Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

PHÁP LUẬT và THỰC THI PHÁP LUẬT về PHÒNG, CHỐNG bạo lực TRẺ EM của THÁI LAN KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM LAW AND LAW ENFORCEMENT ON VIOLENCE AGAINST CHILDREN IN THAILAND EXPERIENCE FOR VIETNAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215 KB, 14 trang )

PHÁP LUẬT VÀ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG
BẠO LỰC TRẺ EM CỦA THÁI LAN – KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
LAW AND LAW ENFORCEMENT ON VIOLENCE AGAINST
CHILDREN IN THAILAND – EXPERIENCE FOR VIETNAM
ThS. Nguyễn Quỳnh Anh – ThS. Hoàng Thanh Phương
Thái Lan là một trong những nước có tỉ lệ sinh thấp nhất tại ASEAN và
đang đối mặt với vấn đề già hóa dân số. Song liệu tỉ lệ sinh thấp, tỉ lệ trẻ em
dưới 14 tuổi thấp (dưới 20% và đang có xu hướng giảm từ 18% năm 2015 xuống
cịn khoảng 16% vào năm 2020) có đồng nghĩa với việc trẻ em sẽ được bảo vệ
tốt hơn, đặc biệt là trước những hành vi bạo lực hay không? Bài viết phân tích
những thành cơng và khiếm khuyết trong pháp luật và thực thi pháp luật về bạo
lực đối với trẻ em ở Thái Lan, từ đó đưa ra những bài học kinh nghiệm cho Việt
Nam.
Từ khóa: Thái Lan, bạo lực, trẻ em
Summary: Thailand is one of the countries which has the lowest birth rate
in ASEAN with smaller proportion of under 14 children (less than 20% and this
figure is experiencing a drop from 18% in 2015 to 16% in 2020). However, does
this mean that children will have better protection when facing violence? The
article analyses pros and cons in law and law enforcement on violence against
children in Thailand with a view to provide experience to Vietnam.
Keywords: Thailand, violence, children
Nghiên cứu đầy đủ và được thực hiện trên quy mơ tồn cầu gần đây nhất
về tình trạng bạo lực đối với trẻ em là vào năm 2006 của Liên hợp quốc về Bạo
lực trẻ em. Kết quả của nghiên cứu này là Báo cáo toàn cầu về bạo lực đối với


trẻ em năm 2006 (Báo cáo LHQ năm 2006) đã chỉ ra rằng trẻ em có thể phải chịu
nhiều hình thức bạo lực tại nhiều bối cảnh và trẻ em tại Thái Lan – một nước
đang phát triển cũng là nạn nhân của bạo lực trong các bối cảnh đó. Tại gia đình
và trường học ở Thái Lan, hình thức bạo lực điển hình nhất với trẻ em là bạo lực
thể chất, đặc biệt các hành vi này thường núp bóng “hình phạt”. Khảo sát của


UNICEF về các chỉ số đa ngành tương đương (MICS) năm 2015-2016 vẫn cho
thấy có 56% trẻ em từ 1-14 tuổi tại Thái Lan phải chịu các hình phạt về thể chất,
trong đó có 4,2% các em phải chịu những hình phạt vơ cùng nghiêm khắc như bị
đánh, đấm, tát vào mặt, đầu, tai và lặp đi lặp lại nhiều lần.1 Ngoài bạo lực về thể
chất, bạo lực tinh thần xảy ra phổ biến với trẻ em Thái Lan. 62%2 trẻ em Thái
Lan phải hứng chịu những hành vi bạo lực về tinh thần như bị nhốt, bị cô lập, đe
dọa, lăng mạ, bị ruồng bỏ (tại gia đình) và bị đe dọa, lăng mạ, bắt nạt (tại trường
học). Nguy hiểm hơn, tại các trường học, hiện tượng trẻ em bị bạn bè bắt nạt
đang ngày càng tăng. Hình thức đơn giản nhất của bắt nạt là những dè bỉu bằng
lời nói, thường là những lười trêu chọc và bình phẩm về sắc tộc, xếp sau đó là
các hình thức khác như đồn thổi, cơ lập, đe dọa, bêu riếu về giới tính…3. Và nói
tới Thái Lan - đất nước có “ngành cơng nghiệp tình dục” phát triển mạnh mẽ và
đã tồn tại từ những năm 1950, khơng thể khơng nhắc đến hình thức bạo lực tình
dục. Từ phân tích báo cáo tại 72 trung tâm xử lý khủng hoảng một cửa trong giai
đoạn từ tháng 10/2003 đến tháng 9/2004 của Cục Hỗ trợ dịch vụ sức khỏe thuộc
Bộ Y tế Thái Lan, có thể thấy trong số các vụ việc nhận được tại các trung tâm
này, có đến 68% những vụ việc hành hung trẻ em dưới 15 tuổi liên quan đến
hành vi lạm dụng tình dục.4 Tình hình trở nên phức tạp hơn trong thời đại số, khi
1

