ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
------
LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
CHỦ ĐỀ 01:
Vai trò của đường mòn Hồ Chí Minh trên biển trong kháng chiến
chống Mỹ cứu nước của Việt Nam (1954-1975)
Giáo viên hướng dẫn : Hoàng Thị Thúy
Lớp: 2204HCMI0131
Nhóm: 03
Hà Nội, 2022
1
TIEU LUAN MOI download :
Đại Học Thương Mại
Lý Luận chính Trị
---------------------
Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam
Chủ đề 01:
Vai trò của đường mòn Hồ Chí Minh trên biển trong kháng chiến chống Mỹ cứu
nước của Việt Nam (1954-1975)
Giáo viên hướng dẫn : Hoàng Thị Thúy
Lớp: 2204HCMI0131
Nhóm: 03
Hà Nội, 2022
2
TIEU LUAN MOI download :
BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ THẢO LUẬN
Phầ
n
I.
Mở
đầu
II.
Nội
dun
g
Nội dung
Người thực hiện
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phạm Thị Thu Hà
2. Lời cảm ơn và giới thiệu đề tài
Nguyễn Thị Hải
Phạm Thị Thu Hà
Nguyễn Thị Hải
1. Đặc
điểm
đường
mòn
HCM
trên biển
Nguyễn Ngọc Hạnh
Trần Thị Thu Hạnh
Nguyễn Thị Hiên
Nguyễn Thị Thanh
Hiền
Lại Thị Thanh Hảo
2. Vai trò
của
đường
mòn
HCM
trên biển
trong
kháng
chiến
chống
Mỹ cứu
nước của
Việt
Nam
(10541975)
Ngơ Hà Hiếu Nguyễn
Thị Thu Hồi
1.3 Các số liệu liên quan
2.1. Đường Hồ Chí Minh chi viện chiến lược,
góp phần quan trọng vào sự nghiệp giải phóng
miền Nam, thống nhất đất nước
2.2 Đường Hồ Chí Minh trên biển đã trở thành
nơi hội tụ sức mạnh của chiến tranh nhân dân
Việt Nam trong cuộc đấu trí, đấu lực với các âm
mưu thủ đoạn của kẻ thù
2.3 Vai trò to lớn của Đường Hồ Chí Minh trên
biển trong việc chi viện sức người, sức của,
những loại “hàng hóa đặc biệt” cho chiến trường
miền Nam
Lại Thị Thanh Hảo
Nguyễn Thị Thanh
Hiền
Nguyễn Thị Kim
Hồng
Nguyễn Thị Thu Huế
3
TIEU LUAN MOI download :
3. Giá trị
lịch sử
và giá trị
thực tại
của
Đường
mịn Hồ
Chí
Minh
trên biển
III.
Kết
luận
Nhiệm vụ bổ sung:
1. Làm word: Lại Thị Thanh Hảo
2. Làm powerpoint: Phạm Thu Hạ
3. Thuyết trình: Đỗ Minh Hồng
4. Tìm câu hỏi phản biện: Trần Thị Thu Hạnh, Nguyễn Mạnh Hùng, và Nguyễn Thị Huệ,
Nguyễn Thị Thu Huế
5. Trả lời câu hỏi phản biện: Ngô Hà Hiếu, Nguyễn Thị Hiên, Nguyễn Thị Thu Hồi
6. Thư kí nhóm: Nguyễn Ngọc Hạnh phụ trách ghi biên bản họp nhóm và để ý đóng góp
của từng thành viên để đánh giá điểm thảo luận.
MỤC LỤ
4
TIEU LUAN MOI download :
BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ THẢO LUẬN............................................................. 3
I. Mở Đầu............................................................................................................................................... 6
1. Lý do chọn đề tài....................................................................................................................... 6
2. Lời cảm ơn.................................................................................................................................... 7
II. Nội Dung.......................................................................................................................................... 7
1. Đặc điểm đường mòn HCM trên biển............................................................................ 7
1.1 Sơ lược về đường mịn Hồ Chí Minh trên biển.......................................................... 7
1.2 Sự phát triển Đường Hồ Chí Minh trên biển............................................................ 14
1.3 Các số liệu khác liên quan............................................................................................... 22
2. Vai trị của đường mịn Hồ Chí Minh trên biển trong kháng chiến chống
Mỹ cứu nước của Việt Nam (1954-1975).......................................................................... 24
2.1. Đường mịn Hồ Chí Minh chi viện chiến lược, góp phần quan trọng vào sự
nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước....................................................... 24
2.2. Đường Hồ Chí Minh trên biển đã trở thành nơi hội tụ sức mạnh của chiến
tranh nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu trí, đấu lực với các âm mưu thủ đoạn
của kẻ thù...................................................................................................................................... 28
2.3. Vai trị to lớn của Đường Hồ Chí Minh trên biển trong việc chi viện sức
người, sức của, những loại “hàng hóa đặc biệt” cho chiến trường miền Nam..31
3. Giá trị lịch sử và giá trị thực tiễn của Đường mịn Hồ Chí Minh trên biển
..............................................................................................................................34
3.1. Giá trị lịch sử....................................................................................................................... 34
3.2. Giá trị thực tiễn................................................................................................................... 35
III. Kết Luận...................................................................................................................................... 37
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................................... 40
5
TIEU LUAN MOI download :
I. Mở Đầu
1. Lý do chọn đề tài
Theo dòng chảy của lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, không thiếu các cuộc
kháng chiến hào hùng, các cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập, bảo vệ quyền tự tơn của dân tộc.
Trong q trình học tập mơn Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, nhóm 03 đã có cơ hội được
tìm hiểu và nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta và nhóm đặc biệt
ấn tượng với một quyết định chiến lược góp phần to lớn làm nên Đại thắng mùa Xuân năm
1975.
Trong lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975), đường Hồ Chí Minh
được biết đến như một “huyền thoại có thật”, một biểu tượng sáng ngời về tài thao lược và
nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh nhân dân của dân tộc ta, góp phần vận chuyển sức mạnh
tiềm tăng và to lớn từ hậu phương ra tiền tuyến từ các nước Xã hội chủ nghĩa vào Việt
Nam. Trên tuyến vận tải chiến lược huyền thoại này, nhiều trận chiến ác liệt đã diễn ra,
nhưng các cán bộ, chiến sĩ đã kiên cường, dũng cảm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được
giao. Thành công của những chuyên vận chuyển, tiếp tế từ hậu phương miền Bắc cho
chiến trường miền Nam bằng đường mịn Hồ Chí Minh trên biển đã góp phần đẩy mạnh
chiến tranh nhân dân, góp phần làm nên những chiến thắng vang dội của quân và dân ta,
giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam quang vinh, Tổ quốc và nhân dân ta đời đời
ghi nhớ công lao của những người đã làm nên kỳ tích đường Hồ Chí Minh trên biển”.
Những đóng góp hiệu quả của tuyến chi viện chiến lược- đường Hồ Chí Minh trên biển
(1959- 1975) đã góp phần xứng đáng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước vĩ đại của dân tộc, vượt lên những tính tốn thơng thường về chiến tranh của chính
quyền Mỹ- Ngụy, để lại nhiều bài học kinh nghiệm q giá cho hơm nay và mai sau. Với
lịng biết ơn và sự tri ân sâu sắc đối với những hy sinh, đóng góp của các thế hệ cha anh,
nhóm 03 xin chọn “Vai trị của đường mịn Hồ Chí Minh trên biển trong sự nghiệp kháng
chiến chống Mỹ cứu nước của Việt Nam (1954-1975)” làm đề tài thảo luận.
