Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

Mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Chi nhánh ngân hàng Công thương Ba Đình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (447.35 KB, 96 trang )

Luận văn tốt nghiệp
MỤC LỤC
Thái Bá Dũng Lớp: TCDN 47C
Luận văn tốt nghiệp
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức các phòng ban của NHCT Ba Đình..............................
Thái Bá Dũng Lớp: TCDN 47C
Luận văn tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Những năm qua DNNVV ngày càng đóng vai trò quan trọng trong
quá trình phát triển của nền kinh tế. Với những ưu điểm như tổ chức bộ
máy gọn nhẹ, không đòi hỏi nhiều vốn đầu tư, dễ thích ứng với những
biến động của thị trường. Các DNNVV ngày càng phát triển và phù hợp
với yêu cầu đổi mới. Đồng thời còn là nền tảng thúc đẩy sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chính vì thế phát triển DNNVV là
chiến lược quan trọng và lâu dài của đất nước.
Trong điều kiện của đất nước hiện nay, năng suất và hiệu quả sản
xuất kinh doanh chưa cao, vốn tự có của doanh nghiệp còn nhiều hạn chế.
Vì thế vốn vay ngân hàng đang là nguồn vốn quan trọng của doanh nghiệp
trong việc tăng cường đầu tư phát triển, mở rộng hoạt động sản xuất kinh
doanh. Năm 2008, nền kinh tế Việt Nam nói chung và ngành ngân hàng
nói riêng phải đối mặt với những khó khăn thách thức lớn nhất trong hơn
một thập kỷ qua do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái
kinh tế toàn cầu. Vì vậy cùng với nhiều lí do khác, các DNNVV hiện gặp
rất nhiều khó khăn trong việc vay vốn và sử dụng vốn vay một cách có
hiệu quả.
Nhận thức được vai trò quan trọng của nguồn vốn ngân hàng cùng
với tình hình cụ thể trong việc cho vay đối với các DNNVV của Chi
nhánh ngân hàng Công thương Ba Đình trong thời gian thực tập, em đã
chọn đề tài “Mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại
Chi nhánh ngân hàng Công thương Ba Đình”. Với mục đích tìm hiểu về


hoạt động cho vay của chi nhánh. Nhận xét các kết quả đạt dược và góp
một số ý kiến giúp ngân hàng phát triển cho vay đối với loại hình doanh
Thái Bá Dũng Lớp: TCDN 47C
1
Luận văn tốt nghiệp
nghiệp này, góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
Nội dung chính của luận văn bao gồm:
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về hoạt động cho vay đối với
các DNNVV của NHTM.
Chương 2 : Thực trang cho vay đối với các DNNVV tại chi
nhánh NHCT Ba Đình.
Chương 3 : Giải pháp mở rộng cho vay đối với các DNNVV của
chi nhánh NHCT Ba Đình.

Thái Bá Dũng Lớp: TCDN 47C
2
Luận văn tốt nghiệp
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI
VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA CỦA NHTM
1.1. TỔNG QUAN VỀ DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
1.1.1. Khái niệm về doanh nghiệp nhỏ và vừa
Trong nền kinh tế quốc dân thì các doanh ngiệp vừa và nhỏ chiếm
một tỷ trọng khá lớn trong tổng các doanh nghiệp cả nước. Và càng ngày
thì các doanh nghiệp này đã không ngừng phát triển, từng bước khẳng
định vai trò và vị trí trong nền kinh tế đất nước.
Thông thường khi xác định quy mô của một doanh nghiệp, các quốc
gia căn cứ vào một số tiêu chí sau: Vốn sản xuất doanh thu, số lao động
thường xuyên, lợi nhuận đạt được, giá trị của công ty … Tuy nhiên, tiêu
chí để xác định quy mô của DNVVN cũng khác nhau tuỳ theo từng

ngành, từng thời kỳ, tuỳ vào trình độ phát triển kinh tế của từng nước. Bởi
vì một doanh nghiệp đạt trong môi trường kinh tế của nước này là
DNNVV nhưng trong môi trường kinh tế của nước khác thì lại là doanh
nghiệp lớn hoặc lại là doanh nghiệp rất nhỏ. Nhưng trên thực tế các nước
căn cứ chủ yếu vào hai tiêu chí cơ bản là vốn sản xuất, số lượng lao động
thường xuyên để phân biệt DNNVV với các doanh nghiệp lớn.
Ở Việt Nam hai tiêu thức chính vẫn được sử dụng là vốn sản xuất
và số lao động thường xuyên. Tuy nhiên, trong từng thời kỳ khác nhau thì
các tiêu chí đánh giá lại có giới hạn khác nhau để phù hợp với tình hình
phát triển phản ánh đúng thực trạng của nền kinh tế. Công văn số 681/CP-
KTN ban hành ngày 20/6/1998, theo đó DNNVV là các doanh nghiệp có số
công nhân dưới 200 người và số vốn kinh doanh dưới 5 tỷ đồng (tương đương
378.000 USD - theo tỷ giá giữa VND và USD tại thời điểm ban hành công
Thái Bá Dũng Lớp: TCDN 47C
3
Luận văn tốt nghiệp
văn). Tiêu chí này đặt ra mục đích xây dựng một bức tranh chung nhất về các
DNNVV ở Việt Nam phục vụ cho việc hoạch định chính sách. Trên thực tế
tiêu chí này không cho phép phân biệt các doanh nghiệp vừa, nhỏ và cực nhỏ.
Vì vậy, tiếp đó Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ban hành ngày 23/11/2001 đã
đưa ra định nghĩa chính thức về các DNVV như sau: “Doanh nghiệp nhỏ và
vừa là các cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo
pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động
trung bình hàng năm không quá 300 người. Căn cứ vào tình hình kinh tế cụ
thể của từng ngành, từng địa phương, trong quá trình thực hiện các biện
pháp, chương trình trợ giúp có thể linh hoạt áp dụng đồng thời cả 2 chỉ tiêu
vốn và lao động hoặc một trong hai chỉ tiêu nói trên.”
Theo định nghĩa trên thì ở Việt Nam các DNNVV bao gồm:
- Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp
gồm có các loại hình doanh nghiệp sau: Công ty TNHH, công ty cổ phần,