Thailand Multiple Indicator Cluster Survey 2015-2016, tr. 148
Thailand Multiple Indicator Cluster Survey 2015-2016, tr. 148
3
Jariya Tarugsa, Niorn Boonpuen, Sasitorn Chantaratin, Napat Sittanomai, Sudarat Sirisakpanit and Vitharon
Boon-yasidhi, Relationship between bullying and psychosocial problems among primary school students in
Bangkok, Thailand, Tạp chí Southeast Asian J Trop Med Public Health, số 48, 2017, tr. 282
4
Centre for health development, World Health Organization, National Report on Violence and Health, 2007,
tr.40


2


bắt nạt và bạo lực tình dục có thể được thực hiện dễ dàng hơn thông qua các
công cụ hiện đại như thư điện tư, các công cụ giao tiếp trực tuyến, trang mạng cá
nhân, tin nhắn hay các công cụ truyền tin khác.
Những trẻ em là nạn nhân của bạo lực có thể bị thương tật, tàn tật, ngồi
ra, chúng cịn có xu hướng lạm dụng bia rượu, chất kích thích, có xu hướng hành
động hung dữ, hoặc ngược lại, một số trẻ bị mất ngủ, trầm cảm và ln lo lắng…
Chính bởi những hậu quả khơn lường, ngăn chặn bạo lực đối với trẻ em trở thành
vấn đề cấp thiết và là mục tiêu của tất cả các quốc gia. Với quyết tâm cao, mặc
dù gặp nhiều thách thức, Chính phủ Thái Lan đã có những cải cách quan trọng
về pháp lý liên quan đến vấn đề này.
1.

Pháp luật Thái Lan về phòng, chống bạo lực trẻ em

Cơ sở pháp lý cho hoạt động phòng, chống bạo lực trẻ em tại Thái Lan
Nỗ lực của chính phủ Thái Lan được thể hiện qua những cam kết với tư
cách là thành viên của các điều ước quốc tế. Hệ thống các điều ước quốc tế mà
Thái Lan tham gia có gồm ba nhóm. Nhóm thứ nhất là những điều ước quốc tế
về quyền trẻ em nói chung, có chứa đựng các quy định liên quan đến bạo lực đối
với trẻ em như Tuyên ngôn nhân quyền năm 1948, Công ước Liên hợp quốc về
quyền trẻ em (CRC) năm 1989, …; nhóm thứ hai là những điều ước quốc tế đề
cập trực tiếp đến vấn đề bạo lực đối với trẻ em một cách toàn diện như: Tuyên
bố ASEAN về xóa bỏ bạo lực đối với phụ nữ và xóa bỏ bạo lực đối với trẻ em
năm 2013; nhóm thứ ba đề cập đến bạo lực trẻ em trong một bối cảnh cụ thể
như: Công ước Liên hợp quốc về Trấn áp bn bán người và bóc lột mại dâm
người khác năm 1950, Công ước số 138 của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) về
độ tuổi lao động tối thiểu năm 1973, Cơng ước Liên hợp quốc về xóa bỏ các hình

thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) năm 1979, Công ước 182 của ILO
về Cấm và hành động tức thời để loại bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ
nhất năm 1999, Công ước ASEAN về Phòng, chống mua bán người, đặc biệt là


