Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Tìm hiểu những đặc sắc của phật giáo việt nam (từ góc nhìn so sánh với phật giáo ấn độ và trung quốc)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.28 KB, 14 trang )

Tinh thần bản địa hóa trong Phật giáo Việt Nam
Đặt vấn đề
Đối với sự tồn tại và phát triển của Phật giáo – một trong những tôn giáo
lớn nhất hiện nay dường như có một nghịch lý thú vị đã xảy ra: Phật giáo khai
sinh ở Ấn Độ rồi từ Ấn Độ lan rộng ra Trung Quốc và nhiều quốc gia châu Á
khác, trong đó có những quốc gia bé nhỏ ở khu vực Đông Nam Á, được các
quốc gia này đón nhận, đạt đến đỉnh cao ở Trung Quốc rồi từ quốc gia này lại
một lần nữa phủ tầm ảnh hưởng rộng khắp lên nhiều nước khác trong khu vực.
Nhưng điều kỳ lạ là, chính ở quốc gia đã khai sinh ra mình, Phật giáo lại dần
mai một và đi đến chỗ suy tàn; ở Trung Quốc – đất nước mà Phật giáo được tôn
vinh và tái sinh một lần nữa, Phật giáo cũng dần không giữ được vị trí độc tơn.
Nói cách khác, ở hai nền văn hóa lớn bậc nhất trên thế giới, tầm ảnh hưởng
của tôn giáo này có vẻ như đang mờ nhạt dần đi. Cịn ở những quốc gia Đơng
Nam Á vốn chỉ được coi những kẻ kế thừa đến sau, Phật giáo lại trở nên hưng
thịnh và là một trong những tôn giáo có tầm ảnh hưởng mạnh mẽ nhất. Việt
Nam cũng là một trong những quốc gia tiêu biểu ở Đông Nam Á nơi mà Phật
giáo phát triển rộng khắp và có vai trị vơ cùng to lớn trong đời sống văn hóa,
tâm linh của cư dân bản địa. Có được sự hưng thịnh đó, là do Phật giáo Việt
Nam đã được bản địa hóa một cách nhuần nhuyễn, linh hoạt, trở thành một tôn
giáo mang đậm bản sắc và tinh thần Việt Nam. Tìm hiểu về tinh thần bản địa
trong Phật giáo Việt Nam dưới góc nhìn đối sánh với Phật giáo Ấn Độ (Phật
giáo nguyên thủy) và Phật giáo Trung Quốc, sẽ giúp đưa ra một số quan điểm
mang tính khoa học để lý giải căn nguyên sự suy tàn của Phật giáo ở Ấn Độ, sự
mai một ở Trung Quốc cũng như sức sống mạnh mẽ của tôn giáo này ở Việt
Nam.

1


1. Bảng đối chiếu
Tiêu chí



Phật giáo Ấn Độ

Phật

giáo Trung Phật giáo Việt Nam

(Phật giáo nguyên Quốc
thủy)
Tình trạng Được cho là đã suy Là một trong những Là tôn giáo lớn nhất
hiện nay
Tầm

tàn tại Ấn Độ

ảnh Tầm

hưởng

ảnh

tơn giáo chính ở TQ

tại VN

hưởng Phật giáo kết hợp Là tơn giáo có tầm

khơng đáng kể tại với Đạo giáo và Nho ảnh hưởng sâu rộng
Ấn Độ


giáo trong Tam giáo nhất tại VN.
đồng nguyên có ảnh
hưởng sâu sắc đến
đời sống tinh thần
của người dân TQ,
nhưng

nếu

tách

riêng thì ảnh hưởng
của nó khơng được
Số

lượng

tín đồ

mạnh mẽ như thế
Chỉ còn lại một bộ - Khoảng 8% dân - Có gần 45 triệu tín
phận tín đồ khơng quy y tam bảo, xếp đồ quy y tam bảo, có
đáng kể

thứ 2 sau Đạo giáo 839 đơn vị gia đình
(30% dân số)

Phật tử và khoảng

- Là đất nước có số 44.498 tăng ni

lượng Phật tử đông
nhất (khoảng trên
660 triệu đến 1 tỷ
người)
Di tích

- Bồ-đề đạo tràng Chùa Thiếu Lâm

- Ở Bắc Ninh: chùa

(BodhGaya): nơi mà Nga My Sơn

Dâu, chùa Phật Tích.

