ĐỀ BÀI: Đặc điểm tiếp xúc, giao lưu và tiếp biến với văn hóa Trung Hoa.
I.
Khái niệm chung về văn hóa.
Văn hóa là gì? Văn hóa là tất cả những giá trị vật thể do con người sáng
tạo ra trên nền của thế giới tự nhiên. Văn hóa là khái niệm mang nội hàm rộng
với rất nhiều cách hiểu khác nhau, liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất và
tinh thần của con người. Văn hóa bao gồm tất cả những sản phẩm của con
người, và như vậy, văn hóa bao gồm cả hai khía cạnh: khía cạnh phi vật chất của
xã hội như ngôn ngữ, tư tưởng, giá trị và các khía cạnh vật chất như nhà cửa,
quần áo, các phương tiện, v.v... Cả hai khía cạnh cần thiết để làm ra sản phẩm và
đó là một phần của văn hóa.
Văn hóa là sản phẩm của lồi người, văn hóa được tạo ra và phát triển
trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song, chính văn hóa lại tham
gia vào việc tạo nên con người, và duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Văn hóa
được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thơng qua q trình xã hội hóa. Văn
hóa được tái tạo và phát triển trong quá trình hành động và tương tác xã hội của
con người. Văn hóa là trình độ phát triển của con người và của xã hội được biểu
hiện trong các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động của con người
cũng như trong giá trị vật chất và tinh thần mà do con người tạo ra.
- Văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người
sáng tạo ra trong quá trình lịch sử.
- Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người
sng1 tạo và tích lũy qua q trình hoạt động thực tiễn,trong sự tương tác giữa
con người với môi trường tự nhiên xã hội.
- Văn hóa là những hoạt động của con người nhằm thỏa mãn nhu cầu đời sống
tinh thần (nói tổng quát);
- Văn hóa là tri thức, kiến thức khoa học (nói khái quát);
- Văn hóa là trình độ cao trong sinh hoạt xã hội, biểu hiện của văn minh;
- Văn hóa cịn là cum từ để chỉ một nền văn hóa của một thời kỳ lịch sử cổ xưa,
được xác định trên cơ sở một tổng thể những di vật có những đặc điểm giống
nhau, ví dụ Văn hóa Hịa Bình, Văn hóa Đơng Sơn.
II.
Khái niệm tiếp xúc, giao lưu và tiếp biến văn hóa.
Khái niệm giao lưu và tiếp biến văn hóa là hiện tượng xảy ra khi những
nhóm người (cộng đồng, dân tộc) có văn hóa khác nhau sống cùng nhau, giao
lưu tiếp xúc với nhau tạo nên sự biến đổi về văn hóa của một hoặc cả hai nhóm.
Giao lưu văn hóa tạo nên sự dung hợp, tổng hợp và tích hợp văn hóa ở các cộng
đồng. Ở đó có sự kết hợp giữa các yếu tố "nội sinh" với yếu tố "ngoại sinh" tạo
nên sự phát triển văn hóa phong phú, đa dạng và tiến bộ hơn. Giao lưu và tiếp
biến văn hóa là sự tiếp nhận văn hóa nước ngồi bởi dân tộc chủ thể. Q trình
này luôn đặt mỗi dân tộc phải xử lý tốt mối quan hệ biện chứng giữa yếu tố "nội
sinh" và "ngoại sinh".
Ghi chú: Nội sinh là những thứ đã có ở sẵn đất nước. Ngoại sinh là những
thứ được “hội nhập vào”.
III.
Khái quát về đất nước Trung Quốc.
Trung Quốc là một quốc gia nằm tại Đông Á. Đây là quốc gia đông dân
cư nhất trên thế giới, với trên 1,35 ty người. Thủ đô của Trung Quốc là thành
phố Bắc Kinh.