phụ nữ và trẻ em (ACTIP) năm 2015…Các văn kiện đa dạng về quy mô, bao
gồm cả các điều ước quốc tế toàn cầu và điều ước quốc tế khu vực và đa dạng cả
về nội dung khi đề cập đến các khía cạnh khác nhau của vấn đề bạo lực trẻ em.
Điều này cho thấy quyết tâm của chính phủ Thái Lan và cách tiếp cận cởi mở
của Chính phủ Thái Lan trong vấn đề này.
Bên cạnh các điều ước quốc tế, Thái Lan đã cố gắng hoàn thiện hệ thống
văn bản pháp luật trong nước để tương thích với các quy định của các công ước
mà Thái Lan là thành viên. Nguyên tắc bảo vệ trẻ em được ghi nhận trong văn
bản có hiệu lực pháp lý cao nhất của Thái Lan là Hiến pháp Thái Lan sửa đổi
năm 2015. Đặc biệt, nguyên tắc bảo vệ trẻ em, thanh thiếu niên, phụ nữ, người
già, người khuyết tật, người nghèo và những người yếu thế khỏi tình trạng bạo
lực tại Điều 71 của bản Hiến pháp này đã trở thành kim chỉ nam cho các văn bản
và chính sách về vấn đề bạo lực trẻ em.
Hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến bạo lực trẻ em tại Thái Lan khá
đa dạng và có thể chia thành hai nhóm: các văn bản trực tiếp quy định về bạo lực
trẻ em (Luật Hình sự Thái Lan, Luật Bảo vệ trẻ em 2003) và các văn bản quy
định trực tiếp về các hình thức bạo lực trẻ em (Luật Bảo vệ người lao động năm
1998, Luật phòng chống mại dâm năm 1996, Luật phịng chống bn bán phụ nữ
và trẻ em năm 1997…).
Bên cạnh các văn bản quy phạm pháp luật, Thái Lan cũng phát triển các
chính sách về bảo vệ trẻ em, trong đó khơng thể khơng kể tới các kế hoạch 5
năm về sự phát triển của trẻ em và thanh thiếu niên đã được thông qua từ năm
1982 và các kế hoạch quốc gia hướng tới giải quyết những vấn nạn cụ thể đối
với trẻ em tình trạng lạm dụng tình dục, bn bán trẻ em, bạo lực trẻ em.
Những nội dung cơ bản của pháp luật Thái Lan về phịng, chống bạo lực

trẻ em
Phạt hình sự đối với các hành vi bạo lực đối với trẻ em


Khoảng thời gian trước năm 2003 là khoảng thời gian Thái Lan tập trung
hoàn thiện các quy định trong pháp luật hình sự về bạo lực đối với trẻ em. Bộ
luật hình sự Thái Lan chính thức đưa ra khái niệm “hành vi bạo lực” thuộc phạm
vi điều chỉnh của Bộ luật. Cụ thể hành vi bạo lực được hiểu là “bất kỳ một hành
vi nào gây nguy hiểm tới thể chất hoặc tinh thần của một người, bất kể hành vi
đó là dùng vũ lực hay bằng các phương tiện khác, trong đó bao gồm cả những
hành vi khiến cho một người ở vào trạng thái không thể chống cự bằng cách sử
dụng các chất gây nghiện, thuật thôi miên hay bằng bất kỳ phương tiện nào
khác” (Điều 1). Với quy định này, toàn bộ các hành vi bạo lực dưới mọi hình
thức đều thuộc sự điều chỉnh của Bộ luật, là cơ sở để hình sự hóa những hành vi
này trong những điều khoản sau đó. Trong Bộ luật Hình sự Thái Lan, đối với
nhiều loại tội như những tội phạm liên quan đến tình dục (chương IX), những tội
phạm liên quan đến sự tước đoạt quyền tự do (chương XI), nếu đối tượng của
hành vi phạm tội là trẻ em thì đó sẽ là tình tiết tăng nặng với những hình phạt
nghiêm khắc lên đến 20 năm tù (Điều 278, 279, 282) hoặc thậm chí là tù chung
thân (Điều 283). Ngồi ra, nếu có thêm yếu tố sử dụng bạo lực về thể chất hoặc
tinh thần, gây ra những tổn hại nghiêm trọng về thể chất đối với những người
chưa đủ 15 tuổi thì đó là tình tiết tăng nặng khiến người phạm tội có thể phải
chịu án tù chung thân, thậm chí nếu những hành vi đó khiến trẻ dưới 15 tuổi chết
thì đây có thể là cơ sở để tịa tun án tử hình với người phạm tội (Điều 280,
Điều 283, Điều 312bis). Các hành vi có liên quan đến bạo lực như hành vi cố ý
gây thương tích hoặc hành vi giết người trong Bộ luật có đối tượng chung là cả
trẻ em và người trưởng thành. Thái Lan cũng đã xóa bỏ hình phạt tử hình đối với
trẻ em trong Bộ luật hình sự với quy định tại Điều 18: “Trong trường hợp người
phạm tội dưới 18 tuổi, đã thực hiện hành vi phải chịu hình phạt tử hình hoặc tù
chung thân thì người đó chỉ bị phạt tù tối đa 50 năm”. Bên cạnh đó, Bộ luật

