Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

Nâng cao chất lượng tín dụng tại vpbank

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (386.05 KB, 68 trang )

B¶n th¶o chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
LỜI MỞ ĐẦU

Xu thế hội nhập nền kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ, không chỉ bao
trùm các khu vực mà còn diễn ra trên phạm vi toàn thế giới. Hoà cùng xu thế
ấy, các quốc gia, các ngành kinh tế đang dần chuyển mình bắt nhịp với nền
kinh tế chung của nhân loại. Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Từ
đổi mới đến nay, các ngành kinh tế của Việt Nam đang thay đổi diện mạo của
mình, mà đặc biệt phải kể tới ngân hàng, lĩnh vực đang phất lên trên nền kinh
tế của Việt Nam trong những năm gần đây.
Trong bối cảnh ấy, hệ thống ngân hàng của Việt Nam, bao gồm cả
Ngân hàng Thương mại quốc doanh và thương mại cổ phần đều đang ra sức
đầu tư để phát triển. VPBank cũng vậy, đầu tư theo cả chiều rộng lẫn chiều
sâu đang là phương hướng chiến lược của VPBank. Trải qua quá trình phát
triển thăng trầm, đến nay, VPBank đã trở thành ngân hàng có uy tín, có tốc độ
tăng trưởng khá cao, đang dần khẳng định vị thế của mình trong hệ thống
ngân hàng Việt Nam cũng như hệ thống ngân hàng quốc tế.
Trong các hoạt động của ngân hàng, tín dụng một trong những hoạt động
quan trọng nhất, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng tài sản, tạo thu nhập tiền
lói lớn nhất và cũng là hoạt động mang lại nhiều rủi ro nhất của ngân hàng. Vì
vậy, nâng cao chất lượng tín dụng luôn là nhiệm vụ và mục tiêu hàng đầu của
các NHTM.
Tuy nhiên hoạt động này trong các NHTM còn nhiều hạn chế. Chính vì lẽ
đó mà việc nghiên cứu tìm ra các giả pháp nâng cao chất lượng tín dụng sẽ
góp phần quyết định tới hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. Qua quá trình
thực tập tại vpbank em xin được tham gia đề tài :” Nâng cao chất lượng tín
dụng tại vpbank” cho chuyên đề thực tập của mình với mong muốn áp dụng
những kiến thức đã học của mình nhằm đưa ra một số giải pháp nâng cao chất
Nguyễn Văn Đức Ngân hàng 47A
1
B¶n th¶o chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp


lượng hoạt động tín dụng tại ngân hàng. Chuyên đề thực tập em gồm:
Chương I : Lý luận chung về Tín dụng ngân hàng và vấn đề nâng cao
chất lượng dụng tại các ngân hàng thương mại trong nền kinh tế.
Chương II : Thực trạng chất lượng hoạt động tín dụng tại vpbank
Chương III : Giải pháp và ý kiến đề xuất nhằm nâng cao chất lượng hoạt
động tín dụng vpbank
Em xin được gửi lời cảm ơn tới ban lãnh đạo của ngân hàng vpbank chi
nhánh đông đô cùng toàn thể các anh chị trong phòng tín dụng doanh nghiệp
đã giúp đỡ em trong suốt quá trình thực tâp, cung cấp cho em những số liệu
và kiến thức thực tế để em có thể hoàn thành đề tài này.
Em cũng xin được cảm ơn Giảng viên : PGS.TS. NGUYỄN THI THU THẢO
. Người đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn để em có thể hoàn thành đề tài này
cùng các thầy cô trong khoa ngân hàng tài chính đã dày công đào tạo, bồi
dưỡng trang bị cho em những kiến thức.
Do thời gian và trình độ còn hạn chế nên không thể tránh được những
thiếu sót trong bài viết.Em rất mong có được những ý kiến đóng góp để em có
thể bổ sung, hoàn thành bài viết của mìnhmột cách tốt nhất.
Hà nội ngày 22 tháng 04 năm 2009
Sinh viên thực hiện
Nguyễn văn Đức
Nguyễn Văn Đức Ngân hàng 47A
2
B¶n th¶o chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
Chương I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ
VẤN ĐỀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái quát về tín dụng ngân hàng
Tín dụng (credit) xuất phát từ chữ la tinh là credo (tin tưởng tín nhiệm).

Trong thực tế cuộc sống thuật ngữ tín dụng được hiểu theo nhiều nghĩa khác
nhau; Ngay cả trong quan hệ tài chính, tùy theo từng bối cảnh cụ thể mà thuật
ngữ tín dụng có một nội dung riêng. Trong quan hệ tài chính, tín dụng được
hiểu theo các nghĩa sau :
Xét trên góc độ chuyển quỹ đầu tư cho vay từ chủ thể thặng dự tiền tiền
kiệm sang chủ thể thiếu hụt tiết kiệm thì tín dung được coi là phương pháp
chuyển dịch quỹ từ người cho vay sang người đi vay.
Trong một quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là một giao dịch về tài sản trên
cơ sở có hoàn trả giữa hai chủ thể. Như một công ty thương mại bán hàng hóa
trả chậm cho một công ty khác, trong trường hợp này người bán chuyển giao
từ hàng hóa cho bên mua và sau một thời gian nhất định thỏa thuận bên mua
phải trả tiền cho bên bán. Phổ biến hơn cả là giao dịch giữa ngân hàng và các
định chế tài chính khác với các doanh nghiệp và cá nhân duới hình thức cho
vay tức là ngân hàng cấp tiền cho vay cho bên đi vay sau môt thời hạn nhất
định người đi vay phải thanh toán vốn gốc và lãi.
Tín dụng còn có nghĩa là một số tiền cho vay mà các định chế tài chính
cung cấp cho khách hàng.
Nguyễn Văn Đức Ngân hàng 47A
3
B¶n th¶o chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
Trong một số ngữ cảnh nhất định tín dụng còn có nghĩa là cho vay. Ví dụ: tín
dụng ngắn hạn đồng nghĩa với cho vay ngắn hạn, hoặc như từ tín dụng tuần
hoàn là một loại tín dụng cụ thể.
Trên cơ sở tiếp cân theo chức năng của họat động ngân hàng thì tín dụng
được hiểu như sau :
Tín dụng là một giao dịch về tài sản giữa bên vay và bên cho vay và bên đi
vay trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong
một thời gian nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả
vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên vay đến hạn thanh toán.
Từ khái niệm, bản chất tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở hoàn