Lịch sử Trung Quốc bắt nguồn từ một trong những văn minh cổ nhất thế
giới, văn minh này phát triển tại lưu vực phì nhiêu của Hồng Hà tại bình
ngun Hoa Bắc. Trải qua hàng nghìn năm, hệ thống chính trị của Trung Quốc
dựa trên các chế độ quân chủ kế tập, được gọi là triều đại, khởi đầu với triều
đại Hạ bán thần thoại ở lưu vực Hoàng Hà. Từ năm 221 TCN, khi triều đại
Tần chinh phục các quốc gia khác để hình thành một đế quốc Trung Hoa, quốc
gia trải qua nhiều lần mở rộng, đứt đoạn và cải cách. Trung Hoa Dân Quốc lật
đổ triều đại Thanh vào năm 1911, và thống trị Trung Quốc đại lục cho đến năm
1949. Sau khi Đế quốc Nhật Bản chiến bại trong Chiến tranh thế giới thứ hai,
Cộng sản đảng đánh bại Quốc dân đảng tại Trung Quốc đại lục, và thiết lập
nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tại Bắc Kinh vào ngày 1 tháng 10 năm
1949, trong khi đó Quốc dân đảng dời chính phủ Trung Hoa Dân Quốc đến thủ
đô hiện hành là Đài Bắc.
Trong hầu hết thời gian trong hai nghìn năm qua, kinh tế Trung Quốc lớn
nhất và phức tạp nhất trên thế giới, với những chu kỳ hưng thịnh và suy
thoái. Kể từ khi tiến hành cải cách khai phóng vào năm 1978, Trung Quốc trở
thành một trong các nền kinh kế lớn có mức tăng trưởng nhanh nhất Trung
Quốc được công nhận là một quốc gia vũ khí hạt nhân và có qn đội thường
trực lớn nhất thế giới, với ngân sách quốc phòng lớn thứ nhì. Nước Cộng hịa
Nhân dân Trung Hoa trở thành một thành viên của Liên Hiệp Quốc từ năm
1971, khi chính thể này thay thế Trung Hoa Dân Quốc trong vị thế thành viên
thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Trung Quốc cũng là thành
viên của nhiều tổ chức đa phương chính thức và phi chính thức, và được coi là
một cường quốc của khu vực Châu Á
IV.
Khái quát tiếp xúc và giao lưu văn hóa Việt – Trung trong lịch sử.
Việt Nam là nước có ảnh hưởng rất lớn từ văn hóa Trung Hoa; điều đó
khơng ai phủ nhận được. Ta có thể khẳng định như vậy do rất nhiều lí do:
+
Thứ 1: Việt Nam là nước giáp với Trung Quốc về vị trí địa lý:
tuyến biên giới Việt-Trung với hệ thống cửa khẩu là đường bộ, là cửa ngo
giao lưu của phía bắc với quốc tế. Đây là nơi mở rộng giao lưu văn hóa
vùng miền lớn nhất giữa miền núi-trung du phía bắc.
+
Thứ 2: Trong lịch sử Việt Nam và Trung Quốc đã có nhiều sự tranh
chấp và giao tranh tranh giành lãnh thổ:
Lịch sử Việt Nam nếu tính từ lúc có mặt con người sinh sống thì đã có
hàng vạn năm trước cơng ngun, cịn tính từ khi nhà nước được hình thành thì
mới khoảng từ hơn 4000 năm trước đây (theo truyền thuyết).
Đến thời kỳ đồ sắt, vào khoảng thế ky 7 trước công nguyên đã xuất hiện
nhà nước đầu tiên của người Việt trên miền Bắc Việt Nam ngày nay, theo sử
sách đó là nhà nước Văn Lang của các vua Hùng. Thời kỳ Vua Hùng được
nhiều người ghi nhận ra là một quốc gia có tổ chức đầu tiên của người Việt
Nam, bắt đầu với truyền thuyết Con Rồng cháu Tiên mà người Việt Nam tự hào
truyền miệng từ đời này qua đời khác.
Thế ky thứ 3 TCN, Thục Phán, thủ lĩnh của bộ tộc Âu Việt - một trong
những bộ tộc của Bách Việt ở phía bắc Văn Lang, đã đánh bại Hùng Vương thứ
18 lập nên nhà nước Âu Lạc. Nhà nước liên minh Âu Việt- Lạc Việt đã đánh bại
cuộc xâm lược của nhà Tần. Nhà nước định đô tại Cổ Loa, thuộc huyện Đông
Anh, Hà Nội ngày nay. Ông tự xưng là An Dương Vương.
Nước Âu Lạc của An Dương Vương bị Triệu Đà thơn tính năm 208 TCN
(hoặc 179 TCN).