cũng thể hiện tinh thần bảo vệ trẻ em bằng việc đưa vào những quy định về các


hồn cảnh có thể dẫn đến các tình huống bạo lực đối với trẻ em như bị bỏ rơi, bị
biến thành nô lệ (Điều 306, 312bis).
Sự thống nhất trong quan điểm của Chính phủ Thái Lan đối với tình trạng
bạo lực trẻ em cũng được thể hiện trong Luật Bảo vệ trẻ em năm 2003. Điều 26
của Luật này cấm thực hiện các hành vi liên quan đến các hình thức bạo lực như
bạo hành thể chất hoặc tinh thần (Điểm 1, 2, 6) và bạo lực tình dục (Điểm 9).
Luật Phòng, chống mại dâm là văn bản trực tiếp quy định về bạo lực tình
dục đối với trẻ em. Trong Luật này mại dâm trẻ em là tội phạm nghiệm trọng,
bất kể có hay khơng sự đồng ý của trẻ (Điều 8) và áp khung hình phạt càng
nghiêm khắc nếu tuổi của trẻ em bị bạo lực trong hành vi này càng thấp. Luật đã
hình sự hóa hành vi ép buộc, hạn chế tự do hoặc tước đoạt tự do gây ảnh hưởng
đến thân thể hoặc đe dọa người khác để bắt họ thực hiện hành vi mại dâm (Điều
12)
Cấm sử dụng các hành vi bạo lực đối với trẻ em trong các bối cảnh cụ thể
Ngoài những quy định trực tiếp để bảo vệ trẻ em khỏi các hình thức bạo
lực, pháp luật Thái Lan cịn có các quy định bảo vệ trẻ em trong các bối cảnh cụ
thể như tại các trung tâm chăm sóc và giáo dục trẻ em, tại các trường học và tại
nơi làm việc.
Luật Bảo vệ trẻ em năm 2003 là văn bản đầu tiên đưa đề cập đến vấn đề
bạo lực đối với các trẻ em trong các cơ sở mẫu giáo, trại tạm giam, trung tâm bảo
trợ xã hội, trung tâm bảo vệ trẻ em và các trung tâm phục hồi. Theo đó, Luật cấm
những người điều hành, nhân viên và những người giám hộ làm việc trong các
cơ sở nói trên “sử dụng bạo lực về thể chất hoặc tinh thần, giam giữ, bỏ rơi hoặc
áp dụng các biện pháp trừng phạt hà khắc” trái với quy định của pháp luật đối
với các trẻ em thuộc sự giám hộ của các cơ sở này (Điều 61). Những người vi
phạm quy định này có thể bị phạt tù tới 6 tháng và phạt tiền lên tới 60.000 Bạt.



Tại nơi làm việc, trẻ em thường xuyên phải đối mặt với việc bị bóc lột, bị
yêu cầu làm những công việc độc hại, chịu những bạo hành về thể chất. Tại Thái
Lan, Luật Bảo vệ người lao động 1998 đã dành hẳn một chương quy định về vấn
đề lao động trẻ em, trong đó, ghi nhận ngun tắc khơng sử dụng lao động trẻ em
dưới 15 tuổi. Đối với việc thuê mướn lao động trẻ em trên 15 tuổi nhưng chưa đủ
18 tuổi thì chủ sử dụng lao động phải thực hiện nghiêm ngặt các quy định về
khai báo, về chế độ làm việc và nghỉ ngơi của lao động trẻ em và phải tuân thủ
quy định của Luật về điều kiện làm việc của lao động trẻ em quy định tại Điều
49, 50 của Luật. Nếu chủ sử dụng lao động không tuân thủ các quy định của Luật
khiến cho lao động trẻ em gặp nguy hiểm về sức khỏe và tính mạng có thể bị
phạt tù và phạt hành chính. Bên cạnh đó, năm 2017, Chính phủ Thái Lan cũng đã
thơng qua một văn bản trong đó ghi nhận những công việc cấm sử dụng lao động
dưới 15 tuổi, kể cả đó là những cơng việc làm tại gia đình. Văn bản này phần nào
đã giải quyết được tình trạng sử dụng lao động trẻ em khơng chính thức tại Thái
Lan.
Tại trường học, nơi trẻ em dành phần lớn thời gian của mình, các hình
phạt về thể chất đã bị cấm sau khi Quy định về hình phạt dành cho học sinh năm
2000 do Bộ Giáo dục Thái Lan ban hành. Sau đó, Quy định này đã được sửa đổi
vào năm 2005. Điều 6 của Quy định ghi nhận “Việc trừng phạt học sinh và sinh
viên bằng những phương pháp bạo lực hoặc với ý định gây tổn hại, trút giận,
hoặc trả thù…bị cấm”. Quy định về thúc đẩy và bảo vệ quyền của trẻ em và
thanh thiếu niên trong bối cảnh giáo dục năm 2000 cũng chỉ ra tại Điều 8: “Cấm
tra tấn hoặc dùng những hình thức hà khắc đối với cơ thể hoặc tâm trí bằng


