BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP THỰC PHẨM TP.HCM
KHOA CHÍNH TRỊ - LUẬT
BÀI TIỂU LUẬN NHĨM
ĐỀ TÀI: PHÂN BIỆT MÊ TÍN DỊ ĐOAN VÀ TÍN NGƯỠNG TƠN GIÁO
Mơn: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã lớp: CNXHKH 010100047621 - 11DHKT9
Giảng viên : Trương Trần Hồng Phúc
Sinh viên thực hiện: Nhóm 6
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 15 tháng 10 năm 2021
DANH SÁCH NHĨM
STT
HỌ VÀ TÊN
MSSV
LỚP
1
Nguyễn Thu Thu Thảo
2036205589
11DHKDQT7
2036200158
11DHKDQT2
(Nhóm trưởng)
2
Lê Thanh Thúy
(Thư kí)
3
Tạ Thị Thùy Dung
2007206480
11DHKT13
4
Võ Thị Ngọc Nở
2036205592
11DHKDQT7
5
Võ Thị Thúy Như
2007202202
11DHKT8
6
Lê Thị Mỹ Nhân
2007200024
11DHKT1
7
Nguyễn Hiếu Tiểu Phụng
2007202212
11DHKT8
8
Lương Tú Quyên
2036205880
11DHKDQT6
9
Nguyễn Như Quỳnh
2036205839
11DHKDQT8
10
Vũ Thị Trang
2039200062
11DHQT1
11
Hồ Tường Vy
2023202162
11DHNH4
1
MỤC LỤC
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM...................................................................i
MỤC LỤC............................................................................................................iii
PHẦN MỞ ĐẦU...................................................................................................1
PHẦN NỘI DUNG................................................................................................2
CHƯƠNG 1: MÊ TÍN DỊ ĐOAN..........................................................................2
1.1 Khái niệm :......................................................................................................2
1.2 Nguồn gốc, bản chất và vai trị của mê tín dị đoan:.........................................2
1.2.1 Nguồn gốc và bản chất.................................................................................2
1.2.2 Phân loại và ví dụ :.......................................................................................3
1.2.3 Vai trị............................................................................................................ 4
1.3 Tính chất chung của mê tín dị đoan :...............................................................4
1.4 Ảnh hưởng của mê tín dị đoan:........................................................................5
1.4.1 Mặt tư tưởng.................................................................................................5
1.4.2 Mặt chính trị:................................................................................................5
1.4.3 Mặt kinh tế :.................................................................................................5
1.4.4 Về đời sống :.................................................................................................6
1.5 Tính chất phản khoa học của các hình thức mê tín dị đoan:.............................6
1.6 Biện pháp ngăn chặn mê tín dị đoan :..............................................................9
CHƯƠNG 2: TÍN NGƯỠNG TÔN GIÁO..........................................................10
2.1 Khái niệm :.....................................................................................................10
2.2 Bản chất, nguồn gốc :.....................................................................................10
2.2.1 Bản chất.....................................................................................................10
2.2.2 Nguồn gốc..................................................................................................10
2.3 Đặc điểm cơ bản của tín ngưỡng, tôn giáo:....................................................11
2
2.4 Ngun nhân..................................................................................................12
2.4.1 Ngun nhân của tín ngưỡng tơn giáo........................................................12
2.4.2 Nguyên nhân chính trị - xã hội...................................................................12
2.4.3 Nguyên nhân văn hóa.................................................................................12
2.4.4 Ngun nhân tâm lý:.................................................................................13
CHƯƠNG 3: PHÂN BIỆT MÊ TÍN DỊ ĐOAN VÀ TÍN NGƯỠNG..................14
3.1 Giống nhau :...................................................................................................14
3.2 Khác nhau :....................................................................................................14
PHẦN KẾT LUẬN..............................................................................................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................16
3
PHẦN MỞ ĐẦU
Trong quá trình hình thành và phát triển đất nước, đặc biệt khía cạnh kinh tế . Để
đất nước ngày càng tiến bộ thì song đó là khía cạnh đáp ứng đời sống tinh thần cho nhân
dân. Thời kì hiện đại ngày nay gắn liền với “Phú quý sinh lễ nghĩa” thì có rất nhiều thành
phần lợi dụng điều này để “bn thần bán thánh” và nó đang ngày càng phổ biến. Ai trong
chúng ta đều có nhu cầu về tôn giáo, về sự sùng bái, để mong được sự an yên, thanh bình
trong mỗi con người chúng ta. Cuộc sống sẽ tốt đẹp hơn nếu ta biết “cho đi và không
nhận lại”, “lá lành đùm lá rách” , đều đó xuất phát từ tâm, từ sự thánh thiện của mỗi con
người. Ắt thế, lại có những thành phần lợi dụng sự lòng tin và nhân ái của con người để
mưu lợi cá nhân, làm hại sức khỏe, thời gian, tiền bạc và ảnh tưởng tinh thần, cuộc sống
của người khác.
Chính vấn đề đó, chủ đề này sẽ cho mọi người cái nhìn đúng đắn về MÊ TÍN DỊ
ĐOAN VÀ TÍN NGƯỠNG TƠN GIÁO. Từ đó, ta đúc kết bài học và ngăn chặn mê tín dị
đoan kịp thời.