Cuối thời Tần, Triệu Đà (người nước Triệu - thời Chiến Quốc) là Huyện
lệnh huyện Long Xuyên, sau được Nhâm Ngao tự ý bổ nhiệm làm Quận úy
quận Nam Hải (thuộc tỉnh Quảng Đông ngày nay). Nhân khi nhà Tần rối loạn
sau cái chết của Tần Thủy Hoàng (210 TCN), Triệu Đà đã cát cứ quậnNam Hải,
sau đó ơng đem qn thơn tính sáp nhập vương quốc Âu Lạc và quận Quế
Lâm lân cận rồi thành lập nước Nam Việt với kinh đô đặt tạiPhiên Ngung (nay
là thành phố Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông) vào năm 207 TCN.
Nước Nam Việt trong thời nhà Triệu bao gồm khu vực hai tỉnh Quảng
Đông, Quảng Tây của Trung Quốc và miền Bắc Việt Nam ngày nay. Nam Việt
được chia thành 4 quận: Nam Hải, Quế Lâm, Giao Chỉ và Cửu Chân. Biên giới
phía bắc là hệ thống dãy núi Ngũ Lĩnh, biên giới phía nam là dãy Hoành Sơn.
Sau khi nhà Hán của người Hoa Hạ được thành lập, Triệu Đà đã đứng về
phía những bộ tộc Bách Việt còn lại để đối chọi với sự bành trướng xâm lăng
của nhà Tây Hán. Trong khoảng thời gian một thế ky (207 TCN-111 TCN), tuy
có vua ngoại tộc là người phương Bắc nhưng vương quốc Nam Việt hoàn toàn
độc lập, tự chủ trước đế chế Hán.
Đội quân của Hán Vũ Đế xâm chiếm nước Nam Việt và sáp nhập Nam
Việt vào đế chế Hán. Người Trung Quốc muốn cai quản miền châu thổ sơng
Hồng để có điểm dừng cho tàu bè đang buôn bán với Đông Nam Á[11]. Trong thế
ky thứ 1, các tướng Lạc vẫn còn được giữ chức. Trung Quốc bắt đầu chính sách
đồng hóa các lãnh thổ bằng cách tăng thuế và cải tổ luật hôn nhân, biến Việt
Nam thành một xã hội phụ hệ để dễ tiếp thu quyền lực chính trị hơn. Một cuộc
khởi nghĩa do Hai Bà Trưng lãnh đạo đã nổ ra ở quận Giao Chỉ, tiếp theo sau đó
là các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố và các địa phương khác của
vùng Lĩnh Nam (mà theo cổ sử Việt ghi nhận là có tất cả 65 thành trì) diễn ra
trong năm 40. Nhà Hán đã phái tướng Mã Viện sang đàn áp cuộc khởi nghĩa
này. Sau ba năm giành độc lập, cuộc khởi nghĩa bị tướng Mã Viện đàn áp. Do bị
cơ lập và qn đội chưa tổ chức hồn thiện nên không đủ sức chống cự lại quân
do Mã Viện chỉ huy, Hai Bà Trưng đã tuẫn tiết trên dòng sơng Hát để giữ vẹn
khí tiết.
Nhà Đường đơ hộ Việt Nam gần 300 năm. Trung Quốc đến thời Đường
đạt tới cực thịnh, bành trướng ra 4 phía, phía bắc lập ra An Bắc đơ hộ phủ, phía
đơng đánh nước Cao Ly lập ra An Đơng đơ hộ phủ, phía tây lập ra An Tây đơ hộ
phủ và phía nam lập ra An Nam đô hộ phủ, tức là lãnh thổ nước Vạn Xuân cũ.
Từ sau loạn An Sử (756-763), nhà Đường suy yếu và bị mất thực quyền kiểm
soát với nhiều địa phương do các phiên trấn cát cứ, không kiểm sốt nổi phía
nam. An Nam đơ hộ phủ bị các nước láng giềng Nam Chiếu, Chăm
Pa, Sailendra vào cướp phá và giết hại người bản địa rất nhiều, riêng Nam
Chiếu đã giết và bắt đến 15 vạn người. Tới năm 866, nhà Đường kiểm soát trở
lại, nhưng đến cuối thế ky 9 thì bị suy yếu trầm trọng sau cuộc nổi
loạn của Hoàng Sào và các chiến tranh quân phiệt tại Trung Quốc. Đến năm
905, một hào trưởng địa phương người Việt là Khúc Thừa Dụ đã chiếm giữ thủ
phủ Đại La, bắt đầu thời kỳ tự chủ của người Việt.