những phương thức dã man, bôi nhọ danh dự hay những phương thức vô nhân
đạo và không phù hợp để trừng phạt trẻ em và thanh thiếu niên”5
Nhìn chung, có thể thấy hệ thống các văn bản pháp luật Thái Lan liên
quan đến vấn đề bạo lực trẻ em là khá đầy đủ, thể hiện sự quyết liệt trong cuộc

chiến phòng, chống bạo lực trẻ em tại quốc gia này trên mọi phương diện.
2.

Thực tiễn thực thi các quy định pháp luật Thái Lan về phòng,

chống bạo lực trẻ em và kinh nghiệm cho Việt Nam
Tại Thái Lan, bên cạnh các quy định dày đặc trong nhiều văn bản khác
nhau, một hệ thống các cơ quan thực thi pháp luật phòng, chống bạo lực trẻ em
cũng được thành lập.
Ở cấp độ quốc gia, cơ quan cơ bản chịu trách nhiệm thực thi pháp luật và
chính sách quốc gia về bạo lực trẻ em là Bộ Phát triển xã hội và an ninh con
người (MSDHS) thành lập từ năm 2002 với các đơn vị trực thuộc phụ trách vấn
đề bạo lực trẻ em tại Thái Lan là Cục Bảo trợ xã hội và thúc đẩy quyền của các
nhóm yếu thế (OPP) và Vụ Phúc lợi và Phát triển xã hội. Ngoài thực hiện các
chức năng, nhiệm vụ của mình, MSDHS cũng phối hợp với các cơ quan khác
như Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp, Bộ Giáo dục, Cảnh sát Hoàng gia trong thành lập
Ủy ban quốc gia về bảo vệ trẻ em tại với nhiệm vụ chính là xây dựng chính sách
và kế hoạch quốc gia cũng như giám sát việc thực thi các chính sách này, trong
đó bao gồm cả giám sát việc thực thi CRC6.
Ở cấp tỉnh, kể từ khi có Luật Bảo vệ trẻ em năm 2003, Chính phủ Thái
Lan đã rất nỗ lực để thiết lập các cơ quan cấp tỉnh để kịp thời ngăn chặn và phản
ứng với các tình huống bạo lực tại địa phương, trong đó phải kể đến hệ thống Cơ

5

Xem thêm Báo cáo quốc gia về chấm dứt hình phạt thể chất đối với trẻ em tại trang web

truy cập ngày 1/1/2020
6
Institute of Human Rights and Peace Studies, Mahidol University, Child Rights Siituation Analysis Within the