trả có các đặc trưng :
Tài sản sản giao dịch trong quan hệ tín dụng ngân hàng bao gồm hai hình
thức cho vay bằng tiền và cho thuê trong những năm 1960 trở về trước họat
động tín dụng chỉ cho vay bằng tiền. Xuất phát từ đặc thù đó mà nhiều lúc
thuật ngữ tín dụng được coi là đồng nghĩa với nhau. Từ những năm 1970 trở
lại đây, cho thuê vân hành và cho thuê tài chính đã được các ngân hàng hoặc
các định chế tài chính khác cung cấp cho khách hàng. Đây là một sản phẩm
kinh doanh của ngân hàng, một hình thức tín dụng bằng tài sản thực.
Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy người vay cho khi chuyển giao tài
sản khi cho vay sử dụng phải có cơ sở để tin rằng người đi vay sẽ trả đúng
hạn. Đây là yếu tố rất cơ bản trong quản trị tín dụng. Trong thực tế một số
nhân viên tín dụng của ngân hàng khi xét duyệt khỏan vay không chú trọng
đến cơ sở đánh giá mức độ tín nhiệm của khách hàng mà lại chú trọng đến tài
sản đảm bảo, chính quan điểm này làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.
Giá trị hoàn trả phải lớn hơn giá trị của khỏan vay hay nói cách khác là người
đi vay phải trả thêm một phần lãi ngoài phần vốn gốc. Để thực hiện được
Nguyễn Văn Đức Ngân hàng 47A
4
B¶n th¶o chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
nguyên tắc này phải xác định lãi xuất danh nghĩa lớn hơn tỷ lệ lạm phát, hay
nói cách khác là lãi suất thực duơng. Tuy nhiên vì lãi suất chịu ảnh hưởng của
nhiều yếu tố khác nhau nên trong một số trường hợp lãi suất danh nghĩa có
thể lớn hơn tỷ lệ lạm phát, ngoại lệ này chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn.
Trong quan hệ tín dụng ngân hàng tiền vay được cấp trên cơ sở cam kết
hoàn trả vô điều kiện. Về khía cạnh pháp lý, những văn bản xác định quan hệ
tín dụng, kế uớc .. thực chất là lệnh phiếu trong đó bên đi vay cam kết thanh
toán cho vay khi đến thời hạn thanh toán.
1.1.2 Vai trò của hoạt động tín dụng
Trong nền kinh tế thị trường hiện tượng thừa thiều vốn là hiện tượng
thường xuyên xảy ra. Nền kinh tế thị trường bao gồm nhiều chủ thể trong nền

kinh tế bao gồm các doanh nghiệp, các hộ gia đình và chính quyền mỗi một
khu vực có một nhu cầu khác nhau về quỹ cho vay.
Đối với doanh nghiệp : nhu cầu đầu tư của doanh nghiệp bao gồm hai
thành phần cơ bản đầu tư vào hàng tồn kho và đầu tư vào tài sản cố định.
Những thành phần đầu tư chịu tác động của nhiều yếu tố khách nhau. Những
sự thay đổi ròng về hàng tồn kho được phát sinh chủ yếu từ sự chênh lệch
giữa doanh số bán dự tính và doanh số bán thực hiện như đã dự tính, nếu như
doanh số bán thực hiện như doanh số bán dự tính thì không lượng hàng tồn
kho không vượt quá mức cần thiết. Ngược lại nếu doanh số bán thực hiện
vuợt quá mức dự tính thì doanh nghiệp tồn kho ở mức thấp so với tổng doanh
số bán. Vì vậy sự biến động của hàng tồn kho ảnh hưởng nhiều đến nhu cầu
của doanh nghiệp về quỹ vay. Bởi vi hàng tồn kho thường đựoc tài trợ bằng
những khoản vay ngắn hạn thông thường tại các ngân hàng thương mại và
thông qua tín dụng thương mại do các nhà cung cấp dành cho doanh nghiệp
cho nên những thay đổi về hành tồn kho thường gây ra các biến động mạnh
trong nhu cầu của doanh nghiệp về khối lượng hàng tồn kho từ đó gây ra
Nguyễn Văn Đức Ngân hàng 47A
5
B¶n th¶o chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
những biến động về lãi suất ngắn hạn.
Nhu cầu vốn vay lớn nhất của doanh nghiệp được xác định theo kế hoạch
đầu tư chúng thường xuất phát từ cân nhắc cản thận của ban quản trị trong
thời gian dài. Những nhu cầu thay đổi cầu về quỹ cho vay nhằm đáp ứng dầu
tư. Ít biến đổi hơn so với nhu cầu về quỹ cho vay nhămd đáp ứng nhu cầu về
hàng tồn kho. Nhìn chung các nhà máy thiết bị được tài trợ bằng các quỹ cho
vay dài hạn. Điều này kiến cho khu vực thị trường tài chính dài hạn ổn định
hơn so với khu vực tài chính ngắn hạn.
Đối với chính quyền : khu vực chủ yếu khác liên quan đến nhu cầu về
quỹ trong các thị trường tài chính là khu vực chính quyền.
Nhu cầu tài chính của khu vực chính quyền liên quan chủ yếu từ chính

sách tài chính. Quy mô của ngân sách phụ thuộc vào các quy mô thuế suất,
chi tiêu của chính phủ vào hàng hóa dịch vụ và thanh toán các khoản nợ.
Thiếu hụt ngân sách là nguyên nhân tạo ra mức cầu của quỹ cho vau vì
mức thâm hụt ngân sách được bù đắp bằng cách đi vay trên thị trường tài
chính duới hình thức phát hành trái phiếu.
Nhu cầu của người tiêu dùng bao gồm nhu cầu về thực phẩm, trang trí,
chi phí y tế văn hóa hàng lâu bền nhà ở và cá chi phí xa xỉ phẩm khác. Trong
đó hàng tiêu dụng hàng hóa xa xỉ nhạy cảm với lãi suất. một sự thay đổi về lãi
suất sẽ dấn đến sự gia tăng của nhu cầu về những món hàng hóa này. Mặt
khác các nhu cầu yếu phẩm hàng ngày không nhạy cảm với lãi suất. cũng
giống như doanh nghiệp, yếu tố tâm lý cũng ảnh hưởng đến người tiêu dùng.
Trong giai đoạn kinh tế trì trệ thì nhu cầu về quỹ cho vay giảm mặc dù lãi
suất thị trường thấp, vì nỗi lo sợ nền kinh tế khủng hoảng hoặc thất nghiệp.
Ngược lại khi nguời tiêu dùng tin tưởng nền kinh tế phát triển thì lãi suất thấp
có tác dụng thúc đầy tiêu dùng mặc dù đang ở trong nền kinh tế khó khăn.
Nguyễn Văn Đức Ngân hàng 47A
6
B¶n th¶o chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
Nhiệm vụ cơ bản của hệ thống tài chính là phân phối những quỹ vay từ
các đơn vị thặng dư tiền tiết kiệm sang tay các đơn vị thiếu hụt tiền tiết kiệm
sự phân phối này được thực hiện qua các thị trường tài chính và trung gian tài
chính. Trên thực tế, quỹ cho vay được trao đổi với người vay bằng các con
đường khác nhau.
Giao dịch trực tiếp giữa chủ thể vay và các chủ thể cho vay. Người đi
vay và cho vay có thẻ liên hệ trực tiếp với nhau không cần có sự giúp đỡ của
tổ chức trung gian tài chính hoặc bất kỳ các định chế tài chính nào khác.
Phương pháp này gọi là tài trợ trực tiếp, sau khi hoàn thành một giao dịch
người cho vay giao cho người vay một tài sản cố định người vay giao cho
người cho vay một tài sản tài chính để đổi lấy quỹ. Thông thường thì người đi
vay cam kết trong tương lai thực hiện các khoản chi trả cho người cho vay và