công ty hợp doanh, doanh nghiệp tư nhân.
- Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo luật doanh nghiệp
nhà nước.
- Các hợp tác xã thành lập và hoạt động theo luật hợp tác xã
- Hộ kinh doanh cá thể đăng ký theo Nghị định số 02/2000/NĐ-CP
ngày 03 tháng 12 năm 2000 của Chính phủ về dăng ký kinh doanh.
1.1.2. Các chỉ tiêu về doanh nghiệp nhỏ và vừa
Trên thế giới, định nghĩa về DNNVV được hiểu và quy định khác nhau
tuỳ theo từng nơi. Các chỉ tiêu để phân loại doanh nghiệp có hai nhóm đó là
các nhóm chỉ tiêu định tính và chỉ tiêu định lượng. Nhóm tiêu chí định tính
dựa trên những đặc điểm cơ bản của doanh nghiệp ví dụ như: chuyên môn
hoá thấp, số đầu mối quản lý ít, mức độ phức tạp của quản lý thấp ... Các chỉ
Thái Bá Dũng Lớp: TCDN 47C
4
Luận văn tốt nghiệp
tiêu này có ưu thế là phản ánh đúng bản chất của vấn đề nhưng thường khó
xác định trên thực tế. Do đó chúng thường được dùng làm cơ sở để tham khảo
trong việc kiểm chứng mà ít được sử dụng để phân loại trong thực tế. Nhóm
chỉ tiêu định lượng có thể dựa vào các chỉ số như: số lao động, giá trị tài sản
hay vốn, doanh thu, lợi nhuận. Trong đó:
- Số lao động : có thể lao động trung bình trong danh sách, lao động
thường xuyên, lao động thực tế.
- Tài sản hay vốn : có thể là tổng giá trị tài sản (hay vốn), tài sản (vốn)
cố định, giá trị tài sản còn lại.
- Doanh thu: có thể là tổng doanh thu/năm, tổng giá trị gia tăng/năm
(hiện nay có xu hướng sử dụng chỉ số này).
Trong các nước APEC chỉ tiêu được sử dụng phổ biến nhất là số lao
động. Còn các chỉ tiêu khác thì tuỳ thuộc vào điều kiện từng nước.
Tuy nhiên sự phân loại doanh nghiệp theo quy mô lại thường chỉ mang
tính tương đối và phụ thuộc vào nhiều yếu tố như:

- Trình độ phát triển kinh tế của một nước : trình độ phát triển càng cao thì
trị số các tiêu chí càng tăng lên. Ví dụ như một doanh nghiệp có 400 lao động ở
Việt Nam không được coi là DNNVV nhưng lại được tính là DNNVV ở CHLB
Đức. Ở các nước có trình độ phát triển kinh tế thấp thì các chỉ số về lao động, vốn
để phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ thấp hơn so với các nước phát triển.
- Tính chất ngành nghề : do đặc điểm của từng ngành khác nhau, có
ngành sử dụng nhiều lao động như dệt may, có ngành sử dụng ít lao động
nhưng nhiều vốn như hoá chất, điện... Do đó cần tính đến tính chất này để có
sự so sánh đối chứng trong phân loại các DNNVV giữa các ngành với nhau.
Tuy nhiên thực tế, ở nhiều nước, người ta thường phân chia thành hai đến ba
nhóm ngành với các tiêu chí phân loại khác nhau.
Thái Bá Dũng Lớp: TCDN 47C
5
Luận văn tốt nghiệp
Bảng 1.1. Tham khảo về chỉ tiêu DNNVV ở một số nước
TÊN NƯỚC TIÊU CHÍ DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
ÚC
- Sản xuất : dưới 100 LĐ
- Phi sản xuất: dưới 20 LĐ
MỸ
- Doanh nghiệp nhỏ: dưới 100 LĐ
- Doanh nghiệp vừa: 101-499 LĐ
NHẬT
- Sản xuất:dưới 300 LĐ hoặc dưới 100 triệu Yên
- Bán lẻ, dịch vụ: dưới 50 LĐ hoặc dưới 10 triệu Yên
CHLB ĐỨC - Dưới 500 LĐ
ĐÀI LOAN
- Công nghiệp, xây dựng: vốn góp dưới 40 triệu NT$,
dưới 300 LĐ
- Khai khoáng: vốn góp dưới 40 triệu NT$, dưới 500 LĐ

- Thương mại, vận tải và dịch vụ khác: dưới 40 triệu
NT$,doanh thu, dưới 50 LĐ
(Nguồn : số liệu tổng hợp )
Trong lĩnh vực ngân hàng, việc phân chia doanh nghiệp các doanh
nghiệp là đối tác chính, góp phần vào sự thành công hay thất bại của ngân
hàng. Vì vậy đòi hỏi ngân hàng phải đưa ra các chỉ tiêu để phân loại
doanh nghiệp. Một trong những phương pháp phân loại quy mô doanh
nghiệp được sử dụng phổ biến ở các ngân hàng là dùng thang điểm để
chấm điểm quy mô doanh nghiệp .
Quy mô của các doanh nghiệp được xác định dựa vào các tiêu chí
sau: nguồn vốn kinh doanh, số lượng lao động, doanh thu thuần và giá trị
nộp ngân sách Nhà nước. Trong đó :
- Lao động là số lao động thực tế sử dụng tính bình quân trong 3
năm gần nhất.
Thái Bá Dũng Lớp: TCDN 47C
6
Luận văn tốt nghiệp
- Giá trị nộp ngân sách Nhà nước: được lấy theo số thực nộp vào
ngân sách Nhà nước theo số phát sinh trong kỳ bao gồm các loại thuế và
các khoản nộp khác theo quy định của Nhà Nước trong năm báo cáo.
Có thể xem xét bảng chấm điểm quy mô của doanh nghiệp được áp
dụng ở nhiều NHTM Việt Nam như sau:
Bảng 1.2. Bảng chấm điểm quy mô của doanh nghiệp
STT Tiêu chí Trị số Điểm
1 Nguồn vốn
kinh doanh
- Từ 50 tỷ VND trở lên 30
- Từ 40 tỷ VND đến dưới 50 tỷ VND 25
- Từ 30 tỷ VND đến dưới 40 tỷ VND 20
- Từ 20 tỷ VND đến dưới 30 tỷ VND 15

