Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

những thành tựu, hạn chế cần khắc phục và bài học kinh nghiệm của quá trình hội nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (262.69 KB, 48 trang )

Đề án môn học
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 2
Chương I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ TOÀN CẦU HOÁ KINH TẾ VÀ
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 3
I. Khái niệm về toàn cầu hoá, khu vực hoá và hội nhập kinh tế quốc tế 3
1. Khái niệm về toàn cầu hoá 3

2. Khái niệm về khu vực hóa 5
3. Khái niệm về hội nhập 6
3.1 Định nghĩa về hội nhập 6
3.2. Các hình thức và mức độ hội nhập kinh tế quốc tế 8
II. Các nhân tố thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá kinh tế 10
1. Sự phát triển của khoa học - công nghệ 10
2. Chính sách mở cửa, tự do hoá thương mại và đầu tư quốc tế 11
3. Sự quốc tế hoá các hoạt động kinh doanh và vai trò của các công ty
xuyên quốc gia 12
Chương II. THỰC TRẠNG KINH TẾ QUỐC TẾ VIỆT NAM 14
I.Tính tất yếu hội nhập kinh tế Việt Nam 14
1. Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế quốc tế là tất yếu khách quan 14
2. Cơ hội và thách thức của Việt Nam trước xu thế toàn cầu hoá 15
II. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam 22
1. Giai đoạn trước năm 1985 22
2. Quá trình đổi mới , mở cửa, hội nhập từ 1986 đến năm 2000 24
21. Chính sách đổi mới, mở cửa đơn phương từ 1986 đến 1990 24
1
1
Đề án môn học
2.2. Chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ từ 1991 đến
1995 25
2.3. Đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới từ năm


1996 đến nay 28
III. Những thành tựu, hạn chế cần khắc phục và bài học kinh nghiệm
của quá trình hội nhập 30
1. Những thành tựu đã đạt được sau 15 năm mở của đổi mới 30
2. Những hạn chế cần khắc phục 32
3. Những bài học kinh nghiệm của quá trình đổi mới 35
IV. Chủ trương , nguyên tắc chỉ đạo hội nhập kinh tế cần thực hiện
trong quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam 37
1. Mục tiêu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế 37
2. Chủ trương, nguyên tắc của đảng và nhà nước trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế 38
V. Những nhiệm vụ và các biện pháp cần thực hiện trong quá trình hội
nhập 39
KẾT LUẬN 43
2
2
Đề án môn học
LỜI MỞ ĐẦU
Vào những thập niên của thế kỷ XX, xu thế toàn cầu hoá và hội nhập
kinh tế quốc tế ngày càng phát triển mạnh mẽ. Sự gia tăng mạnh mẽ đó đòi
hỏi các quốc gia phải có chiến lược hội nhập phù hợp vào nền kinh tế thế
giới và khu vực. Trong bối cảnh này, không thể phát triển nếu như không
mở cửa hội nhập. Tuy vậy, hội nhập một mặt sẽ đón nhận được những cơ
hội cho phát triển, Song mặt khác, cũng phải đối với hàng loạt những thách
thức do chính xu thế toàn cầu hoá đặt ra. Vì vậy, trong Đại hội đảng IX của
Đảng ta đã nêu rõ: “Toàn cầu hoá là xu thế khách quan, lôi cuốn các nước,
bao trùm hầu hết các lĩnh vực, vừa thúc đẩy hợp tác, sức ép cạnh tranh và
tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế” và Đảng ta đã khẳng định:
"chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa
nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định

hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn
bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường” (văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX, tr 157,120 – NXB chính trị quốc gia).
Đã có rất nhiều đề án, tài liệu nghiên cứu về vấn đề này. Tuy nhiên,
đây là vấn đề mang tính thời đại và còn trong quá trình diễn biến nên đề án
của em không tránh khỏi những thiếu sót sai lầm. Em rất mong có sự đóng
góp của cô giáo và các bạn để đề án của em hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn thầy Trần Thăng Long đã tận tình giúp đỡ
em hoàn thành đề án này.
3
3
Đề án môn học
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ TOÀN CẦU HOÁ
VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ
I. Khái niệm về toàn cầu hoá, khu vực hoá và hội nhập kinh tế quốc tế.
1. Khái niệm về toàn cầu hoá
Thuật ngữ toàn cầu hoá ( tiếng anh viết là globalization) xuất hiện đầu
tiên trong từ điển của Anh vào năm 1961 và được sử dụng phổ biến từ
khoảng cuối thập niên 1980 trở lại đây để diễn đạt một nhận thức mới của
loài người về một hiện tượng, một quá trình trong quan hệ quốc tế hiện đại,
Tuy đến nay, hiên tượng này không còn mới mẻ gì, nhưng để hiểu đúng và
đầy đủ về nó thì cần phải xem xét nó trên nhiều phương diện. Điều cần thấy
là do thực tế vận động của toàn cầu hoá cùng với những hệ quả của nó đã
đưa lại những cách lý giải và thái độ không giống nhau về xu thế này. Nó
xuất phát từ lý do chủ yếu là sự khác biệt về lợi ích và nhận thức. Nhưng
chung quy lại thì toàn cầu hoá có thể được hiểu theo hai nghĩa như sau:
Theo quan niệm rộng: Các định nghĩa loại này xác định toàn cầu hoá
như là một hiện tượng hay một quá trình trong quan hệ quốc tế làm tăng sự
tuỳ thuộc lẫn nhau của đời sống xã hội( từ kinh tế, chính trị, an ninh, văn

hoá đến môi trường ) giữa các quốc gia. Tiến sỹ janart scholte đưa ra một
định nghĩa rất tổng quát và rộng lớn về khái niệm toàn cầu hoá khi cho
rằng:” toàn cầu hoá là một quan niệm có nhiều mặt vì nó bao quát cả lĩnh
vực kinh tế, xã hội, chính trị và các hậu quả của sự phân phối”. Cũng theo
tinh thần đó, các học giả GS.TS Dương phú hiệp và học giả Lê Hữu nghĩa
đưa ra một định nghĩa cụ thể hơn:” toàn cầu hoá xét về bản chất là quá trình
4
4
Đề án môn học
tăng lên mạnh mẽ những mối liên hệ, sự ảnh hưởng, tác động lẫn nhau của
tất cả các khu vực đời sống chính trị, kinh tế, xã hội của các quốc gia, các
dân tộc trên toàn thế giới”.
Vậy những quan niệm như quốc tế hoá là xu thế trước đó của toàn cầu
hoá. Và nó là một quá trình nên nó khác với các vấn đề toàn cầu. Như vậy
thì các quốc gia dù ở mức độ này thay mức độ khác trên thế giới đều tuỳ
thuộc lẫn nhau, có quan hệ qua lại với nhau. Nếu không các quốc gia này sẽ
rơi vào lạc hậu
Theo quan niệm hẹp, Toàn cầu hoá là một xu hướng bao gồm nhiều
phương diện kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội Trong các mặt đó thì toàn
cầu hoá kinh tế vừa là trung tâm, vừa là cơ sở và cũng là động lực thúc đẩy
các lĩnh vực khác của xu thế toàn cầu hoá nói chung và thực tế toàn cầu hoá
kinh tế đang là xu thế nổi bật nhất. Nhìn chung các định nghĩa thuộc loại
này xem toàn cầu hoá là một khái niệm kinh tế chỉ hiện tượng hay quá trình
hình thành thị trường toàn cầu làm tăng sự tương tác và tuỳ thuộc lẫn nhau
giữa các nền kinh tế quốc gia
Về cơ bản, toàn cầu hoá bao hàm sự tăng lên của thị trường chức
năng thế giới không ngừng xâm nhập và lấn át các nền kinh tế quốc gia đang
trong quá trình mất đi đặc tính quốc gia. Charles p oman định nghĩa toàn cầu
hoá là:” sự tăng lên, hoặc một cách chính xác hơn là sự tăng ngày càng
nhanh của các hoạt động kinh tế vượt ra khỏi biên giới giữa các quốc gia và