Tóm lại: Các triều đại này cố gắng đồng hóa dân tộc Việt Nam theo tộc
Hán. Mặc dù người Việt chịu nhiều ảnh hưởng về tổ chức thể chế chính trị, xã
hội, văn hóa của Trung Quốc, nhưng người Việt Nam vẫn giữ được nhiều bản
chất nền tảng văn hóa dân tộc vốn có của mình sau một nghìn năm đơ hộ.
+
Thứ 3: Việt Nam và Trung Quốc có sự giao thương:
Thơng qua chiến tranh, quá trình giao lưu và tiếp biến ấy diễn ra ở 2 trạng
thái: giao lưu cưỡng bức và giao lưu không cưỡng bức.
Giao lưu cưỡng bức: diễn ra từ thế kỉ I đến thế kỉ X, sử dụng chính sách
đồng hóa và bóc lột đồng hóa người Việt.
Giao lưu văn hóa tự nguyện: nhà Trần, nhà Lê tự nguyện giao lưu và chịu
ảnh hưởng sâu đậm của Nho giao. Ta cũng tiếp nhận kĩ thuật đúc sắt và gang,
kinh nghiệm chất đá để ngăn sóng biển. Đáng chú ý là việc tiếp nhận chữ Hán,
làm cho tiếng Việt biến đổi theo xu hướng âm tiết hóa và thanh điệu hóa, nhưng
lại khơng bị đồng hóa về mặt tiếng nói.
Khơng chỉ thời kì chiến tranh mà ngay cả thời kì hịa bình văn hóa Việt
nam vẫn có sự giao lưu với văn hóa Trung Quốc. Trung Quốc tiếp tục có những
ảnh hưởng về Văn hóa tới Việt Nam, như các loại hình văn hóa của Trung Quốc
được cho phép xuất bản rộng rãi tại Việt Nam. Rất nhiều các loại phim Trung
Quốc được dịch và trình chiếu tại các đài truyền hình Trung Ương và địa
phương.
V.
Các mặt ảnh hưởng từ văn hóa Trung Quốc.
Từ thời các triều đại các Vua Hùng cho đến thời kỳ nghìn năm Bắc thuộc,
Nước Đại Việt xưa bị ảnh hưởng sâu sắc bởi văn minh văn hóa Trung Hoa một dân tộc lớn ngay cạnh chúng ta. Tuy nhiên sự ảnh hưởng đó khơng phải là
sự tiêu cực mà nó là cơ hội để làm cho văn hóa của dân tộc ta càng sâu sắc theo
một cách riêng, những thứ mà đã được chắt lọc sau đó làm cho phù hợp với văn
hóa của người Việt.
Về tư tưởng tơn giáo, Trung Hoa có rất nhiều những giáo lý và tư tưởng
nổi tiếng, nhiều trong số đó đã ảnh hưởng sâu sắc đến Việt Nam như Phật giáo.
Đạo Phật truyền vào Việt Nam không phải thông qua con đường xâm lược,
không phải do sự cưỡng chế của Trung Hoa mà thông qua đường giao thương
buôn bán (giao thương buôn bán qua đường bộ với Trung Quốc). Đạo Phật đến
bằng con đường hịa bình, những giáo lý của đạo Phật về bình đẳng, bắc ái, cứu
khổ, cứu nạn…gần gũi với cư dân Việt Nam do đó dễ được chấp nhận. Mặt
khác thời kỳ này cịn có các tín ngưỡng bản địa của cư dân nơng nghiệp lúa
nước, cộng với sự tồn tại của Nho giáo cũng Trung Quốc truyền vào, tuy nhiên
các tín ngưỡng, tơn giáo đó cịn có nhiều mặt khiếm khuyết đối với đời sống
tâm linh cộng đồng và đạo Phật đã bổ sung vào chỗ thiếu hụt ấy. Vì vậy đạo
Phật ở Việt Nam được giao thoa bởi các tín ngưỡng bản địa, cũng như ảnh
hưởng bởi đạo Lão ở Việt Nam. Phật giáo là tơn giáo gần gũi và dễ hồ hợp với
tín ngưỡng dân gian người Việt. Nếu đặc điểm tôn giáo Việt Nam là sự thờ cúng
tổ tiên (linh hồn người thân đã khuất) thì Phật hay quan âm cũng được coi là
một thứ tổ tiên (trong tâm thức dân gian Việt cổ, Phật hay quan âm không phải
là người “ngoại quốc, người khác tộc). Nếu đặc điểm của tôn giáo Việt Nam là
sự thờ thần (thế lực siêu nhiên) mà con người cũng cần để nhờ sự “phù hộ độ
trì” thì Phật hay quan âm cũng trở thành một vị thần, phật điện cũng trở thành
thần điện, tính tâm linh nhường bước cho tính tình Việt Nam. Hơn đâu hết, tơn
giáo Việt Nam nặng về tính tình cảm hơn là giáo lý.