người cho vay thu lại đủ quỹ đã cho vay cộng thêm một khoản lợi tức từ
chuyển nhượng qũy.
Giao dịch tín dụng bán trực tiếp thông qua các nhà môi giới. Một phương
pháp thông dụng khác của họat động trao đổi trực tiếp là các trái quyền của tài
chính giữa các chủ thể tài chính giữa người vay và người cho vay và cho vay
là kĩ thuật tài trợ bán trực tiếp. Trong một số trường hợp người vay và người
đi vay dựa vào bên thứ ba để hoàn thành hợp đồng tín dụng.
Giao dịch tín dụng gián tiếp. những khiếm khuyết của tài trợ trực tiếp và
bán trực tiếp mở đường cho một phương pháp thứ ba đó là thực hiện các giao
dịch tài chính thông qua họat động của ngân hàng tổ chức trung gian tài chính
hoặc tài trợ gián tiếp. Bằng phương pháp này cả hai bên chủ thể đi vay và chủ
thể cho vay đều được thỏa mãn các yêu cầu tài chính nhờ các tổ chức trung
gian tài chính.
Giao dịch tín dụng của ngân hàng là kênh truyền tải vốn quan trọng nhất
chiếm trên 50% chu chuyển cho vay trong nền kinh tế. Đối với các nước phát
Nguyễn Văn Đức Ngân hàng 47A
7
B¶n th¶o chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
triển tỷ lệ cao hơn nhiều sở dĩ như vậy xuất phát từ vai trò trung gian tài chính
của các ngân hàng và các đinh chế tài chính nhận tiền gửi khác như sau:
Trung gian về mệnh giá : các ngân hàng và các định chế tài chính huy
động các khoản tiền tiết kiệm nhỏ từ các tổ chức cá nhân hoặc từ tổ chức
những quỹ này lại được nhập thành những quỹ lớn để cấp phát chủ yếu cho
các doanh nghiệp. Thực tế các khoản vay lớn gấp hàng trăm lần so với các
một khoản tiền tiết kiệm.
Trung gian rủi ro sai hẹn : các ngân hàng cấp phát những khỏan vay chi
những người đi vay nhiều rủi ro và đồng thời phát hành những chứng khoán
tuờng đối an toàn và lưu họat để huy động quỹ cho vay từ những người tiết
kiệm không chấp nhận rủi ro.
Trung gian về hạn kỳ : quỹ cho vay họat động tương đối ngắn hạn từ

người tiết kiệm và người này không chấp nhận giao quỹ của họ với kỳ hạn
dài. Trong đó người đi vay đòi hỏi sử dụng quỹ với thời hạn lâu hơn. Tín
dụng sẽ giải quyết được mâu thuẫn đó tức là trung gian kỳ hạn.
Trung gian về thông tin là nói đến tiến trình các ngân hàng sử dụng
năng lực của họ để thu thập và xử lý thông tin thị trường tài chính thay cho
người tiết kiệm thuờng không có thì giờ lẫn nghiệp vụ để nắm bắt những thay
đổi của thị trường và cũng không thể tiếp cận thông tin liên quan đến thị
trường và các cơ hội đầu tư. Nhằm thu thập thông tin đầy đủ về người đi vay
các tổ chức tín dụng phải tiêu tốn đáng kể về thời gian vốn và cả nghiệp vụ
những nguồn lực mà những nhà tiết kiệm lớn hay nhỏ và ngay cả một số nhà
tiết kiệm lớn cũng không có được.
Ngày nay, với xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới ,tín dụng ngân
hàng còn tham gia tạo điều kiện phát triển các mối quan hệ đối ngoại.thông
qua hoạt động này các nước có thể mở rộng và thắt chặt mối quan hệ với nhau
tạo điều kiện thúc đẩy sự mở rộng tăng cường nguồn vốn tín dụng.
Nguyễn Văn Đức Ngân hàng 47A
8
B¶n th¶o chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
1.1.3 Phân loại tín dụng
Ngân hàng cho vay dưới rất nhiều hình thức trong đó các hình thức sử
dụng rộng rãi nhất bao gồm :
Các khoản cho cho vay kinh doanh ngắn hạn :
- Cho vay mua hàng dự trữ.
- Cho vay vốn lưu động.
- Cho vay ngắn hạn với các công trình xây dựng.
- Cho vay kinh doanh chứng khoán.
- Cho vay kinh doanh bán lẻ.
- Cho trên tài sản.
Các khoản cho vay cho vay kinh doanh dài hạn :
- Cho vay kỳ hạn mua các thiết bị và các tài sản cố định khác.

- Cho vay luân chuyển.
- Cho vay theo dự án.
- Cho vay tài trợ mua lại công ty.
Các khoản cho vay kinh doanh ngắn hạn :
Các khoản cho vay mua hàng dự trữ : từ trước đến nay các ngân hàng
thường thích cho các hãng vay ngắn hạn bổ sung tạm thời vốn họat động.
Trong thực tế cho tới sau chiến tranh thế giới lần thứ hai các ngân hàng vẫn
chủ yếu cấp tín dụng dưới hình thức tự thanh toán. Các khoản vay này chủ
yếu được tài trợ cho việc mua hàng dự trữ như nguyên liệu thô hoặc hàng
hóa. Các khoản vay này thường tận dụng chu kỳ kinh doanh của doanh
nghiệp như sau:
- Tiền mặt chỉ dùng để mua hàng hóa dự trữ nguyên vật liệu bán thánh
phẩm hoặc thành phẩm.
- Hàng hóa được sản xuất ra để bán.
- Hàng hóa đã bán (thường là bán chịu )
Nguyễn Văn Đức Ngân hàng 47A
9
B¶n th¶o chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
- Tiền mặt thu về (ngay cả khi bán hàng hoặc thu về từ các khoản thu
bán chịu) và được dùng để thanh toán cho ngân hàng.
Trong trường hợp này ngân hàng kỳ hạn của khoản vay bắt đầu được
tính khi hãng cần vốn đáp ứng mua hàng kết thúc khi hãng nhận được tiền
mặt bán hàng và nhập vào tài khoản để trả nợ cho ngân hàng.
Mặc dù cho đến ngày nay các ngân hàng không còn đơn thuần chỉ cho
vay các khoản thanh toán như trước mà nó đã xuất hiện hàng lọat các loại
hình cho vay khác nhau các khoản cho vay ngắn hạn thường mang tính tự
thanh toán vẫn chiếm hơn 50% giá trị các khoản vay trong thanh toán ngân
hàng .
Trên thực tế các khoản vay này chỉ có kỳ hạn kéo dài trong vòng vài
tuần hoặc vài ngày thường liên quan đến nhu cầu vay ngắn hạn để phục vụ