Nội dung :
Chương 1: Mê tín dị đoan
Chương 2: Tín ngưỡng tơn giáo
Chương 3: Phân biệt mê tín dị đoan và tín ngưỡng tơn giáo
1
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: MÊ TÍN DỊ ĐOAN
1.1 Khái niệm
Mê tín được hiểu là có niềm tin mãnh liệt vào những điều phù phiếm, mơ hồ,
khơng có căn cứ nào để chứng minh. Mê tín dị đoan tin vào những điều mơ hồ, nhảm nhí,
khơng phù hợp với lẽ tự nhiên (tin vào bói tốn, chữa bệnh bằng phù phép…) dẫn tới hậu
quả xấu cho cá nhân, gia đình, cộng đồng về sức khoẻ, thời gian, tài sản, tính mạng. Mê
tín dị đoan bao gồm những hành vi ơng đồng, bà cốt, tin xin xăm bói quẻ, tin ngày lành
tháng dữ, tin số mệnh sang hèn, tin coi tay xem tướng, tin cúng sao, cúng hạn, cúng cơm,
tin thầy bùa thầy chú, tin cầu cúng tai qua nạn khỏi.
1.2 Nguồn gốc, bản chất và vai trị của mê tín dị đoan
1.2.1 Nguồn gốc và bản chất
Về nguồn gốc, mê tín dị đoan là những mảnh vỡ cịn sót lại của những hình thức
tơn giáo sơ khai hoặc những lễ nghi, luật tục khơng cịn phù hợp đã bị vứt bỏ trong q
trình biến đổi nhằm làm cho tơn giáo phù hợp với thời đại.
2
Mê tín dị đoan sinh ra và tích lũy lại từ sự thiếu hiểu biết của con người trong
những niên đại mà khoa học chưa được lập thành hay phát triển.
Bản năng tự nhiên, và nhu cầu sinh tồn, của con người thúc đẩy họ phải tìm ra
những giải thích “thỏa đáng” cho chính họ về những hiện tượng xảy ra chung quanh. Tại
sao khi thì săn bắt được nhiều thú rừng, khi thì khơng? Tại sao năm nay cây trái mùa
màng lại thấp kém hơn những năm trước? Tại sao nếu sáng nào bà X vào mua hàng đầu
tiên ở cửa tiệm của mình rồi thì suốt ngày đó sẽ buôn bán ế ẩm? Tại sao cái computer
trong văn phịng của mình lại hay bị hư khi mình mặc áo màu đen đi làm?
Sự sợ hãi về các hiện tượng thiên nhiên và “siêu nhiên” vẫn còn tác động mãnh
liệt trong tiềm thức con người ngày nay không khác gì trong ơng cha họ lúc cịn ăn lơng ở
lỗ. Những người có nghề nghiệp càng nguy hiểm, càng bấp bênh, càng tùy thuộc vào
thiên nhiên thì thường càng có nhiều thủ tục mê tín gắn liền vào cách thức, lề lối sinh
sống hàng ngày của họ.
Khi một đứa trẻ mới sinh ra, trong người của nó khơng có sẵn một chút mê tín dị
đoan nào cả. Nhưng khi lớn lên, đứa trẻ dần dần học được những hành động, những phản
ứng, những cách suy nghĩ này qua gia đình và xã hội xung quanh. Đại đa số những tập tục
mê tín trong gia đình của cha mẹ sẽ được truyền qua gia đình của con cái trong tương lai,
cộng thêm (hay trừ bớt) một số những mê tín khác mà những đứa con còn thu lượm từ
bạn bè, thân quyến chung quanh. Nó cịn bắt nguồn từ những tàn tích của nền văn hóa cũ,
nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc tâm lý của con người.
1.2.2 Phân loại và ví dụ
Nói chung, mê tín có thể được chia thành bốn loại sau đây:
Dạng thứ nhất là những nghi thức, cử chỉ xuất phát từ truyền thống hay thói
quen. Thí dụ như đi xin xăm, hái lộc trong ngày Tết, bói bài, xem chỉ tay, xem tướng, tử
3
vi, cúng sao giải hạn, đốt giấy tiền vàng bạc trong tang lễ, nấu cơm canh mời ông bà tổ
tiên về dùng, v.v. Tất cả những điều nầy đều được truyền từ thế hệ nầy sang thế hệ khác,
cha mẹ dạy con cháu làm theo, người này bắt chước người khác và được thực hành một
cách máy móc khơng có sự suy nghĩ chính đáng. Đa số những mê tín dị đoan dưới dạng
này thường được ẩn núp sau danh nghĩa “phong tục cổ truyền” hay ngay cả “tín ngưỡng
dân gian”.
Dạng thứ hai là những điều tốt lành cũng như những điều kiêng cử. Nhiều
người tin rằng nếu họ làm (hay khơng làm) những điều này thì sẽ có ảnh hưởng đến sự
thành công (hay thất bại) của những chuyện khác (mặc dù những chuyện này khơng hề có
một liên quan gì đến những điều trên cả). Thí dụ như nếu cử hành cưới hỏi, khai trương
tiệm quán, xuất hành đi xa, v.v. trong những ngày “xấu” (mùng năm hay mười bốn hay
hai mươi ba âm lịch) thì cuộc hơn nhân sẽ lận đận, tiệm quán sẽ ế ẩm, cuộc du hành sẽ
gặp trắc trở, v.v. Trái lại nếu lựa ngày “hợp” và giờ “tốt” (như “giờ hồng đạo”) thì vợ
chồng sẽ hạnh phúc, làm ăn phát đạt, chuyến đi sẽ an tồn dễ dàng, v.v. Những thí dụ
tương tự khác như cất nhà phải theo đúng phép phong thủy, lựa người “mở hàng” buổi
sáng, vợ chồng cần phải “hợp” tuổi, không được mở dù trong nhà, v.v.