Về hệ tư tưởng, Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo. Nho
giáo là một trong những trường phái triết học chính của Trung Quốc thời cổ đại
đó là những tư tưởng triết lý, luân lý đạo đức, thể chế cai trị vốn đã có cơ sở ở
Trung Quốc từ thời Tây Chu, đến cuối thời Xuân Thu (TKXI-TKV TCN) thì
được Khổng Tử (551-479TCN) và các mơn đệ của Ông là Mạnh Tử (372-289
TCN) và Tuân Tử ( 313 -238 TCN) hệ thống hóa ổn định lại trong hai bộ kinh
điển là Tứ Thư và Ngũ Kinh. Nhà nước phong kiến Việt Nam chủ động tiếp
nhận Nho giáo, với tư tưởng trung quân ái quốc, là kim chỉ nam hành động của
sĩ phu, làm hệ tư tưởng chính. Nó rất thiết thực cho công cuộc cai trị, cho trật tự
xã hội và nhất là cho chế độ quân chủ. Để chọn lựa nhân tài ra làm quan, các
chính quyền quân chủ tổ chức thi cử bằng chữ Nho. Nội dung thi cử dựa trên
Nho học. Tất cả mọi người dân Việt muốn tiến thân, đều phải học chữ Nho, học
chương trình Nho học, để thi cử đỗ đạt, mới được ra làm quan.
Một ảnh hưởng quan trọng nữa của văn hóa Trung Quốc đến văn hóa Việt
Nam mà ta có thể thấy ro chính được thể hiện qua chữ viết của ta trong lịch sử.
Chữ Hán vào Việt Nam theo con đường giao lưu văn hóa bắt đầu từ thiên niên
ky thứ nhất trước Công nguyên. Đến thế ky VII - XI chữ Hán và tiếng Hán được
sử dụng ngày càng rộng rãi ở Việt Nam. Thời kỳ này tiếng Hán được sử dụng
như một phương tiện giao tiếp, giao lưu kinh tế thương mại với Trung Quốc. Từ
sau thế ky thứ X, tuy Việt Nam giành được độc lập tự chủ, thoát khỏi ách thống
trị của phong kiến phương Bắc, nhưng chữ Hán và tiếng Hán vẫn tiếp tục là một
phương tiện quan trọng để phát triển văn hóa dân tộc. Bên cạnh việc tiếp tục
dùng chữ Hán để phiên âm từ tiếng Việt, đã xuất hiện những chữ Nôm tự tạo
theo một số nguyên tắc nhất định. Loại chữ Nôm tự tạo này, sau phát triển theo
hướng ghi âm, nhằm ghi chép ngày một sát hơn, đúng hơn với tiếng Việt. Từ
thời Lý thế ky thứ XI đến đời Trần thế ky XIV thì hệ thống chữ Nơm mới thực
sự hồn chỉnh. Chữ Nơm là một loại văn tự xây dựng trên cơ sở đường nét,
thành tố và phương thức cấu tạo của chữ Hán để ghi chép từ Việt và tiếng Việt.
Do vậy, ta có thể thấy, dù chữ Hán có sức sống mạnh mẽ đến đâu chăng nữa,
một văn tự ngoại lai không thể nào đáp ứng, thậm chí bất lực trước địi hỏi, u
cầu của việc trực tiếp ghi chép hoặc diễn đạt lời ăn tiếng nói cùng tâm tư, suy
nghĩ và tình cảm của bản thân người Việt. Chữ Nôm đã ra đời để bù đắp vào
chỗ mà chữ Hán khơng đáp ứng nổi.
Ngồi những mặt chính đã kể trên, văn hóa Trung Quốc cịn ảnh hưởng
đến rất nhiều yếu tố khác trong sự hình thành và phát triển văn hóa Việt Nam.
