm đó
xâm hại- khách thể bị xâm hại. Những tội phạm giống nhau về tính chất nguy hiểm
cho xã hội có thể khác nhau về mức độ nguy hiểm cho xã hội, mức độ nguy hiểm
cũng được xác định bởi tổng thể các yếu tố cấu thành tội phạm và đó cũng là một
tính khách quan của tội phạm. Do vậy, khi ra bản án buộc tội, TA phải cân nhắc cả
tính chất lẫn mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã thực hiện. TA phải chỉ
16


ra trong bản án kết tội những tình tiết cụ thể chứng minh tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội của tội phạm, mà TA dựa vào đó và cùng với những tình tiết khác
để chọn loại hình phạt và mức hình phạt cụ thể đối với bị cáo. Khi xác định tính
chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã được thực hiện, tức là dựa
trên những thơng tin có thật, đã được kiểm chứng, chứ khơng dựa trên những thơng
tin có tính giả định.

Như vậy, khi ra bản án kết tội, TA phải cân nhắc hình thức, loại và mức độ lỗi
của bị cáo. Bên cạnh đó cũng phải lưu ý rằng đó chỉ là một trong những yếu tố
được cân nhắc trong một chỉnh thể thống nhất với các yếu tố khác mới có căn cứ
để ra một bản án kết tội công bằng, hợp lý, phù hợp với các mục đích của hình phạt
và đúng pháp luật.
2. Ý nghĩa của ngun tắc suy đốn vơ tội:
Việc ghi nhận ngun tắc suy đốn vơ tội có ý nghĩa rất lớn đối với pháp luật
TTHS nói riêng và nền pháp chế nói chung. Nguyên tắc này thể hiện sự phát triển
về kỹ thuật lập pháp, nâng cao tinh thần trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố
tụng và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân. Ngun tắc này quy định 4
nội dung, có ý nghĩa vơ cùng quan trọng trong khoa học pháp lý TTHS, trong thực
tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm. Nguyên tắc này quyết định, chi phối tồn bộ
tính chất, hoạt động của các cơ quan có nhiệm vụ phát hiện, khám phá tội phạm và
trừng phạt người phạm tội
Ngun tắc suy đốn vơ tội không chỉ đáp ứng yêu cầu chứng minh: Chứng
minh trong TTHS là hoạt động cực kỳ phức tạp, không chỉ là những hành vi khách
quan, những hậu quả thực tế mà còn cả những yếu tố tâm lý của người bị buộc tội.
Mọi sai lầm trong chứng minh nhiều khi có thể phải trả giá bằng sinh mệnh của
con người. Do đó, nếu chỉ chứng minh theo hướng suy đốn có tội thì rất dễ dẫn
đến việc coi tố tụng hình sự chỉ đơn thuần là việc bắt người và ra bản án kết tội
kèm theo những hình phạt cụ thể. Việc định kiến người bị tình nghi, bị can, bị cáo
là người có tội là hết sức nguy hiểm. Nó đồng nhất người bị buộc tội là người có
tội kéo theo đó là việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng tràn lan, thiếu căn
cứ, chà đạp lên quyền con người mà nhiều trường hợp khi vụ án được xem xét lại
thì họ hồn tồn vơ tội. Lúc đó, có bồi thường oan sai đi chăng nữa thì hậu quả đối
với họ khơng thể nói là đã bù đắp được toàn bộ.