- Từ 10 tỷ VND đến dưới 20 tỷ VND 10
- Dưới 10 tỷ VND 5
2 Lao động - Từ 1500 người trở lên 15
- Từ 1000 người đến dưới 1500 người 12
- Từ 500 người đến dưới 1000 người 9
- Từ 100 người đến dưới 500 người 6
- Từ 50 người đến dưới 100 người 3
- Dưới 50 người 1
3 Doanh thu
thuần
- Từ 200 tỷ VND trở lên 40
- Từ 100 tỷ VND đến dưới 100 tỷ VND 30
- Từ 50 tỷ VND đến dưới 100 tỷ VND 20
- Từ 20 tỷ VND đến dưới 50 tỷ VND 10
- Từ 5 tỷ VND đến dưới 20 tỷ VND 5
- Dưới 5 tỷ VND 2
4 Nộp ngân sách - Từ 10 tỷ VND trở lên 15
- Từ 7 tỷ VND đến dưới 10 tỷ VND 12
- Từ 5 tỷ VND đến dưới 7 tỷ VND 9
- Từ 3 tỷ VND đến dưới 5 tỷ VND 6
- Từ 1 tỷ VND đến dưới 3 tỷ VND 3
- Dưới 1 tỷ VND 1
(Nguồn: Sổ tay tín dụng Ngân hàng công thương Việt Nam)
Thái Bá Dũng Lớp: TCDN 47C
7
Luận văn tốt nghiệp
Căn cứ vào thang điểm trên, các doanh nghiệp được xếp loại thành
quy mô lớn, vừa và nhỏ như sau :
Điểm Quy mô
Từ 70 - 100 điểm Doanh nghiệp lớn

Từ 30 - 69 điểm Doanh nghiệp vừa
Dưới 30 điểm Doanh nghiệp nhỏ
1.1.3. Đặc trưng của các doanh nghiệp nhỏ và vừa
DNNVV ở Việt Nam đóng vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế.
Theo số liệu thống kê được thì cả nước có gần đến 200.000 doanh nghiệp
trong đó DNNVV chiếm tới hơn 93,5%. Mặc dù quy mô không lớn nhưng
các doanh nghiệp này đã huy động được gần 30 tỷ USD, sử dụng gần 3
triệu lao động (hầu hết các DNNVV có số lao động trung bình là 41
người), tạo 49% việc làm phi nông nghiệp ở các vùng nông thôn và sử
dụng 26% lao động trên khắp cả nước, đóng góp hơn 40% GDP và 29%
tổng kinh ngạch xuất khẩu cả nước.
Cùng với việc Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới,và
trong tình hình khủng hoảng kinh tế toàn cầu như hiện nay vai trò của các
DNVVN trong nền kinh tế thị trường ngày càng trở nên quan trọng. Bên
cạnh những đặc điểm vốn có của một doanh nghiệp, thì các DNNVV còn
có những đặc điểm riêng biệt sau đây:
Thứ nhất : DNNVV là loại hình doanh nghiệp có vốn đầu tư ban
đầu thấp, thu hồi vốn nhanh. Đây là một lợi thế của các chủ đầu tư vì việc
đầu tư vốn sản xuất không yêu cầu quá lớn, hơn nữa chu kỳ sản xuất của
các doanh nghiệp này thường ngắn nên vòng quay của mỗi đồng vốn là
nhanh. Tuy nhiên hầu hết các DNNVV hoạt động chủ yếu dựa vào nguồn
vốn tự có và các nguồn vốn đi vay từ thị trường tài chính phi chính thức,
Thái Bá Dũng Lớp: TCDN 47C
8
Luận văn tốt nghiệp
ít có khả nâng tiếp cận được với các nguồn vốn tín dụng của ngân hàng.
Do các doanh nghiệp này không đảm bảo được các điều kiện cần thiết về
tài sản thế chấp và các điều kiện vay vốn khác. Theo như số liệu thống kê
thu được, khoảng 60% DNNVV không có đủ vốn pháp định theo luật
định, 50% doanh nghiệp không đủ vốn lưu động tương ứng với quy mô.

Thứ hai : DNNVV hoạt động đa dạng ở mọi ngành nghề, năng
động, nhạy bén và dễ thích nghi với sự thay đổi của thị trường. Với quy
mô nhỏ, các DNNVV có thể hoạt động kinh doanh ở tất cả các lĩnh vực,
với các mức giá cả hợp lý đáp ứng mọi nhu cầu sản xuất, tiêu dùng dù là
nhỏ nhất của các tầng lớp xã hội. Ngoài ra, với cở sở vật chất không lớn,
bộ máy quản lý gọn nhẹ nên các DNNVV có thể dễ dàng thay đổi ngành
nghề, mặt hàng kinh doanh sản xuất khi có sự biến động của thị trường.
Vì vậy, các DNNVV có thể phân tán được rủi ro, tiết kiệm được chi phí
trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, đảm bảo hiệu quả công việc. Đây là
một mặt manh mà các DNNVV có thể khai thác hết tiềm năng để đạt được
hiệu quả kinh doanh tối ưu.
Thứ ba : Công nghệ và thiết bị lạc hậu, thủ công, không phù hợp
với thời buổi công nghệ kỹ thuật cao. Thực tế cho thấy các DNNVV Việt
Nam có hệ thống máy móc, thiết bị cũ kỹ, lạc hậu khoảng 20 - 30 năm so
với các nước đang phát triển trong khu vực. Trong khi đó, tỷ lệ đổi mới
trang thiết vị trung bình hàng năm chỉ ở mức khiêm tốn 5 - 7 % (trên thế
giới là 20 %) và có tới 57% DNVVN sử dụng thiết bị công nghệ trung
bình. Nguyên nhân chủ yếu của hệ thống máy móc lỗi thời như thế này là
do các DNNVV không đủ vốn để đầu tư, nâng cấp, đổi mới trang thiết bị,
máy móc. Đồng thời công tác nghiên cứu công nghệ áp dụng cho các
DNNVV cũng rất ít được thường xuyên chú ý tới. Mặt khác, việc triển
khai thương mại điện tử còn hạn chế, nhiều doanh nghiệp chưa có trang
Thái Bá Dũng Lớp: TCDN 47C
9
Luận văn tốt nghiệp
thông tin riêng để có thể quảng bá thương hiệu của mình. Một điểm mạnh
ở các DNNVV tại Việt Nam tại đó là các doanh nghiệp này có thể kết hợp
cả những công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại, sản xuất những
sản phẩm chất lượng cao trong điều kiện sản xuất không thuận lợi.
Thứ tư : Trình độ của người lao động còn hạn chế, công tác quản lý