Dạng thứ ba là những điềm tiên báo: điềm gỡ cũng như điềm tốt. Thí dụ
nhiều người tin rằng có chim cú đến nhà là điềm sắp có người chết, gương vỡ sẽ xui xẻo 7
năm, mắt trái giật là sắp có chuyện đáng lo, gặp mèo đen đi ngang trước mặt sẽ gặp tai
nạn, nằm mộng thấy quan tài là sắp có tiền, chó lạ đến nhà là điều thành lợi trong khi mèo
đến nhà là điềm thua mất (“mèo đến nhà thì khó, chó đến nhà thì sang”, v.v.
Dạng thứ tư là sự tôn thờ sùng bái những cá thể siêu hình vì họ tin rằng
những cá thể này có thể làm ảnh hưởng đến sức khỏe hay diễn tiến sự việc hay kết quả
thành bại trong đời sống họ hoặc có thể cứu vớt họ vào một thế giới trường cửu nào đó
sau khi chết.
4
1.2.3 Vai trị
Mê tín dị đoan là mơi trường thuận lợi cho nạn buôn thần bán thánh tồn tại
mang danh thực hành tín ngưỡng hoặc nghi quỹ (luật lệ tín ngưỡng truyền thống) trong
tơn giáo. Và đó là phản lại sự văn minh, phản lại tính nhân văn, bản chất của tín ngưỡng.
1.3 Tính chất chung của mê tín dị đoan
Hầu hết các mê tín dị đoan đều mang một số tính chất chung:
Một là, đặc điểm chung và nổi bật nhất của các loại "mê tín dị đoan" là
người ta thường làm (hoặc tránh làm) một hành động gì đó để mong muốn cho một sự
việc gì khác xảy ra (hoặc khơng xảy ra) trong khi thật sự thì hành động đi trước không tạo
thành hay gây ra sự việc theo sau.
Hai là, mê tín dị đoan được truyền bá sâu rộng trong mọi tầng lớp..
Ba là, nhiều tập tục mê tín dị đoan bắt nguồn từ các lý do cần thiết
thực dụng nhưng dần dần đều biến dạng và mất hết ý nghĩa lẫn mục đích ban đầu.
Bốn là, mê tín dị đoan này có khuynh hướng sinh sản ra mê tín dị
đoan khác.
Năm là, khi nói về “mê tín dị đoan” là nhiều người nghĩ rằng “những
người mê tín mới làm những chuyện vớ vẩn kể trên chớ tơi thì khơng bao giờ” .
Sáu là, nhiều hiện tượng, nhiều sự kiện trong đời sống hàng ngày
thường được người ta dựa trên mê tín dị đoan mà diễn giải khác nhau (có khi hồn tồn
trái ngược hẳn nhau) tùy vào văn hóa, phong tục địa phương.
1.4 Ảnh hưởng của mê tín dị đoan
1.4.1 Mặt tư tưởng
Sự phát triển của các loại hình mê tín dị đoan sẽ xâm hại và từng bước cũng nhận
thế giới quan duy vật biện chứng trong nhân dân, làm cho hệ tư tưởng Mác-Lênin và các
5
phát kiến khoa học tiến bộ có nguy cơ bị đẩy lùi. Niềm tin mù quáng vào thế giới siêu
nhiên, và sự quyết định và chi phối thần tiên, ma quỷ sẽ thay chỗ cho mọi niềm tin khác,
trong đó có cả niềm tin vào sức mạnh bản thân con người. Những niềm tin mù quáng sẽ
làm cho con người mất đi sức mạnh cải tạo thế giới tự nhiên, làm cho xã hội mất đi động
lực phát triển – đó là ý chí đấu tranh của con người.
1.4.2 Mặt chính trị
Mê tín dị đoan có thể thâm nhập vào tư tưởng của các bộ đảng viên nó nguy hiểm
ở chỗ làm cho cán bộ đảng viên từ bỏ ý chí, lập trường đấu tranh, từ bỏ vai trị tiên phong
gương mẫu của bản thân để thực hiện sự chờ đợi, cầu xin ban ơn, che chở của thần linh
ma quái. Cán bộ, đảng viên nếu phải tệ mê tín dị đoan sẽ chú tâm cho công việc với thời
gian ít, họ để dành cho những nghiên cứu tính toán về những điều thần bí. Mê tín dị đoan
là một trong những nguyên nhân gây mất đoàn kết nội bộ, chia rẽ bè phái làm cho uy tín
lãnh đạo của đảng bị giảm sút, năng lực quản lý của nhà nước bị hạn chế.
