Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

Phân tích văn bản viếng lăng bác

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (49.31 KB, 4 trang )

Văn bản: Viếng lăng Bác
Từ thuở sinh thời, lãnh tụ Hồ Chí Minh-vị cha già kính yêu của dân tộc vẫn thường hay nói: “Miền Nam
trong trái tim” và ln khẳng định vào thời điểm khi đất nước được thống nhất, hai miền Nam Bắc sum
họp, Người sẽ đến thăm đồng bào miền Nam yêu dấu. Ấy vậy mà khi miền Nam được hồn tồn giải
phóng, vào ngày hội non sơng-ngày tồn đất nước được thống nhất, Bác đã ra đi mãi mãi trong giấc ngủ
ngàn thu, để lại trong lòng dân tộc một nỗi tổn thất hết sức to lớn. Để rồi khi lần đầu tiên được ra Bắc
viếng lăng Người, trước dịng người đến thăm vơ tận, nhà thơ Viễn Phương-một cây bút chủ lực trong
lực lượng văn nghệ giải phóng thời kỳ chống Mỹ cứu nước, đã cho ra đời một trong những tác phẩm thơ
cảm động và sâu lắng nhất viết về Bác. Đó là bài thơ “Viếng lăng Bác”.
Tác phẩm “Viếng lăng Bác” được sáng tác vào tháng 4 năm 1976, một năm sau khi đất nước ta hoàn
toàn được thống nhất và trong thời điểm lăng Bác lần đầu tiên vừa được khánh thành. Với một nỗi xúc
động trào dâng cùng với dòng cảm xúc dạt dào khi đứng trước lăng của Người, Viễn Phương đã lấy cảm
hứng để viết nên bài thơ đầy sâu sắc ấy. Dịng cảm xúc của ơng suốt tác phẩm được gói gọn trong một
chuyến viếng thăm lăng Bác với sự kết hợp tài tình giữa cả khơng gian lẫn thời gian khiến cho bài thơ
thêm uyển chuyển, nhẹ nhàng.
Mở đầu bài thơ là cảm xúc bao trùm của tác giả chứa chan bao nhiêu niềm xúc động thiêng liêng, lịng
thành kính, sự biết ơn, đau xót dành cho Bác:
Con từ miền Nam ra thăm lăng bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàn
Không như những nhà thơ khác sử dụng những câu thơ mỹ miều để miêu tả cuộc viếng thăm, ở câu thơ
đầu “Con từ miền nam ra thăm lăng Bác” như một lời kể ngắn gọn cho biết tác giả đến từ miền Nam-là
người con nơi tuyến đầu Tổ Quốc, nơi đã có biết bao nhiêu xương máu đổ xuống trong mấy chục năm
qua. Nơi ấy trong tim Bác từ thuở sinh thời đã luôn là một niềm nhức nhối, day dứt về sự chia cắt của
đất nước. Hai từ “miền Nam” như nhấn mạnh hơn sự xa xôi trong khoảng cách địa lý giữa hai đầu Tổ
quốc. Sự thực là Người đã ra đi, nhưng tác giả Viễn Phương lại sử dụng từ “thăm” thay cho từ
“Viếng”.”Viếng” là sự chia buồn với thân nhân người đã mất còn “thăm””lại là đi xa trở về, từ xa đến
thăm để gặp gỡ, trò chuyện với người cịn sống. Cách nói giảm nói tránh ấy đã làm giảm bớt nỗi đau
thương mất mát đồng thời khẳng định hình ảnh Bác cịn sống mãi trong lịng dân tộc Việt Nam. Việc sử
dụng từ “thăm”kết hợp với lối xưng hô”con””đã gợi ra sự thân mật, gần gũi như một người con về thăm


cha, thăm người thân ruột thịt, thăm nơi Bác nằm, thăm nơi Bác ở để thỏa lịng mong nhớ bấy lâu nay.
Tình cảm mà tác giả dành cho Bác cũng chính là tấm lịng của tồn dân và của biết bao thế hệ sau này. Có
lẽ chính vì vậy mà mặc dù tác giả ko sử dụng một biện pháp tu từ nghệ thuật nào trong câu thơ đầu
nhưng vẫn mang đến nhiều cảm xúc dồn nén, giàu sức gợi cảm mãnh liệt. Khi đến trc lăng Bác, hình ảnh
đầu tiên mà Viễn Phương cảm nhận, quan sát và có ấn tượng đậm nét là hình ảnh hàng tre trong sớm
mai trc lăng Người:
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng


Cây tre từ bao đời nay đã trở thành một loài cây biểu tượng cho dân tộc ta, cho tinh thần bất khuất của
cha ơng ta. Từ thời Thánh Gióng cầm tre đuổi giặc, tới những cây chông, cây gai vót nhọn làm cản bước
quân thù. Cây tre cứ thế đi vào đời sống tinh thần của người Việt. Từ láy “xanh xanh”và “bát ngát” đã
khắc họa hàng tre bao trùm một khơng gian rộng thống và n tĩnh. Hình ảnh hàng tre ko chỉ mang ý
nghĩa tả thực mà còn kèm theo hàm ý ẩn dụ, biểu tượng to lớn cho người dân Việt Nam. “Bão táp mưa
sa”ở đây là những khó khăn, gian nan, vinh quang và cay đắng mà nhân dân ta phải trải qua trong suốt
thời kì dựng nước và giữ nước. “Đứng thẳng hàng”là tinh thần đồn kết chiến đấu, khơng chịu khuất
phục trước kẻ thù để giành lại độc lập tự do cho dân tộc dưới sự lánh đạo của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí
Minh. Bằng việc sử dụng thán từ “ ơi” kết hợp với cảm nhận dáng tre “đứng thẳng hàng” đối lập với
“bão táp mưa sa” đã tượng trưng cho phẩm chất tre bền bỉ, dẻo dai, cứng cáp đồng thời thể hiện khí
thế kiên cường, bất khuất của dân tộc ta vượt qua những thử thách, gian lao để đi đến thắng lợi vinh
quang. Trong thời khắc ấy, tác giả cảm nhận đc những hàng tre kia như toàn thể dân tộc đang nghiêm
trang, thành kính canh giấc cho Người, cùng đồn kết thực hiện lí tưởng của Người. Trong 3 khổ thơ tiếp
theo có đầy ắp những hình ảnh ẩn dụ đẹp và trang nhã mà trước hết trong số đó là hình ảnh của Bác
được đi liền với hình ảnh bất tử, vĩnh hằng của vũ trụ, thiên nhiên:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Từ láy “ngày ngày” ở đầu câu đã diễn tả sự liên tục bất biến của thiên nhiên và vĩnh viễn hóa, bất tử hóa
hình ảnh của Bác trong lòng người và giữa thiên nhiên vũ trụ. Viễn Phương đã sử dụng một hình ảnh ẩn
dụ tuyệt đẹp là “Mặt Trời” để nói rõ cảm xúc của bản thân khi đứng trước lăng Bác: làm cho hình ảnh