2


Thích Ca đã ngồi Ngũ Đài Sơn

- Ở Ninh Bình: Chùa

thiền và thành đạo.

Nhất Trụ, chùa Bái

Cửu Hoa Sơn

- Sarnath, cịn gọi là Phổ Đà Sơn

Đính.


Mrigadava

- Ở Hà Nội: chùa

(Deer Đơn Hồng

park): nơi mà Phật *Đều là các ngơi Báo Ân, chùa Trấn
bắt đầu thuyết giảng chùa hoặc quần thể Quốc,
giáo lý

chùa nổi tiếng, vừa chùa

chùa

Đậu,

Thầy,

chùa

- Kusinagara: nơi là nơi ở của người tu Một Cột.
mà Phật nhập niết hành, vừa là danh bàn.

thắng nổi tiếng



Huế:


Chùa

Thiên

Mụ,

Chùa

- Trung tâm Phật

Quốc Ân, Chùa Từ

giáo

Nalanda:

Đàm,

trường đại học Phật

Quốc

giáo đầu tiên trên

Ngồi ra cịn nhiều

thế giới.

chùa chiền khắp đất


*Chủ yếu cịn lại các

nước

thánh tích và di chỉ

*Đều là những ngơi

để du khách đến

chùa có quy mô

thăm quan và tưởng

tương đối nhỏ, hầu

niệm

hết vừa là nơi ở của

Chùa

Báo

người tu hành vừa là
di tích lịch sử.
Hình mẫu - Chư phật đều xuất - Hình tượng nữ giới - Hình tượng nữ giới
đức phật

thân là nam giới. xuất hiện đa dạng xuất hiện tương đối

Hình tượng nữ giới hơn ở Ấn Độ (Quan nhiều, đa dạng và
(Bồ Tát) xuất hiện Thế Âm Bồ Tát, gần gũi với đời sống
muộn và tương đối Phật Bà nghìn mắt (Phật bà Quan Âm,
ít.

nghìn tay).

Quan Âm Thị Kính,

- Hình tượng Đức - Hình tượng Đức Phật
3



Chùa


phật

ln

uy phật

ln

uy Hương).

nghiêm, phi thường, nghiêm, phi thường, - Hình tượng Phật
là người truyền dạy là người truyền dạy dân dã, gần gũi.
giáo lý, khai sáng giáo lý, khai sáng - Hình ảnh Bụt vừa

đầu óc và tâm hồn.

đầu óc và tâm hồn, dân dã vừa huyền
đồng thời có phép diệu,
thuật

biết

phép

thuật, xuất hiện để

giúp đỡ dân lành.
Quan niệm Người xuất gia tách Người xuất gia vẫn Người xuất gia vẫn
về xuất thế

biệt hoàn toàn khỏi giữ liên hệ với gia giữ sự liên hệ tương
gia đình, xã hội

đình, xã hội.

đối mật thiết với gia

đình
Quan niệm Cấm sát sinh dưới Cấm sát sinh, tuy Cấm sát sinh, tuy
về sát sinh

mọi
khơng


hình

thức : nhiên

được

việc

giết nhiên VN giống TQ

giết những người phạm ở cách vận dụng giới

người, không được tội lại không bị phê luật này một cách
ăn mặn, không lao phán mà được coi là linh

hoạt,

uyển

động vì khi lao động giải thốt người đó chuyển hơn.
có thể vơ tình sát hại khỏi nghiệp chướng.
Kiến trúc

các sinh linh khác.
- Chùa chỉ là nơi thờ - Chùa chỉ là nơi thờ - Chùa còn là nơi
Phật