- Kiến trúc: trải qua thời Bắc thuộc, kiến trúc Việt Nam chịu nhiều ảnh
hưởng của nền kiến trúc Trung Quốc. Kiến trúc Việt Nam là sự kết hợp
giữa kiến trúc bản địa cùng với những ảnh hưởng từ Trung Quốc, ví dụ
những cơng trình kiến trúc nổi tiếng như Quốc Tử Giám, chùa Một Cột
hay thành nhà Hồ… đều có sự pha trộn với kiến trúc Trung Hoa.
- Văn học: Văn học Việt Nam được chia thành hai loại: văn học dân gian
và văn học viết. Cả hai loại văn học này đều chịu ảnh hưởng sâu sắc của
văn hóa Trung Quốc. Văn học dân gian của Việt Nam được ảnh hưởng
trực tiếp và gián tiếp từ văn học Trung Quốc. Ảnh hưởng trực tiếp là
vận dụng trực tiếp văn học Trung Hoa vào văn học Việt Nam, còn ảnh
hưởng gián tiếp là một quá trình này diễn ra như sau: lúc đầu những
điển tích, tên đất, tên người của tác phẩm văn học Trung Quốc đi vào
những tác phẩm lớn của văn học viết của người Việt, sau đó các tác giả
thơ ca dân gian người Việt đã tiếp thu những điển tích này. Và nhiều khi
ca dao người Việt chịu ảnh hưởng của văn học Trung Quốc trong việc
sử dụng các điển tích đúng như người Trung Quốc quan niệm, nhiều khi
ý nghĩa của các hình ảnh trong ca dao người Việt lại khác với ý nghĩa
của các hình ảnh cùng tên trong văn học Trung Quốc. Đây là sự khác
nhau giữa hai cách tiếp thu văn hóa Trung Quốc của người Việt: tiếp thu
nguyên vẹn so với tiếp thu có cải biên. Trong văn học viết, với chữ Hán
và chữ Nôm được sử dụng trong một thời gian dài. Các tác phẩm văn
học cổ nhất còn lưu lại được sáng tác vào thế ky 11 và chủ yếu liên
quan đến đạo Phật khi đó đang thịnh hành tại Việt Nam. Đó là những
bài thơ của các vị sư giải thích về cơ sở căn bản của đạo Phật cũng như
bình luận về các biến cố lịch sử hay các đề tài về ca ngợi vẻ đẹp thiên
nhiên, từ thế ky 13 nhiều cơng trình về lịch sử, địa lý và địa chí
bằng chữ Hán đã xuất hiện. Khi hệ thống chữ Nơm được hồn chỉnh
vào thế ky 13, nhiều tác phẩm văn học viết bằng chữ Nôm lần lượt xuất
hiện, một trong những tác phẩm sớm nhất bằng chữ Nơm cịn để lại đến
hôm nay là các bài thơ của Nguyễn Trãi, các tác phẩm đồ sộ của ông
bao gồm một tuyển tập hàng trăm bài thơ Nơm có tên Quốc âm thi tập ở
thế ky 15, và kế tiếp là Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm, các bài
thơ
của Hồ
Xuân
Hương và
đặc
biệt
là
tác
phẩm Truyện
Kiều của Nguyễn Du.
VI.
Những ưu điểm, hạn chế rút ra từ tiếp xúc giao lưu văn hóa Việt –
Trung.
Từ những ảnh hưởng được nêu ở mục trên, ta có thấy những giá trị điển
hình và quan trọng nhất mà văn hóa Trung Quốc ảnh hưởng đến văn hóa Việt
Nam ta chính là tư tưởng Phật giáo, tư tưởng Nho Giáo, và chữ Nơm. Những
giá trị điển hình này mang được du nhập và Việt Nam hóa, mang lại cho chúng
ta rất nhiều ưu điểm không thể chối cãi.