17



Nguyên tắc này còn bảo vệ được quyền của người bị buộc tội. Hoạt động TTHS
bao gồm hai nhiệm vụ: Bảo vệ xã hội chống lại hành vi xâm hại từ phía tội phạm
và bảo vệ cá nhân người bị buộc tội chống lại sự xâm hại quyền con người từ phía
cơng quyền. Suy đốn vơ tội cịn đem đến sự cân bằng trong hoạt động TTHS giữa
một bên là nhà nước với bộ máy điều tra, truy tố xét xử hùng mạnh được hậu thuẫn
bằng quyền lực nhà nước với một bên yếu thế hơn là người bị buộc tội. Có thể
nhận định rằng, suy đốn vơ tội là một nguyên tắc tiến bộ. Nguyên tắc này bảo vệ
chính sách nhân đạo của pháp luật hình sự và lợi ích của người bị truy cứu TNHS
là khi cơ quan tố tụng không chứng minh được hành vi phạm tội thì phải suy đốn
theo hướng ngược lại. Ngồi ra, ngun tắc suy đốn vơ tội cũng đặt ra u cầu
cao hơn cho những người tiến hành tố tụng trong việc chứng minh tội phạm: Họ
không thể làm sai mà vẫn áp đặt ý chí chủ quan của mình để kết tội nghi can. Hơn
nữa, nguyên tắc này đảm bảo tính pháp chế trong Bộ luật TTHS, là nhân tố phát
triển tính đúng đắn của lĩnh vực TTHS.
Ngun tắc suy đốn vơ tội có quan hệ chặt chẽ với ngun tắc đảm bảo quyền
bào chữa. Bởi vì nếu đã bị coi là có tội ngay từ khi chưa xét xử thì việc thực hiện
quyền bào chữa của người bị buộc tội chỉ cịn là hình thức. Người bào chữa là
người được đào tạo chuyên nghiệp về nghiệp vụ bảo vệ các quyền và lợi ích chính
đáng của bị cáo. Họ được nghiên cứu hồ sơ vụ án trên cơ sở am hiểu các quy định
của pháp luật và được bị cáo hoặc gia đình bị cáo ủy quyền để bảo vệ cho các
quyền và lợi ích chính đáng của bị cáo. Sự có mặt của người bào chữa nhằm đưa ra
các luận cứ chứng minh sự vô tội của bị cáo hoặc đưa ra các lập luận đồng ý hay
không đồng ý với quan điểm truy tố của VKS về tội danh cũng như các tình tiết
tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà VKS buộc tội. Đảm bảo quyền bào
chữa là cơ sở quan trọng để bảo vệ quyền con người. Vì vậy, Hiến pháp năm 2013
cũng đã quy định rõ quyền tự bào chữa hoặc nhờ Luật sư, người khác bào chữa của
những người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử.
III, THỰC TIỄN VIỆC ÁP DỤNG NGUN TẮC SUY ĐỐN VƠ TỘI:

18



1.

Những thành tựu đạt được:

Ngun tắc suy đốn vơ tội là một thành tựu của khoa học pháp lý hiện đại. Về
mặt lý luận, sự ghi nhận và áp dụng các quy định liên quan đến nguyên tắc này thể
hiện sự tiến bộ của hệ thống pháp luật nói chung và của hệ thống pháp luật TTHS
nói riêng. Bên cạnh những thành tựu đạt được về mặt lý luận, việc áp dụng các quy
định liên quan đến nguyên tắc này trong thực tiễn là cơ sở cho hoạt động tố tụng
được tiến hành khách quan, chính xác, đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội, tăng
cường pháp chế. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật TTHS liên quan đến
nguyên tắc này cho thấy cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã có
nhiều cố gắng tuân thủ và thực hiện những quy định này. Bảo đảm quyền, lợi ích
hợp pháp của người bị buộc tội với tính chất là người chưa có tội.
Ngun tắc suy đốn vơ tội cần thiết để tạo ra sự cân bằng hợp lý giữa lợi ích
chung của xã hội và các quyền tự do cá nhân của con người. Sự cân bằng sẽ được
thiết lập giữa quyền của bị cáo khơng bị xét xử oan và lợi ích của xã hội trong việc
thực thi pháp luật. Việc kết án oan, sai sẽ dẫn đến hình phạt bất cơng, bơi nhọ danh
dự và nhân phẩm của bị cáo. Trong nhiều trường hợp, cuộc sống cá nhân, gia đình
và con đường cơng danh của bị cáo khơng cịn, và tất nhiên xã hội cũng đã tránh
được những bất cơng đó.
Ngồi ra, trong hai ngày 25 và 26 tháng 11 năm 2010, tại Hà Nội, Viện Nhà
nước và Pháp luật thuộc Viện khoa học xã hội Việt Nam và trung tâm Nhân quyền,
Đại học Olso đồng tổ chức Hội thảo khoa học với chủ để “ Suy đốn vơ tội trong
TTHS: Kinh nghiệm Na Uy”. Các báo cáo tham luận tại Hội thảo xoay quanh các
vấn đề trực tiếp liên quan đến ngun tắc suy đốn vơ tội trong TTHS ở Việt Nam
và Na Uy. Hai bên đã trình bày, thảo luận những vấn đề liên quan trực tiếp đến
nguyên tắc này như nguồn gốc, nội dung, sự thể hiện của nó trong pháp luật TTHS