1.4.3 Mặt kinh tế
Mê tín dị đoan làm người ta mất đi động lực hoặc gây trì tuệ cho sự phát triển,
kinh doanh, có những cơ quan xí nghiệp do thủ trưởng quan niệm ngày tốt, ngày xấu, giờ
hoàng đạo, giờ hắc đạo mà làm lỡ dịp ký tết hoặc thực hiện hợp đồng kinh tế. Có những
công ty làm ăn bằng cách phân biệt đối tác khơng dựa trên cơ sở tính tốn tối đa hóa lợi
nhuận mà giữ trên cơ sở dịch lý âm dương. Nhiều gia đình, nhiều vùng, địa phương lâm
vào tình trạng đình đốn cũng về quan niệm ngày giờ tốt xấu trong kỳ thu hoạch …Những
những vấn đề này đã gây ra nhiều sự thất thốt lớn trong việc tích lũy nhằm phát triển nền
kinh tế quốc dân. Nó làm cho nhân dân thì tổn hại kinh tế, cịn nhà nước bị thất thu.
1.4.4 Về đời sống
Mê tín dị đoan gây nên những lãng phí, bất ổn, đau thương, mất mát của nhân
dân. Đó là sự cúng tế, cầu xin linh đình, tiền vàng mã… vừa tốn kém vừa gây ơ nhiễm
môi trường, sự tổn hại về tinh thần và thể xác khi tin và chữa bệnh ở các thầy mo, sự chia
ly của đơi lứa u nhau thật lịng nhưng bị bố mẹ ngăn cấm vì tin vào lời phán xét của
thầy bói, sự nghi kỵ hiềm khích thù hằn dẫn đến chém giết lẫn nhau vì quan niệm mê
6
tín… những điều đó làm cho tính nhân đạo xã hội chủ nghĩa bị loại bỏ, thay vào đó là
những độc ác, ích kỷ, hẹp hồi diễn ra giữa các cá nhân trong cộng đồng.
1.5 Tính chất phản khoa học của các hình thức mê tín dị đoan
Các hình thức lễ bái, cúng tế, cầu xin: cúng cô hồn, vong linh, cúng sao giải hạn,
cầu tài lộc, cầu tự, cầu tình duyên, cầu gia đạo, xin xăm, số đề, những hành vi hiến tế, dày
vò thể xác, quan hệ nam nữ bất thường, nhảy múa điên cuồng…
+ Ở Việt Nam, cứ đến rằm tháng bảy âm lịch(14/7) có rất nhiều nhà cúng vông
linh, cô hồn để cầu mong được yên ổn, khơng quậy phá, đi liền đó là tục đốt vàng mã,
giấy và tổ chức cho chỉ con vật đồ cúng lễ gọi là ‘giật cô hồn’. Họ quan niệm rằng ngày
rằm tháng bảy là ngày ‘xá tội vong nhân’, ngày các con hồn được thả tự do đi lang thang.
Tục lệ của người Thái có hiện tượng chia của cho người thân đã khuất như gạo, y phục,
các vật dụng sản xuất và buộc con gà kèm theo để dẫn đường cho hồn về với tổ tiên. Ở
một số vùng, có kiểu lợi dụng tơn giáo, lợi dụng sự mê tín của một số người để tổ chức
nhảy múa và làm tình tập thể một cách hết sức phản văn hóa…
Các hình thức xem tướng số, bói tốn: bói dáng người, bói chỉ tay, bói chân gà,
bói mai rùa,bói chữ viết, bói chữ ký, gieo lá số tử vi, bói bài ....
+ Những hình thức bói tốn xem tướng số làm cho người ta tin tưởng và khẳng
định rằng mỗi người đều có mệnh riêng của mình. Những thơng tin do bói tốn, đốn
mệnh, quy định người này có tướng làm quan, người kia có tướng giàu sang, người đào
hoa phong nhã, người phải chịu phận ăn mày, nghèo khổ, trộm cướp, lừa lọc… và khi đã
có số mệnh như thế thì khơng sao có thể xoay chuyển được.
+ Hiện nay, các hình thức bói chân gà – mai rùa – cỏ thi; bói vi tính – bói bài –
bói kiều: một loại thì cổ xưa phức tạp, khó hiểu, một loại thì có vẻ thiếu trang trọng nên
có ít người sử dụng họ chỉ xem nó như một trị giải trí. Thế nhưng, một số hình thức bói
chỉ tay, bói dáng người, bói chữ viết, bói chữ ký... Lại được nhiều người cho rằng đó là
khoa học hoặc ‘khoa học đang nghiên cứu’.
Các hình thức chữa bệnh bằng ma thuật: trừ tà ma, đồng bóng, thư yếm bùa…
7
+ Khi bị ốm, con bệnh không được cứu chữa tại các cơ sở y tế, bệnh viện mà
được đem đến hoặc mời một thầy cúng cứu chữa. Thầy cúng sau khi đánh đập con bệnh
làm cho ma quái trong người sợ hãi, đồng thời đốt một lá bùa bảo con bệnh uống, hậu quả
làm cho bệnh nhân lâm vào tình trạng nguy kịch. Một số người bị bệnh nhỏ may mắn tự
khỏi thì cơng lao của thầy cúng được đề cao và đồn đại vang xa… Ở những vùng đồng
bào dân tộc Tây Nguyên sinh sống, người bệnh thường bị nghi là do ma lai nhập. Vùng
tây nam bộ, nơi có người khơ me, người bị nghi bệnh là do người nào đó “thư” như “thư
con gà, lưỡi dao, búa…” vào bụng, cần tìm ra người đã “thư” xin hố giải.