Hy vọng qua bài thuyết trình của nhóm em khơng chỉ chúng em mà nhiều người khác
không những hiểu biết sâu sắc hơn về những hoạt động, kết quả đóng góp của tuyến chi
6
TIEU LUAN MOI download :
viện chiến lược - đường Hồ Chí Minh trên biển trong nhiệm vụ chi viện cho chiến trường
mà qua đó cũng thấy được sự sáng tạo, thành công của Đảng ta trong tổ chức lãnh đạo, chỉ
huy tuyến chi viện chiến lược này.
2. Lời cảm ơn
Đầu tiên chúng em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Trường Đại học Thương Mại đã đưa
môn học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam vào chương trình giảng dạy trong nhà trường
cho sinh viên. Đặc biệt, chúng em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến giảng viên bộ mơn - cơ
Hồng Thị Thuý đã rất tâm huyết dạy dỗ và truyền đạt những kiến thức giá trị của bộ môn
cho chúng em trong suốt thời gian học tập vừa qua. Cũng trong thời gian tham gia lớp học
của cô, chúng em đã có thêm cho mình nhiều kiến thức bổ ích, được làm giàu thêm kiến
thức lịch sử dân tộc và tăng niềm tự hào dân tộc. Đây chắc chắn sẽ là hành trang quý báu
mà chúng em sẽ luôn mang theo bên mình để vững bước mai sau.
Bộ mơn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam thật sự là môn thú vị và có tính thực tế cao. Tuy
nhiên, do vốn kiến thức và khả năng tiếp cận thực tế còn hạn chế nên mặc dù đã cố gắng
hết sức nhưng bài thảo luận của chúng em vẫn mắc phải một số sai sót, kính mong cơ xem
xét và góp ý bài thảo luận của chúng em được hoàn thiện hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
II. Nội Dung
1. Đặc điểm đường mòn HCM trên biển
1.1 Sơ lược về đường mịn Hồ Chí Minh trên biển
1.1.1 Hồn cảnh ra đời
Sau chín năm trường kỳ kháng chiến, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh, quân và dân ta đã giành những thắng lợi lớn lao trong cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược, buộc thực dân Pháp phải ký kết hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương.
Song, hiệp định này cịn có những hạn chế nhất định, vì vậy mục tiêu thống nhất, độc lập
chưa được thực hiện trên phạm vi cả nước. Đất nước “tạm” bị chia cắt làm hai miền Nam,
Bắc. Trong khi miền Bắc bắt tay vào công cuộc khôi phục kinh tế, hàn gắn
7
TIEU LUAN MOI download :
vết thương chiến tranh thì đế quốc Mỹ đã hất cẳng Pháp, nhảy vào miền Nam, dựng nên
chính quyền tay sai Ngơ Đình Diệm.
Đối với cách mạng miền Nam, Đảng ta chủ trương phát triển hình thức đấu tranh chính trị
đòi địch thi hành nghiêm chỉnh hiệp định Giơ-ne-vơ, đấu tranh địi độc lập bằng con
đường hịa bình. Nhưng Mỹ- Diệm đã có một loạt những hành động nhằm phá tan khát
vọng thống nhất nước nhà của nhân dân ta. Vào thời điểm đó, Nghị quyết Trung ương 15
ra đời đã đáp ứng kịp thời nhu cầu bức thiết của nhân dân. Ý Đảng, lòng dân hợp nhau ở
điểm mẫu chất dùng sức mạnh của quần chúng nhân dân nổi dậy, với lực lượng chính trị là
chủ yếu, có sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang, giành chính quyền về tay nhân dân. Tư duy
chiến lược của Đảng là lúc đó cũng đã dự kiến với thực lực của kẻ thù và tình thế chung,
cần sẵn sàng đối phó với một cuộc đấu tranh vũ trang lâu dài.
Sau khi có nghị quyết 15 của Ban chấp hành Trung ương Đảng, phong trào đấu tranh của
nhân dân ta ở miền Nam có bước phát triển mới. Đấu tranh vũ trang ngày càng lan rộng,
yêu cầu về cán bộ và vũ khí ngày càng lớn. Đường dây Thống Nhất- trên cơ sở đường giao
liên bí mật xuyên Trường Sơn trong kháng chiến chống thực dân Pháp không thể đáp ứng
được yêu cầu đó, nhất là đối với các tỉnh Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Để kịp thời đáp ứng
yêu cầu chi viện cho chiến trường miền Nam, giữa năm 1959, Bộ chính ra chỉ thị: “Tổ
chức một đồn giao thơng quân sự đặc biệt mở đường đưa cán bộ, tiếp tế vũ khí và những
hàng cần thiết khác vào miền Nam. Đây là một việc lớn, có tính chất chiến lược, quan hệ
trực tiếp đến sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà”. Sau một thời gian
nghiên cứu và chuẩn bị, ngày 19/5/1959, thường trực Tổng quân ủy Bộ Quốc phịng triệu
tập Ban cán sự, chính thức giao cho đồn 559 tổ chức mở đường giao thơng qn sự vào
Nam, dọc theo dãy Trường Sơn, vận chuyển hàng quân sự cho miền Nam, đưa, đón cán bộ
từ Bắc vào Nam và ngược lại mà trước mắt là cho liên khu V. Trong lúc đó, miền Bắc nước
ta dáng tập trung xây dựng Chủ nghĩa xã hội, trở thành hậu phương và căn cứ địa cách
mạng của cả nước. Cả nước có mục tiêu chung là giải phóng trong hàng ngũ Việt Minh ở
Nam Bộ thực hiện lần đầu tiên.
8
TIEU LUAN MOI download :
1.1.2 Thành lập
Tuy được tăng cường lực lượng, phương tiện nhưng hiệu quả vận chuyển của tuyến đường
bộ vẫn rất thấp, không thể đáp ứng nhu cầu chi viện cho chiến trường miền Nam ngày
càng trở nên cấp thiết. Vì cách vận chuyển giai đoạn này chủ yếu là gùi, thồ trong điều
kiện rất gian khổ và phải hết sức bí mật. Bên cạnh đó Mỹ- Ngụy dường như đã phát hiện ra
việc ta đưa vũ khí vào Nam nên đã tăng cường càn quét chống phá. Tháng 7/ 1959, tiểu
đoàn 603- đơn vị vận tải đường biển được thành lập do đồng chí Trần Văn Trà-Phó Tổng
tham mưu trưởng trực tiếp phụ trách. Tiểu đồn gồm 107 người, đóng quân ở thôn Thanh
Khê- xã Thạch Trạch- huyện Bố Trạch- tỉnh Quảng Bình- bên bờ sơng Gianh (cịn gọi là
“Tập đồn đánh cá sơng Gianh”). Được sự giúp đỡ của chính quyền địa phương, cơng an
nhân dân vũ trang, Tiểu đồn 603 nhanh chóng ổn định nơi ăn, ở và bắt tay vào đóng
thuyền và các thuyền này đều được cải dạng theo các thuyền đánh cá ở miền Nam. Theo
chủ trương của cấp trên, chuyến đi biển đầu tiên của tiểu đồn 603 sẽ chở 5 tấn vũ khí và
thuốc men bí mật vượt qua tuyến quân sự tiến vào vùng biển miền Nam, chi viện cho khu
V mà địa điểm tập kết là chân đèo Hải Vân. Ngày 27/1/1960 tiểu đồn 603 quyết định cho
6 thuyền có 6 người đã từng tham gia vận chuyển từ khu V vào khu VI trong kháng chiến
chống thực dân Pháp nhổ neo nhưng trong chuyến đi này đồn khơng đến được nơi tập kết
đã định.