cho nhu cầu vay ngắn hạn để trang trải chi phí như thuế suẩt hoặc là trả lãi cổ
phiếu và thanh toán các khỏan nợ khác..
Cho vay vốn lưu động : Đây là những khoản cho vay ngắn hạn đối với
các hãng kinh doanh với kỳ hạn kéo dài từ vài ngày đến một năm. Các khoản
vay vốn lưu động thường được sử dụng để mau hàng dự trữ hoặc nguyên vât
liệu do đó nó cũng tương tự nhu khoản vay ngắn hạn được đề cập ở trên.
Thông thường các khoản vốn lưu động được sữ dụng để đáp ứng mức
sản xuất và nhu cầu tín dụng trong các thời kỳ cao điểm của chu kỳ kinh
doanh. Thông thường các khoản vay vốn lưu động thường được bảo đảm
bằng các khoản thu hoặc được xác định bằng hàng tồn kho và khách hàng sẽ
chịu lãi suất thả nổi trên lượng tiền vay thực tế họ đã sử dụng. Khỏan lệ phí
cam kết được tính theo phần trăm của toàn bộ hạn mức. Ngân hàng cũng đòi
hỏi khách hàng phải có số dư bù tiền gửi. Số dư bù tiền gửi bao gồm lượng
tiền gửi bắt buộc xác định trên quy mô của hạn mức tín dụng.
Vay ngắn hạn các công trình xây dựng : một hình thức vay ngắn hạn có
Nguyễn Văn Đức Ngân hàng 47A
10
B¶n th¶o chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
phổ biến hiện nay là cho vay hỗ trợ các công trình nhà ở, các tòa nhà văn
phòng, các trung tâm thương mại các công trình khác. Mặc dù thời gian xây
dựng công trình cho vay kéo dài nhưng các khỏan cho vay chỉ mang tính chất
tạm thời. Các khoản vay này cấp vốn cho bên thi công để công nhân thuê thiết
bị xây dựng mua vật liệu xây dựng giải phóng mặt bằng. Khi đoạn xây dựng
kết thúc bên thi công thường vay thế chấp dài hạn để thanh toán cho các
khoản vay ngắn hạn. Trong thực tế, chỉ khi công ty xây dựng chắc chắn có
một khoản cam kết vay dài hạn để tiếp tục dự án thì ngân hàng mới cho phép
được vay trong ngắn hạn.
Cho vay kinh doanh chứng khoán : những người kinh doanh chứng khoán
chính phủ và chứng khoán tư nhân cần sự hỗ trợ của ngân hàng để mua chứng
khoán mới và duy trì danh mục đầu tư chứng khoán hiện có cho tới khi chứng

khoán này được bán hoặc đến hạn thanh toán. Các ngân hàng lớn nhất thường
sẵn sàng cho vay đối với người kinh doanh chứng khoán. Vì những khoản vay
này có chất lượng cao thường được bảo đảm bằng chứng khoán chính phủ mà
kinh doanh mà nhà kinh doanh chứng khoán nắm giữ. Hơn nữa nhiều khoản
vay chứng khoán có kỳ hạn rất ngắn chỉ là khoản vay qua đêm hoặc vài ngày,
nhờ vậy ngân hàng có khả năng nhanh chóng thu hồi vốn hặc cho vay với
khoản vay mới với lãi suất cao hơn nếu lãi suất thị trường trở nên căng thẳng.
Một hình thức tín dụng ngân hàng khách thuộc lãi này là tổ chức cho vay
đối với các tỏ chức đầu tư, hỗ trợ cho hoạt động bảo lãnh và phát hành trái
phiếu, cổ phiếu công ty và giấy nợ của chính phủ. Việc bảo lãnh phát hành
chứng khoán thường diến ra khi ngan hàng tiến hành vào ki ngân hàng giúp
đỡ công ty tiến hành mua công ty, khi công ty phát hành chứng khoán, phát
hành thêm cổ phiếu để tăng quy mô vốn kinh doanh của doanh nghiệp thực
hiện đầu tư kinh doanh mới. khi ngân hàng bán chứng khoán mới cho các nhà
đầu tư chứng khoán mới trên thị trường thì các khoản vay cũng đựơc hòan trả.
Nguyễn Văn Đức Ngân hàng 47A
11
B¶n th¶o chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
Cho vay kinh doanh bán lẻ : các ngân hàng hỗ trợ người tiêu dùng trong
việc cho vay trả góp xe máy trong đó đồ dùng gia đình nôi thất và các hàng
hóa lâu bền khác bằng cách tài trợ cho các khoản thu mà người bán những
hàng hóa này sẽ được thanh toán sau khi họ ký hợp đồng bán hàng trả góp.
Hợp đồng trả góp sẽ được ngân hàng của người bán lẻ xem xét. Nếu đáp ứng
được các yêu cầu tín dụng ngân hàng sẽ mua những hợp đồng này với một
mức lãi suất hợp lý thay đổi tùy theo chất lượng tín dụng của người vay vốn,
chất lượng của vật thấp chấp và thời hạn của mỗi khoản cho vay.
Đối với những khoản cho vay mô tô , ti vi, đồ nội thất và các hàng hóa
lâu bên khác ngân hàng có thể đồng ý tài trợ thông qua việc xác nhận tài trợ
toàn bộ dự trữ hàng tồn kho thông qua việc xây dựng kế hoặch sàn.ngân hàng
có thể đồng ý cấp tín dụng cho người bán lẻ để người bán lẻ nhận hàng của

các tổ chức sản xuất chuyển hàng. Lúc đầu hầu hết các khoản cho vay như
vậy có kỳ hạn 90 ngày và sau đó có thể được tái hạn với thời gian là môt
tháng hoặc vài tháng. Để có được khỏan tín dụng này người bán lẻ phải có
hợp đồng đảm bảo an toàn cho phép ngân hàng có quyền sở hữu hàng hóa
trong trường hợp họ không thẻ thanh toán được khoản vay. Sau đó người sản
xuất có thể chuyển hàng cho người bán lẻ và gửi hóa đơn đến thanh toán cho
nhân viên ngân hàng. Định kỳ ngân hàng sẽ cử cán bộ tới kiểm tra hàng trong
kho của nguời bán lẻ để xác định lượng hàng hóa trong kho của người bán lẻ
để xác định lượng hàng đã bán và lượng hàng tồn kho. Sau khi bán người bán
sẽ gửi séc đến thanh toán cho khoản vay.
Cho vay trên tài sản : trong những năm gần đây, các khoản cho vay trên
tài sản là khỏan tín dụng được đảm bảo bằng các tài sản ngắn hạn của các
hãng, được dự tính sẽ chuyển thành các khoản tiền mặt trong tương lai ngày
càng chiếm tý trọng lớn tropng tổng cho vay ngắn hạn. Tài sản đảm bảo cho
các khoản vay bao gồm các khoản phải thu, nguyên liệu vật liệu hoặc thành
Nguyễn Văn Đức Ngân hàng 47A
12
B¶n th¶o chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
phẩm tồn kho. Đối với hầu hết các khoản vay dựa trên tài sản doanh nghiệp
vẫn có quyền sở hữu trên tài sản. Tuy nhiên đôi khi quyền sở hữu vẫn chuyển
ra cho ngân hàng để hạn chế một số rủi ro khi một số khoản nợ phải chuyển
sang cho ngân hàng để hạn chế rủi ro khi có một số khoản nợ không được
thanh toán như dự tính.
Các khoản cho vay dài hạn :
Cho vay kinh doanh kỳ hạn: các khỏan cho vay kỳ hạn thường đựơc
dùng để tài trợ cho hoạt động đầu tư trung và dài hạn thường kéo dài hơn
một năm.
Như mua máy móc thiết bị hoặc xây dựng các công trình thường là các
hãng yêu cầu được vay một khoản trọng gói dựa trên chi phí của dự án đã đề
xuất và cam kết thanh toán khoản vay thành nhiều lần.