Phật

thờ thần


- Chùa chiền ln có - Chùa chiền ln có - Chùa chiền khơng
sự phân biệt rạch rịi sự phân biệt rạch ròi phân biệt theo phái
2 phái Đại thừa và 2 phái Đại thừa và nào, hòa trộn đặc
Tiểu thừa

Tiểu thừa

điểm của cả Đại

- Tượng Phật không - Tượng Phật khơng Thừa và Tiểu Thừa
có nhiều biến thể

có nhiều biến thể

- Tượng phật có rất

- Chùa có quy mơ - Chùa có quy mơ nhiều biến thể.
hồnh tráng, kiến hồnh tráng, kiến - Chùa có quy mơ
4


trúc tráng lệ

trúc tráng lệ, tương vừa phải hoặc nhỏ,
đối nhiều màu sắc

Phật

màu sắc thâm trầm


cổ kính.
giáo Chưa tìm thấy nhiều Phật giáo có ảnh Phật giáo có ảnh

và văn học

tài liệu chứng tỏ hưởng sâu sắc đến hưởng sâu sắc đến
Phật giáo có ảnh văn học TQ, đi vào văn học Việt Nam,
hưởng lớn đối với rất nhiều tác phẩm cả văn học dân gian
văn học Ấn Độ

thơ ca, hát nói, tiểu và văn học viết.
thuyết, kinh kịch

2. Tinh thần bản địa hóa trong Phật giáo Việt Nam
Phật giáo khi được phổ biến tại Việt Nam đã được bản địa hóa khác nhiều
so với nguyên bản, được làm tươi mới lại bằng tâm thức và tín ngưỡng của
người Việt Nam do đó thấm đẫm nét văn hóa truyền thống của Việt Nam - một
quốc gia nông nghiệp trồng lúa nước với những nét riêng biệt điển hình: đó là
lối ứng xử linh hoạt, uyển chuyển, mềm mại như nước, là tinh thần khoan dung
hòa hiếu…Dưới đây là một số nét khác biệt tiêu biểu của Phật giáo Việt Nam so
với Phật giáo Ấn Độ và Trung Quốc:
- Về tư tưởng:
Phật giáo ở Việt Nam được nhấn mạnh ở tính nhập thế. Nếu như Phật
giáo nguyên thủy chủ trương sống khổ hạnh, xa lánh trần thế, tiết chế dục vọng
thì ở Việt Nam, tư tưởng đó vẫn được đề cao, nhưng với một số người, nhất là
với thiền phái Trúc Lâm, tu hành khơng có nghĩa là xa rời mọi chuyện trần tục
mà vẫn quan tâm đến vận mệnh quốc gia và sự hưng vong của cộng đồng. Tư
tưởng thiền Trúc Lâm mang tính độc lập, ít bị ảnh hưởng bởi đạo Phật nguyên
thuỷ cũng như một số tông phái từ Trung Hoa du nhập.