còn yếu kém. Phần lớn lao động tại các DNNVV thường ít được đào tạo
cơ bản qua các trường lớp chính quy mà chủ yếu thường được đào tạo
theo phương pháp truyền nghề theo kiểu cha truyền con nối, trình độ văn
hoá thấp, đặc biệt là số lao động trong các cơ sở kinh doanh nhỏ. Hầu hết
các DNNVV ở Việt Nam hoạt động mang tính chất tự phát, thiếu sự định
hướng, việc tổ chức sản xuất kinh doanh thiếu khoa học vì khả năng
chuyên môn của người lao động không đủ để có thể sử dụng các máy móc
dây chuyền công nghệ hiện đại. ở Việt Nam, trong các DNNVV có
khoảng 75% lao động chưa tốt nghiệp phổ thông và 30% chủ doanh
nghiệp chưa qua các trường lớp đào tạo, chỉ quản lý doanh nghiệp theo
kinh nghiệm và suy nghĩ chủ quan. Vì thế cho nên việc gia nhập cộng
đồng kinh tế thế giới càng làm cho các chủ doanh nghiệp trở nên bỡ ngỡ
trước những cơ hội kinh doanh mới. Bởi vậy, muốn khắc phục những mặt
hạn chế này thì bản thân doanh nghiệp phải có sự tự vận động và kết hợp
chặt chẽ với sự hỗ trợ của Nhà nước trong việc đào tạo đội ngũ công
nhân, thợ lành nghề có kỹ thuật cao, đội ngũ cán bộ quản lý giỏi mới có
thể đáp ứng được yêu cầu cạnh tranh, hội nhập trong thời kỳ mới.
Thứ năm: Thị trường tiêu thụ của các DNNVV nhỏ hẹp và khả
năng cạnh tranh thấp. Nguyên nhân là do sự độc quyền của các doanh
nghiệp lớn và bên cạnh đó là việc các sản phẩm bị làm nhái, làm giả và
hàng nhập lậu. Vì các DNNVV có quy mô vốn nhỏ nên rất hạn chế trong
việc tiếp thị và khai thác ở thị trường nước ngoài. Bên cạnh đó, sự hợp tác
Thái Bá Dũng Lớp: TCDN 47C
10
Luận văn tốt nghiệp
giữa các DNNVV với các doanh nghiệp lớn, các dự án liên doanh còn
thấp, khiến cho thị trường tiêu thụ của các doanh nghiệp này chỉ bó hẹp ở
trong thị trường nội địa. Ngoài ra, do việc yếu kém trong việc tiếp cận
thông tin thị trường, các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh cùng với sự hạn chế
về mặt tài chính cho nên việc nhập khẩu nguyên liệu sản xuất cũng như

xuất khẩu sản phẩm sang các đối tác nước ngoài hết sức khó khăn. Có thể
nói, năng lực cạnh tranh của các DNNVV là còn quá thấp. Trong nền kinh
tế ngày càng phát triển mạnh mẽ, các doanh nghiệp phải trực tiếp đối mặt
với các đối thủ cạnh tranh mới, đó là các công ty xuyên quốc gia, các
công ty đa quốc gia có tiềm lực rất lớn về tài chính, công nghệ và năng
lực cạnh tranh cao. Điều này quả thực là một sự thách thức lớn đối với các
DNNVV của Việt Nam vốn nhỏ về quy mô và năng lực cạnh tranh. Một
nguyên nhân rất quan trọng khiến các DNNVV không có đủ sức cạnh
tranh là do khả năng tiếp cận được với nguồn vốn của ngân hàng. Hiện
nay, chỉ có 32% doanh nghiệp tiếp cận được với nguồn vốn của ngân
hàng, trong khi đó 32% khó tiếp cận và 36% không có khả năng tiếp cận.
Đây là vấn đề được các ngân hàng cũng như Chính phủ hết sức quan tâm
để khai thác tốt số lượng khách hàng tiềm năng này, mở rộng tín dụng để
tăng thu nhập và phát triển trên thị trường.
1.1.4. Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nền kinh tế
Thứ nhất: Tạo ra nhiều việc làm với chi phí thấp. Nguyên nhân là do
các cơ sở DNNVV rất thích hợp với các phương pháp tiết kiệm vốn và cho
nên chúng được công nhận là giải quyết thất nghiệp hiệu quả nhất. Do đặc
tính phân bố rải rác của chúng. Các doanh nghiệp loại này thường phân tán
nên có thể đảm bảo cơ hội việc làm cho nhiều vùng địa lý và nhiều đối tượng
lao động khác nhau, đặc biệt là ở các vùng chưa phát triển kinh tế, với các đối
tượng lao động có trình độ tay nghề thấp. Nhờ vậy vừa giải quyết thất nghiệp
Thái Bá Dũng Lớp: TCDN 47C
11
Luận văn tốt nghiệp
vừa góp phần giảm lượng người chuyển về thành phố tìm việc làm. Ngoài ra,
nhờ tính linh hoạt, uyển chuyển cho nên trong trường hợp có biến động xảy ra
các DNNVV sẽ dễ dàng thích ứng với sự thay đổi của thị trường. Trong khi
đó, các doanh nghiệp lớn sẽ đối phó khá chậm chạp. Họ sẽ gặp rất nhiều khó
khăn trong hoạt động, và giải pháp đưa ra thường sẽ là sa thải bớt lao động để