Chuyến vượt biển đầu tiên chi viện cho chiến trường miền Nam không thành công, Tổng
quân ủy và Bộ quốc phịng chỉ thị cho tiểu đồn 603 tạm ngừng hoạt động, điều động cán
bộ, chiến sỹ sang Đoàn 301 để tập trung mở đường bộ chi viện cho chiến trường miền
Nam. Song khơng vì vậy mà việc nghiên cứu mở đường biển lại bị lãng quên. Chủ tịch Hồ
Chí Minh và Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương Đảng hết sức quan tâm tới khả năng
này bởi đây là loại hình vận chuyển có hiệu quả cao, có thể đi xa, đi nhanh với khối lượng
lớn. Do đó, một mặt Tổng Quân ủy tiếp tục chỉ đạo cho Bộ Tổng Tham mưu tiếp tục
nghiên cứu tình hình trên biển, tìm hiểu vùng kiểm sốt trên biển của địch cũng như khả
năng xây dựng và tổ chức lực lượng vận tải biển chi viện cho chiến trường Nam Bộ và
Khu 5. Mặt khác Bộ Chính trị chỉ thị cho Trung ương Cục miền Nam chỉ đạo các tỉnh
9
TIEU LUAN MOI download :
ven biển ở miền Trung và Nam Bộ chủ động chuẩn bị bến, bãi và tổ chức đưa thuyền vượt
biển ra miền Bắc, vừa thăm dị, nắm tình hình địch, nghiên cứu tuyến vận chuyển trên
biển, vừa nhận vũ khí để kịp thời cung cấp cho cách mạng miền Nam.
Từ giữa năm 1961 đến giữa năm 1962, lãnh đạo của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền
Nam Việt Nam ở các tỉnh Bến Tre, Cà Mau, Trà Vinh và Bà Rịa đã cử 5 thuyền gỗ từ miền
Nam ra miền Bắc nhận vũ khí. Vừa đi, vừa nắm bắt hoạt động của ngư dân làm ăn trên
biển cũng như tình hình tuần tra của địch trên biển; chuẩn bị bến bãi, kho tàng, hậu cứ để
đón tàu chi viện vũ khí từ Bắc vào.
Ngày 23 tháng 10 năm 1961, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương Việt Nam quyết định
mở tuyến đường biển Bắc Nam. Trung tướng Trần Văn Trà, Phó Tổng tham mưu trưởng đã
được Quân ủy Trung ương giao nhiệm vụ thành lập tuyến đường này. Ngày 23-10-1961,
Thứ trưởng Bộ Quốc phịng Hồng Văn Thái kỳ Quyết định số 97/QP thành lập Đoàn 759,
sau này trở thành sư đoàn 125 thuộc Hải quân nhân dân Việt Nam. Đồn 759 có trách
nhiệm chi viện vũ khí cho miền Nam bằng đường biển. Trung tá Đoàn Hồng Phước được
giao nhiệm vụ làm Đoàn trưởng. Đây là đơn vị đầu tiên đảm nhận nhiệm vụ vận tải vũ khí,
hàng hóa vào chiến trường miền Nam bằng các con tàu không số, mở ra sự phát triển mới
của Đường Hồ Chí Minh trên biển. Bộ chỉ huy các khu V, VI, VIII được lệnh thiết lập các
bến bãi bí mật để đón nhận vũ khí, đạn dược, phương tiện và các hàng hóa khác từ miền
Bắc chuyển vào bằng đường biển.
Sau khi nghiên cứu, phân tích, đánh giá kỹ tình hình các chuyến đi thăm dò hai chiều Nam
– Bắc, Bắc - Nam và chỉ đạo chặt chẽ công tác chuẩn bị tàu, thuyền, xây dựng phương án,
Quân ủy Trung ương, trực tiếp là đồng chí Bí thư đầu tiên của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Lê Duẩn đã lựa chọn Bông Văn Dĩa phụ trách chiếc tàu đầu tiên chở vũ khí vào miền
Nam. Đêm 12-10-1962, chiếc tàu “Phương Đơng I” gồm 10 thủy thủ dưới sự chỉ huy của
thuyền trưởng Lê Văn Một, chính trị viên Bơng Văn Dĩa chở hơn 30 tấn vũ khí rời bến Đồ
Sơn (Hải Phòng) đi về phương Nam. Đến sáng ngày 19-10-1962, tàu vào tới Chùm Gọng
(Vàm Lũng, Tân An) an toàn. Tàu “Phương Đơng 1” đã đi vào lịch sử, chính thức khai
thông tuyến vận tải quân sự đường biển - Tuyến vận tải chiến
10
TIEU LUAN MOI download :
lược - Đường mịn Hồ Chí Minh trên biển - bước phát triển mới của nghệ thuật chiến tranh
nhân dân Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh.
1.1.3. Đơn vị
Đồn 759: 23/10/1961, Quân ủy Trung ương Việt Nam quyết định thành lập Đoàn hải quân
759, sau này trở thành Lữ đoàn 125 của Hải quân nhân dân Việt Nam. Đây là đơn vị đầu
tiên giữ vai trị vận tải vũ khí, hàng hóa vào chiến trường miền Nam bằng các con tàu
không số, mở ra sự phát triển mới của Đường Hồ Chí Minh trên biển.
Đồn 962: Tại Nam Bộ, Bộ Chỉ huy quân khu IX của Quân giải phóng miền Nam Việt
Nam được giao nhiệm vụ thành lập Trung đoàn 962 chuyên trách nhiệm vụ chuẩn bị bến
bãi tại bờ biển các tỉnh Trà Vinh, Bến Tre, Cà Mau. Bộ chỉ huy các Khu V, VI, VIII cũng
được lệnh thiết lập các bến bãi bí mật để đón nhận vũ khí, đạn dược, phương tiện và các
hàng hóa khác từ miền Bắc Việt Nam chuyển vào bằng đường biển.
Đoàn 950.
Phương tiện được sử dụng:
Tàu, thuyền gỗ.
Tàu sắt.
Tàu hai đáy.
Các tuyến chính
Tuyến ven bờ.
Tuyến tiếp giáp lãnh hải.
Tuyến hàng hải quốc tế.
1.1.4. Căn cứ và bến bãi
K15 là bí danh được đặt tên cho bến tàu xuất phát có quy mơ lớn đầu tiên của các con tàu
không số vận chuyển người và vũ khí từ Bắc vào Nam bằng đường biển trong chiến tranh
Việt Nam. Nó cịn có tên khác là “Vạn Xét”. Bến này được mở lần đầu tiên tại các thôn
Vạn Hoa và Vạn Sơn (Đồ Sơn, Hải Phịng), do Trung đồn cơng binh 83 xây dựng. Đây là
một vịnh nhỏ ăn sâu vào đất liền ở bờ Đơng bán đảo Đồ Sơn, Hải Phịng. Cầu cảng
11
TIEU LUAN MOI download :
được xây hình chữ T. Tồn bộ cầu tàu được làm bằng bê tông cốt thép dạng khung chịu lực
kiểu dầm gác hai đầu. Ngày 15 tháng 5 năm 1964, cầu tàu K15 bắt đầu hoạt động. Tuy ra
đời sau tuyến vận tải quân sự bí mật trên biển đầu tiên từ Quảng Bình vào miền Nam và
các chuyến tàu từ miền Nam ra miền Bắc nhận vũ khí và trở lại miền Nam nhưng lịch sử
Hải quân nhân dân Việt Nam vẫn coi đây như “Cột km số 0” của các tuyến đường mịn Hồ
Chí Minh trên biển.
Cầu cảng K15 đánh dấu một bước chuyển biến lớn của Đường Hồ Chí Minh trên biển. Đó
là việc các tàu sắt được đưa vào sử dụng, dần thay thế cho các con tàu gỗ kém an tồn.