các khu vực”. Như vậy, thực chất của toàn cầu hoá về kinh tế là tự do kinh
tế và hội nhập quốc tế, trước hết là về thương mại, đầu tư , dịch vụ tự do
hoá kinh tế cũng có những mức độ khác nhau, từ giảm thuế quan đến xoá bỏ
thuế quan, từ tự do thương mại đến tự do hoá đầu tư, dịch vụ, từ tự do hoá
kinh tế trong quan hệ hai bên đến nhiều bên, trong quan hệ khu vực đến toàn
cầu.
5
5
Đề án môn học
Theo GT.TS Dương Phú Hiệp thì” toàn cầu hoá kinh tế chính là sự gia
tăng nhanh chóng các hoạt động kinh tế vượt qua mọi biên giới quốc gia,
khu vực, tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trong sự vận
động phát triển hướng tới một nền kinh tế thống nhất, sự gia tăng của xu thế
này được thể hiện sự mở rộng mức độ và quy mô mậu dịch thế giới, sự lưu
chuyển của các dòng vốn và lao động trên phạm vi toàn cầu”.
2. Khái niệm khu vực hoá
Khái niệm về khu vực hoá đã có từ lâu cùng với xu thế toàn cầu hoá
phát triển rộng rãi trên toàn thế giới, xu thế khu vực hoá nổi lên là xu thế các
nước tập hợp thành những nhóm khu vực ở lĩnh vực khác nhau. Nó cũng
đựơc định nghĩa theo hai quan niệm rộng và hẹp
Theo quan niệm rộng: khái niệm khu vực hoá thường được sử dụng
để chỉ một hiện tượng hay khuynh hướng hợp tác hay liên kết giữa các nước
và hình thành những nhóm hoặc tổ chức khu vực hoạt động trên một hoặc
nhiều lĩnh vực khác nhau. Giá sư C.P.oman định nghĩa khu vực hoá là:” sự
dịch chuyển hai hoặc nhiều xã hội theo hướng liên kết chặt chẽ giữa chúng
với nhau”. Nhìn chung, các nhà lí luận và nghiên cứu gắn khái niệm khu
vực hoá với khái niệm liên kết khu vực và các định chế, tổ chức khu vực.
Theo quan niệm hẹp: khái niệm khu vực hoá nhìn chung được đề cập
như một hiện tượng trong quan hệ quốc tế bao gồm các hoạt động hợp tác
kinh tế giữa một số nước tập hợp thành những nhóm khu vực có mức độ liên

kết kinh tế khác nhau.
Ta có thể thấy về cơ bản nội dung của khu vực hoá và toàn cầu hoá là
giống nhau. nó chỉ khác nhau về quy mô và phạm vi địa lý của quá trình.
Khi quá trình này diễn ra giữa hai hoặc nhiều nước trong một khu vực địa lý
nhất định, nó được gắn với khái niệm khu vực hoá. khi quá trình này có sự
tham gia của rất nhiều quốc gia ở những khu vực địa lý khác nhau, nó được
6
6
Đề án môn học
gắn với khái niệm toàn cầu hoá. Nhìn một cách tổng quát, nó là quá trình
hình thành và phát triển các thị trường toàn cầu và khu vực, làm tăng sự
tương tác và tuỳ thuộc lẫn nhau, trước hết về kinh tế, giữa các luồng thông
qua sự gia tăng các luông giao lưu hành hoá và nguồn lực vượt qua biên giới
giữa các quốc gia cùng với sự hình thành của các định chế, tổ chức quốc tế
nhằm quản lý các hoạt động các hoạt động và giao dịch kinh tế quốc tế.
Tuy toàn cầu hoá và khu vực hoá là hai hiện tượng có những khác biệt
nhất định nhưng cơ bản thống nhất với nhau, có thể xem khu vực hoá là bộ
phận của qúa trình toàn cầu hoá
3. Khái niệm về hội nhập.
3.1. Định nghĩa về hội nhập
Như vậy, quá trình toàn cầu hoá và khu vực hoá là một. Xu thế tất yếu
của các nước, khi trình độ lực lượng sản xuất đã phát triển cao , khi đó cần
phải có sự hợp tác quốc tế và quốc tế hoá sản xuất. Các quốc gia dù muốn
hay không đều chịu tác động của quá trình toàn cầu hoá và đương nhiên để
tồn tại và phát triển trong điều kiện hiện nay không thể không tham gia quá
trình toàn cầu hoá tức là phải hội nhập quốc tế.
Thực ra, khái niệm hội nhập cũng được xuất hiện cùng với các khái
niệm về toàn cầu hoá, khu vực hoá và việc nghiên cứu nó cũng đã được tiến
hành từ lâu tuy nhiên chưa có một định nghiã nào đầy đủ về nó được thừa
nhận. Về thực chất, hội nhập chính là sự chủ động tham gia vào quá trình