cắt giảm chi phí đến mức tối thiểu nhằm có thể tồn tại và phát triển được
trong điều kiện khó khăn. Còn các DNNVV vẫn có thể tồn tại được mà không
phải sử dụng đến biện pháp cắt giảm lao động.
Thứ hai : Cung cấp cho xã hội một khối lượng hàng hoá đáng kể cả về
chất lượng, số lượng và chủng loại. Các DNNVV thu hút một lượng lớn lao
động và tài nguyên của xã hội để sản xuất ra hàng hoá. Để có thể có sức cạnh
tranh trực tiếp với các doanh nghiệp và tập đoàn lớn, các doanh nghiệp này
tăng cường sự đa dạng về chất lượng và chủng loại, tạo cho người tiêu dùng
có nhiều cơ hội được lựa chọn. Bên cạnh đó con đi sâu vào các thị trường nhỏ
mà các doanh nghiệp lớn bỏ qua vì doanh thu từ đó quá nhỏ
Thứ ba : Gieo mầm cho các tài năng quản trị kinh doanh. Một số
những người có tài trong quản trị kinh doanh không muốn làm việc trong các
doanh nghiệp lớn mà muốn mở công ty riêng. Vì thế mà các DNNVV rất
thích hợp đối với họ trong việc thử sức của mình. Các DNNVV còn là nơi
huấn luyện nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp lớn. Các nhân viên sẽ học
được những kỹ năng ban đầu về quản lý, được đánh giá cao như : Điều hành
kinh doanh, kiểm soát, quản lý nhân viên, bán hàng và tiếp thị, xúc tiến sản
phẩm và dịch vụ, …
Thứ tư : Tăng nguồn tiết kiệm và đầu tư cho dân địa phương. Nhìn
chung các DNNVV được mở ra ở địa phương nào đều có công nhân và chủ
doanh nghiệp là người của địa phương đó. Khi các doanh nghiệp loại đó được
mở ra thì người dân lao động ở địa phương sẽ có công ăn việc làm, có nguồn
Thái Bá Dũng Lớp: TCDN 47C
12
Luận văn tốt nghiệp
thu nhập.Nhờ đó mà quỹ tiền tiết kiệm đầu tư của địa phương được bổ sung.
Thứ năm : Góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Sự phát triển
cả về số lượng lẫn chất lượng của các DNNVV đã làm cho nền kinh tế đa
thành phần ở Việt Nam trở nên hết sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư
trong nước và ngoài nước. DNNVV hầu như xuất hiện ở các ngành, lĩnh

vực trong nền kinh tế. Về ngành nghề, các doanh nghiệp tập trung nhiều
nhất vào các ngành thương mại, sửa chữa động cơ, xe máy (40,6%), các
ngành chế biến (20,9%), xây dựng (13,2%), và các ngành còn lại là kinh
doanh tài sản, khách sạn, nhà hàng, tư vấn (25,3%). Điều này đã góp phần
hết sức to lớn trong việc bổ sung những thiếu hụt từ khu vực kinh tế quốc
doanh, khơi dậy nguồn tiềm năng sáng tạo của nhân dân để phát triển sản
xuất. Từ đó, các DNNVV có thể tận dụng được các tiềm năng trong nhân
dân chưa được khai thác như: trí tuệ, bí quyết sản xuất, vốn,… Các
DNNVV đã đóng góp hơn 40% GDP và 29% tổng kim ngạch xuất khẩu
của cả nước. Đồng thời sự phát triển của các DNNVV còn làm cho nguồn
thu ngân sách Nhà nước từ các doanh nghiệp này tăng lên đáng kể. Trong
những năm qua, nhờ sự quan tâm và khuyến khích của nhà nước, các
DNNVV đã từng bước khẳng định được vị thế của mình, hàng năm đóng
góp trên 30% ngân sách nhà nước.
Thứ sáu: Phát huy và tận dụng các nguồn lực địa phương, góp phần tạo
sự đồng đều trong việc phát triển kinh tế của các vùng. Các doanh nghiệp lớn
thường bỏ qua các khu vực hoặc các thị trường có quy mô nhỏ, kém phát triển,
hoặc là xa tuyến giao thông, thiếu tài nguyên vì cho rằng nguồn lợi thu được từ
đó không lớn bằng nguồn lợi thu được từ nơi khác với cùng một chi phí bỏ ra.
Do đó sẽ dẫn đến sự phát triển không đều giữa các vùng, không tận dụng
được hết các nguồn tài nguyên và giảm hiệu quả hoạt động cũng như gây ra
các thiệt hại tiềm tàng cho nền kinh tế. Tuy nhiên đối với các DNNVV thì chi
Thái Bá Dũng Lớp: TCDN 47C
13
Luận văn tốt nghiệp
phí cơ hội của các vùng này là chấp nhận được, xứng đáng với nguồn lợi thu
lại. Vì vậy họ sẵn sàng hoạt động nếu có được các chính sách ưu đãi của
chính quyền địa phương.
Một trong những điểm mạnh của các DNNVV theo sự đánh giá của
ngân hàng thế giới đó là sự bứt phá trong sản xuất kinh doanh. Chỉ trong

vòng vài năm (kể từ khi luật doanh nghiệp được ban hành) đã có trên
200.000 doanh nghiệp được thành lập. Theo dự kiến số doanh nghiệp
tham gia đăng ký kinh doanh vào năm 2010 sẽ tăng lên đến 500.000
doanh nghiệp. Cùng với sự gia tăng về số lượng, các doanh nghiệp cũng
rất tự tin để hội nhập, nhận ra nhiều cơ hội và thách thức mới. Nhiều
doanh nghiệp đã mạnh dạn đổi mới công nghệ trang thiết bị, nâng cao lợi
thế cạnh tranh và có thể làm đối tác chiến lược với các doanh nghiệp trên
thế giới. Với xu hướng trên thì càng ngày vai trò của các DNNVV càng
trở nên quan trọng hơn trong nền kinh tế. Với nhiều hình thức đa dạng,
phong phú, hoạt động trong nhiều ngành, lĩnh vực, các DNNVV đã và
đang phát huy những mặt tích cực và khẳng định vị thế của mình trong
nền kinh tế
1.2. HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
1.2.1. Khái niệm về cho vay của ngân hàng thương mại đối với
các doanh nghiệp nhỏ và vừa
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về cho vay và rất khó có thể đưa
ra một định nghĩa đầy đủ, rõ ràng về cho vay. Chúng ta có thể sử dụng
định nghĩa sau để nghiên cứu :“Cho vay là quan hệ vay mượn bằng tiền
tệ, trong đó ngân hàng là người cho vay, còn người đi vay là các tổ
chức, cá nhân trong xã hội, trên nguyên tắc người đi vay sẽ hoàn trả cả
vốn lẫn lãi vào một thời điểm xác định trong tương lai như hai bên đã
Thái Bá Dũng Lớp: TCDN 47C
14
Luận văn tốt nghiệp
thoả thuận”.
1.2.2. Các hình thức cho vay của ngân hàng thương mại đối với
các doanh nghiệp nhỏ và vừa
Tín dụng ngân hàng được thực hiện dưới nhiều hình thức, được nhìn
nhận dưới nhiều góc độ khác nhau theo các tiêu chí phân loại khác nhau.