Do đó các khoản vay kỳ hạn sẽ được thanh toán thành nhiều lần trên cơ
sở dòng thu nhập của hãng. Nhìn chung kế hoặch kinh doanh thanh toán được
xây dựng phù hợp với chu trình lưu chuyển tiền tệ của hãng. Tuy nhiên vẫn
tồn tại những điểm mù mà tại đó hãng thiếu tiền mặt thanh toán. Một số thỏa
thuận không yêu cầu khách hàng trả tiền gốc trước đến khi hết hạn.
Thông thường các khoản vay được đảm bảo bẳng tài sản cố định thuộc
sở hữu của người vay có thể chịu lãi suất cố định hoặc thả nổi. do rủi ro lãi
suất lớn, lãi suất trong trường hợp này được cao hơn mức áp dụng với các
khoản vay ngăn hạn. Khả năng mất khả năng thanh toán hoặc khả năng xảy ra
những bất lợi trong hoạt động kinh doanh của người vay rõ ràng là cao hơn.
Vì lý do này cán bộ tín dụng và những nhà phân tích tín dụng phải chý ý đến
một số yếu tố khác nhau trong đơn xin cho vay vốn dài hạn.
Cho vay luân chuyển : một khoản vay luân chuyển cho phép khách hàng
có thể vay tới một mức tối đa xác định trước, hoàn trả toàn bộ hoặc một phần
khoản cho vay và tiếp tục như vây cho đến khi đến hết hạn.
Nguyễn Văn Đức Ngân hàng 47A
13
B¶n th¶o chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
Là một trong những khoản cho vay kinh doanh linh hoạt nhất yêu cầu
tín dụng linh họat được ngân hàng chấp nhận mà không đòi hỏi bảo đảm bằng
bất cứ bằng tài sản đảm bảo nào. Có khoản cho vay như vậy có thể là ngắn
hạn hoặc kéo dài ba hoặc bốn năm. Loại hình tín dụng này khi khách hàng
không chắc chắn về thời gian của các luồng tiền mặt hoặc về quy mô của việc
vay vốn trong tương lai. Tín dụng luân chuyển giúp hãng có giảm biến động
trong quá trình kinh doanh khi mà doanh số bán hàng giảm cho phép hoàn trả
khi nguồn thu của tín dụng tăng lên. Ở nơi mà pháp luật quy định về việc
ngân hàng phải chấp nhận mọi yêu cầu cho vay vốn tron giới hạn của hạn
mức tín dụng thì ngân hàng thường tính phí cam kết trên phần tín dụng không
sử dụng hoặc trên toàn bộ giá trị hợp đồng cho cam kết.
Cam kết vay vốn thường có ba loại loại phổ biến là cam kết vay vốn

chính thức là cam kết có tính chất hợp đồng trong đó ngân hàng đảm bảo sẽ
cho khách hàng vay với mức vốn tối đa xác định trước với lãi suất thả nổi.
Đối với loại cam kết này ngân hàng có thể không thực hiện nghĩa vụ này nếu
tình hình tài chính của người cho vay có những tổn hại nghiêm trọng hoặc
người đi vay không thực hiện các điều khỏan trong hợp đồng. loại thứ hai ít
chặt chẽ hơn đó là hạn mức tín dụng là hạn mức tín dụng đảm bảo theo đó
ngân hàng có thể cho khách hàng vay trong trường hợp khẩn cấp. Mặc dù lãi
suất không được ấn định trước và có ít khách hàng lựa chọn phương thức vay
vốn này nhưng họ vẫn ký kết hợp đồng như một tài sản đảm bảo để vay vốn
từ những người khác. Ngân hàng chỉ dành tín dụng nới lỏng cho những tổ
chức có uy tín cao nhất và thường định giá thấp hơn nhiều so với cam kết cho
vay chính thức. Cam kết này cho phép khách hàng nhận được tiền vay đây là
một điểm quan trọng nếu như khách hàng muốn vay từ tổ chức tín dung khác.
Cho vay dự án dài hạn : loại hình cho vay kinh doanh có mức độ rủi ro
Nguyễn Văn Đức Ngân hàng 47A
14
B¶n th¶o chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
cao nhất là cho vay dự án. Đây là khoản tín dụng tài trợ cho việc xây dựng
các tài sản cố định được dự tính mang lại thu nhập trong tương lai. Một số ví
dụ đáng chú ý bao gồm xây dựng nhà máy lọc dầu lắp đặt đường ống dẫn dầu
xây dựng lắp đặt nhà máy năng lượng các phương tiện bốc dở tại cảng hàng.
Có rất nhiều rủi ro quy mô lớn ảnh hưởng đến các dự án : quy mô lớn, các dự
án có thể bị hoãn lại do không đủ vật liệu xây dựng hoặc là do thời tiết. các
quy định tại các vùng quốc gia nơi tiến hành xây dựng có thể tiến hành theo
chiều hướng tiêu cực gây ảnh hưởng tới khả năng hòan thiện và làm tăng chi
phí của dự án.lãi suất có thể tăng làm bất lợi cho việc thu hồi vốn của người
cho vay hoặc gây ra khả năng biến động bất lợi tới khả năng trả nợ của dự án.
Với những dự án lớn các khoản vay thường được cung cấp chung cho một số
công ty tham gia dự án đồng thời do quy mô và mức độ rủi ro không nhỏ nên
việc cho vay dự án lớn đòi hỏi sự tham gia của một vài tỏ chức tài chính.