toàn cầu hóa, khu vực hóa. Có thể định nghĩa như sau:” hội nhập kinh tế
quốc tế là quá trình chủ động gắn nền kinh tế và thị trường của từng nước
với kinh tế khu vực và thế giới thông qua các nỗ lực tự do hoá và mở cửa
trên các cấp độ đơn phương, song phương và đa phương”.
Mỗi nước có thực sự hội nhập, có thực sự tham gia vào quá trình toàn
cầu hóa là do chính sách bên trong của mỗi nước có làm cho nước đó tham
7
7
Đề án môn học
gia vào các định chế, tổ chức kinh tế toàn cầu và khu vực. Vì vậy, nội dung
chủ yếu của quá trình này là:
Thứ nhất là ký kết và tham gia các định chế và tổ chức kinh tế, cùng
các thành viên đàm phán xây dựng các luật chơi chung và thực hiện các quy
định, cam kết đối với thành viên của các định chế, tổ chức đó.
Thứ hai tiến hành các công việc cần thiết ở trong nước để đảm bảo đạt
được mục tiêu của quá trình hội nhập cũng như thực hiện các quy định, cam
kết quốc tế và hội nhập. Những công việc chủ yếu đó là: Điều chỉnh chính
sách theo hướng tự do hoá và mở cửa, giảm và tiến tới dỡ bỏ hàng rào thuế
quan và phi thuế quan, làm cho việc trao đổi hàng hoá, dịch vụ, đầu tư và sự
luân chuyển vốn, lao động, kỹ thuật giữa các nước thành viên ngày càng
thông thoáng hơn. Việc điều chỉnh này trước hết có ý nghĩa là làm cho hệ
thống luật định của mỗi quốc gia về chế độ thương mại( bao gồm cả ngoại
thương, sản xuất kinh doanh, thuế, vấn đề xuất nhập cảng, lưu trú các doanh
nhân, ) ngày càng hoàn chỉnh và phù hợp với các quy định của các định
chế, tổ chức quốc tế mà các nước tham gia.
Nhưng mỗi nước muốn quá trình hội nhập của nước đó trở thành chủ
động, tức là có sự chuẩn bị khi hội nhập thì về cơ bản phải làm những công
việc sau:
Thứ nhất điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế phù hợp với quá trình tự do
hoá mở cửa nhằm làm cho nền kinh tế thích ứng và vận hành có hiệu quả

trong điều kiện cạnh tranh quốc tế. Mục tiêu cao nhất của sự điều chỉnh này
là tạo ra được nền kinh tế tối ưu, có khả năng cạnh tranh cao, phát huy tốt
nhất những ưu thế của đất nước trong quá trình hội nhập.
Thứ hai tiến hành các cải cách cần thiết về kinh tế, xã hội đặc biệt là
cải cách hệ thống các doanh nghiệp để nâng cao năng lực cạnh tranh.
8
8
Đề án môn học
Thứ ba đào tạo và chuẩn bị tốt nguồn nhân lực nhất là những người có
trình độ cao để có thể đáp ứng tốt các đòi hỏi của quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế.

3.2. Các hình thức và mức độ hội nhập kinh tế quốc tế.
Do các nước đều có một điều kiện nhất định nên hình thức và mức độ
hội nhập của các quốc gia cũng rất khác nhau. Tuỳ theo chính sách mở cửa
tự do hoá để hội nhập mà có những cấp độ khác nhau. ở cấp độ đơn
phương, song phương hoặc đa phương.
Ở cấp độ đơn phương,ở mức độ này các quốc gia chỉ chủ động thức
hiện những biện pháp tự do hoá mở cửa đối với những lĩnh vực mà họ thấy
cần thiết vì mục đích phát triển kinh tế của mình, chứ không nhất thiết do
quy định của các định chế, tổ chức kinh tế quốc tế họ đã tham gia.
Ở cấp độ song phương, các nước đàm phán để ký với nhau các hiệp
định song phương trên cơ sở nguyên tắc của một khu vực mậu dich tự do.
Ở cấp độ đa phương, nhiều nước cùng nhau thành lập hoặc tham gia
vào những định chế, tổ chức kinh tế và khu vực toàn cầu. Nó có thể là
những định chế tổ chức kinh tế khu vực bao gồm các nước thành viên cùng
trong một khu vực địa lý giới hạn( Ví dụ: liên minh châu âu-EU, diễn đàn
hợp tác kinh tế châu á- thái bình dương- APEC). Những định chế, tổ chức
toàn cầu bao gồm các thành viên từ nhiều khu vực khác nhau trên thế giới
Và tuỳ theo mức độ hội nhập có thể chia ra làm 5 mức độ với 5 mô

hình từ thấp đến cao như sau:
Khu vực mậu dịch tự do: la giai đoạn thấp nhất của tiến trình hội nhập
kinh tế. ở giai đoạn này, các nước thành viên tiến hành giảm và loại bỏ dần
các hàng rào thuế quan, các hạn chế định lượng và các biện pháp phi thuế
9
9
Đề án môn học
quan. Tuy nhiên, họ vẫn độc lập thực hiện các chính sách thuế quan đối với
các nước ngoài khối (ví dụ: ASEAN, NAFIA)
Liên minh thuế quan: đây là giai đoạn tiếp theo của quá trình hội nhập.
Ngoài những công việc ở giai đoạn trên, thì các thành viên phải cùng nhau
thực hiện chính sách thuế quan chung với các nước ngoài khối ( ví dụ:
ANDEAN và liên minh thuế quan giữa cộng đồng kinh tế châu âu)
Thị trường chung: là mô hình thức liên minh thuế quan cộng thêm với
việc bãi bỏ các hạn chế đối với việc lưu chuyển các yếu tố sản xuất khác.
Như vậy, trong mô hình này, không những hàng hoá và dịch vụ mà hầu hết
các nguồn lực khác đều được tự do lưu chuyển giữa các thành viên(ví dụ:
cộng đồng kinh tế châu âu-EC)
Liên minh kinh tế:là mô hình hội nhập ở giai đoạn cao dựa trên cơ sở
mô hình thị trường chung cộng thêm với việc phối hợp các chính sách kinh
tế giữa các thành viên.
Liên minh toàn diện là giai đoạn cuối của quá trình hội nhập. Các
thành viên thống nhất về chính trị và các lĩnh vực kinh tế khác. Như vậy, ở
giai đoạn này quyền lực quốc gia ở các lĩnh vực được chuyển giao cho một
cơ cấu cộng đồng (ví dụ:quá trình thành lập Hoa Kỳ từ các thuộc địa của
Anh trước đây)
Tuy sự phân biệt ở trên chỉ mang tính chất lý thuyết và trên thực tế các
hình thức hội nhập kinh tế rất phong phú. Và có rất nhiều trở ngại trong quá
trình hội nhập giữa các nước. Đó là các nước thành viên phải có nền kinh tế
vận hành tương đối giống nhau. Các nền kinh tế có trình độ phát triển