Trên thực tế, việc phân loại các hình thức cho vay ngân hàng thường theo
các tiêu thức phân chia sau:
1.2.2.1. Phân loại theo thời gian cấp tín dụng
* Tín dụng có kỳ hạn:
Là khoản tín dụng có thời hạn xác định về ngày trả nợ, gồm tín
dụng có ngắn hạn, tín dụng trung và dài hạn. Mặc dù hầu hết các nước đều
thống nhất về điều này nhưng thời gian cụ thể được quy định cho từng
loại lại không hoàn toàn đồng nhất giữa các nước với nhau. Ở Việt Nam,
theo quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng và quyết
định 1627/2001/QĐ-NHNN/ngày 31/12/2000 của Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam thì:
+ Cho vay ngắn hạn: Loại cho vay này có thời hạn đến dưới 1 năm và
được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp.
+ Cho vay trung hạn: Có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm.Thông
thường được các doanh nghiệp sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố
định, cải tiến, đổi mới trang thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh
doanh, đầu tư xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi
vốn nhanh. Bên cạnh đầu tư cho tài sản cố định, cho vay trung hạn còn là
nguồn hình thành vốn lưu động thường xuyên của các doanh nghiệp, đặc
biệt những doanh nghiệp mới được thành lập.
+ Cho vay dài hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm và thời
Thái Bá Dũng Lớp: TCDN 47C
15
Luận văn tốt nghiệp
hạn tối đa có thể lên đến 20-30 năm, một số trường hợp đặc biệt có thể lên
đến 40 năm. Cho vay dài hạn là loại tín dụng được cung cấp để đáp ứng
các nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà cửa, đầu tư trang thiết bị, phương
tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới.
* Tín dụng không kỳ hạn:
Là khoản tín dụng được ứng dụng đối với khoản vay không xác

định rõ thời hạn trả nợ.
1.2.2.2. Phân loại theo nguồn phát sinh các khoản tín dụng
* Cho vay trực tiếp: trước khi cấp tiền ra ngân hàng có mối liên hệ
trực tiếp đối với người vay để thẩm định khách hàng, xem xét tình hình
người vay.
* Cho vay gián tiếp: là hình thức ngân hàng cho vay thông qua các
tổ chức xã hội nhưng không trực tiếp cho vay khách hàng.
Việc phân loại này giúp ngân hàng đánh giá, lựa chọn cách thức cho
vay cũng như khách hàng tốt nhất, trên cơ sở đó nghiên cứu thể lệ và
chính sách tín dụng phù hợp. Trên thực tế, chúng ta thường xem xét chủ
yếu là các loại hình tín dụng ngắn hạn là chủ yếu. Khi phân chia các loại
hình tín dụng ngắn hạn người ta thường nhìn dưới góc độ các sản phẩm
tín dụng hay còn được gọi là kỹ thuật cấp tín dụng.
1.2.2.3. Phân loại theo phương thức hoàn trả
Theo phương thức hoàn trả thì các khoản cho vay còn có thể được
phân chia theo hai loại sau:
* Cho vay hoàn trả một lần: khi đó các khoản vay sẽ được hoàn trả
một lần vào thời gian xác định trong hợp đồng tín dụng, lãi vay có thể
được hoàn trả theo thoả thuận trong hợp đồng (theo tháng, theo quý hoặc
Thái Bá Dũng Lớp: TCDN 47C
16
Luận văn tốt nghiệp
theo năm.)
* Cho vay trả góp: Việc hoàn trả được tiến hành theo định kỳ, các
khoản này có thể bằng nhau hoặc không tuỳ theo thoả thuận và được thực
hiện theo nguyên tắc trả dần trong suốt thời gian thực hiện hợp đồng.
Thông thường, các NHTM thường áp dụng phương thức trả một lần
thường áp dụng đối với cho vay ngắn hạn còn phương thức trả góp thì
dùng cho các khoản cho vay trung và dài hạn.
1.2.2.4. Phân loại theo kỹ thuật cấp tín dụng

Ngân hàng thương mại cấp tín dụng dưới các hình thức sau đây:
* Chiết khấu thương phiếu: Chiết khấu thương phiếu là nghiệp vụ
tín dụng ngắn hạn, trong đó khách hàng chuyển nhượng quyền sở hữu
thương phiếu chưa đáo hạn cho ngân hàng để được nhận một số tiền bằng
mệnh giá của thương phiếu trừ đi số tiền lãi và phí hợp đồng.
* Tín dụng thấu chi: Mỗi khách hàng đều có một tài khoản tiền gửi
tại ngân hàng. Về nguyên tắc, khách hàng chỉ được sử dụng số tiền đã gửi
trên tài khoản. Nhưng do nhu cầu trong quá trình sản xuất kinh doanh,
khách hàng thường có nhu cầu chi quá số tiền gửi trên tài khoản. Cho nên
hình thức tín dụng thấu chi đã giúp giải quyết vấn đề này cho khách hàng.
Thấu chi là hình thức cấp tín dụng trước được thực hiện trên cơ sở hợp
đồng tín dụng, trong đó khách hàng được sử dụng một số tiền lớn hơn số
tiền gửi mà khách hàng hiện có trong tài khoản ngân hàng. Thấu chi là hình
thức cấp tín dụng giúp cho khách hàng sử dụng vốn chủ động và tiện nợi,
tuy nhiên hình thức tín dụng này cũng gặp nhiều rủi ro trong việc hoàn trả
của khách hàng. Vì vậy chỉ áp dụng cho những khách hàng có khả năng tài
chính vững mạnh, có tín nhiệm trong quan hệ tín dụng với ngân hàng.
* Tín dụng thuê mua: Trong nền kinh tế thị trường thì tín dụng thuê
Thái Bá Dũng Lớp: TCDN 47C
17
Luận văn tốt nghiệp
mua rất phát triển. Tín dụng thuê mua là hình thức cho thuê bất động sản,
máy móc thiết bị, xe vận tải, xe chuyên dụng, thiết bị văn phòng,… Các
chủ thể thuê có thể là các ngân hàng trực tiếp, công ty con của ngân hàng
hay các công ty chuyên doanh thu mua độc lập thực hiện nghiệp vụ. Đồng
thờig ngân hàng cũng có thể liên kết với các nhà kinh doanh bất động sản
để đầu tư dưới hình thức thuê tín dụng thuê mua.
Khi đó khách hàng thuê sẽ tiến hành trả dần giá trị tài sản theo hợp
đồng đã thoả thuận với ngân hàng. Khi giá trị của tài sản đã trả xong,
khách hàng được quyền sở hữu tài sản đó. Trong thời gian chưa trả hết nợ,