- Về Phật giáo: Chúng ta cũng có thể thấy rằng tư tưởng Phật giáo có ảnh
hưởng ít nhiều đến đời sống của thanh thiếu niên hiện nay. Ở các trường
phổ thông, tổ chức đồn, đội ln phát động các phong trào nhân đạo
như “Lá lành đùm lá rách”, “quỹ giúp bạn nghèo vượt khó”, “quỹ viên
gạch hồng”… Ngay từ nhỏ các em học sinh đã được giáo dục tư tưởng
nhân đạo, bác ái, giúp đỡ người khác mà cơ sở của nền tảng ấy là tư
tưởng giáo lý nhà Phật đã hoà tan với giá trị truyền thống của con người
Việt Nam. Lên đến cấp III và vào Đại học, những thanh thiếu niên có
những hoạt động thiết thực hơn. Việc giúp đỡ người khác không phải
hạn chế ở việc xin bố mẹ tiền để đóng góp mà có thể bằng chính kiến
thức, sức lực của mình. Sự đồng cảm với những con người gặp khó
khăn, những số phận bất hạnh cơ đơn, cộng với truyền thống từ bi, bác
ái đã giúp những học sinh, sinh viên còn ngồi trên ghế nhà trường có đủ
nghị lực và tâm huyết để lập ra những kế hoạch, tham gia vào những
hoạt động thiết thực như hội chữ thập đỏ, hội tình thương, các chương
trình phổ cập văn hoá cho trẻ em nghèo, chăm nom các bà mẹ Việt Nam
nghèo... Ta khơng thể phủ nhận Phật giáo đã góp phần tạo nên những
giá trị tốt đẹp ấy.
- Về Nho giáo: Nho giáo có sức mạnh và uy thế góp phần củng cố và
phát triển chế độ quân chủ và những kinh nghiệm mẫu mực cho việc
chấn chỉnh và mở rộng nhà nước phong kiến tập quyền. Mà ở thế ky
XV, các xu thế phát triển đó đã và đang giữ vai trò thúc đẩy sự phát
triển của xã hội Việt Nam trên các phương diện sản xuất và củng cố
quốc phịng. Như đã biết, q trình đi lên của Nho giáo Việt Nam không
tách rời yêu cầu phát triển nền kinh tế tiểu nông gia trưởng dựa trên
quyền sở hữu của giai cấp địa chủ của nhà nước và của một bộ phận
nông dân trực tiếp tự canh về ruộng đất. Vì thế cho nên khi chiếm được
vị trí chủ đạo trên vòm trời tư tưởng của chế độ phong kiến, Nho giáo
càng có điều kiện xúc tiến sự phát triển này. Nó làm cho sản xuất nơng
nghiệp và trao đổi hàng hoá được đẩy mạnh hơn trước. Đồng thời Nho
giáo đem lại một bước tiến khá căn bản trong lĩnh vực văn hoá tinh thần
của xã hội phong kiến nước ta từ thế ky XV, trước hết nó làm cho nền
giáo dục phát triển hết sức mạnh mẽ nhất là dưới triều Lê Thánh Tông.
Nền giáo dục ấy cùng với chế độ thi cử đã đào tạo ra một đội ngũ tri
thức đông đảo chưa từng thâý trong lịch sử chế độ phong kiến Việt
Nam. Do đó khoa học và văn học nghệ thuật phát triển. Hơn nữa sự
thịnh trị của Nho giáo từ thế ky XV cũng là một hiện tượng góp phần
thúc đẩy lịch sử tư tưởng nước ta tiến lên một bước mới. Là một học
thuyết tích cực nhập thể, nó cổ vũ và khuyến khích mọi người đi sâu
vào tìm hiểu những quan hệ xã hội, những vấn đề của thực tiễn chính
trị, pháp luật và đạo đức. Do đó, nhận thức lý luận của dân tộc ta về các
vấn đề ấy cũng được nâng cao hơn. Dựa vào lịch sử của Nho giáo, nhà
vua và các nho sĩ giải thích các vấn đề ấy có lập luận và có lý lẽ đầy đủ
hơn.
Tuy có nhiều ưu điểm như vậy, nhưng những giá trị điển hình vẫn có
những nhược điểm mà ta có thể nhìn thấy ro, phản ánh tróng xã hội ngày nay.