không quá cách xa nhau. Rồi là sự khác biệt về hệ thống chính trị – xã hội
giữa các thành viên là những cản trở đối với quá trình hội nhập. Tuy nhiên
những cản trở này đang dần không còn trở nên quan trọng nữa.
10
10
Đề án môn học
Các nước trên thế giới để không bị gạt ra ngoài lề của sự phát triển thì
đều nỗ lực hội nhập vào xu thế chung, ra sức cạnh tranh kinh tế vì sự tồn tại
và phát triển của mình mà vẫn đảm bảo được an ninh chính trị, độc lập
Kinh tế và bản sắc dân tộc của các nước trong một thế giới do sự tuỳ
thuộc lẫn nhau, đan xen ở nhiều chiều, ở nhiều tầng lớp giữa các quốc gia
khác nhau.
II. Các nhân tố thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá kinh tế.
1. Sự phát triển của khoa học- công nghệ.
Đây là nhân tố quan trọng nhất và xuyên suốt các thời kỳ phát triển
của quá trình toàn cầu hoá. Vì bản chất của toàn cầu hoá là kết quả của sự
phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất. Như vậy thì suy cho cùng
thì toàn cầu hoá là kết quả của sự phát triển của lực lượng sản xuất mà nó
luôn gắn liền với sự phát triển của khoa học công nghệ nhưng sự phát triển
của lực lượng sản xuất phải đạt đến một trình độ nhất định. Khi mà bắt buộc
phải có sự hợp tác quốc tế và chuyên môn hoá sản xuất, khi mà sự tiến bộ
của phương tiện giao thông làm cho thế giới bị thu nhỏ lại về không gian và
thời gian. Sự phát triển đó phá vỡ kinh tế tự cấp tự túc. mở rộng thị trường
giao lưu, trao đổi hàng hoá không chỉ trong phạm vi quốc gia mà còn diễn
ra trên thị trường khu vực và thế giới. Lúc này , nhu cầu tiêu dùng của dân
cư không chỉ đáp ứng bằng năng lực sản xuất của từng quốc gia riêng lẻ mà
còn được cung cấp từ các nước khác trên thế giới và khu vực.
Những tiến bộ của khoa học- kỹ thuật và công nghệ bao gồm những
phát minh sáng chế, các biện pháp kỹ thuật tiên tiến, các giống mới, các
phương pháp công nghiệp hiện đại, các lý thuyết và phương thức quản lý

mới trong mọi lĩnh vực được áp dụng vào trong thực tiễn, kinh doanh làn
tăng năng suất lao động tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm thặng dư cho xã
hội với giá rẻ hơn, tạo ra tiền đề thúc đẩy sự hình thành và phát triển sự
11
11
Đề án môn học
phân công, chuyên môn hoá lao động sản xuất và kinh doanh theo ngành
nghề, cùng lãnh thổ giữa các quốc gia. nhờ đó, sự trao đổi quốc tế về hàng
hoá, dịch vụ, vốn, lao động và tri thức ngày một tăng.
Hiện nay, dưới tác động của cuộc cách mạng về công nghệ thông tin,
một mô hình kinh tế đã hình thành. Đó là mô hình kinh tế tri thức trong đó
tri thức trỏ thành một lực lượng sản xuất ngày càng quan trọng. Nó mở ra
thời kỳ mới tạo điều kiện thuận lợi đẩy mạnh xu thế toàn cầu hoá. Các công
việc giao dịch được thực hiện ngày càng nhanh mặc dù cách xa về địa lý
nhưng các hàng hoá có hàm lượng tri thức cao ngày càng được trao đổi
nhiều trên thị trường thế giới. Ngoài ra , mạng internet hình thành cho phép
con người có thể biết được hầu hết mọi diễn biến của đời sống kinh tế- xã
hội trên thế giới trong giây lát và chính điều này, sẽ góp phần nâng cao trình
độ dân trí, tạo điều kiện cho dân chủ phát triển, thúc đẩy nhu cầu mở cửa,
giao lưu, hội nhập
2. Chính sách mở cửa, tự do hoá thương mại và đầu tư quốc tế.
Đây là yếu tố mang tính chủ quan tạo điều kiện và thúc đẩy sự phát
triển theo hướng phục vụ cho lợi ích của các quốc gia. Nhân tố này đóng
vai trò then chốt đến mức độ hội nhập của quốc gia đó. Tuỳ theo tình hình
trong nước mà quốc gia đó hội nhập vao xu thế toàn cầu hoá ở mức độ nào.
Nội dung của chính sách mở cửa , tự do hoá là loại bỏ dần dần các hàng rào
nhân tạo cản trở sự giao lưu quốc tế như hạn chế dần sự độc quyền nhà
nước trong sản xuất và kinh doanh xuất nhập khẩu, cho phép nước ngoài
đầu tư kinh doanh một cách ít hạn chế nhất, thực hiện cạnh tranh tự do, binh
đẳng giữa các thành phần kinh tế, hạ thấp và bãi bỏ hàng rào thuế quan đối

với hàng xuất nhập khẩu. Tuy nhiên điều cần phải thấy là nếu thực hiên ồ ạt
các chính sách trên thì đối với những quốc gia mà nền kinh tế còn yếu kém
lại là”con dao hai lưỡi” bóp chết các ngành sản xuất trong nước còn non trẻ.
12
12
Đề án môn học
Ngay cả những nước có nền sản xuất lớn thì có những ngành họ cũng phải
bảo hộ nhất là nông nghiệp. Điều này cho thấy quá trình toàn cầu hoá là
một quá trình rất phức tạp đầy mâu thuẫn và sự khôn khéo của các quốc gia
trong các chính sách kinh tế của mình.
Hiện nay, ngày càng có nhiều chính phủ chuyển sang chính sách tự do
hoá mở cửa thị trường và loại bỏ những cơ chế điều hành cản trở các hoạt
động sản xuất kinh doanh. Chính sách này đã tạo ra môi trường thông
thoáng hơn bao giờ hết cho sự phát triển của các mối quan hệ kinh tế giữa
các quốc gia. Chính sách tự do hoá dã tạo điều kiện cho việc khai thác các
công nghệ mới ở thị trường có quy mô toàn cầu ở mọi nơi trên thế giới .
Nhiều nước đã mạnh dạn dựa nhiều hơn vào các thị trường quốc tế nhằm
tạo các điều kiện thuận lợi cho sự tăng trưởng và phát triển của mình.
Tác động của chính sách mở cửa, tự do hoá có thể đánh giá qua các
mặt như sau:
Sự gia tăng của thương mại quốc tế qua những chỉ số cơ bản như tăng
tổng giá trị tuyệt đối của thương mại thế giới, tỷ lệ giữa tổng giá trị thương
mại và GDP của thế giới, khoảng cách giữa mức tăng thương mại thế giới
và tăng trưởng hàng năm.
Đầu tư trực tiêp nước ngoài và di chuyển tư bản giữa các nước tăng
nhanh.
Sự gia tăng của các luồng lưu chuyên công nghệ và phân công giữa các
nước thể hiên qua số lượng người làm việc được lưu chuyển giữa các nước
và mức tăng hàng năm của dòng lưu chuyển này. Sự trao đổi công nghệ thể
hiện qua các hợp đồng mua bán và dự án chuyển giao công nghệ cũng như