tài sản vẫn thuộc quyền sở hữu của ngân hàng.
Tiền thuê bao gồm giá vốn, chi phí các loại thuế và lãi kinh doanh.
Tuỳ vào từng loại đối tượng khác nhau mà giá cả thuê mua được tính
khác nhau. Thời hạn thuê mua có thể là ngắn hạn, trung hoặc dài hạn.
Tuy nhiên, thời hạn trung và dài hạn vẫn là chủ yếu. Tín dụng thuê mua
ngắn hạn ít được sử dụng, vì thòi gian để khách hàng có thể trả hết nợ là
khá dài.
* Tín dụng trả góp: là hình thức tín dụng mà khách hàng sẽ trả dần
số tiền vay gồm gốc và lãi theo định kỳ. Tín dụng trả góp có quan hệ chặt
chẽ với việc mua bán hàng hoá, tài sản. Việc cấp tín dụng được thực hiện
trên cơ sở thoả thuận của ba bên liên quan: khách hàng mua (người đi
vay), công ty bán hàng và ngân hàng.
Tín dụng trả góp khác về cơ bản với tín dụng thuê mua ở chỗ là tài
sản sau khi bán đã thuộc quyền sở hữu của người mua và họ có quyền định
đoạt. Trường hợp tài sản thuộc đối tượng của tín dụng là bất động sản thì
có thể làm thế chấp cho ngân hàng. Khi khách không trả được nợ thì ngân
hàng được phát mại tài sản thế chấp và chỉ thu được phần nợ còn thiếu.
Thái Bá Dũng Lớp: TCDN 47C
18
Luận văn tốt nghiệp
Tín dụng trả góp có ưu điểm là phù hợp với đặc điểm sử dụng vốn
của vay đồng thời kích thích lưu thông hàng hoá, mở rộng sản xuất và tiêu
dùng. Mặt khác, người vay phải trả một khoản tiền cố định bao gồm cả
gốc và lãi vào những thời điểm xác định cho nên họ có thể dễ dàng tính
được số tiền phải trả từ đó lập được kế hoạch trả nợ một cách tốt nhất.
* Tín dụng bảo lãnh: là một loại tín dụng phát sinh khi ngân hàng sẽ
nhận thanh toán cho người bán hàng trong trường hợp mà người mua
không có khả năng thanh toán số nợ này. Ngân hàng thu dịch vụ phí bảo
lãnh, mức phí tùy thuộc vào loại nhu cầu bảo lãnh, thời gian cho vay.
Thời hạn có thể là ngắn hạn , trung hoặc dài hạn. Các hình thức bảo lãnh

gồm có: bảo lãnh tín dụng, bảo lãnh cung cấp hàng hoá. Tín dụng bảo
lãnh phát triển đã đáp ứng kịp thời nhu cầu thanh toán, chi tiêu của các
nhà sản xuất kinh doanh trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
* Tín dụng vãng lai: là hoạt động vay mượn thường xuyên giữa
khách hàng và ngân hàng với nội dung thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
Đặc điểm của hình thức này là ngân hàng sẽ mở cho khách hàng
một tài khoản vay vừa dư nợ, vừa dư có (tài khoản vãng lai). Toàn bộ thu
nhập của người vay đều được ghi vào bên có tài khoản, toàn bộ chi tiêu
ghi bên nợ tài khoản. Khi không còn số dư có thì khách hàng sẽ được sử
dụng một khoản tín dụng như đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng với
một mức dư nợ tối đa. Ngân hàng khống chế số dư nợ mà không khống
chế số dư có.
Khách hàng được sử dụng vốn vay rất linh hoạt (dưới dạng tiền mặt,
chuyển khoản, tín phiếu). Điều kiện được vay vốn đối với loại tài khoản
vãng lai là người vay có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc được bảo lãnh. Tuy
nhiên trong một số trường hợp, người vay có uy tín cao thì có thể không
cần bảo đảm bằng tài sản. Thời hạn cho vay thường từ 3 đến 6 tháng. Trên
Thái Bá Dũng Lớp: TCDN 47C
19
Luận văn tốt nghiệp
lý thuyết tín dụng vãng lai được xem như là tín dụng ngắn hạn. Hiện nay
có nhiều ngân hàng cho vay với thời hạn từ 2 đến 3 năm nên tín tín dụng
vãng lai trở thành tín dụng trung và dài hạn.
1.2.2.5. Phân loại theo mức độ đảm bảo
Các ngân hàng có thể đảm bảo hay không tuỳ thuộc vào mức tín
nhiệm của ngân hàng đối với khách hàng vay cũng như tùy thuộc vào độ
rủi ro của phương án xin vay.
Việc đảm bảo của khách hàng có thể là đảm bảo bằng tài sản thế
chấp, cầm cố hay bảo lãnh của bên thứ ba. Các tài sản được đem thế chấp
thường là các bất động sản còn các tài sản được đem cầm cố lại là các tài

sản có giá trị nhỏ hơn như: vật tư hàng hoá, chứng khoán và các giấy tờ
khác. Yêu cầu đối với các tài sản đem chấp chấp, cầm cố là chúng phải có
tính thị trường tức là có khả năng thanh lý được.
Đối với trường hợp khách hàng có tín nhiệm, có khả năng tài chính
vững mạnh và lợi nhuận có được từ dự án xin vay là khả quan thì ngân
hàng có thể cho vay không cần đảm bảo. Điều này giải thích tại sao các
ngân hàng có thể cung cấp cho một số khách hàng những khoản tín dụng
lớn mà không cần tài sản đảm bảo. Đó là những doanh nghiệp có quan hệ
vay trả sòng phẳng thường xuyên với ngân hàng, có tình hình tài chính
mạnh, lợi nhuận ổn định cùng với hệ thống quản lý có hiệu quả, sản phẩm
dịch vụ được thị trường chấp nhận.
Theo căn cứ trên, cho vay được chia thành 2 loại:
* Cho vay không đảm bảo: là loại cho vay không có tài sản thế chấp,
cầm cố hoặc sự bảo lãnh của bên thứ 3, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy
tín của bản thân khách hàng. Đối với những khách hàng tốt, có khả năng
tài chính mạnh, quản trị có hiệu quả thì ngân hàng có thể cấp tín dụng dựa
Thái Bá Dũng Lớp: TCDN 47C
20
Luận văn tốt nghiệp
vào uy tín của bản thân khách hàng mà không cần một nguồn thu nợ bổ
sung.
* Cho vay có bảo đảm: là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm
như thế chấp hoặc cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của bên thứ ba. Đối
với những khách hàng không có uy tín, khi vay vốn cần đòi hỏi phải có
bảo đảm. Sự bảo đảm này là căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm một bổ
sung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn.
1.2.2.6. Phân loại theo mục đích sử dụng
Dựa vào căn cứ này cho vay thường được chưa ra làm các loại sau:
* Cho vay bất động sản: là loại hình cho vay liên quan đến việc mua
sắm và xây dựng bất động sản: nhà ở, đất đai, bất động sản trong lãnh vực