Trong q trình hoạt động, cảng K15 đã tổ chức xếp hàng và xuất phát cho 88 chuyến vận
tải quân sự trên biển, gồm 4.919 tấn vũ khí đạn dược và hàng nghìn tấn hàng hóa khác. Do
được ngụy trang rất kín đáo nên trong suốt cuộc Chiến tranh Việt Nam không quân và hải
quân Hoa Kỳ vẫn không phát hiện được cầu cảng K15. Sau nửa thế kỷ, đặc biệt từ năm
1975 đến nay khơng cịn được hoạt động, cơng trình đã hư hại nặng. Hiện nay, tại bãi biển
Vạn Sơn (Đồ Sơn, Hải Phịng) chỉ cịn lại di tích các cọc bê tơng của cầu tàu trên bến cảng
quân sự bí mật K15.
Trong q trình hoạt động của “Đường Hồ Chí Minh trên biển”; những địa điểm như Sa
Huỳnh, Quy Thiện, Ba Làng An, Hòn Hèo, Phước Thiện… là những bến bãi quan trọng
tiếp nhận vũ khí, đạn dược, hàng hóa do các chuyến tàu không số chuyên chở từ miền Bắc
gửi vào cho Quân giải phóng miền Nam, là bến đỗ dự bị của các chuyến tàu không số
trong trường hợp tàu bị hỏng, là nơi tránh trú khi gặp bão lớn hoặc bị hải quân Việt Nam
Cộng hòa vây ráp…
Sa Huỳnh: là một làng chài cổ đồng thời là một bãi biển ở miền Trung Trung Bộ nổi tiếng
với nghề đánh cá từ lâu đời. Trong quá trình hoạt động của đường mịn Hồ Chí Minh trên
biển, Sa Huỳnh là một trong những bến bãi tiếp nhận vũ khí, đạn dược, hàng hóa do các
chuyến tàu khơng số chun chở từ miền Bắc gửi vào cho Quân giải phóng miền Nam tại
chiến trường Khu V.
12
TIEU LUAN MOI download :
Quy Thiện: thuộc xã Phổ Hiệp, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi. Là một trong các bến đỗ
dự bị của các chuyến tàu không số trong trường hợp tàu bị hỏng, là nơi tránh trú khi gặp
bão lớn hoặc bị hải quân Việt Nam Cộng hoà vây ráp. Tháng 3/1968, tại đây đã diễn ra
cuộc hội ngộ không hẹn mà gặp giữa các cán bộ, nhân viên của Bệnh xá Đức Phổ nổi tiếng
do bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm lãnh đạo với các thủy thủ Tàu 43 khi bị không quân và hải quân
Việt Nam Cộng hòa bắn hỏng. Các thủy thủ phải đổ bộ lên bờ và được người dân trong
vùng bí mật đưa đến trạm xá này để cứu chữa.
Lộ Diêu: Bến này nằm trên địa bàn xã Hồng Diêu, huyện Hồi Nhơn, tỉnh Bình Định,
được chọn là bến trung chuyển vũ khí, đạn dược và hàng hố do các con tàu không số chờ
từ miền Bắc vào chiến trường khu V. Bến Lộ Diêu bắt đầu hoạt động từ ngày 1/1/1964 khi
đón con tàu đầu tiên chở hàng chục tấn vũ khí xuất phát từ Hịn Dấu, Hải Phòng đi vào.
Lộc An: Đây là bến xuất phát của một trong năm con thuyền gỗ đầu tiên mở tuyến đường
Hồ Chí Minh trên biển từ Nam ra Bắc và ngược lại. Trong quá trình hoạt động, bến này đã
đón 3 tàu khơng số cập bến, vận chuyển 109 tấn vũ khí cho Qn giải phóng miền Nam
Việt Nam tại Khu IX.
Cồn Tàu: là bến chính trong hệ thống bến bãi Trà Vinh, nằm ở gần cửa Cung Hầu, một
trong ba cửa chảy ra biển của sông Hậu, thuộc huyện Duyên Hải. Bến này bắt đầu hoạt
động từ tháng 6/1963 khi đón chuyến tàu sắt đầu tiên chở 44 tấn vũ khí từ Bắc vào Nam.
Khâu Lầu: biệt danh là “Ông Hai Ghiền”, là nơi xuất phát của con tàu đầu tiên của Việt
Minh ở vùng Tây Nam Bộ ra Bắc xin vũ khí để tổ chức kháng chiến chống Pháp năm
1946.
Rạch Giá: Cảng cá Rạch Giá là căn cứ nửa cơng khai, nửa bí mật của đồn tàu hai đáy do
Trung đoàn vận tải 950 thuộc Khu IX, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam phụ trách.
Bến này đi vào hoạt động từ nửa sau năm 1968. Gọi là nửa cơng khai vì bề ngồi đây là
một cảng cá, nửa bí mật vì đây là một bến tiếp nhận vũ khí vận chuyển bằng đường biển.
13
TIEU LUAN MOI download :
1.2 Sự phát triển Đường Hồ Chí Minh trên biển
1.2.1 Giai đoạn 1962 – 1965
Táo bạo - bí mật - bất ngờ vận chuyển chi viện chiến trường, góp phần đánh thắng chiến
lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ. Thực hiện chủ trương của của Bộ Chính trị
và Quân ủy Trung ương, sau khi rút kinh nghiệm các chuyến vận chuyển đường biển từ
Bắc vào Nam chưa thành cơng, Đồn 759 quyết định để thuyền “Bạc Liêu” đi chuyến trinh
sát, mở đường từ Bắc vào Nam. Đêm ngày 10/4/1962, thuyền rời cửa Nhật Lệ (Quảng
Bình) đi về hướng Nam; đến 10 giờ đêm ngày 18/4/1962 cập vào Vàm Lũng (Ngọc Hiển,
Cà Mau). Nghiên cứu, khảo sát bến xong, thuyền Bạc Liêu tiếp tục quay trở ra miền Bắc;
chuyến đi trinh sát, mở đường từ Bắc vào Nam đã thành công.
Trong tuần tháng 8/1962, Quân ủy Trung ương thông qua Nghị quyết mở đường vận
chuyển chiến lược trên biển. Bắt đầu từ đây, Đoàn 759 bước vào một giai đoạn vận chuyển
mới. Tháng 8- 1962, Đoàn 759 nhận bàn giao 4 tàu gỗ từ Xưởng đóng tàu I (Hải Phòng) và
tiếp nhận bổ sung cán bộ. Để bảo đảm bí mật cho tuyến đường vận tải đặc biệt, những
chiếc tàu của Đồn 759 phải cải hốn thành tàu đánh cá, khơng có số hiệu cố định, xen kẽ,
trà trộn vào những đoàn tàu đánh cá của ngư dân địa phương trên biển, tên gọi “Đồn tàu
khơng số” được ra đời.
Đêm 11- 10- 1962, chiếc tàu gỗ đầu tiên chở 30 tấn vũ khí đã rời bến Đồ Sơn (Hải Phịng)
lên đường đi Cà Mau do đồng chí Lê Văn Một làm thuyền trưởng, đồng chí Bơng Văn Dĩa
làm Chính trị viên cùng 11 thủy thủ. Ngày 16/10, tàu vào bến Vàm Lũng, 30 tấn vũ khí từ
hậu phương miền Bắc đã được chiến trường miền Nam tiếp nhận an toàn. Đường biển, nối
liền hậu phương lớn miền Bắc với tiền tuyến lớn miền Nam đã trở thành hiện thực, tạo tiền
đề cho những chuyến vận chuyển thành công tiếp theo của cán bộ, chiến sĩ Đoàn 759. Khi
tuyến đường vận tải biển được khai thơng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi điện biểu dương
khen ngợi, đồng thời nhắc nhở cán bộ, chiến sĩ Đồn 759 hãy nhanh chóng rút kinh
nghiệm, tiếp tục vận chuyển nhanh hơn nữa, nhiều hơn nữa vũ khí cho đồng bào miền
Nam giết giặc. Quân ủy Trung ương chủ trương nhanh chóng đầu tư, trang bị cho Đoàn
759 loại tàu vỏ sắt trọng tải từ 50 tấn đến 100 tấn. Cuối năm 1962, Bộ
14
TIEU LUAN MOI download :
Tổng Tư lệnh đề nghị Xưởng đóng tàu III (Hải Phịng) thuộc Bộ Giao thơng vận tải đảm
nhiệm việc đóng tàu vỏ sắt.