tổng giá trị của các hợp đồng , dự án đó.
3. Sự quốc tế hoá các hoạt động kinh doanh và vai trò của các công ty
xuyên quốc gia.
13
13
Đề án môn học
Sự quốc tế hoá hoạt động sản xuất kinh doanh không những là
nguyên nhân quan trọng trực tiếp gây ra quá trình toàn cầu hoá mà con là
nhân tố thúc đẩy các giai đoạn của quá trình. Chính sách mở cửa tự do hoá
thương mại của các nước đã làm cho các công ty có thể phân bố cơ cấu sản
xuất trên toàn cầu thông qua việc đầu tư nước ngoài. Nhờ các tiến bộ về
khoa học công nghệ thông tin, các công ty có thể bố trí những bộ phận khác
nhau của dây chuyên sản xuất ở các nước mà vẫn quản lý được. Về thực
chất, sự quốc tế hoá các hoạt động sản xuất chẳng qua là sự mở rộng quy
mô sản xuất trên phạm vi toàn cầu nhưng tại sao lại phải mở rộng phạm vi
sản xuất ở các nước bởi vì có thể tận dụng nguồn nguyên nhiên vật liệu các
nước và giúp các nước chuyên môn hoá sâu hơn qua đó giảm giá thành và
tăng sức cạnh tranh của các sản phẩm. Đồng thời có thể mở rộng thị trường
ở các nước này. Khi các công ty này mở chi nhánh ở các nước thì việc làm ,
vốn công nghệ và kỹ năng cũng đã được luân chuyển khắp thế giới.
Do tác động của hai nhân tố đầu , làm cho các quá trình sản xuất kinh
doanh ngày càng được quốc tế hoá rộng rãi và ở mức độ cao hơn nhưng
quá trình này tác động trở lại hai nhân tố kia thúc đẩy nó phát triển và chủ
yếu thông qua:
Thứ nhất là do hàm lượng công nghệ cao ngày càng lớn trong các hàng
hoá và dịch vụ sản xuất ra đòi hỏi cac yếu tố đầu vào của sản xuất kinh
doanh các nước (như vốn, máy móc, thiết bị,nguyên nhiên vật liệu, kỹ
thuật, công nghệ, thông tin, nhân công ) nhiều hơn, phân công lao động
sâu sắc hơn.
Ngày nay, hầu hết các sản phẩm trên thế giới dù là dưới dạng hàng

hoá và dịch vụ đều được thông qua một quá trình mang tính quốc tế hoá
cao. Mỗi một quốc gia đều có thể tham gia vào dây chuyền sản xuất quốc
14
14
Đề án môn học
tế. theo một nhiên cứu của ngân hàng thế giới, năm 1995 sản phẩm chế tạo
của các chi nhánh chiếm tới 20% tổng sản lượng thế giới trong ngành này
Thứ hai vai trò ngày càng lớn của các công ty xuyên quốc gia. Vai trò
quan trọng của các công ty xuyên quốc gia đối với xu thế toàn cầu hoá thể
hiện ở chỗ chúng không những đóng góp tích cực vào việc phát triển lực
lượng sản xuất thế giới mà còn trực tiếp liên kết các nền kinh tế quốc gia lại
với nhau và làm cho quá trình phân công lao động quốc tế trở nên sâu sắc
hơn thông qua các hoạt động chủ yếu là:
- Đầu tư và tiến hành sản xuất kinh doanh ở nhiều nước trên thế giới.
- Tham gia vào việc lưu chuyển tư bản, các giao dịch tài chính và
chuyển giao công nghệ giữa các nước trên thế giới
- Thúc đẩy thương mại toàn cầu hoá và khu vực thông qua lưu chuyển
hàng hoá, dịch vụ “ nội bộ của các công ty xuyên quốc gia. Trao đổi nội bộ
giữa các chi nhánh chiếm khoảng 1/3 tổng giá trị thương mại thế giới.
- Gây ảnh hưởng đến chính sách của các nước. Do các công ty xuyên
quốc gia có thế lực kinh tế rất to lớn, họ có ảnh hưởng không nhỏ quá trình
quyết sách ở các nước, đặc biệt là đối với những chính sách kinh tế- xã hội
có ảnh hưởng tới lợi ích của các công ty xuyên quốc gia, tác động này có
thể tích cực và cũng có thể tiêu cực đối với các nước trong quá trình tự do
hoá mở cửa.
15
15
Đề án môn học
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG KINH TẾ QUỐC TẾ VIỆT NAM.

I. Tính tất yếu hội nhập kinh tế Việt Nam.
1. Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế quốc tế là tất yếu khách quan
Khi mà xu hướng toàn cầu hoá và khu vực hoá phát triển ngày càng
nhanh thì các nước trên thế giới ở mức độ này hay mức độ khác đều phụ
thuộc vào nhau, quan hệ qua lại với nhau. Vì thế, nước nào đóng cửa lại với
thế giới là đi ngược với xu thế của thời đại và khó tránh khỏi bị rơi vào lạc
hậu. Trái lại, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế, tuy có thể phải trả giá nhất
định, song đó là yêu cầu tất yếu hướng tới sự phát triển và nó cũng vì mục
tiêu phát triển kinh tế nhanh đuổi kịp các nước khác trên thế giới, xu thế trên
trở thành xu thế khách quan, lôi kéo tất cả các quốc gia không ngoại trừ một
nước nào. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó, Việt Nam muốn bắt
kịp các nước khác trên thế giới thì phải gia nhập vào “ dòng chảy” phát
triển của thế giới, nhanh chóng học hỏi và nắm bắt những công nghệ tiên
tiến áp dụng vào sản xuất tạo ra những bước đột phá phát triển đất nước.
Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế là tất yếu khách quan. Việc nhận
thức được xu thế chung của thời đại và đề ra việc hội nhập là một trong
những tư tưởng sáng suốt của đảng ta đã khẳng định:” Đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá xây dựng nền tảng cho một nước công nghiệp phải
gắn liền với việc xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động, hội
nhập kinh tế quốc tế”
Nước ta có điểm xuất phát thấp lại thiếu kinh nghiệm hoạt động trên
thương trường thế giới nên khi hội nhập quốc tế phải chủ động và có lộ trình
chu đáo khai thác có hiệu quả nguồn lực của nước ngoài, tại điều kiện khai
thác triệt để nguồn lực trong nước , nhất là nguồn lực lao động. Những vấn
16
16
Đề án môn học
đề khó khăn, thách thức lớn nhất đối với các nước đang phát triển khi tham
gia vào quá trình toàn cầu hoá là mở rộng hợp tác cùng có lợi, bảo vệ được
lợi ích kinh tế, độc lập tự chủ của quốc gia. Nhận thức được các thách thức