của Người như được nâng lên sánh ngang hàng với hình ảnh bất tử mang tầm vóc vũ trụ là “Mặt trời”.
Mặt Trời ở đây là một mặt trời thực- một mặt trời của thiên tạo, là nguồn cội của mọi ánh sáng rực rỡ, kì
vĩ và vĩnh hằng nhất thế gian. Giống như mặt trời của thiên nhiên đem lại ánh sáng và sự sống cho mn
lồi, Bác đã đem đến ánh sáng lý tưởng CM và sắc đỏ tương lai cho dân tộc. Trong thơ ca đã có khơng ít
tác giả sử dụng hình ảnh của mặt trời để so sánh với Bác. Như Tố Hữu cũng đã từng nói:
Người rực rỡ một mặt trời cách mạng
Cịn đế quốc là lồi dơi hốt hoảng
(Sáng tháng năm)
Nhưng ở đây, với Viễn Phương vẫn là hình ảnh ấy, mà lại mang một màu sắc riêng biệt vô cùng. Nếu như
mặt trời ngoài kia mỗi ngày đều đỏ rực, thì mặt trời trong lăng đây cũng đỏ rực sắc màu của chính mình.
Mặt trời-Bác Hồ tỏa ra tình thương hơi ấm bao la trong lòng người dân Việt Nam: “Người ghét sự chói
chang nhưng chính Người là nguồn ấm nóng/Là vầng hồng đánh dẹp bóng đêm lui” . Sự nghiệp mà Bác
tạo dựng nên cũng vì thế mà trở nên trường tồn bất tử hệt như ánh thái dương. Cách ví như vậy cũng đã
phần nào thể hiện cơng lao vĩ đại của Người và thể hiện tấm lòng biết ơn, thành kính cuả dân tộc ta khi
có Bác Hồ.
Hình ảnh dịng người đi viếng lăng bác cũng được nhà thơ miêu tả hết sức độc đáo và đầy ấn tượng”
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân
Điệp ngữ “ngày ngày” lại một lần nữa được lặp lại để thể hiện hình ảnh dịng người đều đặn đến thăm
lăng Bác mãi trở thành một điệp khúc của lịng kính u. Hình ảnh ẩn dụ “tràng hoa”không chỉ tả thực
những bông hoa tươi thắm kết thành những tràng hoa dâng lên Người để thể hiện sự kính yêu, thương


tiếc mà cịn là một hình ảnh ẩn dụ của tác giả. Đó chính là những đóa hoa thật sự của đời, là đàn con mà
Bác đã cố công tạo nên suốt khoảng thời gian Bác sống trên đời, và vào giây phút ấy họ-những dòng
người bất tận đang ngày ngày đến thăm lăng Bác, kết nối thành những tràng hoa nở rộ dâng lên một
cuộc đời bảy mươi chín mùa xuân đã hiến trọn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Thủ pháp điệp cấu trúc
“Ngày ngày....đi qua trên lăng”và “ngày ngày....đi trong thương nhớ” đã để lại một hiệu quả thẩm mĩ đặc
biệt khiến cho thời gian như ngưng đọng lại và tình u mà tồn dân tộc Việt Nam dành cho Bác sống
mãi.