5


Phật giáo ở Ấn Độ mang nặng nét tư duy triết học siêu hình. Cịn Phật
giáo ở Trung Quốc và Việt Nam đều được tái tạo lại bằng tư duy thực tiễn. Ở Ấn
Độ, xuất gia đồng nghĩa với sống tách biệt khỏi cộng đồng, xã hội, không sát
sinh thậm chí khơng lao động, bởi vậy bị nhiều tín đồ của các tơn giáo lên án là
ích kỷ và thiếu trách nhiệm với cộng đồng. Ngược lại, ở Trung Quốc và Việt
Nam, người theo Phật vẫn đặt bản ngã của cá nhân mình dưới lợi ích của cộng
đồng. Người tu hành ở Ấn Độ thường không tự làm ra của cải và thường đi khất
thực, bởi quá trình lao động có thể gây sát sinh, tức là phạm vào một trong
những giới luật của nhà Phật. Ngược sư sãi ở các chùa Việt Nam, Trung Quốc
vẫn lao động, trước hết để ni sống bản thân, sau đó cịn để cứu giúp người
nghèo, đóng góp cho xã hội, chủ trương xây dựng và phát triển đất nước bằng từ
bi, trí tuệ và đạo đức của Phật giáo. Nhà Phật cấm sát sinh, nhưng ở Việt Nam
và Trung Quốc, trừng phạt kẻ ác hay người đang có ý định phạm tội là chuốc
lấy nghiệp chướng cho mình để đổi lấy sự giải thoát cho người khác khỏi bể
khổ, nên đây là hành động từ bi. Khi đất nước xảy ra chiến tranh, chùa chiền có
thể trở thành căn cứ địa cho cách mạng. Nhiều quý tộc tôn thất đã quy Phật như
Trần Nhân Tông, Tuệ Trung thượng sĩ Trần Tung, tuy tu nhưng các vị vẫn thể
hiện tinh thần nhập thế với lịng u nước nồng nàn, Vua Trần Thái Tơng là
người ngộ được Thiền Tông, khi giặc Nguyên Mông xâm lăng, vua chỉ huy cầm
quân đánh giặc, đất nước thái bình vua mới quy y tu thiền.
Một điểm khác với Ấn Độ nhưng tương đối giống Trung Quốc của Phật
giáo Việt Nam là sự kết hợp và dung hòa của Phật giáo với Đạo giáo và Nho
giáo, thường được gọi chung là Tam giáo đồng nguyên (thời Lý). Sự kết hợp
nhuần nhuyễn triết học siêu nhiên của Phật giáo với nhân sinh quan Nho giáo và
vũ trụ quan của Lão giáo trong Tam giáo đồng nuyên chính là triết lý nhân sinh
cũng đồng thời là định hướng chính trị cho xã hội thời đại nhà Lý. Nhân sinh

quan đó bắt nguồn từ truyền thống văn hóa Việt tộc, và nó được thăng hoa khi

6


gặp tính minh triết nguyên thủy của giáo lý Phật. Bởi vậy nhà Lý tôn đạo Phật
làm quốc đạo.
Mặt khác, với truyền thống khoan dung, hòa hiếu, người dân Việt Nam có
cái nhìn vị tha hơn với những mong ước, nhu cầu rất chính đáng của con người
mà đạo Phật vốn kiêng kỵ (Ba cô đội gạo lên chùa – Một cô yếm thắm bỏ bùa
cho sư – Sư về sư ốm tương tư – Ốm lăn ốm lóc nên sư trọc đầu). Phật ở Việt
Nam mang dáng dấp hiền hòa và dân dã, thường hiện ra để giúp đỡ những
người hoạn nạn.
- Về tính linh hoạt:
Phật giáo ở Việt Nam thiên về giản lược hóa việc tu tập mà không câu nệ
vào nghi thức “Bụt ở trong nhà; chẳng phải ta”, “Tịnh độ là trong sạch, chớ còn
ngờ hỏi đến Tây phương; Di Đà là tính sáng soi, mưa phải nhọc nhằn tìm về cực
lạc”, hay như “biết chân như, tin Bát Nhã, chớ cịn tìm Phật tổ Tây Đông; chứng
thực tưởng nên vô vi, nào nhọc hỏi Kinh Thiên Nam Bắc”. Thậm chí Thiền phái
Trúc Lâm khơng phân biệt tu sỹ tu ở chùa và cư sỹ tu tại gia. Cả hai hình thức tu
tập đều hướng tới mục tiêu chung là tìm lại, thức tỉnh “bản tính Phật” trong tâm
của từng cá nhân bằng con đường từ bi và trí tuệ. Ở Việt Nam, tu tại gia trở
thành một triết lý sống đẹp: Ai cũng có thể trở thành Phật nếu có tâm thiện.
Sự linh hoạt cịn thể hiện trong tên gọi và hình tượng của đức phật. Các vị
bồ tát, các vị hòa thượng đều được gọi chung là Phật, Phật Bà Quan Âm (vốn là
bồ tát), Phật Di Lặc (vốn là hịa thượng),... Ngồi ra Phật ở Việt Nam mang
dáng dấp hiền hòa và dân dã: ơng Bụt Ốc (Thích Ca tóc xoăn), ơng Nhịn ăn mà
mặc (chỉ Thích Ca Tuyết Sơn),... Trên đầu Phật Bà Chùa Hương cịn có lọn tóc
đi gà rất truyền thống của phụ nữ Việt Nam.
- Về đặc tính: Văn hóa Việt Nam thiên về tính nữ, nên Phật giáo Việt Nam có