đó đảng ta chủ trương:” toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế là
một qúa trình vừa hợp tác để phát triển, vừa đấu tranh rất phức tạp, đặc biệt
là đấu tranh của các nước đang phát triển bảo vệ lợi ích của mình, vì một
trật tự kinh tế quốc tế công bằng, chống lại những áp đặt phi lý của các
cường quốc kinh tế, các công ty xuyên quốc gia”Những tư tưởng quan điểm
của đảng ta thể hiện tính tích cực tham gia vào toàn cầu hoá nhằm khai thác
có hiệu quả nguồn lực nước ngoài thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế
nước ta trong những năm tới, song phải đảm bảo tính độc lập tự chủ về kinh
tế, chính trị
Như vậy, Việt Nam muốn hội nhập kinh tế quốc tế thì phải có những
điều kiện kinh tế nhất định thì mới hội nhập được nhưng đó cũng là con
đường duy nhất mà chúng ta phải đi. Chỉ khi chúng ta hội nhập mà vẫn
đứng vững vẫn phát triển được thì chúng ta mới có cơ hội cạnh tranh với các
nước khác.
2. Cơ hội và thách thức của Việt Nam trước xu thế toàn cầu hoá.
Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế quốc tế là tất yếu khách quan bởi
vì khi hội nhập thì nó đem lại những lợi ích vô cùng to lớn cho đất nước, mở
ra những cơ hội phát triển rất lớn. Những lợi ích và cơ hội đó là:
Một là, thông qua các hiệp ước song phương và đa phương, cho đến nay,
nước ta đã có quan hệ với 154 nước ở khắp các châu lục. kim ngạch xuất
khẩu của nước ta đã tăng từ 677,8 rúp/USD năm 1998 lên 14,3 tỷ rúp/USD
lên tới 15,2 tỷ USD. Từ chỗ nhập siêu tương đối lớn vào cuối những năm
80, đến nay cán cân xuất- nhập khẩu đã gần đạt đến độ cân bằng. Từ chỗ có
rất ít hàng hoá đạt kim ngạch xuất khẩu trên 100 triệu USD. Đến cuối những
17
17
Đề án môn học
năm 90, nước ta đã có những mặt hàng xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD như dầu
thô, gạo, hàng dệt may, giầy dép, chế biến thuỷ sản
Nhìn về tương lai, nếu chúng ta thực hiện đầy đủ các cam kết của

AFTA, tức là giảm thuế nhập khẩu đối với hàng hoá của các nước thành
viên xuống từ 0 đến 5% vào năm 2006, thì lúc đó các hàng hoá của Việt
Nam có thể tiêu thụ khắp thị trường ASEAN với dân số trên 500 triệu người
và GDP trên 700 tỷ USD. Nếu sau một số năm nữa, Việt Nam gia nhập
WTO,thì đương nhiên được hưởng quyền ưu đãi tối huệ quốc trong quan hệ
thương mại với khoảng 150 nước thành viên của WTO( hiện nay đã có 134
nước thành viên) Nhờ vậy, hàng hoá nước ta xuất khẩu vào các nước đó dễ
dàng hơn. Từ năm 2010, hàng rào thuế quan của các nước phát triển thuộc
APEC( hiện co 21 nước thành viên chiếm 60% GDP, và 45% thương mại
thế giới) sẽ bãi bỏ, nước ta cũng có thể mở rộng thị trường, tiêu thụ hàng
hoá sang các nước này. Đối với các nước EU cũng vậy, tiềm năng mở rộng
thị trường tiêu thụ hàng hoá Việt Nam tại các nước đó rất lớn. Dĩ nhiên,
nước ta có bán được nhiều hàng hoá ra bên ngoài hay không còn phụ thuộc
vào chất lượng, giá cả, mẫu mã Tóm lại là sức cạnh tranh của hàng hoá
Việt Nam ra sao?
Hai là, đi đôi với mở rộng thị trường ra thế giới, Việt Nam đã tăng khả
năng thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài. Kể từ khi có luật đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam được chính thức ban hành đầu năm 1988 đến cuối năm 2000 đã có
trên 700 công ty thuộc 62 nước và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp vào nước
ta với hơn 3000 dự án, có tổng số vốn đăng ký 36 tỷ USD, trong đó vốn đã
thực hiện khoảng 17 tỷ USD.
Mặc dù trong mấy năm gần đây, do ảnh hưởng của cuổc khủng hoảng
tài chính- tiền tệ trong khu vực vũng do chúng ta chậm tiếp tực đổi mới cơ
chế chính sách, số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nước ta giảm mạnh
18
18
Đề án môn học
so với những năm 90, song sự đóng góp của khu vực kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài vào sự phát triển kinh tế đất nước vẫn có xu hướng gia tăng: tỷ
trọng của khu vực này trong GDP đã lần lượt tăng lên 6,3% năm 1995; 7,4%

năm 1996; 9,1% năm 1997;9,8% năm 1998; khoảng 10% năm 2000. Ngoài
việc góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng thêm kim ngạch xuất khẩu,
các dự án đầu tư còn tạo ra khoảng 35 vạn việc làm trực tiếp và hàng chục
vạn việc làm gián tiếp.
Ba là cùng với các dòng vốn đầu tư trực tiếp, nhiều tiến bộ kỹ thuật
và công nghẹ mới cũng được đưa vào nước ta. Trong những dự án liên
doanh hoặc 100% vốn nước ngoài thuộc các ngành bưu chính viễn thông,
dầu khí, điện, điện tử, dệt may, da giầy, các công nghệ được chuyển giao
là tương đối hiện đại. Cũng có những công nghệ thuộc loại trung bình không
còn hiệu quả ở các nước phát triển như Mỹ, Nhật, Tây Âu nhưng lại là thích
hợp và còn hiệu quả ở nước ta trong một số ngành sản xuất khác do yêu cầu
sử dụng lao động của các công nghệ đó cao, có khả năng tạo thêm nhiều
việc làm mới.
Dĩ nhiên, ngoài việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài để tạo cơ
hội tiếp nhận tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới về phục vụ các nhu cầu sản
xuất, kinh doanh. Song vì nước ta còn nghèo, dự trữ ngoại tệ rất hạn chế,
kinh nghiệm tiếp cận thị trường chưa nhiều, trình độ thẩm định công nghệ
lại kém và khả năng quản lý sản xuất kinh doanh với công nghệ cao còn
yếu, cho nên con đường thích hợp đối với nước ta hiện nay là tiếp tục đổi
mới cơ chế chính sách, tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn để lấy lại nhịp độ
gia tăng thu hút vốn đầu tư trực tiếp như nhưng năm trước, qua đó mà tiếp
nhận chuyên giao và sử dụng công nghệ tiên tiến có hiệu quả hơn.
Bốn là, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế còn tạo điều kiện khai
thông việc giao lưu các nguồn lực giữa nước ta và thế giới. Trong các nguồn
19
19
Đề án môn học
lực của sự phát triển hiện nay, nguồn lực con người với trí tuệ là tay nghề
cao ngày càng có tầm quan trọng đặc biệt. Hiện nay, với dân số trên 79 triệu
người, Việt Nam có nguồn nhân lực khá dồi dào, tỷ lệ lao động được đào tạo