Các khoản cho vay dự án có thể được chấp nhận dựa trên cơ sở bảo lãnh
theo đó người cho vay có thể không phục vốn từ những tổ chức thực hiện bảo
lãnh nếu dự án không trả được nợ đúng theo kế hoạch đã định. Tuy nhiên
khảo vay cũng có thể được cung cấp không dự trên cơ sở bảo lãnh, không có
người đứng bảo đảm; dự án tồn tại hay sụp đổ dựa trên giá trị của nó. Trong
trường hợp này người cho vay phải đối mặt với những rủi ro rất lớn và họ sẽ
yêu cầu một mức lãi suất cao hơn những khoản cho vay có tài sản đảm bảo.
Đối với khoản vay như vậy ngân hàng thường đòi hỏi tổ chức tài trợ dự án
phải thế chấp tài sản cho đến khi hoàn tất.
1.2 Chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm và sự cần thiết nâng cao chất lượng tín dụng
Chất lượng tín dụng là một phạm trù phản ánh mức độ rủi ro trong bảng
tổng hợp cho vay của một tổ chức tín dụng. Để phản ánh về chất lượng tín
Nguyễn Văn Đức Ngân hàng 47A
15
B¶n th¶o chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
dụng, có rất nhiều chỉ tiêu, nhưng nói chung người ta thường quan tâm: tỷ lệ
nợ xấu trên tổng dư nợ, tỷ lệ và cơ cấu tài sản đảm bảo. Ngoài ra, để đánh giá
định tính về chất lượng tín dụng, người ta còn quan tâm đến: Cơ cấu dư nợ
các khoản vay ngắn - dài hạn trong tương quan cơ cấu nguồn vốn của tổ chức
tín dụng, dư nợ cho vay các lĩnh vực rủi ro cao tại thời điểm đó: bất động sản,
cổ phiếu
Tín dụng là hoạt động mang lại thu nhập lớn nhất cho ngân hàng đồng
thời cũng mang lại rủi ro lớn nhất cho hoạt động của NHTM. Để hạn chế rủi
ro, giảm bớt thiệt hại ,nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh các NHTM
thường đăt ra yêu cầu nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng.
Dịch vụ ngân hàng được hiểu là các nghiệp vụ ngân hàng về vốn, tiền tệ,
thanh toán,… mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng đáp ứng nhu cầu kinh
doanh, sinh lời, sinh hoạt cuộc sống, cất trữ tài sản,… và ngân hàng thu chênh
lệch lãi suất, tỷ giá hay thu phí thông qua dịch vụ ấy. Trong xu hướng phát

triển ngân hàng tại các nền kinh tế phát triển hiện nay, ngân hàng được coi
như một siêu thị dịch vụ, một bách hoá tài chính với hàng trăm, thậm chí hàng
nghìn dịch vụ khác nhau tuỳ theo cách phân loại và tuỳ theo trình độ phát
triển của ngân hàng. Sản phẩn tín dụng trước hết cũng là môt sản phẩm dịch
vụ vì vậy khi xem xét nó cần đưa ra một số chỉ tiêu định tính và định lượng .
Qua nghiên cứu thực tiễn, thì việc xem đánh giá chất lượng tín dụng được
xem xét trên một số giác độ sau :
- Quan trọng nhất là sự thoả mãn sự hài lòng của khách hàng. Dịch vụ
ngân hàng do ngân hàng cung ứng là để đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
Nếu như chất lượng của dịch vụ ngày càng hoàn hảo, có chất lượng cao thì
khách hàng sẽ gắn bó lâu dài và chấp nhận ngân hàng. Không những vậy,
những lời khen, sự chấp nhận, thoả mãn về chất lượng của khách hàng hiện
Nguyễn Văn Đức Ngân hàng 47A
16
B¶n th¶o chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
hữu họ sẽ thông tin tới những người khác có nhu cầu dịch vụ tìm đến ngân
hàng để giao dịch. Đây cũng là một khía cạnh để đánh giá.
- Họat động tín dụng là một họat động sinh lợi lớn của các ngân hàng
nhưng bên cạnh đó nó cũng chứa đựng nhiều rủi ro do đó việc đưa ra quy
trình chặt chẽ , xây dựng một sản phẩm tín dụng hoàn hảo có ý nghĩa hết sức
quan trọng Chất lượng dịch vụ của ngân hàng ngày càng hoàn hảo, giảm các
sai sót trong giao dịch của ngân hàng với khách hàng, giảm thiểu những lời
phàn nàn và khiếu kiện, khiếu nại của khách hàng đối với ngân hàng. Bên
cạnh đó là những rủi ro trong kinh doanh dịch vụ của ngân hàng này càng
giảm thiểu và đến mức không còn rủi ro đây cũng là cơ sở để họat động kinh
doanh đẩm bảo được tính sinh lời cao.
- Bên cạnh đó đứng trên góc độ kinh tế xã hội thì hoạt động tín dụng
còn được đánh giá dựa trên nó đem lại bao nhiêu lợi ích cho xã hội,có thoả
mãn được tiêu thức phát triển nhanh và bền vững không,có tuân thủ luật pháp
không và nó đóng góp vào bao nhiêu phần trăm trong tốc độ tăng trưởng của

nền kinh tế
Nêu lên các chỉ tiêu như vậy để định hướng các giải pháp để đưa ra các
chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng.từ đó để đưa ra các biện pháp đảm bảo
chất lượng và không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng cung cấp
cho khách hàng.
1.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng
1.2.2.1. Nhóm chỉ tiêu định tính
Đây là các chỉ tiêu phản ánh sự thoả mãn sự hài lòng của khách hàng.
Dịch vụ ngân hàng do ngân hàng cung ứng là để đáp ứng nhu cầu của khách
hàng.
Đồng thời đây là các chỉ tiêu phản ánh sự tiện lợi hay hoàn thiện của các
sản phẩm tín dụng của ngân hàng
Nguyễn Văn Đức Ngân hàng 47A
17
B¶n th¶o chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
Đối với khách hàng, chất lượng tín dụng được thể hiện qua các chỉ tiêu
- Quy trình thủ tục: quy trình thủ tục phản ánh sự thuận tiện của dịch
vụ đối với khách hàng. Các doanh nghiệp có nhu cầu đều có thể tiếp
cận với nguồn tín dụng này với nhiều hình thức vay vốn để lựa chọn,
chi phí vốn hợp lý, thủ tục vay vốn nhanh chóng thuận tiện, được tư
vấn, hướng dẫn nhiệt tình, chu đáo và chuyên nghiệp là biểu hiện của
một quy trình thủ tục hoàn hảo để tiếp cận khách hàng.
- Khả năng đáp ứng các nhu cầu vay vốn đa dạng như khách hàng có
thể dễ dàng vay vốn để đầu tư mua sắm, xây dựng các TSCĐ mới;
đầu tư sửa chữa, hoán đổi, nâng cấp các TSCĐ hiện có; thực hiện các
hình thức thanh toán trong nước và quốc tế liên quan đến các hoạt
động trên và các nhu cầu cần thiết khác hoặc khách hàng có thể dễ
dàng vay vốn để bổ xung vốn lưu động nhằm phục vụ cho các hoạt
động: mua hàng hoá, nguyên vật liệu, phụ liệu, nhiên liệu, linh
kiện…; thanh toán các khoản chi phí như tiền thuế, tiền điện, tiền