Ngày 17/3/1963, chiếc tàu vỏ sắt đầu tiên do đồng chí Đinh Đạt làm thuyền trưởng, đồng
chí Nguyễn Văn Tiến làm chính trị viên chở 44 tấn vũ khí lên đường đến bến Trà Vinh an
tồn. Nhờ tổ chức tốt, kỷ luật nghiêm, ý thức trách nhiệm cao, tinh thần vững vàng và trình
độ chun mơn giỏi, những chuyến đi của Đoàn đều hoàn thành tốt nhiệm vụ và giữ được
bí mật. Chỉ trong 1 năm, Đồn 759 đã thực hiện 29 chuyến hàng vào Nam Bộ, vận chuyển
1.430 tấn vũ khí cho chiến trường, đạt hệ số vận chuyển cao. Phát huy kết quả vận chuyển
bằng đường biển chi viện cho chiến trường Nam Bộ, Bộ Quốc phịng chỉ thị cho Khu 7 mở
bến đón tàu. Đồn 759 được lệnh chuẩn bị một tàu chở vũ khí đột phá mở đường mới vào
bến Bà Rịa. Đêm 26-9-1963, chiếc tàu gỗ mang số hiệu 41 do đồng chí Lê Văn Một làm
Thuyền trưởng, đồng chí Đặng Văn Thanh là Chính trị viên tàu cùng 11 thuỷ thủ, chở 18
tấn vũ khí xuất phát tại cảng Bính Động (Hải Phịng) đã mở bến vào Bà Rịa thành cơng,
chi viện vũ khí kịp thời cho Khu 7.
Tháng 8/1963, Quân ủy Trung ương quyết định giao Đoàn 759 trực thuộc Cục Hải quân.
Ngày 29/01/1964, Bộ Quốc phòng quyết định đổi phiên hiệu Đoàn 759 thành Đoàn 125
trực thuộc Bộ Tư lệnh Hải quân. Từ năm 1962 - 1964, Đoàn 125 đã huy động 17 tàu vỏ sắt,
3 tàu vỏ gỗ, tổ chức 79 chuyến vận chuyển hơn 4.000 tấn vũ khí trang bị và cán bộ trung,
cao cấp của Đảng và Quân đội vào miền Nam. Tàu của Đoàn đã cập bến Bạc Liêu (Cà
Mau) 43 lần, Bến Tre 17 lần, Trà Vinh 14 lần, Bà Rịa 2 lần, Phú Yên 2 lần, Bình Định 1
lần. Số vũ khí đã đến chiến trường Nam Bộ, cực Nam Trung Bộ và Khu 7 đúng lúc, trực
tiếp góp phần cùng các lực lượng vũ trang giành nhiều thắng lợi oanh liệt như chiến thắng
Ấp Bắc, Đầm Dơi, Cái Nước, Chà Là, Vạn Tường, Ba Gia, Bình Giã... làm thất bại về căn
bản chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ - Ngụy trên chiến trường miền Nam.
Cuối năm 1964, Bộ Tổng Tư lệnh quyết định giao nhiệm vụ cho Bộ Tư lệnh Hải quân
nghiên cứu mở rộng tuyến vận tải đường biển vào các bến thuộc địa bàn Khu 5. Ngày
21/9/1964, Tàu 401 được lệnh lên đường vào Khu 5 và cập bến Lộ Diêu sáng ngày
15
TIEU LUAN MOI download :
01/11/1964, tồn bộ vũ khí được cất giấu an tồn, do mắc cạn, Tàu 401 bị hỏng nặng và
được đốt cháy để xóa dấu vết. Trước tình hình trên, Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ thị:
Không sử dụng bến Lộ Diêu nữa mà tìm cách đưa hàng vào bến mới ở Phú Yên.
Chấp hành chỉ thị của Đại tướng, Bộ Tư lệnh Hải quân quyết định chọn bến Vũng Rô làm
điểm giao hàng cho chiến trường Phú Yên. Tàu 41 nhận lệnh chở vũ khí cập bến Vũng Rơ
cả 3 chuyến đều thắng lợi, an tồn. Có vũ khí từ miền Bắc chuyển vào, tháng 12-1964, Bộ
Tư lệnh Khu V đã mở các đợt tác chiến tiêu diệt quân chủ lực ngụy, hỗ trợ cho quần chúng
nổi dậy phá kìm, diệt ác, giải phóng một số vùng ở đồng bằng Quảng Nam, Quảng Ngãi,
Bình Định, Khánh Hịa, góp phần làm chuyển biến cục diện chung trên tồn Miền.
Cơng việc vận chuyển đang tiến triển thuận lợi thì xảy ra sự kiện Tàu 143 bị lộ ở Vũng Rô
ngày 16-2-1965. Con đường vận chuyển chiến lược trên biển khơng cịn giữ được bí mật
nữa. Biết rõ ý đồ của ta, địch tăng cường tuần tiễu, phong tỏa và kiểm soát chặt chẽ. Việc
vận chuyển vũ khí, hàng hóa qn sự chi viện cho chiến trường miền Nam bằng đường
biển gặp muôn vàn khó khăn, Quân ủy Trung ương quyết định tạm ngừng việc vận chuyển
bằng đường biển vào miền Nam để nghiên cứu tìm phương thức vận chuyển mới, phù hợp
với tình hình.
Nhận xét về cuộc chiến tranh: Đây là một thắng lợi lớn, góp phần củng cố niềm tin và
quyết tâm của quân dân miền Nam trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống
nhất đất nước.
1.2.2 Giai đoạn 1965 – 1972
Vượt qua thử thách ác liệt, khắc phục khó khăn, tiếp tục vận chuyển chi viện cho chiến
trường, góp phần đánh thắng chiến lược “Chiến tranh cục bộ” và “Việt Nam hóa chiến
tranh” của đế quốc Mỹ. Trong điều kiện yếu tố bí mật, bất ngờ của tuyến đường biển
khơng cịn và bị địch kiềm toả gắt gao, công tác chuẩn bị cho chuyến mở đường được tiến
hành khẩn trương, chặt chẽ, chu đáo. Đoàn 125 giao cho Tàu 42 gồm 16 thuỷ thủ do đồng
chí Nguyễn Văn Cứng làm Thuyền trưởng và đồng chí Nguyễn Ngọc Ẩn làm Chính
16
TIEU LUAN MOI download :
trị viên tàu. Đêm 15/10/1965, Tàu 42 chở 60 tấn vũ khí nhổ neo, xuất bến; đêm 24/10, Tàu
cập bến Rạch Kiến Vàng (Cà Mau) an toàn. Tiếp theo các Tàu 69 và Tàu 68 lần lượt lên
đường thực hiện thắng lợi nhiệm vụ được giao.
Trong Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, từ ngày 23 đến ngày
27/02/1968, Bộ Tư lệnh Hải quân sử dụng 4 tàu: 165, 56, 54 và 235 lên đường làm nhiệm
vụ chi viện cho chiến trường và làm phân tán sự đối phó của địch.