kỹ thuật chuyên môn còn thấp( năm 2000 mới đạt trên 20%), ít hiểu biết về
thị trường và nghiệp vụ kinh doanh, tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu
việc làm ở nông thôn khá cao. Vì thế , nước ta đang thừa nhiều lao động
giản đơn được đào tạo trong khi lại thiếu nghiêm trọng lao động kỹ thuật và
biết kinh doanh. Trong tình hình ấy, chúng ta đã thông qua con đường hội
nhập kinh tế quốc tế để vừa xuất khẩu mỗi năm khoảng 24-25 ngàn lao động
ra bên ngoài vừa thực hiện các hợp đồng gia công chế biến xuất khẩu, được
xem là xuất khẩu lao động tại chỗ, nhờ vậy mà giảm bớt sức ép về việc làm
ở trong nước. Đồng thời chúng ta đã nhập khẩu một số lại lao động kĩ thuật
cao để giúp cho việc quản lý ,điều hành các cơ sở sản xuất kinh doanh có
công nghệ tiên tiến ,qua đó chúng ta có thể học hỏi những kinh nghiệm cần
thiết .
Dù nhìn ở từng điểm riêng rẽ hay nhìn một cách tổng thể thì việc mở
rộng thị trường ra bên ngoài, gia tăng khả năng thu hút vốn trực tiếp, tạo cơ
hội tiếp nhận chuyển giao công nghệ và đẩy mạnh giao lưu nguồn nhân lực
giữa nước ta với thế giới. Tất cả đều đã góp phần đưa lại những nhân tố mới
cho tăng trưởng kinh tế, đồng thời tạo thêm công ăn việc làm vừa đặt ra yêu
cầu và vừa tạo ra điều kiện cho một bộ phận đáng kể công nhân, viên chức,
cán bộ khoa học kỹ thuật của viên chức của ta tiếp cận được những công
nghệ mới, học hỏi được những kinh nghiệm quản lý tiên tiến, qua đó nâng
cao được chất lượng nguồn nhân lực của chính chúng ta.
Mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ đem lại những lợi ích
mà còn đặt nước ta trước nhiều thách thức nếu chúng ta không có biện pháp
ứng phó tốt để vượt qua thì sự thua thiệt cả về kinh tế và xã hội có thể rất
20
20
Đề án môn học
lớn; ngược lại ,nếu chúng ta có chiến lược thông minh, chính sách khôn
khéo thì sẽ hạn chế được thua thiệt dành được lợi ích nhiều
hơn cho đất nước.

Thách thức đầu tiên mà nhiều người lo ngại nhất hiện nay là do tham
gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực, nước ta phải giảm dần thuế
quan và dỡ bỏ hàng rào phi thuế quan thì hàng hoá nước ngoài sẽ ồ ạt đổ
vào nước ta chèn ép nhiều đơn vị kinh doanh trong nước kéo theo hệ quả
xấu về việc làm, thu nhập và đời sống của người lao động. Với lo ngại đó,
nhiều doanh nghiệp nhất là doanh nghiêp trung bình và yếu kém, thường đỏi
hỏi nhà nước thi hành chính sách bảo hộ càng lâu càng tốt. Tuy nhiên, nếu
đứng từ góc độ lợi ích về lâu dài của quốc gia mà xem xét thì nhà nước
không thể và không nên đáp ứng đòi hỏi nêu trên của các doanh đó được bởi
lẽ:
- Một là Việt Nam có nghĩa vụ thực hiện các cam kết về tự do hoá
thương mại vào các mốc 2006 and 2020 khi đã tham gia AFTA và APEC,
cũng như các cam kết khác khi được kết nạp vào WTO.
- Hai là việc thi hành chính sách bảo hộ mậu dịch luôn là “con dao hai
lưỡi”.Một chính sách bảo hộ có chọn lọc, có điều kiện, có thời hạn thì sẽ
kích thích các nhà sản xuất trong nước khẩn trương đổi mới, tích cực vươn
lên để có sức cạnh tranh mạnh hơn. Trái lại một chính sách bảo hộ quá mức
thì rất có thể trở thành “ gập ông đập lưng ông”. Một tài liệu nghiên cứu gần
đây cho biết: “việc hạn chế định lượng nhập khẩu xi măng là cho giá xi
măng thông dụng cao hơn giá xi măng nhập khâủ chưa có thuế là 50%
( khoảng 20-22 USD/ tấn). Toàn bộ xã hội phải trả thêm 220 triệu USD(11
triệu tấn x 20 triệu USD) năm 1999 để bảo hộ cho ngành xi măng, trong đó
có gần 1/2 số tiền vào túi các nhà đầu tư nước ngoài. Số tiền đó tương
21
21
Đề án môn học
đương với khoảng 40% ngân sách giáo dục của cả nước, gấp gần 4 lần ngân
sách khoa học- kỹ thuật”
Thách thức thứ hai, một thách thức rất nhạy cảm và hệ trọng được đặt
là phải làm giữ vững được độc lập tự chủ trong tiến trình mở cửa và hội

nhập kinh tế quốc tế.Không ít ý kiến cho rằng, nước ta hiện nay với xuất
phát điểm kinh tế rất thấp nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi thị
trường phát triển chưa đồng bộ, một bộ phận đáng kể của nền kinh tế chưa
thoát khỏi lối sản xuất nhỏ lạc hậu, năng suất lao động thấp, sức cạnh tranh
kém, trong khi các nước đi trước, nhất là các cường quốc tư bản phát triển
có lợi thế hơn hẳn về nhiều mặt. Do đó, nếu chúng ta mở rộng quan hệ với
các nước đó thì chúng ta khó tránh khỏi bị lệ thuộc về kinh tế và từ chỗ lệ
thuộc về kinh tế và từ chỗ lệ thuộc về kinh tế mà có thể đi đến chỗ không
giữ vững được độc lập tự chủ nữa. Để hoá giải vấn đề này cần có cách nhìn
nhận theo quan điểm mới. Trước hết, cần nhận rõ độc lập, tự chủ về thực
chất là mỗi nước tự lựa chọn con đường và mô hình phát triển của mình. Tự
quyết định các chủ trương, chính sách kinh tế- xã hội, tự đề ra mục tiêu
chiến lược và kế hoạch trong từng thời kỳ và các biện pháp thực hiện các
mục tiêu đo nhưng độc lập, tự do không có nghĩa là đóng cửa với thế giới
quan niệm độc lập, tự chủ theo kiểu tự cấp, tự túc xây dựng cơ cấu kinh tế
hoàn chỉnh, hướng nội đã được kinh nghiệm của bản thân nước ta chứng
minh là không còn phù hợp với xu thế chung của thời đại và không có hiệu
quả, đẩy đất nước vào tình trạng chậm phát triển về kinh tế không được nếu
không được khắc phục thì sẽ làm xói mòi lòng tin của nhân dân, làm nảy
sinh nhiều vấn đề xã hội nan giải, tạo ra nguy cơ từ bên trong đối với trật tự,
an toàn xã hội và điều đó rốt cuộc khiến cho chúng ta khó giữ vững đựoc
con đưòng phát triển đã lựa chọn là kết hợp độc lập dân tộc với CNXH vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trái
22
22
Đề án môn học
lại, việc mở rộng hợp tác kinh tế hai bên cùng có lợi giữa nước ta với các
nước, các tổ chức quốc tế thì sẽ tạo nên một hình thái tương tuỳ, đan xen lợi
ích với nhau, do đó mà chúng ta có thân thế và lực để giữ vững độc lập tự
chủ của đát nước. đặc biệt trong khi thực hiện phương châm “ đa phương