+ Ở nhiều nơi, nhất là những vùng nơng thơn, có những cách chữa bệnh bằng
“mẹo”. Chẳng hạn như người bị hóc xương cá thì cứ âm thầm lặng lẽ xoay mâm bảy lần
là được, người bị thần kinh thì cứ đem lửa xơng, người bị đau lưng thì nhờ đàn bà có chữa
đạp lên lưng bảy cái, phụ nữ có mang bị ngã thì uống nước tiểu trẻ con, người bị mụn
cơm thì chạm tay vào người chết sẽ hết,… những phương pháp chữa bệnh bằng mẹo có
rất nhiều trong dân gian.
+ Sở dĩ những hình thức này tồn tại là nhờ sự thiếu hiểu biết và tâm lý nhút nhát
của một bộ phận quần chúng nhân dân. Nó chỉ có lợi cho những kẻ lợi dụng thần thánh.
Chỉ riêng vấn đề ép buộc người ta tin và thể hiện niềm tin chữa bệnh cũng là một thủ đoạn
tâm lý mang lại hiệu quả cao cho những kẻ lừa đảo. Người bệnh nếu tự khỏi thì biết ơn
‘thầy lang’, nếu khơng khỏi hoặc bệnh trầm trọng hơn thì vẫn cứ tôn sùng và không dám
trách cứ ‘thầy lang’ vì tâm tưởng họ đã bị huyễn hoặc.
Các hình thức kiêng cữ: kiêng đàn bà có chửa xơng đất đầu năm hoặc dự cỗ ma,
cỗ cưới; kiêng khởi đầu một việc gì đó vào ngày 13 hoặc các ngày lễ, kiêng mèo tự nhiên
vào nhà, kiêng tặng mực đầu năm…
Không thể nào có thể kể hết được những hình thức kiêng cữ vì chúng vơ cùng
phong phú đa dạng. Hành vi kiêng cử được hình thành trên cơ sở liên hệ, móc nối cái nọ
với cái kia dựa vào mối quan hệ cảm tính về bề ngồi, khơng dựa vào mối quan hệ bản
chất giữa chúng với dụ như ‘mực thì đen’ cho nên kiêng tặng mực; tiếng mèo kêu có âm
thanh gần giống như “nghèo nghèo”, nên kiêng mèo tự nhiên vào nhà, đàn bà tượng trưng
8
cho bẩn thỉu thấp kém (phong kiến) nên kiêng cử ra ngõ gặp đàn bà… Các hình thức kỷ
tuổi như: dần – thân – tỵ – hợi hay tý – ngọ - mẹo – dậu là tứ hành xung, kỵ tháng năm,
ngày giờ, kỵ màu sắc như mạng thuỷ thì hợp với màu xanh dương nhưng kỵ với màu đỏ
vì Thủy là nước có màu đỏ tượng trưng cho hỏa nên nước - lửa kỵ nhau… Đây là những
hình thức xuất phát từ dịch lý, âm dương ngũ hành – lý giải nguồn gốc, cấu tạo vũ trụ của
các trào lưu tư tưởng Trung Hoa cổ xưa. Đến nay đã bị khoa học phản bác. Vì giới hạn vi
phạm nghiên cứu nên không cho phép nêu lên những phản bác của khoa học đối với
những tư tưởng ấy. Vấn đề đáng đề cập hơn là ở chỗ nó gây ra những rắc rối, tiêu cực
trong đời sống xã hội. [1]
1.6 Biện pháp ngăn chặn mê tín dị đoan
Cần đẩy mạnh tuyên truyền hơn nữa về hệ lụy nguy hiểm cũng mê tín dị đoan,
giúp mọi người hiểu rõ để từ đó xa lánh, dần loại bỏ khỏi đời sống xã hội.
Vạch trần thủ đoạn lừa bịp của các đối tượng ‘bn thần, bán thánh’, thầy tướng,
thầy bói, cơ đồng,.. Cần phải xử lý nghiêm hành vi mê tín dị đoan hay lợi dụng mê tín dị
đoan gây tác động xấu đến xã hội. Đồng thời, mỗi người dân cũng còn tự nâng cao nhận
thức, tránh bị đối tượng xấu lừa đảo.
Cần nhận thức rõ ràng mê tín dị đoan là hiện tượng tiêu cực, cần phải bài trừ khỏi
sinh hoạt xã hội. Đó chính là cơ sở lý giải tại sao luật pháp Việt Nam tôn trọng, bảo vệ
quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo hoặc quyền tự do khơng tín ngưỡng, tơn giáo của cơng
dân nhưng kiên quyết bài trừ mê tín dị đoan.
9
Con người sống khơng thể khơng có niềm tin, nhưng niềm tin đó phải được xây
dựng trên cơ sở nhận thức đúng đắn, được xử lý bằng tư duy khoa học, có tác động tích
cực đến sự phát triển của cá nhân, để qua đó cả xã hội hướng đến điều thiện, điều lành.
Cố gắng trau dồi, rèn luyện, lao động với tinh thần trách nhiệm, nỗ lực vun đắp
cuộc sống gia đình phải có trách nhiệm với con cái với cộng đồng…
10
CHƯƠNG 2: TÍN NGƯỠNG TƠN GIÁO
2.1 Khái niệm
Tơn giáo là niềm tin của con người tồn tại với hệ thống quan niệm và hoạt động
bao gồm đối tượng tôn thờ, giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức.