lương nhân công…; thực hiện các hình thức thanh toán trong nước và
quốc tế liên quan của khách hàng. Đồng thời với sự đa dang hóa ngân
hàng cũng phải đảm bảo sàng lọc đối tượng để đảm bảo an toàn cho
ngân hà
- Điều kiện vay vốn : điều kiện vay vốn của ngân hàng bao gồm : năng
lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân
sự theo quy định của Pháp luật. Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp.
khả năng tài chính đảm bảo trả nợ (gốc và lãi) cho Ngân hàng trong
thời hạn cam kết. dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch
vụ khả thi, có hiệu quả hoặc có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời
sống khả thi kèm theo phương án trả nợ khả thi phù hợp với quy định
của pháp luật. Thực hiện đảm bảo tiền vay theo đúng quy định của
Nguyễn Văn Đức Ngân hàng 47A
18
B¶n th¶o chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
Chính phủ, hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và của bản
thân ngân hàng. Điều kiện vay vốn của ngân hàng vừa phản ánh khả
năng quản lý rủi ro của ngân hàng đồi thời cũng phải đảm bảo tính
phù hợp của những điều kiện để khách hàng tham gia. Tài sản đảm
bảo vừa đảm bảo tính cần thiết nhưng cũng không quá khắt khe kiến
cho khách hàng khó đáp ứng được
- Khả năng cung ứng vốn của ngân hàng thương mại đẩy đủ kịp thời đáp
ứng nhu cầu vốn cho khách hàng : không gây sự chậm trễ ách tắc về vốn gây
ảnh hưởng đến kế hoạch sản xuất kinh doanh của khách hàng. Chi phí sử
dụng vốn hợp lí và chất lượng ngiệp vụ tín dụng tốt. Thực hiện đồng bộ các
giải pháp huy động vốn từ thị trường trong nước, khai thác và sử dụng có hiệu
quả nguồn vốn tài trợ của các tổ chức quốc tế cho doanh nghiệp tích cực xử lý
nợ tồn đọng để tăng khả năng đáp ứng kịp thời các nhu cầu vốn tín dụng của
nền kinh tế, trên cơ sở đảm bảo an toàn và hiệu quả tín dụng.
- Khả năng cung ứng gói dịch vụ đồng bộ : bên cạnh vốn thì các hỗ trợ

khác cũng đóng vai trò quan trọng khác như dịch vụ thanh toán, dịch vụ thẻ,
mở tài khoản
- Khả năng đảm bảo mục tiêu và tính an toàn cũng như khả năng thẩm
định dự án chính xác : Hoạt động tín dụng của ngân hàng phải đảm bảo mục
tiêu định hướng của ngân hàng trong ngắn hạn cũa như dài hạn bên cạnh đó
cũng đáp ứng khả năng hoàn trả đúng hạn gốc và lãi của người vay. Ngoài ra
khả năng thẩm định dự án cũng là một tiêu chí quan trọng, khả năng thẩm
định không chỉ giúp ngân hàng hoạt động kinh doanh được an toàn mà còn
giúp cho doanh nghiệp chọn lọc dự án kinh doanh có hiệu quả.
1.2.2.2. Nhóm chỉ tiêu định lượng
Nhóm các chỉ tiêu định lượng là bao gồm một hệ thống các chỉ tiêu được
Nguyễn Văn Đức Ngân hàng 47A
19
B¶n th¶o chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
uớc lượng cụ thể. Các chỉ tiêu này được phân thành hai loại là nhóm các chỉ
tiêu đảm bảo tính an toàn của hoạt động tín dụng và nhóm các chỉ tiêu phản
ánh họat động tính sinh lời của hoạt động tín dụng.
- Tỷ lệ nợ quá hạn : “Nợ quá hạn" là khoản nợ mà một phần hoặc toàn
bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá hạn. Nợ quá hạn được phân chia như sau:
Nợ quá hạn có tài sản đảm bảo: Là khoản nợ khi cho vay người đi vay là
doanh nghiệp phải thế chấp tài sản cho ngân hàng, theo pháp luật, ngân hàng
có quyền phát mãi tài sản để thu nợ, do vậy, nợ quá hạn này tuy chưa thu
được nhưng ngân hàng thương mại vẫn có khả năng thu hồi của doanh nghiệp
tốt thì cũng có khả năng thu hồi nợ.
Nợ quá hạn không có tài sản đảm bảo: Là khoản nợ khi cho vay, ngân
hàng không yêu cầu người vay phải thế chấp tài sản. Loại nợ này, con nợ là
doanh nghiệp vay vốn vẫn tồn tại, vẫn hoạt động kinh doanh nếu tình hình tài
chính
Nợ quá hạn là nợ khó đòi (hay còn gọi là nợ xấu): Loại nợ này xảy ra và
tồn đọng ở những doanh nghiệp vay vốn có tình hình hoạt động sản xuất kinh

doanh và tình hình tài chính yếu kém, biểu hiện là sản xuất kinh doanh bị lỗ,
nợ phải trả tăng, doanh nghiệp mất khả năng thanh toán hoàn toàn. Thời hạn
nợ tồn đọng khá lâu, có thể kéo dài trên một năm, 2 – 3 năm hoặc lâu hơn nữa
và rất khó giải quyết.
Tỷ lệ nợ quá hạn được xác định bằng tỷ lệ của nợ quá hạn và tổng dư nợ
tín dụng. Đây là tỷ lệ phản ánh cho biết có bao nhiêu nợ quá hạn trong một
đồng vốn cho vay. Tỷ lệ này thấp thì nó phản ánh được chất lượng tín dụng
càng cao của ngân hàng . Nếu tỷ lệ này quá cao thì bản thân ngân hàng sẽ có
Nguyễn Văn Đức Ngân hàng 47A
20
B¶n th¶o chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
thể phải đối mặt với kiểm soát chặt chẽ từ ngân hàng trung ương thông quan
việc buộc ngân hàng phải tăng dữ trữ bắt buộc,làm giảm khả năng thanh
khoản, và có thể đe doạ đén khả năng phá sản của ngân hàng .
Nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn = 100%
Tổng dư nợ
Đề thực hiện việc quản lý nợ quá hạn một cách dễ dang ngân hàng nhàn
nước ban hành quyết định 493/2005/ QĐ –NHNN về phân loại nợ của tổ chức
tín dụng.
Nhóm 1(Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ trong hạn mà tổ
chức tín dụng đánh giá là có đủ khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng
thời hạn;
Trường hợp khách hàng trả đầy đủ nợ gốc và lãi theo kỳ hạn đã được cơ
cấu lại tối thiểu trong vòng một (01) năm đối với các khoản nợ trung và dài
hạn, ba (03) tháng đối với các khoản nợ ngắn hạn và được tổ chức tín dụng
đánh giá là có khả năng trả đầy đủ nợ gốc và lãi đúng thời hạn theo thời hạn
đã được cơ cấu lại, tổ chức tín dụng có thể phân loại lại khoản nợ đó vào
nhóm 1.
Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm: Các khoản nợ quá hạn dưới 90 ngày;

Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn nợ đã cơ cấu
lại. Ngoài ra trong trường hợp một khách hàng có nhiều hơn một khoản nợ
với tổ chức tín dụng mà có bất kỳ khoản nợ bị chuyển sang nhóm nợ rủi ro
cao hơn thì tổ chức tín dụng bắt buộc phải phân loại các khoản nợ còn lại của
khách hàng đó vào các nhóm nợ rủi ro cao hơn tương ứng với mức độ rủi ro.
Trường hợp các khoản nợ (kể cả các khoản nợ trong hạn và các khoản nợ cơ
Nguyễn Văn Đức Ngân hàng 47A
21
B¶n th¶o chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn nợ đã cơ cấu lại) mà tổ chức tín
dụng có đủ cơ sở để đánh giá là khả năng trả nợ của khách hàng bị suy giảm
thì tổ chức tín dụng chủ động tự quyết định phân loại các khoản nợ đó vào các
nhóm nợ rủi ro cao hơn tương ứng với mức độ rủi ro.
Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ quá hạn từ 90
đến 180 ngày;Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày
theo thời hạn đã cơ cấu lại;
Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm: Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360
ngày; Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180
ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại;
Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm:Các khoản nợ quá hạn trên
360 ngày. Các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý. Các khoản nợ đã cơ
cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời hạn đã được cơ cấu lại;
Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ : Nợ xấu" (NPL) là các khoản nợ : Các
khoản nợ quá hạn trên 90 ;Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn
đang trong thời gian quá hạn của ky hạn được cơ câu lại; Tỷ lệ nợ xấu trên
tổng dư nợ là tỷ lệ để đánh giá chất lượng tín dụng của tổ chức tín dụng.
Nếu tỷ lệ nợ xấu quá cao thì chứng tỏ ngân hàng hoạt đọng kém hiệu
quả và ngược lại . Một khi khách hàng không thực hiện đúng hợp đồng tín
dụng, để xuất hiện nợ quá hạn có nghĩa là chất lượng khoản tín dụng đó có
vấn đề, xảy ra nguy cơ có khả năng mất vốn . Tỷ lệ nợ xấu phụ thuộc vào

phương thức hoạt động của ngân hàng.
Nhóm nợ xấu là nợ quá hạn mang lại nhiều rủi ro cao cho ngân hàng .Do
đó tỷ lệ nợ xấu cũng là chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng
Nguyễn Văn Đức Ngân hàng 47A
22
B¶n th¶o chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
.Các khoản nợ xấu thuộc nhóm 3 đến 5
Nợ xấu
Tỷ lệ nợ xấu = * 100%
Tổng dư nợ
Tỷ lệ nợ xấu cho biết trong một đồng dư nợ có bao nhiêu đồng nợ xấu,
hay nợ xấu chiếm bao nhiêu phần trăm tổng dư nợ .Chỉ tiêu này càng thấp thì
ngân hàng có nợ xấu càng it điều này chứng tỏ ngân hàng hoạt động lành
mạnh.
Vòng quay vốn tín dụng : Để đặc trưng cho khả năng họat động của tín
dụng người ta đưa ra chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng. Đây là chỉ tiêu cho biết
một đơn vị vốn sẽ được sẽ được sử dụng bao nhiêu lần. Tỷ số này càng cao
thì khả năng sử dụng vốn càng hiệu quả :
Doanh số thu nợ
Vòng quay vốn tín dụng = * 100%
Mức dư nợ bình quân
Dư nợ đầu kỳ + Dư nợ cuối kỳ
Dư nợ bình quân = * 100%
2
Vòng quay vốn tín dụng càng cao, tốc độ luân chuyển vốn càng nhanh
chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn càng cao . Vòng quay vốn trong từng thời kỳ
khác nhau sẽ khác nhau chính vì vậy trong chính sách tín dụng cần phải đưa
ra các giải pháp phù hợp để sử dụng hiệu quả vốn trong từng thời kỳ.
Chi phí dự phòng/ Tổng dư nợ
Dự phòng rủi ro là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn

Nguyễn Văn Đức Ngân hàng 47A
23
B¶n th¶o chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
thất có thể xảy ra do khách hàng của tổ chức tín dụng không thực hiện hoặc
không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết. dự phòng rủi ro
được hạch toán theo dư nợ gốc và hạch toán vào chi phí hoạt động của tổ
chức tín dụng .
Theo đó thì dự phòng được chia làm hai loại :
Dự phòng chung : Là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn
thất chưa xác định trong quá trình phân loại nợ và trích lập dự phòng cụ thể
Tổ chức tín dụng thực hiện trích lập và duy trì dự phòng chung bằng
0,75 % tổng giá trị của các khoản nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4 sau đây:
Khách hàng là tổ chức, doanh nghiệp bị giải thể, phá sản theo quy định
của pháp luật; cá nhân bị chết hoặc mất tích.
Các khoản nợ thuộc nhóm 5. Riêng các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ
xử lý, tổ chức tín dụng được sử dụng dự phòng (nếu có) để xử lý rủi ro tín
dụng
Dự phòng cụ thể : Là khoản tiền được trích lập trên cơ sở đã phân loại cụ
thể các khoản nợ quy định tại điều 6 để dự phòng cho những tổn thất có thể
xảy ra. Số tiền dự phòng cụ thể phải trích được tính theo công thức sau:
R = max {0, (A - C)} x r
Trong đó: R: số tiền dự phòng cụ thể phải trích
A: giá trị của khoản nợ.
C: giá trị của tài sản bảo đảm
r: tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể
Giá trị của tài sản bảo đảm (C) được xác định trên cơ sở tích số giữa tỷ lệ
áp dụng được quy định : Giá trị thị trường của vàng; Mệnh giá của trái phiếu
Chính phủ, tín phiếu Kho bạc, và các loại giấy tờ có giá của các tổ chức tín
dụng; Giá trị thị trường của chứng khoán của doanh nghiệp và của tổ chức tín
Nguyễn Văn Đức Ngân hàng 47A

24
B¶n th¶o chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
dụng khác; Giá trị của tài sản bảo đảm là động sản, bất động sản và các tài sản
bảo đảm khác ghi trên hợp đồng bảo đảm, hợp đồng cho thuê tài chính. Tỷ lệ
tối đa áp dụng để xác định giá trị của tài sản bảo đảm quy định phù hợp với
mức độ rủi to của tài sản chẳng hạn như chứng chỉ tiền gửi là 100%, đối với
các bất động sản là 70%
Tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể :
Nhóm 1 : 0%
Nhóm 2 : 5%
Nhóm 3 : 20%
Nhóm 4 : 50%
Nhóm 5 : 100%
Riêng các khoản nợ khoanh chờ chính phủ xử lí được trích lập dự phòng
theo khả năng tài chính của tổ chúc tín dụng
Các ngân hàng thương mại thực hiện việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi
ro tín dụng một quý một lần. Việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro theo
những nguyên tắc sau:
Sử dụng dự phòng cụ thể xử lý rủi ro tín dụng đối với khoản nợ đó.
Phát mại tài sản bảo đảm để thu hồi nợ: Tổ chức tín dụng phải khẩn trương
tiến hành việc phát mại tài sản bảo đảm theo thoả thuận với khách hàng và
theo quy định của pháp luật để thu hồi nợ. Trường hợp phát mại tài sản không
đủ bù đắp cho rủi ro tín dụng của khoản nợ thì được sử dụng dự phòng chung
để xử lý đủ.
Tỷ số chi phí dự phòng trên tổng dư nợ phản ánh phần chi phí trên một
đồng vốn cho vay. Tỷ lệ này càng cao tức là ngân hàng nợ xấu của ngân hàng
cao
Chất lượng tín dụng giảm . Đây cũng là chỉ tiêu phản ánh khả năng
Nguyễn Văn Đức Ngân hàng 47A
25

×