hoá, đa dạng hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại” chúng ta sẽ thúc đẩy việc
hình thành nên một hệ thống chằng chịt các mối quan hệ quốc tế để hạn chế
và đẩy lùi âm mưu và hành động của một số thế lực nào đó buộc chúng ta
phải lệ thuộc thái quá vào họ.
Cách đây trên một thế kỷ, josé marti- người thầy của nền độc lập cuba
đã nói một câu có ý nghĩa sâu xa :” quốc gia nào muốn độc lập và giàu
mạnh thì phải buôn bán với nhiều nước, còn quốc gia nào chỉ buôn bán với
một nước thôi thì khó tránh khỏi bị phụ thuộc vào nước duy nhất ấy”. Câu
nói đó càng làm sáng tỏ thêm các luận điểm mà đảng ta, trung thành với tư
tưởng hồ chí minh đã nêu lên để chỉ đạo tiến trình mở cửa và hội nhập kinh
tế của nước ta trong bối cảnh toàn cầu hoá ngày nay.
Một thách thức nữa không kém phần quan trọng được đặt ra đối với
chúng ta trong tiến trình mở cửa và hội nhập quốc tế là làm sao giữ vững
được bản sắc văn hoá dân tộc, đảm bảo cho sự phát triển hài hoà và lành
mạnh của đất nước. Đây không chỉ là nổi lo riêng của chúng ta mà còn là
nỗi lo chung của nhiều nước khác trên thế giới. Bởi lẽ, thông qua các “ siêu
lộ thông tin với mạng Internet, xu thế toàn cầu hoá và tiến trình hội nhạp
quốc tế một mặt tạo điều kiện thuận lợi chưa từng có để các dân tộc, các
cộng dồng người ở mọi chân trời góc biển có thể nhanh chóng trao đổi với
nhau về hàng hoá, dịch vụ, kiến thức, phát minh, sáng chế, dữ liệu qua đó
góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển khoa học và công nghệ,
mở mang sự hiểu biết về các nền văn hoá của nhau mặt khác, quá trình trên
cũng làm nảy sinh mối nguy cơ ghê gớm về “ sự đồng nhất hoá các hệ thống
23
23
Đề án môn học
giá trị và tiêu chuẩn, đe doạ làm suy kiệt khả năng sáng tạo của nền văn hoá,
nhân tố hết sức quan trọng đối với sự tồn tại lâu dài của cả nhân loại”
Nguy cơ nói trên lại càng tăng lên gấp bội khi một siêu cường nào đó
tự xem các giá trị văn hoá của mình là ưu việt, là tối thượng. Từ đó, nảy sinh

thái đồ ngạo mạn và ý đồ áp đặt các giá trị của mình cho các dân tộc khác
bằng một chính sách có thể gọi là xâm lược văn hoá với nhiều biện pháp
trắng trợn và tinh vi.
Đứng trước tình hình đó, chúng ta không thể lui về chính sách đóng
cửa, khước từ giao lưu, trao đổi, đối thoại với bên ngoài. Trái lại, với bản
lĩnh vốn có của dân tộc trong quá trình giao lưu văn hoá với thế giới suốt
mấy ngàn năm, chúng ta có thể vững tin và chủ động lựa chọn , tiếp thu các
nhân bản, hợp lý, khoa học , tiến bộ của văn hoá các nước ở phương đông
và phương tây , xem đó là nhân tố cực kỳ quan trọng khơi dậy các tiềm năng
sáng tạo, làm nên những giá trị vật chất và tinh thần mới trong công cuộc
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đồng thời, chúng ta cũng kiên
quyết phản đối sự tiếp nhận mọi thứ mà không phân biệt tốt xấu, hay dở, để
đi đến chỗ mất gốc và lai căng về văn hoá, gây hậu quả xấu về tư tưởng, đạo
đức, lối sống của tầng lớp dân cư.
II. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
1. Giai đoạn trước năm 1985.
Không phải bây giờ chúng ta mới hội nhập. Chủ trương hội nhập đã có
từ khá lâu. Vào trước năm 1945, nền kinh tế Việt Nam về cơ bản vẫn là nền
kinh tế phong kiến tự cung tự cấp. Cho đến những năm 1945, thắng lợi của
cuộc cách mạng Việt Nam năm 1945 đã chấm dứt ách thống trị của thực dân
pháp ở nước ta, mở ra kỉ nguyên độc lập cho dân tộc Việt Nam. Ngay sau
khi giành được độc lập, tư tưởng mở cửa về kinh tế, hội nhập với kinh tế thế
24
24
Đề án môn học
giới đã được chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ trong thư gửi tổng thư ký liên hợp
quốc năm 1946. Người viết:
“Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi
lĩnh vực:
Nước Việt Nam nhận sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư

bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả ngành kỹ nghệ của mình;
Nước Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường sá giao
thông cho việc buôn bán và quá cảng quốc tế.
Nước Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc
tế dưới sự lãnh đạo của Liên Hợp Quốc”
Sau đó, ngày 16-7-1947, khi trả lời một nhà báo nước ngoài, chủ tịch
Hồ Chí Minh nói:
“Chúng tôi chủ trương làm cho tư bản Việt Nam phát triển. mà chỉ có
thống nhất và độc lập thì tư bản Việt Nam mới có thể phát triển. Đồng thời,
chúng tôi hoan nghênh tư bản Pháp và tư bản các nước thật thà cộng tác với
chúng tôi. Một là để xây dựng lại Việt Nam sau lúc bị chiến tranh nên chúng
ta không thể triển khai đầy đủ tư tưởng mở cửa , hội nhập kinh tế nói trên
trong suốt mấy thập kỷ.
Chỉ sau khi thống nhất đất nước năm 1975 mở ra cơ hội to lớn cho sự
nghiệp tái thiết và phát triển kinh tế –xã hội ở Việt Nam. Việt Nam đã tìm
cách mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại với các nước, ký hiệp định buôn bán
song phương mới, nâng tổng số bạn hàng buôn bán lên gần 40 nước. Mặc dù
vậy, đầu tư vào Việt Nam vẫn chủ yếu là các nước XHCN dưới hình thức
chủ yếu là các nước XHCN dưới hình thức viện trợ ko hoàn lại và cho vay
không tính lãi .Tháng 6-1978, Việt Nam tham gia hội đòng tương trợ kinh tế
(SEV).Tuy nhiên hiệu quả của việc Việt Nam tham gia khối cũng rất hạn
chế bởi vì:
25
25

×