Tín ngưỡng là niềm tin của con người được thể hiện thông qua những lễ nghi gắn
liền với phong tục, tập quán truyền thống để mang lại sự bình an về tinh thần cho cá nhân
và cộng đồng.
2.2 Bản chất, nguồn gốc
2.2.1 Bản chất
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội - văn hoá do con người sáng tạo ra. Con người
sáng tạo ra tơn giáo vì mục đích, lợi ích của họ, phản ánh những ước mơ, nguyện vọng,
suy nghĩ của họ. Khi con người sáng tạo ra ngôn ngữ, công cụ sản xuất, sáng tạo ra nhà
nước..., chính là sáng tạo ra những điều kiện giúp họ không ngừng vươn lên trong làm
chủ tự nhiên, xã hội. Nhưng, sáng tạo ra tôn giáo, con người lại sợ hãi tôn giáo, tuyệt đối
hố và phục tùng tơn giáo vơ điều kiện.
=> Mọi quan niệm về tôn giáo, các tổ chức, thiết chế tôn giáo đều được sinh ra từ
những hoạt động sản xuất, từ những điều kiện sống nhất định trong xã hội và thay đổi
theo những thay đổi của cơ sở kinh tế .
2.2.2 Nguồn gốc
Nguồn gốc kinh tế - xã hội của tôn giáo:
+ Sự bần cùng về kinh tế, nạn áp bức về chính trị, sự hiện diện của những bất
công xã hội cùng với những thất vọng, bất hạnh trong cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp
bị trị. Đó là nguồn gốc sâu xa của tơn giáo.
+ Sự xuất hiện tôn giáo là để phục vụ cho những yêu cầu kinh tế - xã hội cụ thể.
Điều này thể hiện rõ nét ở một số tôn giáo, khi những yêu cầu, mục đích kinh tế - xã hội
bị “tơn giáo hố” qua những nội dung giáo lý, cách thức hành lễ, tu trì.
11
- Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo:
+ Khi khoảng cách giữa “biết” và “chưa biết” vẫn tồn tại, khi những điều mà
khoa học chưa giải thích được, thì điều đó thường được giải thích thơng qua lăng kính các
tơn giáo. Ngay cả những vấn đề đã được khoa học chứng minh, nhưng do trình độ dân trí
thấp, chưa thể nhận thức đầy đủ, thì đây vẫn là điều kiện, là mảnh đất cho tôn giáo ra đời,
tồn tại và phát triển.
+ Khi con người chưa biết tự ý thức thì họ cũng chưa nhận thức được sự bất lực
của mình trước sức mạnh của thế giới bên ngồi, do vậy, con người cũng chưa có nhu cầu
sáng tạo ra tôn giáo để bù đắp sự bất lực ấy.
+ Vấn đề ảnh hưởng của yếu tố tâm lý, tình cảm của con người đối với sự ra đời
và tồn tại của tôn giáo đã được các nhà vô thần cổ đại nghiên cứu. Họ thường đưa ra
những luận điểm: “sự sợ hãi sinh ra thần linh” .
+ Ngay cả những nét tâm lý như tình u, lịng biết ơn, sự kính trọng,… trong
mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và con người với con người nhiều khi cũng được
thể hiện qua tín ngưỡng, tơn giáo.
2.3 Đặc điểm cơ bản của tín ngưỡng, tơn giáo
Các tín ngưỡng, tơn giáo dù có nguồn gốc khác nhau, dưới đây là 4 đặc điểm cơ
bản của tín ngưỡng, tơn giáo ở Việt Nam:
+ Một là, các tín ngưỡng, tơn giáo có sự dung hợp, đan xen và hịa đồng, khơng
kỳ thị, tranh chấp và xung đột. Các tín ngưỡng truyền thống phản ánh đời sống tâm linh
phong phú, đa dạng, sự khoan dung, độ lượng, nhân ái của người Việt Nam và tinh thần
đoàn kết toàn dân tộc. Đây là những yếu tố để người Việt Nam dễ hòa đồng với nhiều tín
ngưỡng, tơn giáo khác nhau.
+ Hai là, các tơn giáo ở Việt Nam chủ yếu thờ Thượng đế và linh nhân là người
nước ngoài. Các nghiên cứu về lịch sử tín ngưỡng, tơn giáo ở Việt Nam cho thấy, tư tưởng
tơn giáo có từ người Việt cổ, thể hiện trực quan qua các hình tượng chim Lạc và con
Rồng. Hệ thống giáo lý của các tôn giáo nội sinh (Phật giáo Hòa Hảo, Cao Đài, Tịnh độ
12
Cư sĩ Phật hội Việt Nam,...) hầu hết đều sao chép hoặc chịu ảnh hưởng từ các tơn giáo có
trước.
+ Ba là, mỗi tín ngưỡng, tơn giáo mang những nét văn hóa riêng biệt nhưng đều
hướng đến Chân - Thiện - Mỹ, chịu ảnh hưởng của truyền thống dân tộc, góp phần tạo
nên những nét đẹp trong nền văn hóa đa dạng, phong phú về bản sắc của dân tộc.