phần thiên về nữ tính. Các vị Phật Ấn Độ xuất thân là nam giới, khi vào Việt
Nam bị biến thành "Phật ông - Phật bà". Phật Bà Quan Âm (biến thể của
7


Quán Thế Âm Bồ Tát) là vị thần hộ mệnh của vùng Nam Á nên còn được gọi
là Quan Âm Nam Hải. Ngồi ra người Việt cịn có những vị Phật riêng của
mình như Man Nương Phật Mẫu (tên khác: Phật Mẫu), Quan Âm Thị Kính
(tên khác: Quan Âm Tống Tử), Quan Âm Diệu Thiện (tên khác: Phật Bà
Chùa Hương, Bà chúa Ba).
- Về các chi phái:
Các tông phái Phật giáo Đại thừa sau khi du nhập vào Việt Nam trộn lẫn
với nhau. Dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi pha trộn với Mật giáo. Thiền tơng cịn
kết hợp với Tịnh Độ tông trong việc tụng niệm Phật A Di Đà và Bồ Tát. Phật
giáo Hịa Hảo là một tơng phái của Phật giáo do người Việt Nam sáng lập.
Người ta nói đến Thiền phái Trúc Lâm với tư cách một chi phái mang
đậm tinh thần của văn hóa Việt Nam. Thiền phái Trúc Lâm đã dung hội được cả
ba thiền phái của Ấn Độ và Trung Quốc thâm nhập vào Việt Nam là: Thiền phái
Tỳ Ni Đa Lưu Chi do Tỳ Ni Đa Lưu Chi sáng lập ra; Thiền phái Vô Ngôn
Thông do thiền sư Trung Quốc là Vô Ngôn Thông sáng lập;Thiền phái Thảo
Đường do nhà sư Trung Quốc là Thảo Đường sáng lập.Theo phương châm của
Trần Nhân Tông – ông tổ của Thiền phái Trúc Lâm “chưa rõ thì chưa làm ba
giáo, hiểu rồi thì cùng ngộ một tâm”. Điều đó cũng có nghĩa là trong Thiền phái
Trúc Lâm chứa đựng các yếu tố Phật giáo Ấn Độ và Trung Hoa, đồng thời còn
hội tụ cả triết lý của Nho giáo và Đạo lão. Khi du nhập vào Việt Nam, cả ba
thiền phái trên cũng đã phần nào được bản địa hóa, tiếp thu các yếu tố tín
ngưỡng dân gian (đa thần giáo) của Việt Nam, mà điển hình nhất là hiện tượng
thờ Tứ Pháp ở đồng bằng Bắc Bộ (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện).
Đến thời Trần, nhà vua với tư cách là một Phật Hồng- nhà tư tưởng có ý thức
độc lập tự chủ và tự cường dân tộc cao, Đệ nhất Tổ Trúc Lâm đã thống nhất