Kết thúc giai đoạn vận chuyển cực kỳ ác liệt, từ tháng 10/1965 đến tháng 3/1968, Đoàn
125 đã tổ chức 37 chuyến vận chuyển, trong đó có 17 chuyến thành cơng, chở 310 tấn vũ
khí cho chiến trường.
Trước thất bại trong cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc và tổn thất nặng nề trên chiến
trường miền Nam, ngày 31/3/1968, Mỹ tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc. Theo chỉ thị
của Tư lệnh Quân chủng Hải quân, Đoàn 125 tham gia “Chiến dịch Vận chuyển VT5” (vận
chuyển hàng hóa, vũ khí từ Hải Phịng vào Sơng Gianh - Quảng Bình) và từ đây sẽ được
các lực lượng vận chuyển vào chiến trường miền Nam bằng đường bộ. Với phương châm
chỉ đạo: “Chuẩn bị chu đáo, tranh thủ thời cơ, làm nhanh, gọn, liên tục, an toàn, đi gần bờ,
dựa vào dân”, từ ngày 03/11/1968 đến ngày 29/01/1969, vượt qua hàng rào phong tỏa dày
đặc thủy lôi và bom từ trường của Mỹ, Đoàn 125 đã huy động 364 lượt tàu, vận chuyển
21.737 tấn hàng, đạt 217,37% kế hoạch.
Tháng 02/1969, Đoàn 125 tiếp tục “Chiến dịch Vận chuyển VT5”, với 187 chuyến tàu, vận
chuyển 10.889 tấn hàng hóa, vượt chỉ tiêu 1.000 tấn, góp phần chi viện cho chiến trường,
đặc biệt là chiến trường Thừa Thiên - Huế và Mặt trận Khu 5. Tết Nguyên đán năm 1969,
cán bộ, chiến sĩ Đoàn 125 vinh dự được Chủ tịch nước Tơn Đức Thắng gửi tặng lẵng hoa
và đón Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến thăm, chúc tết đơn vị.
Tháng 7/1969, sau khi rút kinh nghiệm từ những chuyến đi thành cơng và khơng thành
cơng, Đồn 125 sử dụng Tàu 42 cải trang thành tàu nghiên cứu biển, đi trinh sát để tìm
phương thức vận chuyển mới. Từ kết quả của chuyến đi trinh sát, Quân ủy Trung ương và
Bộ Quốc phịng nhận định tình hình và quyết định chuẩn bị đợt vận chuyển lớn vào chiến
17
TIEU LUAN MOI download :
trường Khu 5, 6, 8 và Khu 9. Năm 1970, Đoàn 125 đã tổ chức 15 chuyến đi, song chỉ có 5
chuyến vào được bến, 9 chuyến gặp địch tuần tra, kiểm sốt gắt gao, để giữ bí mật của con
đường chiến lược, đành phải quay về, một chuyến buộc phải phá tàu.
Ngày 27/7/1971, Quân khu 9 thành lập đoàn vận tải S950, đến năm 1972 đổi tên là Đoàn
371. Từ năm 1971 đến năm 1972, Đoàn đã tổ chức 37 chuyến đi, vận chuyển được 620 tấn
vũ khí vào chiến trường Khu 9 an toàn.
Từ tháng 10/1971 đến tháng 4/1972, Đoàn 125 tổ chức liên tục 20 chuyến, nhưng chỉ có
một chuyến tàu tới đích. Kết quả tuy hạn chế, nhưng đã góp phần thúc đẩy sự hồn thiện
của “phương thức vận tải công khai” trong giai đoạn sau.
Giai đoạn 1965 - 1972, cán bộ, chiến sĩ Đoàn 125 phải đối mặt với những thử thách gay
go, ác liệt. Trong đội ngũ trung kiên của Đoàn, xuất hiện nhiều tấm gương hy sinh anh
dũng, nhiều con tàu ra đi khơng trở lại, nhiều đồng chí, đồng đội đã vĩnh viễn yên nghỉ nơi
biển cả mênh mông. Con đường vận chuyển trên biển trở thành một kỳ tích, huyền thoại,
góp phần cùng quân và dân miền Nam đánh thắng chiến lược “Chiến tranh cục bộ” và
“Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ.
1.2.3 Giai đoạn 1973 – 1975
Tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Bị thất bại
nặng nề trong chiến dịch đánh phá bằng không quân ra miền Bắc, cùng với thắng lợi của
quân dân ta trên chiến trường miền Nam, ngày 27/1/1973, buộc đế quốc Mỹ phải ký Hiệp
định Pari, chấm dứt chiến tranh, rút hết quân đội về nước, lập lại hịa bình ở Việt Nam.
Nhưng với âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta, chúng tìm mọi cách tiếp sức cho ngụy
quyền Sài Gòn xây dựng lực lượng, mở rộng chiến tranh, lấn chiếm vùng giải phóng, đánh
phá các cơ sở cách mạng của ta, duy trì chính sách cai trị, độc tài phát xít. Nhiệm vụ của
toàn quân lúc này là ra sức củng cố tổ chức, nâng cao chất lượng chiến đấu, đập tan âm
mưu gây lại chiến tranh của địch.
18
TIEU LUAN MOI download :
Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới, Đoàn 125 tiếp tục củng cố tổ chức, xây dựng lực
lượng, thành lập thêm tiểu đoàn, tiếp nhận tàu mới, tăng cường huấn luyện nâng cao trình
độ mọi mặt và rèn luyện ý chí chiến đấu cho cán bộ, chiến sĩ, sẵn sàng lên đường khi có
lệnh.
Đầu năm 1973, Đồn 125 nhận nhiệm vụ vận chuyển 3.000 tấn vũ khí vào Khu IV trên
tuyến đường từ Hải Phịng đến sơng Gianh (Quảng Bình). Với tinh thần trách nhiệm cao,
vừa làm vừa rút kinh nghiệm, trong 63 ngày đêm liên tục, Đoàn đã vận chuyển trên 4.000
tấn hàng vào các binh trạm của Cục Vận tải quân sự thuộc Tổng cục Hậu cần ở Nam Khu
IV.
Quý II năm 1973, Đoàn nhận nhiệm vụ vận chuyển 12.000 tấn hàng vào Quảng Bình cho
Binh trạm 30 và 19. Đoàn đã tổ chức 161 chuyến tàu, vận chuyển 11.365 tấn hàng vào
Nam Khu IV an toàn.
Đầu tháng 11 năm 1973, Đoàn phối hợp với một số đơn vị, vận chuyển 26 xe cơ giới, 16
máy kéo cho Khu V và căn cứ K5 qua cảng Đông Hà, Quảng Trị.
Tiếp đó, năm 1974, Đồn vận chuyển 15.000 tấn hàng từ Hải Phịng vào Nhật Lệ, Quảng
Bình và từ Hải Phòng vào Cửa Việt, Quảng Trị.
Trong 2 năm 1973-1974, Đoàn đã huy động 380 lượt tàu ra khơi, chở trên 43 nghìn tấn
hàng, đưa 2.042 lượt cán bộ, chiến sĩ từ hậu phương ra tiền tuyến và từ đất liền ra các đảo,
vượt chặng đường 158.292 hải lý an tồn.
Cuối năm 1974, tình hình chiến trường miền Nam chuyển biến mau lẹ có lợi cho ta, Bộ
Tổng Tham mưu chỉ thị cho Đồn 125 vận chuyển vũ khí và bộ đội vào sâu hơn nữa, sát
hơn nữa nơi ta mở chiến dịch càng tốt.