+ Bốn là, trong lịch sử cận, hiện đại của dân tộc, các thế lực thực dân, đế quốc,
phản động luôn tìm mọi cách lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo và các vấn đề liên quan đến
tín ngưỡng, tơn giáo để xâm lược, đô hộ nước ta, hoặc gây mất ổn định an ninh chính trị,
trật tự, an tồn xã hội, phục vụ cho ý đồ đen tối của chúng.
2.4 Nguyên nhân
2.4.1 Ngun nhân của tín ngưỡng tơn giáo
- Sự khủng hoảng niềm tin về một xã hội tương lai.
- Thế giới chứa đựng những mâu thuẫn chồng chéo, đan xen và đang biến động
khó đốn định trước.
- Những hậu quả tiêu cực của khoa học, kỹ thuật và công nghệ.
- Sự nhận thức có giới hạn của con người.
2.4.2 Nguyên nhân chính trị - xã hội
Sự phát triển của nền kinh tế thị trường ngồi các tác động tích cực quan trọng và
to lớn, cũng đã góp phần làm phân hóa xã hội, nhất là khoảng cách giàu nghèo ngày càng
lớn giữa các bộ phận dân cư ở những vùng miền và dân tộc. Một số người đã tìm kiếm sự
che chở, phù trợ từ tín ngưỡng, tơn giáo để cầu mong sự may mắn từ các lực lượng siêu
nhiên. Khi chuyển từ kinh tế bao cấp sang kinh tế thị trường, nhiều người đã nhanh chóng
thích nghi với mơi trường cạnh tranh và thành công trong điều kiện mới. Cũng có một bộ
phận khơng nhỏ gặp khó khăn, thất bại do những rủi ro, hoạn nạn, ốm đau... gây ra, và trở
nên hẫng hụt, không theo kịp với sự chuyển biến của xã hội. Họ tìm sự lý giải do số phận
theo cách riêng của mình và mong nhờ sự trợ giúp của thần thánh, vào giá trị tâm linh để
có thể vượt qua hồn cảnh thực tại. Những người này, theo các nhà nghiên cứu, là tầng
13
lớp dễ bị tổn thương về tâm lý trước mọi thay đổi của xã hội, dễ đi theo những hiện tượng
tơn giáo khác nhằm tìm một lối thốt trong suy nghĩ và cảm nhận về thực tại của mình.
2.4.3 Nguyên nhân văn hóa
Ngun nhân chính khiến cho nhiều giá trị đạo đức, văn hoá, xã hội truyền thống
bị suy giảm. Trước tình trạng ấy, một bộ phận người dân đã tìm đến các hiện tượng tơn
giáo mới, trong đó có các “tà đạo” mang tính “mê tín dị đoan”, thậm chí phản văn hiến,
phi nhân tính, như: đạo Chân Khơng ở Hà Tĩnh, đạo Thiên Cơ ở Thái Bình, đạo Thiên
Nhiên ở Hải Dương,... Một số người do mù chữ, trình độ học vấn thấp, nhận thức kém
nên đã bị mê hoặc dẫn đến những hành động cực đoan gây chết người hay tự sát tập thể.
Từ khi xoá bỏ bao cấp trong ngành văn hố, thể thao thì ở nơng thơn, vùng sâu vùng xa,
các cơ sở văn hố ngày càng xuống cấp, thiếu hụt sự quan tâm của chính quyền, đồn thể
và các tổ chức văn hố.
2.4.4 Ngun nhân tâm lý
Tín ngưỡng, tơn giáo đã tồn tại lâu đời trong lịch sử nhân loại, đã trở thành niềm
tin, lối sống, phong tục tập quán, tình cảm của một bộ phận đông đảo quần chúng nhân
dân, qua nhiều thế hệ . Bởi vậy, cho dù trong tiến trình xây xã hội chủ nghĩa và trong xã
hội chủ nghĩa đã có những biến đổi mạnh mẽ về, chính trị xã hội, song tôn giáo vẫn
không thể biến đổi ngay cùng với tiến độ của những biến đổi kinh tế- xã hội mà nó phản
ứng, trong đó ý thức tơn giáo thường là yếu tố mang tính chất bền vững nhất trong đời
sống tinh thần của mỗi con người, của xã hội.
2.5 Những ảnh hưởng của tôn giáo trong đời sống
Tác động tích cực :
Tơn giáo có vai trị liên kết, tập hợp cộng đồng.
Tơn giáo đóng góp khá lớn đối với di sản văn hóa của nhân loại, góp phần
truyền tải các giá trị văn hóa, văn minh trong quá trình giao lưu với nhau trên thế giới,
góp phần làm giàu bản sắc văn hóa dân tộc .
Tơn giáo đền bù mất mát, xoa dịu nỗi đau tinh thần cho con người .
14
Tôn giáo hướng con người tới những giá trị cao cả, hướng thiện, nhân văn,
tu dưỡng đạo đức .
Tác động tiêu cực :
Tôn giáo thường được giai cấp phản động lợi dụng để thực hiện mục đích,
lợi ích của họ.
Nhìn chung tơn giáo kìm hãm sự sáng tạo thực hiện của con người.
Làm con người thoát ly, né tránh sự bất lực của hiện thực, thui chột ý chí
đấu tranh chống bất công của con người.