được ba dòng thiền Ấn Độ, Trung Quốc và Việt Nam.
Do vị thế của Thiền phái Trúc Lâm trong đời sống xã hội đương thời mà
các ngôi chùa gắn với Thiền phái này luôn được xây dựng ở những địa điểm có
8


cảnh trí thiên nhiên đẹp hùng vĩ, với quy mơ kiến trúc đồ sộ và đã trở thành
“Danh lam thắng cảnh” có ảnh hưởng lớn trong tâm thức dân gian. Các ngơi
chùa đó phần lớn đều được vinh danh là những đại danh lam như: Yên Tử,
Quỳnh Lâm, chùa Vĩnh Nghiêm (Đức La), chùa Côn Sơn, chùa Thanh Mai,
chùa tháp Phổ Minh... Các ngôi chùa thuộc Thiền phái Trúc Lâm ngoài chức
năng thờ Phật, nơi thực hành Phật sự cho các Phật tử, cịn có một khơng gian
đặc biệt thờ các vị Tổ Trúc Lâm.
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử có những đóng góp xứng đáng vào kho tàng
di sản văn hóa Việt Nam, khơng chỉ trong lĩnh vực di tích lịch sử mà cịn trong
nhiều yếu tố: tư tưởng, văn học, điêu khắc…
- Về tập tục thờ cúng:
Các chùa ở Trung Quốc, Ấn Độ và một số nước Đông Nam Á khác là nơi
thờ Phật, còn chùa ở Việt Nam khơng chỉ thờ Phật mà cịn thờ thần (điển hình là
thờ các vị thiền sư: Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không, Trần Nhân Tông và Lý
Thần Tông), thờ tam giáo (Phật – Lão – Khổng), thờ Trúc Lâm Tam tổ ... Ở các
chùa Việt Nam, tượng Đức Quan thế âm có nhiều biến thể và hầu hết lại được
diễn tả bằng hình tướng nữ: Phật bà Quan Âm nghìn mắt nghìn tay, Quan Âm
Thị Kính.
- Về các nghi lễ khác:
Khi Phật giáo du nhập vào Việt Nam, các yếu tố của Phật giáo như nghi
lễ thờ Phật, các dạng thức đọc kinh, kể hạnh... đã dung hợp với các tục thờ cây,
thờ tự nhiên, tục thờ nhân thần... vốn đặc trưng cho tín ngưỡng bản địa, tạo nên
một tiểu hệ thống các lễ hội mới trong hệ thống lễ hội cổ truyền, đó là các lễ hội
chùa. Có nghiên cứu đã chỉ ra rằng tục thờ Tứ pháp trong lễ hội chùa Dâu chính

là hình thức khác của tục thờ cây và tục thờ mây mưa, sấm chớp trong tín
ngưỡng bản địa nhưng được thể hiện qua cảm quan Phật giáo, hay phật Thạch
quang có nguồn gốc từ tục thờ đá của người Việt cổ. Tuy chịu ảnh hưởng sâu
9


sắc của Phật giáo Ấn Độ và Phật giáo Trung Quốc, nhưng các lễ hội Phật giáo
của Việt Nam lại mang đậm bản sắc văn hóa dân gian và có lẽ không với bất kỳ
lễ hội Phật giáo nào của 2 quốc gia này: lễ hội chùa Thầy với phần Lễ long
trọng bao gồm rước lễ vật từ 6 thôn lên chùa, lễ Mục Dục, nghi lễ thắp hương,
rước binh khí cổ, rước trống, rước cờ và phần Hội sơi động với các trò chơi dân
gian thực sự là một nét văn hóa mang đậm màu sắc địa phương.
Một tập tục khác gắn với Phật giáo Việt Nam là thờ "hậu". Hình thức này
có mối liên hệ với tập tục thờ cúng tổ tiên đã hình thành lâu đời ở Việt Nam.
Nhiều người khơng có con muốn được thờ cúng sau khi chết, đã tìm đến nhà
chùa. Họ đóng góp cho chùa một số tiền hay ruộng đất và xin nhà chùa cúng lễ
họ sau khi chết. Sự thờ cúng này gọi là thờ "hậu". Trong nhiều chùa, bàn thờ
"hậu" thường là một hành lang với những bát hương, đặt trước những tấm bia
đá, gọi là bia "hậu", trên đó có khắc rõ tên tuổi, q qn của những người
khơng có con cháu nối dõi, thường là cả vợ và chồng, cùng với số tiền họ đóng
vào chùa và yêu cầu được thờ ở chùa. Ở chùa Cổ Lễ Nam Định, các bia hậu
được gắn dày đặc trên tường hành lang bao quanh chính điện1.
- Về các cơng trình kiến trúc Phật giáo:
Ở nhiều nước khác, chùa chiền ln có sự phân biệt rạch ròi thành hai
phái: Đại thừa và Tiểu thừa. Ở Việt Nam, đại thừa và tiểu thừa có sự dung hợp
với nhau. Các điện thờ ở chùa miền Bắc có vơ cùng phong phú các loại tượng
Phật, bồ tát, la hán của các tông phái khác nhau. Các chùa miền Nam cịn có xu
hướng kết hợp Tiểu thừa với Đại thừa. Nhiều chùa mang hình thức Tiểu thừa
(thờ Phật Thích Ca Mâu Ni, sư mặc áo vàng) nhưng lại theo giáo lý Đại thừa;
bên cạnh Phật Thích Ca Mâu Ni cịn có các tượng Phật nhỏ khác, bên cạnh áo