công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
* Cho vay công nghiệp và thương mại: là loại cho vay ngắn hạn để
bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lãnh vực công nghiệp,
thương mại và dịch vụ.
* Cho vay nông nghiệp: là loại hình cho vay để trang trải các chi phí
sản xuất như: phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc,
lao động, nhiên liệu,...
* Cho vay các định chế tài chính: bao gồm cấp tín dụng cho các
ngân hàng, công ty tài chính, công ty bảo hiểm, công ty cho thuê tài
chính, các quỹ tín dụng và các định chế tài chính khác.
* Cho vay cá nhân: Là loại hình cho vay để đáp ứng các nhu cầu
tiêu dùng như: mua sắm các vật dụng tiêu dùng, và các khoản cho vay để
trang trải chi phí thông thường của đời sống thông qua việc phát hành thẻ
tín dụng.
Thái Bá Dũng Lớp: TCDN 47C
21
Luận văn tốt nghiệp
* Cho thuê: bao gồm 2 loại cho thuê vận hành và cho thuê tài chính.
Tài sản cho thuê bao gồm bất động sản, trong đó chủ yếu là máy móc,
thiết bị.
1.2.3. Quy trình cho vay của ngân hàng thương mại đối với
doanh nghiệp nhỏ và vừa
Tín dụng là hoạt động thương mại mang lại nhiều lợi nhuận cho
ngân hàng thương mại nhưng bản thân nó cũng chứa nhiều rủi ro cho hoạt
động ngân hàng. Vì vậy ngân hàng cần phải tiến hành tín dụng theo một
quy trình cụ thể, chặt chẽ và thống nhất.
Quy trình tín dụng là tổng hợp các quy định nguyên tắc của ngân
hàng trong việc cấp tín dụng. Trong đó bao gồm các bước đi cụ thể theo
một trình tự nhất định. Đây là một quá trình bao gồm nhiều giai đoạn
mang tính chất liên hoàn, theo một trật tự nhất định và có quan hệ chặt

chẽ và gắn bó với nhau. Thông thường, mỗi ngân hàng đều xây dựng một
quy trình tín dụng riêng cho mình, tuân theo các quy định của pháp luật
và phù hợp với điều kiện đặc điểm của từng ngân hàng cụ thể.
Nói chung mọi quy trình tín dụng đều tuân theo những bước cơ bản sau:
Bước 1: Lập hồ sơ đề nghị cấp tín dụng
Để được ra một quyết định chính xác về việc cấp tín dụng, ngân
hàng phải phân tích hàng loạt các nguồn thông tin có liên quan và nguồn
đầu tiên có được là lấy từ hồ sơ đề nghị cấp tín dụng. Đây là giai đoạn
chuẩn bị những điều kiện cần thiết để quan hệ tín dụng được thiết lập một
cách tốt nhất. Đồng thời đây cũng là giai đoạn hình thành đầy đủ các giấy
tờ, tài liệu chứng từ có liên quan tới mục đích sử dụng vốn vay. Hiện nay,
các DNNVV bị đánh giá là có năng lực tương đối kém trong việc lập dự
Thái Bá Dũng Lớp: TCDN 47C
22
Luận văn tốt nghiệp
án khả thi. Đó là một trong những trở ngại tương đối lớn cho doanh
nghiệp trong việc tiếp cận nguồn vốn của ngân hàng.
Bước 2: Phân tích tín dụng
Phân tích tín dụng là phân tích khả năng của khách hàng về việc sử
dụng vốn, cũng như khả năng hoàn trả vốn vay cho ngân hàng. Mục tiêu
của phân tích tín dụng là dự đoán những tình huống có thể dẫn đến rủi ro
cho ngân hàng và khả năng kiểm soát của ngân hàng về các loại rủi ro đó,
cũng như đưa ra các biện pháp phòng ngừa, hạn chế những thiệt hại có thể
xảy ra. Sau khi nhận được hồ sơ vay vốn, cán bộ tín dụng cần phải kiểm
tra, thẩm định cho vay và phương án vay vốn. Nội dung của việc thẩm
định là thu thập xử lý số liệu có liên quan tới doanh nghiệp xin vay vốn.
Mục đích đánh giá về khả năng đáp ứng các điều kiện tín dụng của doanh
nghiệp mà ngân hàng đưa ra. Ngân hàng có thể thu thập thông tin từ ngân
hàng hay từ nhiều nguồn vốn có liên quan. Thậm chí là ngân hàng có thể
mua thông tin từ nhiều nguồn khác với mục đích cuối cùng là kiểm tra

tính trung thực của các thông tin về doanh nghiệp để đạt hiệu quả cao nhất
trong việc phân tích tín dụng.
Bước 3: Quyết định tín dụng
Sau khi quá trình phân tích tín dụng hoàn thành, ngân hàng sẽ quyết
định cho vay hoặc không cho vay. Đây là một quyết định hết sức quan
trọng. Nó không những ảnh hưởng đến việc hoạt động của khách hàng,
đồng thời còn ảnh hưởng đến cả uy tín của ngân hàng. Vì việc quyết định
cho vay sai lầm sẽ dẫn đến việc sau đó doanh nghiệp không có khả năng
trả nợ, dẫn đến ngân hàng có thể bị giảm lợi nhuận, thậm chí mất vốn,
giảm uy tín của mình.
Thái Bá Dũng Lớp: TCDN 47C
23

×