ASEAN Region, 2016, tr. 40


sở tiếp đón trẻ em và gia đình, Trung tâm xử lý khủng hoảng một cửa, Trung tâm
Prachabodi (Đường dây nóng 1300) và Đội Liên ngành.
Cơ sở tiếp đón trẻ em và gia đình thành lập tại Băng Cốc và 76 tỉnh của
Thái Lan, được vận hành bởi Vụ Phúc lợi và phát triển xã hội thuộc MSDHS.
Các cơ sở này sẽ hoạt động như một nơi trú ẩn tạm thời không quá 3 tháng cho
những trẻ em cần được bảo trợ theo quy định tại Điều 32 Luật Bảo vệ trẻ em.
Các trung tâm xử lý khủng hoảng một cửa (OSCC): là giải pháp được Thái
Lan tiến hành từ năm 1999 để hỗ trợ cho các phụ nữ và trẻ em là nạn nhân của
bạo lực thành lập tại hơn 724 bệnh viện trên cả nước7 với mục đích phối hợp với
Cơ quan cảnh sát hồng gia, tịa án, Văn phịng Tổng chưởng lý, các tổ chức phi
chính phủ và MSDHS, để đảm bảo các nạn nhân của bạo lực được cung cấp đầy
đủ thuốc, các trợ giúp về pháp lý như giám định thương tật và các hỗ trợ về xã
hội khác chỉ với một lần phỏng vấn và điều tra.
Trung tâm Prachabodi (đường dây nóng 1300): là đường dây nóng hoạt
động 24/24 giờ thuộc sự quản lý của MSDHS, chuyên tiếp nhận thông báo về
các vụ việc lạm dụng và bạo lực đối với người dân ở bất kể quốc tịch nào trên
lãnh thổ Thái Lan thông qua hành vi buôn bán người và kết nối nạn nhân với các
trung tâm y tế, các trung tâm trợ giúp pháp lý và bảo trợ xã hội.
Đội liên ngành thành lập từ năm 2008 gồm các thành viên là quan chức
thuộc Phòng Phát triển xã hội và an ninh con người cấp tỉnh, cảnh sát cấp tỉnh,
viên chức giáo dục, nhân viên của Cơ sở tiếp đón trẻ em, nhân viên y tế… chủ
yếu nhóm họp theo vụ việc để làm nhiệm vụ kết nối trẻ em bị bạo lực với các cơ
quan hữu quan.
Ở các cấp thấp hơn, q trình phịng, chống bạo lực có sự tham gia của các
cơ quan hành chính cấp huyện, các trung tâm phát triển gia đình và cảnh sát địa
7


Child Frontier, Evaluation of UNICEF Child Protection Monitoring and Response System (CPMRS) in
Thailand, Volume III – Child Protection System Context, 2013, Final Report, tr. 20


phương. Như vậy, có thể thấy để phịng, chống bạo lực đối với trẻ em, Thái Lan
đã huy động nhiều cơ quan, ban ngành, ở tất cả các cấp. Quá trình thực thi pháp
luật chủ yếu tập trung vào những hành động ngay khi có thơng báo về các vụ
việc cũng như thu thập thông tin dữ liệu quốc gia về bạo lực đối với trẻ em.
Với hệ thống quy định dày đặc và sự vào cuộc quyết liệt của hệ thống các
cơ quan từ trung ương tới địa phương, tình trạng bạo lực đối với trẻ em tại Thái
Lan bước đầu có những cải thiện, đặc biệt về khía cạnh sử dụng lao động trẻ
em8. Theo thống kê, số vi phạm về việc sử dụng lao động trẻ em đã có dấu hiệu
giảm từ 103 vụ trong năm 2017 xuống cịn 83 vụ trong năm 20189. Ngồi ra,
trong những năm gần đây, Thái Lan liên tiếp thực hiện các biện pháp về tuyên
truyền, giáo dục cho người dân. Năm 2018, Thái Lan đã tổ chức các khóa đào
tạo về các biện pháp kỷ luật tích cực cho 60% phụ huynh và giáo viên ở nhà và ở
trường học. Bản thân trẻ em cũng được tiếp cận nhiều thông tin hơn để biết cách
tự bảo vệ bản thân trước nguy cơ bị lạm dụng tình dục, bị bn bán. Các trẻ em,
kể cả các trẻ em di cư đã nhận được sự bảo vệ tốt hơn10.
Tuy nhiên, sự thiếu đồng bộ, những lỗ hổng trong pháp luật cũng như thực
thi pháp luật đã làm chậm đi tiến trình hành động nhằm phòng, chống bạo lực trẻ
em tại Thái Lan. Năm 2017, theo báo cáo từ 622 bệnh viên trên khắp Thái Lan,
có đến gần 9000 trẻ em phải điều trị tại bệnh viện do bị bạo lực thể chất và bạo
lực tình dục11. Một trong những lý do cho tình trạng này là những lỗ hổng pháp
lý trong hệ thống pháp luật Thái Lan.
Theo báo cáo đánh giá cuối kỳ về Hỗ trợ quốc gia chống lại tình trạng lao động trẻ em và các hình thức lao
động tồi tệ nhất tại Thái Lan năm 2010, từ năm 2000 đến năm 2010, số lượng lao động trẻ em làm việc tại Thái
Lan giảm. Xem thêm tại:
/>eval_0.pdf, truy cập ngày 5/4/2020
9

Xem thêm tại truy cập ngày 5/4/2020
10
Thông tin từ Báo cáo tóm tắt chiến lượng hoạt động từ năm 2016-2018 của tổ chức Save the Children chi
nhánh Thái Lan. Xem thêm tại
: />mmary_2016-18_Eng_3feb16_0.pdf, truy cập ngày 5/4/2020
11
Xem thêm tại: truy cập ngày 3/4/2020
8