Thực hiện chủ trương của Bộ Tổng tham mưu, Đoàn 125 huy động toàn bộ lực lượng thực
hiện đợt vận chuyển binh lực đột kích chủ yếu vào chiến trường (mật danh T5) và vận
chuyển phục vụ Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử với tinh thần “Thần tốc, táo bạo chở
người và vũ khí vào mặt trận”. Trong tháng 3 và tháng 4 năm 1975, Đoàn đã vận chuyển
19
TIEU LUAN MOI download :
17.473 cán bộ, chiến sĩ các đơn vị chủ lực vào chiến trường, 40 xe tăng và 7.786 tấn vũ
khí, nhiên liệu…, góp phần giải phóng hồn tồn miền Nam, thống nhất đất nước.
Ngày 4/4/1975, Bộ Tổng Tham mưu chỉ thị cho Quân chủng Hải quân khẩn trương chuẩn
bị lực lượng để giải phóng các đảo thuộc quần đảo Trường Sa do Qn đội Sài Gịn đóng
giữ. Quyết tâm của Đảng uỷ, Bộ Tư lệnh Hải quân là bám sát tình hình, tranh thủ thời cơ
có lợi giải phóng đảo; kiên quyết khơng để lực lượng khác lợi dụng tình hình đánh chiếm
đảo trước ta.
Đồn 125 nhanh chóng thành lập một biên đội gồm 3 tàu: Tàu 673, 674, 675 do đồng chí
Dương Tấn Kịch chỉ huy, hành quân từ Hải Phịng vào Đà Nẵng chở Đồn 126 Đặc cơng
Hải quân và một bộ phận của Tiểu đoàn 471 Đặc cơng Qn khu V ra giải phóng đảo.
Từ ngày 14 đến 29/4/1975, các lực lượng của ta đã nhanh chóng giải phóng và tiếp quản
các đảo Song Tử Tây, Sơn Ca, Nam Yết, Sinh Tồn và Trường Sa. Tiếp đó, Đồn 125 tham
gia giải phóng một số đảo ở miền Trung và vùng biển Tây Nam.
Như vậy, trong 80 ngày đêm hoạt động khẩn trương, liên tục, tham gia chiến đấu, phục vụ
chiến đấu, Đoàn đã tổ chức 143 lần chiếc tàu ra khơi, hành trình 65.721 hải lý, vận chuyển
18.741 cán bộ, chiến sĩ, 8.721 tấn vũ khí, 50 xe tăng và các loại súng, pháo; đánh chìm 1
tàu PCF; đánh hỏng nặng 3 tàu khác, gọi hàng 1 tàu; bắt 42 tù binh. Đồn đã trực tiếp góp
phần đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc đến thắng lợi hồn tồn.
Với những thành tích đặc biệt xuất sắc trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu, ngày
3/6/1976, Đoàn 125 đã được Đảng, Nhà nước tuyên dương danh hiệu Đơn vị Anh hùng
LLVTND lần thứ hai.
Đường Hồ Chí Minh trên biển đã hồn thành trọn vẹn và đặc biệt xuất sắc nhiệm vụ chi
viện chiến lược cho chiến trường miền Nam. Từ 1961 đến 1975, cán bộ, chiến sĩ trên tuyến
vận tải biển đã vượt qua mn vàn gian khổ, khắc phục khó khăn, mưu trí, dũng cảm, táo
bạo; vượt qua sóng to, gió lớn; vượt qua sự phong tỏa ác liệt, vây ráp gắt gao của kẻ thù.
Hàng trăm lượt tàu đã ra khơi, hàng ngàn tấn vũ khí, hàng hố, thuốc chữa
20
TIEU LUAN MOI download :
bệnh và hàng chục ngàn lượt người đã từ hậu phương lớn vào tiền tuyến lớn, trực tiếp góp
phần cùng toàn dân đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn.
1.2.4 Giai đoạn 1975 – nay
Tiếp tục tham gia vận chuyển và chiến đấu, góp phần xây dựng, bảo vệ vững chắc chủ
quyền biển, đảo, thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc và hoàn thành nhiệm vụ quốc tế vẻ
vang. Đất nước thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ chủ yếu lúc này của
Đoàn 125 là vận tải cho các tuyến đảo xa vừa mới giải phóng và phục vụ đi lại của cán bộ,
Nhân dân 2 miền Nam - Bắc, trong đó nhiệm vụ vận chuyển cho Trường Sa được đặt lên
hàng đầu. Từ tháng 5/1975 đến hết năm 1975, Đoàn 125 đã huy động 121 lần chiếc tàu,
hành trình 64.856 hải lý, chở 40.809 tấn hàng và 14.762 lượt người an tồn.
Ngày 26/10/1975, Bộ Quốc phịng ra Quyết định số 142-QĐ/QP “Về tổ chức lực lượng Lữ
đoàn 172”, trong đó Đồn 125 đổi tên thành Hải đồn 125 và sáp nhập vào Lữ đoàn
172. Năm 1976, lần đầu tiên chiến dịch vận chuyển cho quần đảo Trường Sa được thực
hiện. Hải đoàn 125 đã huy động 11 lượt tàu, đi 22 chuyến, chở 2.300 tấn hàng ra đảo và
làm nhiệm vụ cắm mốc chủ quyền, chở các tù chính trị từ đảo Phú Quốc về đất liền an
tồn.
Từ năm 1976 - 1981, Hải đoàn 125 đã huy động 127 lần chuyến tàu, chở 23.214 tấn hàng
và 6.696 lượt cán bộ, chiến sĩ từ đất liền ra đảo, góp phần tăng cường sức mạnh phòng thủ
đảo, ổn định một bước nơi ăn ở, sinh hoạt của bộ đội trên các đảo thuộc quần đảo Trường
Sa.
Trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam, lực lượng vận tải quân sự Quân chủng
Hải quân đã tổ chức 139 lần chuyến tàu, chở 19.790 tấn hàng hóa quân sự và 25.151 lượt
cán bộ, chiến sĩ ra chiến trường và đổ bộ chiến đấu, làm nhiệm vụ quốc tế trong chiến dịch
Tà Lơn, cùng các lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia thực hiện cuộc tiến công và
nổi dậy, đánh đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt, giúp nhân dân Campuchia hồi sinh, tái thiết
đất nước.
21
TIEU LUAN MOI download :
Cuối năm 1987 đầu năm 1988, tình hình trên vùng biển quần đảo Trường Sa trở nên căng
thẳng và phức tạp; thực hiện quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị và nhiệm vụ của Bộ
Quốc phòng giao, với tinh thần “Tất cả vì Trường Sa thân yêu”, cán bộ, chiến sĩ trên các
tàu vận tải đã chạy đua với thời gian, vượt qua mọi hiểm nguy, sóng gió; khảo sát, thăm
dò, vận tải và chốt giữ đảo, cùng các lực lượng trong Quân chủng tăng cường sức mạnh
phòng thủ trên các đảo chìm và đảo nổi.
Năm 1988, các lực lượng vận tải quân sự trong Quân chủng vận chuyển chiến đấu với khối
lượng tăng gấp 7 lần so với năm 1987 và hoàn thành kế hoạch vận chuyển 46.300 tấn hàng
phục vụ cho chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu, 129.453 tấn hàng phục vụ cho sinh hoạt
thường xuyên, đạt khối lượng vận chuyển 44.438.686 tấn (Lữ đoàn 125 đã huy động 318
lần chuyến tàu, vận chuyển 22.564 tấn).
Những năm gần đây, các lực lượng vận tải quân sự trong Quân chủng được bổ sung hàng
chục tàu vận tải đóng mới có trang bị đồng bộ, có trọng tải lớn để thay thế số tàu nhỏ,
trọng tải ít. Từ năm 2000 đến nay, lực lượng vận tải quân sự Hải quân đã vượt qua sóng
gió và mọi khó khăn thử thách, vận chuyển hàng triệu tấn hàng, trung bình hằng năm hồn
thành từ 100% đến 105% kế hoạch.