mỗi nước, thực tiễn áp dụng nguyên tắc này và phương hướng hoàn thiện pháp luật
TTHS Việt Nam nhằm dảm bảo ngun tắc suy đốn vơ tội. Việc triệt để tuân thủ
các quy định trên sẽ khiến cho hoạt động tố tụng được tiến hành một cách chính
xác, khách quan, khơng làm oan người vơ tội, khơng bỏ lọt tội phạm. Đó chính là
những kết quả mà các cơ quan tiến hành tố tụng đạt được trong thực tiễn vận dụng
ngun tắc suy đốn vơ tội

19


2.

Những hạn chế:

Bên cạnh những thành tựu đạt được, việc thực hiện quy định của pháp luật
TTHS có liên quan đến ngun tắc suy đốn vơ tội vẫn cịn một số hạn chế sau:
Hiện nay, ở nhiều nơi, nhiều lúc, các cơ quan tiến hành tố tụng đã không nhận
thức được hoặc cố tình vi phạm các quy định liên quan đến ngun tắc suy đốn vơ
tội. Điều này dẫn đến hạn chế trong hoạt động tố tụng, đặc biệt là tình trạng oan,
sai. Thực tế giải quyết VAHS ở nước ta vẫn cịn tồn tại tình trạng oan sai, gây thiệt
hại cho người dân, cụ thể là quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội. Tiêu
biểu như: Vụ án ông Nguyễn Thanh Chấn với hơn 10 năm ngồi tù oan; vụ án “ ba
chàng trai với 10000 ngày oan trái”,… và những vụ án đang trong quá trình điều
tra, xét xử để tìm ra sự thật vụ án, cũng như để minh oan cho người bị buộc tội mà
thực chất là người vô tội.
Trong thời gian gần đây, tình trạng khởi tố, truy tố, xét xử oan sai đang trở thành
một vấn đề bức xúc được dư luận quan tâm rất nhiều. Mặc dù số lượng các vụ án
xét xử oan sai không phải là lớn so với tổng số vụ án đã xét xử hàng năm nhưng
hậu quả do các vụ án oan sai để lại thì khơng thể xác định và khắc phục được, vì nó
liên quan đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín và các quyền tự do

khác của con người. Bởi vậy, vấn đề này được các cấp lãnh đạo trong ngành tư
pháp và công luận quan tâm. Xem xét các giai đoạn tố tụng, ta thấy:
2.1. Ở giai đoạn khởi tố và điều tra:
Thực tiễn khởi tố, điều tra những năm qua cho thấy, còn nhiều trường hợp VKS
phải ra quyết định đình chỉ vụ án vì những lý do khác nhau mà chủ yếu là do
CQĐT thực hiện khơng đúng như:
Sau khi có sự kiện phạm tội xảy ra, do thỏa mãn với lời nhận tội của bị can,
đồng thời khơng xem xét tồn diện hệ thống chứng cứ.
Hình sự hóa các quan hệ dân sự, kinh tế. Nhưng sau khi khởi tố, điều tra thì
khơng chứng minh được có hành vi phạm tội xảy ra.
Áp dụng các văn bản pháp luật và giải thích luật khơng chính xác dẫn đến việc
khởi tố sai.
2.2.Ở giai đoạn truy tố:
20