Thứ nhất, tồn tại sự thiếu thống nhất về khái niệm “trẻ em” trong các văn
bản pháp luật khác nhau. CRC định nghĩa trẻ em là người dưới 18 tuổi nhưng
đồng thời Công ước cũng cho phép các quốc gia thành viên có thể đưa ra khái
niệm “trẻ em” theo cách mà các nước này cho là phù hợp (Điều 1). Tại Thái Lan,
Luật Bảo vệ trẻ em năm 2003 có cách hiểu tương tự với CRC về khái niệm trẻ
em (Điều 4). Tuy nhiên, Luật Gia đình Thái Lan ghi nhận độ tuổi kết hôn là 17
tuổi, trong khi đó tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo Bộ luật Hình sự Thái Lan là
10 tuổi và Luật Bảo vệ người lao động của Thái Lan yêu cầu độ tuổi tối thiểu của
người lao động là 15 tuổi. Rõ ràng là trong cùng một quốc gia, sự khác biệt này
là một trong những nguyên nhân để việc thực thi pháp luật kém hiệu quả.
Thứ hai, hầu hết các quy định pháp luật của Thái Lan tập trung vào việc
giải cứu và phục hồi cho các nạn nhân sau bạo lực hơn là đưa ra các biện pháp
ngăn ngừa để giảm thiểu nguy cơ đối với trẻ em, nhấn mạnh đến việc xử lý từng
vụ việc đơn lẻ thay vì sử dụng cách tiếp cận đối với cộng đồng.
Thứ ba, tại Thái Lan còn thiếu các quy định pháp luật về phịng, chống
bạo lực tình dục trực tuyến đối với trẻ em. Báo cáo của UNICEF về Bảo vệ trẻ
em trong thời đại số cho thấy Thái Lan chưa có văn bản luật cũng như các chính
sách riêng quy định về bắt nạt trực tuyến và khơng có luật u cầu các nhà cung
cấp mạng dịch vụ Internet phải trình báo các thơng tin về lạm dụng tình dục trẻ
em đối với các cơ quan có thẩm quyền nếu họ thấy các thông tin này trên

mạng12.
Bên cạnh những khiếm khuyết về pháp luật, tính hiệu quả trong hệ thống
thực thi pháp luật về bạo lực đối với trẻ em tại Thái Lan cũng chưa cao. Tại Thái
Lan, có 12 đơn vị thuộc MSDHS chịu trách nhiệm báo cáo với 5 Cục, Vụ về vấn
đề bảo vệ trẻ em. Việc có quá nhiều cơ quan cùng tham gia hệ thống này tạo ra
12

UNICEF, Child protection in the digital age, National responses to online child sexual abuse and exploitation
in ASEAN Member States, tr.87


sự thiếu tập trung, dân chủ, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ. Ngồi ra, mặc
dù có nhiều văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến bạo lực trẻ em nhưng lại
thiếu các quy định, nghị định, chỉ thị cụ thể hóa các tiêu chuẩn, quy trình điều
tra, đánh giá, tham vấn, kế hoạch chăm sóc, giám sát và lưu trữ thông tin13 khiến
sự phối hợp giữa các cơ quan khác nhau, giữa các cơ quan cấp trung ương và địa
phương còn lỏng lẻo. Các lực lượng thực thi pháp luật về bạo lực trẻ em tại Thái
Lan được đánh giá là khá “thụ động”, chủ yếu hoạt động dựa trên các thông báo,
các báo cáo của cộng đồng hoặc phụ huynh. Nhân viên các trung tâm xử lý
khủng hoảng một cửa còn thiếu các kiến thức về tư vấn, đánh giá rủi ro và thiếu
kỹ năng xử lý tình huống nên họ khơng thể ngăn chặn tình trạng bạo lực và cũng
không thể tiếp tục theo dõi các vụ việc liên quan đến bạo lực trẻ em đã được xử
lý14. Đội liên ngành đáng lẽ ra là cơ quan hoạt động có hiệu quả nhất khi có sự
tham gia của Cảnh sát hoàng gia, nhưng thực tế cho thấy cách thức hoạt động
chủ yếu của họ dựa trên mối quan hệ cá nhân nên các đội liên ngành chỉ nhóm
họp trên cơ sở các vụ việc. Sự “thụ động” của các cơ quan thực thi pháp luật còn
khiến cho việc thu thập và xử lý các thông tin, dữ liệu về bạo lực trẻ em gặp
nhiều trở ngại, ảnh hưởng đến tiến trình lập pháp nói chung.
Và nhắc tới bạo lực trẻ em tại Thái Lan, không thể không nhắc tới sự tác
động của các yếu tố xã hội. Quan niệm về vai trò của cha mẹ, thầy cơ, về giới ăn