Khi bước vào trong lăng, khơng khí như ngưng kết cả khơng gian lẫn thời gian khiến cho cảm xúc của
Viễn Phương như trào dâng:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim
Hai câu thơ đầu đã diễn tả chính xác, tinh tế sự nghiêm trang, yên tĩnh và ánh sáng trong trẻo, dịu nhẹ
của không gian bên trong lăng Bác. Cách nói giảm nói tránh “giấc ngủ” đã thể hiện nỗi niềm đau xót. Bác
chưa thật sự đi xa đâu. Đúng vậy, cả cuộc đời Người là một chuỗi ngày dài không hề ngơi nghỉ. Chỉ vào
giây phút này Người mới có thể hồn tồn được bình n an giấc. Bao quanh giấc ngủ của Bác là một
“vầng trăng sáng dịu hiền”.Hình ảnh ẩn dụ “vầng trăng” gợi ra hình ảnh Bác thanh cao, tâm hồn bác cao
đẹp, nhân hậu, trong sáng và những vần thơ tràn ngập ánh trăng của Người. Sự liên tưởng thật thú vị
“ánh trăng” ấy còn thể hiện sự am hiểu của tác giả về Bác. Bởi trăng đã từng vào thơ Bác trong nhà lao,
trên chiến trận. Tuy vậy, Người chưa bao giờ thảnh thơi để ngắm trăng đúng nghĩa. Khi thì “trong tù
khơng rượu cũng khơng hoa”, khi thì “việc qn đang bận”. Nhưng giờ đây trăng đã về bên Bác để bầu
bạn và canh cho giấc ngủ ngàn thu của Người. Hai câu thơ sau thể hiện nỗi niềm thương tiếc, đau đớn
đến tột cùng của Viễn Phương. Trời xanh là một hình ảnh ẩn dụ sâu xa: Bác sẽ cịn mãi với non sơng đất
nước như trời xanh vĩnh hằng. Bởi vì Người đã hóa thân vào thiên nhiên xứ sở, vào đất nước dân tộc:
“Bác sống như trời đất của ta”. Cấu trúc “Vẫn...mà sao”cho thấy sự đối lập trong lí trí và tình cảm của
Viễn Phương. Dù lí trí vẫn ln trấn an lịng mình rằng Bác vẫn sống đấy, vẫn còn dõi theo Tổ quốc mãi
mãi như màu xanh thanh bình trên nền trời Tổ quốc độc lập nhưng con tim ta vẫn nhói đau vì một sự
thật đau lịng. Cụm động từ “nghe nhói trong tim” với ẩn dụ chuyển đổi cảm giác “nghe nhói” kết hợp
cùng hình thức câu cảm thán của nhà thơ làm hiện rõ nỗi đau đớn, nỗi đau vượt lên mọi lý lẽ, mọi lập
luận lí trí. Bác mãi hiện diện trên mỗi phần đất, mỗi thành quả, mỗi phần tử tạo nên đất nước này.
Nhưng mà Bác mất thật rồi, ta khơng cịn có Bác trong cuộc đời thường này. Mất Bác, cái thiếu vắng ấy
liệu có thể nào bù đắp được? Tổ quốc ta đã thật sự không cịn Bác dõi theo từng bước chân, khơng cịn
được Bác nâng đỡ mỗi khi vấp ngã. Bác ra đi, nỗi đau ấy liệu có từ ngữ nào diễn tả hết? Nỗi đau như
hàng ngàn mũi kim đâm vào trái tim thổn thức ấy khơng chỉ riêng mình tác giả mới có mà cịn là của
hàng triệu trái tim người dân Việt Nam đối với Bác Hồ kính yêu.
Khổ thơ cuối cũng chính là tâm trạng đầy tiếc nuối của tác giả khi phải rời xa lăng Bác:

Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác


Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này
Câu thơ “Mai về miền Nam thương trào nước mắt” hệt như một lời giã biệt. Ở câu thơ này tác giả
không sử dụng nghệ thuật nào, chỉ là lời nói giản dị, là tình thương sâu lắng tự tấm lòng nhưng lại làm
cho ta hết sức cảm động. Tác giả thay mặt cho nhân dân miền nam bày tỏ niềm tiếc thương vô hạn với vị
cha già dân tộc. Động từ “trào” cho thấy niềm xúc động không thể và cũng không muốn dừng những giọt
nước mắt bịn rịn, luyến lưu ấy. Điệp ngữ “muốn làm” kết hợp với những hình ảnh đẹp của thiên nhiên
“con chim”, “đóa hoa”, “cây tre” thể hiện mong ước mãnh liệt, thiết tha, khát khao, cháy bỏng, chân
thành của tác giả trc anh linh của Người: muốn làm con chim nhỏ để góp tiếng hát làm vui những bình
minh của bác, muốn làm đóa hoa tơ điểm sắc hương khơng gian quanh Bác, muốn làm cây tre xanh tỏa
bóng dịu nhẹ, để làm khuây, làm vui người cha già đã hy sinh suốt cuộc đời cho sự nghiệp giải phóng dân
tộc. Kết cấu đầu cuối tương ứng được thể hiện qua hình ảnh ẩn dụ “cây tre trung hiếu”-biểu tượng cho
sự thủy chung, gắn bó với con đường và sự nghiệp mà lãnh tụ Hồ Chí Minh đã lựa chọn, đồng thời cho
thấy mong muốn được bồi đắp tâm hồn và phẩm chất để sống sao thật xứng đáng với tình thương của
Người. Câu thơ trầm xuống như để tình cảm lắng đọng trong niềm thành kính biết ơn và ý nguyện trung
thành của không chỉ của tác giả, đồng bào miền nam mà cịn của tồn thể dân tộc dành cho người cha
già kính yêu.



×