Có thể thấy, cùng với thực hiện nhiệm vụ vận tải biển, các tàu vận tải Hải quân đã tham gia
nhiều chuyến trực bảo vệ chủ quyền trên biển, kịp thời phát hiện sớm những vấn đề nảy
sinh, chủ động đấu tranh, ngăn chặn tàu thuyền nước ngoài vi phạm chủ quyền vùng biển
của nước ta, thực hiện đúng đối sách, kiên quyết trong bảo vệ chủ quyền, giữ vững mơi
trường hịa bình; thực hiện tốt nhiệm vụ phịng, chống bão lụt, cứu hộ, cứu nạn trên biển,
góp phần giữ vững và phát huy truyền thống tốt đẹp, phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” trong
lòng Nhân dân.
1.3 Các số liệu khác liên quan
Ngày 11-10-1962, một tàu vỏ gỗ mang mật danh “Phương Đơng 1”, do đồng chí Lê Văn
Một và đồng chí Bơng Văn Dĩa chỉ huy, chở 30 tấn vũ khí rời bến Đồ Sơn (Hải Phịng) rẽ
sóng ra khơi nhằm hướng Cà Mau tiến tới. Đến ngày 19-10-1962, tàu cập bến Vàm Lũng
22
TIEU LUAN MOI download :
an tồn. Nhân dân đón nhận chuyến tàu chi viện vũ khí đầu tiên cho cách mạng miền Nam
với lịng phấn khởi vơ hạn. Họ nhanh chóng khn vác vũ khí cất giấu vào những kho bí
mật an tồn. Tiếp theo tàu Phương Đông 1 là tàu Phương Đông 2, 3, 4 cũng lần lượt lên
đường vận chuyển vũ khí vào Nam Bộ.
Trong vòng hai tháng, các tàu này đã chuyển vào Nam 111 tấn vũ khí, cập các bến đã
chuẩn bị của tỉnh Cà Mau. Vượt qua những thử thách ác liệt, gian nan, đấu trí và đấu lực
căng thẳng với địch và sóng gió biển khơi, các chiến sĩ Hải quân đã hoàn thành nhiệm vụ
xuất sắc thời kỳ đầu tiếp tế vũ khí cho cách mạng miền Nam, góp phần rất quan trọng tăng
cường nhanh chóng sức mạnh chiến đấu cho lực lượng vũ trang giải phóng... Cơng việc
vận chuyển vũ khí vào chiến trường Nam Bộ tạm ổn, tuy số lượng chứa nhiều, nhưng đã
góp phần quan trọng giúp quân và dân các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long phát triển lực
lượng vũ trang, tạo được thế mới, lực mới, đánh thắng địch nhiều trận, củng cố và mở rộng
vùng giải phóng.
Tính từ tháng 10-1962 đến tháng 2-1965, ta đã sử dụng 3 tàu vỏ gỗ, 17 tàu vỏ sắt tổ chức
đưa 88 chuyến tàu tới đích (khơng tính các chuyến trinh sát, mở đường) vận chuyển được
4.919,636 tấn vũ khí và một số mặt hàng thiết yếu vào chiến trường 2 (Cà Mau, Bạc Liêu
45 chuyến, Bến Tre 23 chuyến, Trà Vinh 12 chuyến, Bà Rịa 3 chuyến, Vũng Rơ 4 chuyến,
Bình Định 1 chuyến), đạt 93% kế hoạch, vượt chỉ tiêu Trung ương giao (Bộ Chính trị,
Qn ủy Trung ương, Bộ Quốc phịng giao chỉ tiêu đưa được 50% số hàng tới đích đã là
thành công). Riêng hai năm 1962 và 1964, đạt tỷ lệ cao nhất: 100% (57/57) số chuyến
thành công.
Thành công của những chuyến vũ khí đã trực tiếp góp phần đẩy mạnh chiến tranh nhân
dân, xây dựng và phát triển khối chủ lực ở chiến trường Nam Bộ, cực Nam Trung Bộ; góp
phần làm nên những chiến thắng oanh liệt của quân dân ta ở Ấp Bắc, Đầm Dơi, Cái Nước,
Chà Là, Vạn Tường, Ba Gia, Bình Giã, Đồng Xồi... Đặc biệt, điều đó có ý nghĩa hơn khi
cũng trong thời gian này, tuyến chi viện chiến lược trên bộ (Đoàn 559) tuy đã được tổ chức
ngang cấp sư đoàn, được biên chế 2 trung đoàn gùi thồ, 1 đại đội ôtô vận tải, một số đơn vị
công binh, giao liên... đã có những nỗ lực rất lớn trong nhiệm vụ mở
23
TIEU LUAN MOI download :
đường và đã vươn vào tới chiến trường Bắc Tây Nguyên. Nhưng do đường mới mở, bị
mưa lớn, lại bị địch ngăn chặn quyết liệt, nên chỉ chuyển tới các chiến trường được 1.410
tấn vật chất các loại (chủ yếu cho Trị Thiên và Nam Lào), đạt 25% kế hoạch trên giao 3.
Từ tháng 2-1965 đến tháng 1-1973 là giai đoạn khó khăn nhất nhưng hết sức hào hùng của
tuyến chi viện chiến lược trên biển. Sau sự kiện xảy ra với tàu C143 ở Vũng Rơ (Phú n),
bí mật của tuyến chi viện chiến lược trên biển của ta khơng cịn nữa. Cơng việc tiếp tế cho
miền Nam bằng đường biển vẫn phải tiếp tục, nhưng ta chuyển hướng vận chuyển từ
phương thức trực tiếp sang phương thức gián tiếp. Bằng phương pháp vận chuyển này,
trong một năm (từ 1-11-1968 đến 31-10-1969), lực lượng vận tải biển đã đưa vào cảng
sơng Gianh 21.737 tấn vũ khí. Từ đây, số vũ khí này được chuyển vào Nam theo đường
bộ. Đồng thời với đưa hàng vào cảng sông Gianh, Quân chủng Hải quân chọn một số tàu
và thủy thủ có kinh nghiệm tiếp tục vận chuyển vào Nam theo đường Hồ Chí Minh trên
biển. Ngồi ra, trong giai đoạn này, cán bộ chiến sĩ Đồn 125 cịn tham gia chiến dịch vận
tải VT5 - Vận tải tranh thủ tụt thang (từ tháng 11-1968 đến năm 1969), cùng các lực lượng
trong và ngoài quân đội vận chuyển hàng chục vạn tấn vũ khí, lương thực, xăng dầu… từ
Hải Phịng vào các tỉnh Nam Khu 4, tạo chân hàng cho tuyến chi viện chiến lược trên bộ
(Đoàn 559)
Từ 1973 đến 1975, tuyến chi viện chiến lược bằng đường biển đã dốc toàn bộ lực lượng và
phương tiện, sử dụng hàng ngàn lượt chuyến tàu chuyển vũ khí và vật chất các loại vào các
chiến trường. Đặc biệt trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, đã sử
dụng 140 lượt chuyến tàu, vận chuyển 6.282 tấn vũ khí và vật chất khác, cùng hàng ngàn
lượt cán bộ chiến sĩ vào tăng cường cho chiến trường Nam Bộ và Khu 5, cơ động bộ đội
đặc cơng chiến đấu giải phóng các đảo thuộc quần đảo Trường Sa, Cù Lao Thu, các đảo
phía Nam và Tây Nam của Tổ quốc.
24
TIEU LUAN MOI download :