Nho giáo, dù có lý do để tồn tại và phát triển thì cũng vẫn gắn liền với
giai cấp phong kiến địa chủ trong nước và là công cụ thống trị và tư tưởng của
giai cấp đó. Mà giai cấp địa chủ đó từ thế ky XV trở về trước tuy có một vai trị
nhất định nhưng vẫn là một giai cấp bóc lột đối với nhân dân. Và bất cứ một
giai cấp bóc lột nào ngay cả khi đang lên cũng mang theo những vết bùn nhơ và
bàn tay vấy máu của những người lao động. Cho nên Nho giáo với tư cách là vũ
khí của giai cấp phong kiến Việt Nam dù cho có khơng ít tích cực thì tác dụng
tích cực đó cũng cịn rất hạn chế. Thực ra ngay ở thời kỳ thịnh trị của nó, Nho
giáo cũng đã có những mặt tiêu cực nghiêm trọng và chứa đựng khả năng suy
yếu sau này của nó. Nho giáo ở Việt Nam khi chiếm ở vị trí độc tơn thì đã làm
cho chủ nghĩa giáo điều và bệnh khuôn sáo phát triển mạnh trong lĩnh vực tư
tưởng và trong địa hạt giáo dục khoa học. Các quan lại, sĩ phu, đều lấy thánh
kinh, hiền truyện của Nho giáo làm khuôn vàng thước ngọc cho mọi người suy
nghĩ và hành động của mình, lấy cái xã hội thời Nghiêu Thuấn làm khn mẫu
cho mọi tình trạng xã hội; lấy những sự tích và điều phạm trong kinh, thư, kinh
xuân thu làm tiêu chuẩn để bình giá mọi sự việc. Bệnh giáo điều và khuôn sáo
này đã ăn sâu vào trong lĩnh vực khoa học và nghệ thuật nhất là trong văn học
và sử học khiến cho sự sáng tạo trong các lĩnh vực này bị dập vào những cái
khn sẵn có. Đó là một tật bệnh đã được rèn đúc ngay từ khi người nho sĩ phải
mài dũa văn chương để tiến vào con đường cử nghiệp. Sự thịnh trị của Nho giáo
cịn khuyến khích mọi người nhất là các phần tử tri thức đi sâu vào cải tạo “tu tề
trị bình” vào việc học hành, thi đỗ, dương danh thiên hạ. Vì vậy mà trong thực
tế, Nho giáo đã làm cho những người gia nhập tầng lớp Nho sĩ này xa rời sinh
hoạt kinh tế và lĩnh vực sản xuất xã hội, nó chỉ biết đề cao đạo tư thân và đạo tự
nước chứ không hề đếm xỉa đến các tri thức vè khoa học tự nhiên cũng như về
các ngành sản xuất và lưu thơng. Tính chất tiêu cực ấy của Nho giáo càng về
sau càng gây tác hại không nhỏ trong việc phát triển lực lượng sản xuất của xã
hội. Khi đã chiếm được địa vị thống trị trên vũ đài tư tưởng, Nho giáo Việt Nam
không tiếp tục đi sâu vào khám phá những vấn đề bản chất của đời sống và của
vũ trụ, vì mối quan hệ giữa tinh thần và thể xác. Nó chỉ chú trọng đến những
quan hệ chính trị và đạo đức thực tế. Cho nên khi xã hội phong kiến rối loạn,
vấn đề số phận và yêu cầu giải phóng con người được đặt ra thì Nho giáo trở
thành bất lực. Nó khơng giải đáp được vấn đề ấy vì nó đã sớm bỏ con đường
phát triển tư duy trừu tượng. Hơn nữa, một khi Nho giáo chiếm vị trí độc tơn thì
lễ chế của nó đặc biệt phát triển mạnh. Khi đó nó bắt đầu đè nặng lên con người
và bóp nghẹt nếp sống giản dị, những quan hệ xã hội trong sáng, những tình
cảm tự nhiên và chân thực của suy sụp cùng với xã hội phong kiến thì nó trở
nên phản động, cổ hủ và lạc hậu. Do đó, bên cạnh những ảnh hưởng tích cực,
Nho giáo cũng đem lại khơng ít tác động tiêu cực mà cho đến nay nó vẫn cịn là
nhân tố kìm hãm sự phát triển văn hố tại các vùng nơng thơn Việt Nam.
Sự ảnh hưởng của văn minh Trung Quốc tới Việt Nam là vơ cùng lớn, cho
đến giờ những ảnh hưởng đó vẫn còn những tồn tại trong đời sống xã hội và đời
sống của mỗi người dân Việt Nam. Sự ảnh hưởng đó có cả yếu tố tích cực và
yếu tố tiêu cực, nhưng dù sao nó cũng đóng góp một phần quan trọng vào lịch
sử văn hiến của nước ta, làm cho văn minh Việt Nam có thể đóng góp nhiều
phần nhỏ vào văn minh thế giới rộng lớn.