vàng cịn có áo nâu, áo lam. Các thánh tích, chùa chiền ở Trung Quốc và Ấn Độ
thường có quy mơ to lớn, kiến trúc đồ sộ kỳ vỹ, màu sắc tươi sáng. Chùa ở
Trung Quốc rất hay được xây dựng ở trên các đỉnh núi lớn, thậm chí được tạc từ
1 />
10


đá. Chùa chiền ở Việt Nam thuộc về cộng đồng làng xã, có phần nhỏ và đơn sơ
hơn, màu sắc chủ đạo là màu nâu trầm giản dị. Các Chùa Việt Nam thường được
xây dựng bằng các thứ vật liệu quen thuộc như tre, tranh cho đến gỗ, gạch,
ngói...
Chùa Việt Nam cịn có một điều đặc biệt đó là có các bàn thờ chư vị tức
là các vị thánh của Đạo giáo và tín ngưỡng dân gian. Đó là bàn thờ Mẫu, tức nữ
thần mẹ. Có nhiều Mẫu như: Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải, Mẫu Địa Phủ,
Mẫu Liễu, Tứ pháp...
Trong một số chùa, đằng sau điện thờ Phật là hậu cung thờ một vị thần.
Các vị thần được thờ đều là những "nhân thần", có nghĩa là những con người
được coi là có thực, nhưng về sau nhờ học tập, tu luyện, đã có tài thần thơng
biến hóa, nghĩa là có những khả năng của một vị thần. Nhờ những khả năng đó,
họ cứu dân giúp nước và vì vậy, họ được nhân dân một vùng hay nhiều vùng
thờ phụng.
Ngoài ra, các nhân vật lịch sử thực sự cũng được thờ tại chùa. Họ là
những ông quan, những danh sĩ hay những vị tướng đã có cơng với nước hay
với nhân dân một vùng như Mạc Đĩnh Chi, trạng nguyên thời nhà Trần được thờ
ở chùa Dâu, Bắc Ninh hay Đặng Tiến Đông, vị tướng thời nhà Tây Sơn, được
thờ ở chùa Trăm Gian, Hà Tây. Trong các chùa này, thường có tượng chân dung
các nhân vật lịch sử được thờ.
Từ những phân tích trên có thể thấy tính tổng hợp và linh hoạt là đặc
tính nổi bật nhất của Phật giáo Việt Nam. Sự tổng hòa giữa Phật giáo và tín
ngưỡng truyền thống tạo nên những hình tượng Phật vơ cùng gần gũi gắn liền

với đời sống, tín ngưỡng của dân tộc Việt Nam. Sự tổng hợp giữa các tơng phái
Phật giáo giúp hình thành nên ở Việt Nam những chi phái mới, trong đó Thiền
phái Trúc Lâm là chi phái điển hình cho tinh thần bản địa của Phật giáo Việt
Nam. Sự dung hòa giữa Phật giáo với các tôn giáo khác làm nên "Tam giáo
11