15
CHƯƠNG 3: PHÂN BIỆT MÊ TÍN DỊ ĐOAN VÀ TÍN NGƯỠNG
3.1 Giống nhau
- Những người có tơn giáo, tín ngưỡng hay mê tín dị đoan đều tin vào những
điều mang tính chất thần bí, kỳ lạ (Đức Chúa Trời, Đức Phật hay cụ kỵ, tổ tiên đều khơng
hiện hình ra bằng xương bằng thịt và con người cũng không được nghe bằng chính giọng
nói của các đấng linh thiêng đó nhưng vẫn tin).
- Đều có tác dụng điều chỉnh hành vi ứng xử giữa con người với con người, giữa
con người với xã hội, với cộng đồng.
3.2 Khác nhau
- Tôn giáo phải có đủ 4 yếu tố cấu thành, đó là: giáo chủ, giáo lý, giáo luật và tín
đồ, thì các loại hình tín ngưỡng và mê tín dị đoan khơng có.
- Trong một thời điểm cụ thể, một người chỉ có thể có một tơn giáo, nhưng với
tín ngưỡng và mê tín dị đoan thì một người có thể đồng thời sinh hoạt ở nhiều tín ngưỡng
khác nhau, ví dụ như: có thể đi xem bói ở nhiều nơi khác nhau.
- Các tơn giáo có hệ thống kinh điển đầy đủ, đồ sộ (như các bộ kinh của Phật
giáo, Kinh Thánh của Thiên chúa giáo...), các loại hình tín ngưỡng chỉ có một số bài văn
tế, bài khấn (đối với tín ngưỡng thờ tổ tiên và thờ Mẫu), cịn mê tín dị đoan thì khơng có.
- Nếu các tơn giáo đều có các giáo sĩ hành đạo chuyên nghiệp và theo nghề suốt
đời, thì trong các sinh hoạt tín ngưỡng dân gian khơng có ai làm việc này một cách
chun nghiệp cả. Mê tín dị đoan có thể chun nghiệp nhưng khơng thể theo nghề suốt
đời và mục đích chính cũng chỉ là trục lợi cho cá nhân mình và khơng trong sáng.
- Thờ cúng tổ tiên - Tín ngưỡng văn hóa truyền thống tốt đẹp của người Việt.
- Sinh hoạt tơn giáo, tín ngưỡng có cơ sở thờ tự riêng (đình, chùa, miếu, phủ…),
cịn hoạt động mê tín dị đoan thường phải lợi dụng một không gian nào đó của những cơ
sở thờ tự để hành nghề hoặc hành nghề tại tư gia. [2],[3]
16
PHẦN KẾT LUẬN
Từ nội dung trên, cá nhân là một sinh viên ngồi trên ghế nhà trường, chúng
ta phải ý thức được đâu là mê tín dị đoan và đâu là tín ngưỡng tơn giáo. Việc bài trừ mê
tín dị đoan ra khỏi cuộc sống rất khó có thể giải quyết trong một vài ngày, nhưng không
thể không giải quyết vấn đề này và rất cần sự phối hợp giữa nhân dân với cơ quan chức
năng. Chúng ta cần phải đẩy mạnh tuyên truyền mạnh mẽ hơn nữa về hệ lụy nguy hiểm
của mê tín dị đoan, giúp mọi người hiểu rõ để từ đó né tránh nó và dần loại bỏ ra khỏi
cuộc sống. Song đó là việc vạch trần thủ đoạn lừa gạt "buôn thần, bán thánh", thầy bói, cơ
đồng,… cần phải xử lý nghiêm hành vi mê tín dị đoan hay lợi dụng mê tín dị đoan gây
ảnh hưởng đến sức khỏe, tiền bạc, thời gian của người khác. Tuyên truyền vận động gia
đình, bạn bè, người thân và mọi người xung quanh tránh xa mê tín dị đoan, khơng oa dua
theo những người có tinh thần truyền mê tín dị đoan. Ngăn chặn mọi lúc mọi nơi nếu thấy
tinh thần truyền bá mê tín dị đoan. Quan trọng hơn hết là cần sự nhận thức rõ ràng mê tín
dị đoan là hiện tượng tiêu cực, cần phải bài trừ khỏi đời sống sinh hoạt của xã hội. Ðó
chính là cơ sở lý giải tại sao luật pháp Việt Nam tôn trọng, bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng,
tơn giáo của cơng dân nhưng kiên quyết bài trừ mê tín dị đoan. Con người sống khơng thể
khơng có niềm tin, nhưng niềm tin đó phải được xây dựng trên cơ sở nhận thức đúng đắn,
được xử lý bằng tư duy khoa học, có tác động tích cực đến sự phát triển, để qua đó cả xã
hội hướng đến sự thiện tính trong mỗi con người. Bởi dù thế nào thì sự an yên, thanh bình
sẽ chỉ đến khi mỗi người ln sống có đạo đức, có lối sống thiện, từ đó mới vung đắp
được cuộc sống gia đình, góp phần cho xã hội, đưa đất nước ngày càng tiến bộ.
17
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Đại học Duy Tân(14/11/2014) . Tài liệu học tập Mê tín dị đoan.
< ,
xem ngày 13/10/2021
[2] Cô độc (12/04/2021) . lazi.vn
< , xem ngày 13/10/2021
[3] Nguyenhoangbao587. Hỏi đáp 247.com
< xem ngày 13/10/2021
18