Việc thực hiện chức năng truy tố của VKS cho thấy, còn một số tồn tại đã và
đang xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, cụ thể như:
Trong nhiều trường hợp, để kéo dài thời hạn điều tra khi hết hạn điều tra, CQĐT
thường cố tình tìm các căn cứ để VKS trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung, điều này
dẫn tới thời hạn tạm giam của bị cáo bị kéo dài. Quy định về việc VKS trả hồ sơ
điều tra bổ sung bị một số CQĐT lợi dụng như một biến pháp để kéo dài thêm thời
hạn điều tra và thời hạn tạm giam bị can, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của
cơng dân
VKS cịn nhiều vi phạm về thủ tục tố tụng trong giai đoạn truy tố, gây bất lợi
hoặc xâm hại quyền lợi hợp pháp của bị can như: trả hồ sơ điều tra để điều tra bổ
sung khơng có căn cứ, trả hồ sơ q hai lần trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, quyết
định trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhưng không nêu rõ các vấn đề cần phải điều tra
bổ sung; có trường hợp đủ điều kiện truy tố lại quyết định trả hồ sơ cho CQĐT để
điều tra bổ sung.


2.3. Ở giai đoạn xét xử sơ thẩm:
Theo thống kê của TA nhân dân tối cao về thực tiễn xét xử sơ thẩm VAHS tại
TA cấp tỉnh và cấp huyện cũng cho thấy, việc TA trả hồ sơ điều tra bổ sung tương
đối phổ biến. Điều này không chỉ khiến cho hoạt động tố tụng kéo dài mà còn kéo
dài thêm thời hạn tạm giam của bị cáo, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của bị cáo.
Một trong những sai lầm nghiêm trọng nhất trong quá trình xét xử, đặc biệt đối
với việc áp dụng hình phạt nặng hơn so với mức độ nguy hiểm thực tế của hành vi
vi phạm, đó là sai lầm trong việc định khung hình phạt, tình tiết tăng nặng. Những
sai lầm này, chủ yếu do Thẩm phán khơng nghiên cứu kĩ nội dung các tình tiết về
định khung hình phạt, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ.
Thực tế hiện này, vẫn xảy ra tình trạng “ án bỏ túi” hay “ án tại hồ sơ” mà không
xem xét đến chứng cứ được đưa ra tại phiên tòa. Trong nhiều trường hợp, Thẩm
phán và Hội đồng xét xử khơng quan tâm những gì luật sư bào chữa tại phiên tịa
mà đã có phán quyết của riêng mình thơng qua việc xem xét hồ sơ điều tra.
21


2.4.Ở giai đoạn xét xử phúc thẩm:
Thẩm phán khi xét xử phúc thẩm chưa làm hết trách nhiệm hoặc có tác phong
cẩu thả, dẫn đến giải quyết vụ án không đúng pháp luật như: xác định không đúng
đơn kháng cáo, không xem xét đơn kháng cáo của các bị cáo mà lại xét đơn kháng
cáo không phải đơn của bị cáo hoặc nội dung kháng cáo vi phạm về phạm vi xét xử
phúc thẩm; khi xét xử phúc thẩm, cũng khơng có hồ sơ vụ án. Điều này cho thấy,
ngay khi bản án chưa có hiệu lực pháp luật nhưng bị cáo đã bị phân biệt đối xử.
Thẩm phán khi xét xử phúc thẩm nhiều khi còn lệ thuộc quá vào những gì đã có
trong hồ sơ vụ án đã được điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm dẫn đến việc mắc sai
lầm trong giải quyết vụ án như ở cấp sơ thẩm. Trong nhiều trường hợp, TA cấp
phúc thẩm vẫn chưa tuẩn thủ quy định pháp luật về việc bổ sung, xem xét chứng
cứ mới, xem nhẹ chứng cứ do người kháng cáo, người bào chữa bổ sung, cung cấp

trong giai đoạn phúc thẩm.

22


23


3.