đồng ngun" (cả ba tơn giáo có cùng một gốc) và "Tam giáo đồng quy" (cả ba
tơn giáo có cùng một mục đích), hình ảnh "Tam giáo tổ sư" với Thích Ca Mâu
Ni ở giữa, Lão Tử ở bên trái, Khổng Tử ở bên phải đã in sâu vào tâm thức mọi
người Việt. Sự kết hợp giữa Phật giáo và ngun lý tính mẫu đem đến cho tơn
giáo này sự hài hòa âm dương, khiến cho Phật giáo Việt Nam mang dấu ấn đậm
nét của nữ giới với hình ảnh những vị Phật bà nhân từ, phúc hậu.
Nếu như tính tổng hợp là một trong những đặc tính tiêu biểu của văn
minh nơng nghiệp, thì sự linh hoạt là nét điển hình của nền văn minh sơng nước.
Nói cách khác đây là những đặc điểm của nền văn hóa Việt Nam – một đất nước
nông nghiệp trồng lúa nước điển hình. Hai đặc điểm đó trở thành những nét
riêng của Phật giáo Việt Nam, khiến cho Việt Nam trở nên rất khác biệt khi đối
sánh với các nước trong khu vực vì sự linh hoạt tơn giáo

12


KẾT LUẬN
Người ta nói đến nhiều nguyên nhân gây nên sự suy tàn của Phật giáo tại
Ấn Độ, bên cạnh những yếu tố bên ngồi, khơng thể khơng kể đến một nhân tố
tác động từ bên trong: Phật giáo Ấn Độ mang nặng tư duy siêu hình huyền bí,
xa rời thực tế do đó khơng thể nào kháng cự trước sự cạnh tranh của những tôn
giáo khác như Hinđu giáo và Hồi giáo. Còn ở Trung Quốc, Phật giáo nhiều lần
vấp phải sự bài xích nặng nề và khơng thể nào trở lại vị trí độc tơn như trước. Ở

hai nền văn hóa lớn nhất thế giới – nơi Phật giáo được khai sinh và phát triển
rực rỡ đến đỉnh cao, Phật giáo ngày nay vẫn chưa thể nào khôi phục lại tầm ảnh
hưởng lớn lao của mình như trước.
Thế nhưng, với sức sống tiềm tàng, tinh thần và triết lý Phật giáo vẫn
chưa bao giờ trở nên lỗi thời và vẫn được đón nhận bởi đơng đảo người dân trên
tồn thế giới, trong đó có Việt Nam. Ở Phật giáo Việt Nam ta thấy nổi bật tinh
thần “nhập thế” gắn “đạo với đời”, lấy lợi ích dân tộc và lợi ích chúng sinh làm
mục tiêu căn bản trong quá trình tu tập và thực hành Phật sự của mỗi cá nhân.
Điều đó làm cho Phật giáo ln đồng hành cùng dân tộc, đồng thời có sự dung
hợp giữa hai tính chất “bác học” và “dân gian”, dễ dàng thấm sâu vào tâm thức
của đông đảo các tầng lớp cư dân trong xã hội. Tầm ảnh hưởng rộng rãi của
Phật giáo ở Việt Nam vừa cho thấy sức sống mãnh liệt của Phật giáo, vừa thể
hiện khả năng tiềm tàng của con người Việt Nam trong phát triển những giá trị
văn hóa bản địa, nội sinh trong lịng dân tộc.

13


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. M.T. Stepaniants, Triết Học Phương Đông, Trần Nguyên Việt Việt dịch,
Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội, Hà Nội 2003
2. C. Scott Littleton, Trí Tuệ Phương Đơng, Trần Văn Hn Việt dịch, Nhà
Xuất bản Văn Hố Thông Tin, 2002
3. />u_Thien_phai_dam_chat_van_hoa_Viet
4. />5. />6. />%E1%BB%87t_Nam
7. />8. />%E1%BA%ADt_gi%C3%A1o

14




×