sâu trong văn hóa Thái Lan đã khiến các nỗ lực của Chính phủ trở nên yếu ớt.
Mặc dù đã có những động thái mạnh như ban hành lệnh cấm sử dụng các hình
phạt thể chất trong gia đình và nhà trường nhưng lệnh cấm này dường như không
phát huy nhiều tác dụng tại Thái Lan. Trong cộng đồng, việc phòng, chống bạo
lực trẻ em cũng vấp phải những khó khăn nhất định khi đa phần nhận thức của

13

UNICEF, Situational analysis of the commercial sexual exploitation of children in Thailand, 2015, tr.26
Child Frontier, Evaluation of UNICEF Child Protection Monitoring and Response System (CPMRS) in
Thailand, Volume III – Child Protection System Context, 2013, Final Report, tr. 21

14


cộng đồng đều cho rằng việc áp dụng các hình thức bạo lực với trẻ em là vấn đề
nội bộ của mỗi gia đình.
Thực tiễn tại Thái Lan để lại nhiều bài học kinh nghiệm đối với các quốc
gia trong khu vực – những quốc gia tương đồng về điều kiện kinh tế, xã hội,
trong đó có Việt Nam.
Hồn thiện pháp luật: Việt Nam, cũng như Thái Lan có hệ thống pháp luật
tương đối tồn diện để phịng, chống bạo lực trẻ em khi nỗ lực phê chuẩn nhiều
điều ước quốc tế và hoàn thiện pháp luật trong nước. Tuy nhiên, một số lỗ hổng
pháp lý tương tự Thái Lan như việc chưa thống nhất độ tuổi của trẻ em trong các
văn bản pháp luật trong nước, một số định nghĩa chưa rõ ràng như “lừa đảo để
thực hiện hành vi lạm dụng tình dục”, và đặc biệt việc chưa có quy định trực tiếp
về cấm sử dụng hình phạt thể chất trong gia đình và trường học khiến cho cơng
tác phịng, chống bạo lực đối với trẻ em chưa hiệu quả.
Đối với thực thi pháp luật, cần rút kinh nghiệm của Thái Lan khi quy định
hệ thống các cơ quan thực thi pháp luật dàn trải, chồng chéo và thiếu sự phối hợp

mặc dù đã có hệ thống cơ quan từ trung ương đến địa phương. Bên cạnh đó, cần
chú trọng đến công tác nâng cao năng lực cho hệ thống cơ quan thực thi pháp
luật. Tại Việt Nam, theo đánh giá của Ủy ban Quyền con người của Liên hợp
quốc, trẻ em còn gặp nhiều hạn chế khi muốn tiếp cận với các dịch vụ hỗ trợ, các
chương trình hậu chăm sóc cũng như các dịch vụ tư vấn bảo mật cũng chưa nhận
được sự quan tâm. Thiếu những hướng dẫn về trách nhiệm của các cơ quan thực
thi pháp luật, khó khăn trong việc tuyển dụng nhân sự tại các trung tâm hỗ trợ trẻ
em và thiếu các dịch vụ giám sát và hướng dẫn, đào tạo về vấn đề bạo lực trẻ
em15 là các trở ngại trong quá trình thực thi pháp luật.

15

UNICEF, Child protection in the digital age, National responses to online child sexual abuse and exploitation
in ASEAN Member States, tr.95


Cơng tác tun truyền pháp luật cần được nhìn nhận nghiêm túc. Bài học
kinh nghiệm từ Thái Lan cho thấy, các quy định pháp luật về bảo vệ trẻ em khỏi
tình trạng bạo lực đã được thi hành trên thực tế trong gần 20 năm nhưng những ý
niệm truyền thống về giới vẫn luôn là rào cản lớn trong thực thi pháp luật. Tuyên
truyền pháp luật cho đa dạng các đối tượng và thực hiện các biện pháp đồng bộ
trên nhiều phương diện: văn hóa, niềm tin tơn giáo, giáo dục chính là biện pháp
bền vững, cần được thực hiện liên tục, bền bỉ để những chính sách, pháp luật về
bạo lực đối với trẻ em được thực sự phát huy tác dụng trên thực tế.



×