Một số giải pháp đảm bảo thực hiện nguyên tắc suy đốn vơ tội:

Phải trực tiếp ghi nhận ngun tắc suy đốn vơ tội trong các văn bản pháp luật
TTHS. Việc thừa nhận trực tiếp nguyên tắc này như một nguyên tắc cơ bản của luật
TTHS Việt Nam là một yêu cầu khách quan và cần thiết, sẽ ràng buộc các cơ quan
tiến hành tố tụng phải xác định sự thật khách quan của vụ án. Bên cạnh đó, cần có
cơ chế pháp lý hồn chỉnh, rõ ràng, thống nhất để tạo cơ sở cho nguyên tắc này và
những quy định của pháp luật TTHS liên quan đến nguyên tắc này được thực hiện
một cách chính xác, triệt để. Đồng thời cân ban hành kịp thời và đầu đủ các văn
bản hướng dẫn áp dụng các quy định của bộ luật TTHS nói chung và các quy định
liên quan đến ngun tắc suy đốn vơ tội nói riêng để có cách áp dụng luật thống
nhất, tránh tối đa những sai phạm, hạn chế tình trạng oan, sai.
Các cán bộ làm công tác điều tra, truy tố, xét xử phải được nâng cao trình độ
nghiệp vụ, nắm vững các quy định của pháp luật nói chung, của ngun tắc suy
đốn vơ tội nói riêng, có tinh thần trách nhiệm đối với cơng việc. Thường xun
đào tạo lại cán bộ để có thể đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, nắm vững những quy định
của pháp luật; có phẩm chất chính trị, đạo đức, lối dống đáp ứng yêu cầu của cải
cách tưu pháp là địi hỏi khơng ngừng đối với đội ngũ cán bộ của cơ quan bảo vệ
pháp luật, Ngoài ra, các cấp lãnh đạo cần chú trọng khâu tổ chức cán bộ, tăng
cường kiểm tra, đôn đốc, lắng nghe ý kiến và chỉ đạo cụ thể, kịp thời, chính xác

trong quá trình giải quyết VAHS
Đối với cơ quan, tổ chức và người dân nói chung, cần nâng cao nhận thức của
các cá nhân về các quy định của pháp luật TTHS liên quan đến ngun tắc suy
đốn vơ tội đúng đắn. Đồng thời đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến rộng rãi về
ngun tắc suy đốn vơ tội được quy định trong Hiến pháp và Bộ luật TTHS 2015,
quyền và nghĩa vụ của mình để thi hành, thực hiện đúng pháp luật. Nâng cao chất
lượng của đội ngũ luật sư, đáp ứng nhu cầu cải cách tư pháp, đảm bảo quyền con
người trong.
Phải kịp thời phát hiện và ngăn chặn mọi hành vi vi phạm. Các cơ quan tiến
hành tố tụng phải thường xuyên phối hợp chặt chẽ trong hoạt động điều tra, truy tố,
xét xử. Thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình, khơng ỷ lại vào các cơ quan tố
tụng khác và vào cấp trên, không bao che cho nhau khi có sai phạm xảy ra. Với
những trường hợp có tiêu cực thì các cơ quan tố tụng phải kiên quyết loại bỏ khỏi
24


hàng ngũ cán bộ và phải khởi tố các trường hợp đó trước pháp luật. Tránh sự phụ
thuộc ý chí, chỉ đạo của cơ quan quyền lực nhà nước với các cơ quan tiến hành tố
tụng.

C KẾT LUẬN:
Nguyên tắc suy đốn vơ tội trong TTHS là mơt thành tựu vĩ đại của văn
minh pháp lý trong việc bảo vệ quyền con người và là nguyên tắc không thể
thiếu của TTHS trong Nhà nước pháp quyền của Việt Nam. Trong một nhà
nước mà quyền con người bị chà đạp thì những tư tưởng văn minh và tiến bộ
như suy đốn vơ tội trong TTHS khơng có cơ hội thể hiện chứ chưa nói đến trở
thành nguyên tắc pháp luật. Đối với khoa học xét xử và đối với toàn bộ thực
tiễn đấu tranh của chúng ta, khơng có kim chỉ nam nào tin cậy hơn ngồi việc
thừa nhận khơng điều kiện và hiểu một cách đúng đắn nguyên tắc suy đoán vô
tội- một nguyên tắc quan trọng và nền tằng của hoạt động TTHS.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×