Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

TÌM HIỂU về TỊNH độ TÔNG ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.68 KB, 21 trang )

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP.HỒ CHÍ MINH
…………………………………………

BÙI NGỌC BÍCH
(NGỌC LINH)

TÌM HIỂU VỀ TỊNH ĐỘ TÔNG Ở VIỆT NAM

Tiểu luận học kỳ III : Các tông phái PGVN - Phần Phật giáo Bắc tơng

Người hướng dẫn khoa học: SC.TS.TN. Tuệ Châu

TP.Hồ Chí Minh ,Năm 2020.


GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP.HỒ CHÍ MINH
………………………………………….

TÊN TÁC GIẢ: BÙI NGỌC BÍCH
PHÁP DANH: NGỌC LINH
LỚP ĐTTX: KHĨA VI
MSSV: TX 6022

TÌM HIỂU VỀ TỊNH ĐỘ TÔNG Ở VIỆT NAM

Tiểu luận học kỳ III : Các tông phái PGVN - Phần Phật giáo Bắc tơng

Người hướng dẫn khoa học: SC.TS.TN. Tuệ Châu


TP.Hồ Chí Minh ,Năm 2020


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU..................................................................................................................
1. Lý do chọn đề tài :..........................................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu đề tài :...........................................................................................1
3. Phạm vi nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu :...............................................................1
4. Phương pháp nghiên cứu :..............................................................................................2
5. Bố cục............................................................................................................................. 2
Chương 1 : Tìm hiểu chung về tịnh độ...............................................................................3
1.1 .Lịch sử và truyền thừa tịnh độ tông:............................................................................4
1.2 .Các tư tưởng tịnh độ:...................................................................................................4
1.2 .1. Tư tưởng tịnh độ đại sư Liên Trì:.............................................................................5
1.2 .2. Tư tưởng tịnh độ đại sư Ngẫu Ích :..........................................................................7
1.2.3. Tư tưởng tịnh độ của cư sĩ Dương Nhân Sơn :..........................................................8
Chương 2 :Từ tư tưởng tới tín ngưỡng của pháp mơn tịnh độ ..........................................9
2.1 .Khái lược về triết lý pháp môn niệm phật:...................................................................9
2.2.Bước chuyển từ triết lý đến tín ngưỡng niệm phật..........................................................10
2.3.Vãng sanh và chứng ngộ là tinh hoa của pháp môn niệm phật........................................10
Chương 3: Pháp môn tịnh độ ở Việt Nam..............................................................................11
3.1.Tư tưởng tịnh độ trong phật giáo Việt Nam và Nam Bộ..................................................11
3.1.1.Trong phật giáo Việt Nam.............................................................................................11
3.1.2.Trong phật giáo ở Nam Bộ.......................................................................................12-15
KẾT LUẬN............................................................................................................................16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................17


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài :

Đạo Phật có một lịch sử phát triển rất thăng trầm trong suốt hơn 2600 năm và nó lan toả từ
Ấn Độ ra khắp nơi. Do đó, việc hình thành các bộ phái khác nhau có phương pháp tu học và
cách giải thích khác nhau về giáo lý cho thích hợp với tình hình của mỗi xã hội mỗi thời
điểm là chuyện tất yếu. Tuy vậy, bản thân giáo lý Phật giáo khơng hề có sự phân chia tơng
phái này.Sự phân chia thành bộ phái rõ nét đã bắt đầu xảy ra vào thời kỳ kết tập kinh điển
lần thứ II (tức là khoảng 100 năm sau khi Tất-đạt-đa Cồ-đàm mất). Lần phân chia đầu tiên là
do sự bất đồng về yêu cầu thay đổi 10 điều giới luật. Các điều này tuy không phải là những
thay đổi lớn lao nhưng đủ để gây ra sự tách biệt tăng đoàn thành Đại Chúng bộ
(Mahàsamghika) mà đa số là các tì kheo trẻ muốn thay đổi. Số còn lại giữ nguyên các giới
luật nguyên thuỷ hình thành Thượng tọa bộ (Theravada). Các cuộc phân phái về sau trở nên
phức tạp và đa dạng hơn.Ở Việt Nam phật giáo du nhập vào từ rất sớm ,có trước cả Trung
Quốc.Phật giáo Việt Nam được cấu thành các yếu tố:thiền-tịnh-mật và tôn giáo bản
địa.Chúng ta đi xâu tìm hiểu về sự ra đời cũng như pháp mơn hành trì của các tơng phái phật
giáo là rất cần thiết không chỉ với người xuất gai và cả giới cư sĩ.Vì lý do đó học viên đã
chọn đề tài “Tìm hiểu về tịnh độ tơng ở Việt Nam” để làm bài tiểu luận.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài :
Pháp mơn Tịnh độ chính vì nhu cầu của chúng sanh, vì lý tưởng hiện thực vĩ đại cứu nhơn
loại, ngõ hầu tương lai đưa nhơn sinh đến bờ giác, nên mới thiết lập ra một phương pháp để
cứu tế. Do đó, Tịnh độ mới được phổ biến rộng rãi, các đệ tử của Phật một lịng tín ngưỡng
và cùng nhau tu học, vì vậy hàng học giả Đại thừa và Tiểu thừa cũng dung hòa lý tưởng
hướng về thế giới Tịnh độ. Các tông phái Phật giáo Trung Quốc như: Hoa nghiêm, Thiên
thai, Duy thức, Tam luận cho đến Thiền tông v.v… đều thực hành tu học, hoằng dương pháp
mơn Tịnh độ. Vì vậy chúng ta biết rằng, trong Phật giáo Tịnh độ là mục tiêu lý tưởng mà tất
cả đồng hướng về, và Tịnh độ tông cũng chiếm một địa vị rất quan trọng trong Phật giáo.

1


3. Phạm vi nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu :
Học viên chỉ đề cập đến pháp môn Tịnh độ ở trong Phật giáo Việt Nam tại sao lại hết sức

quan trọng, lại được các đệ tử của Phật tín ngưỡng tin theo và truy cầu phổ biến rộng rãi.
Vì sao pháp môn Tịnh độ ở trong Phật pháp lại chiếm một địa vị quan trọng như thế ? Lại
được các đệ tử của Phật tin theo rộng rãi như vậy ?
4. Phương pháp nghiên cứu :
Thông qua các tư liệu sách vở,tư liệu trên mạng.Từ đó học viên tổng hợp, đánh giá..để làm
sáng tỏ đề tài tiểu luận.
5. Bố cục của bài tiểu luận gồm 3 chương,6 mục,5 tiểu mục.
.

2


Chương 1

TÌM HIỂU CHUNG VỀ TƠNG TỊNH ĐỘ
1.1 LỊCH SỬ VÀ SỰ TRUYỀN THỪA TỊNH ĐỘ TÔNG:
Lý thuyết Tịnh độ được phát triển ở Ấn Độ, là một đường lối tu tập nhưng không thiết lập
tông phái, chỉ khi các kinh điển Tịnh độ truyền qua Trung Hoa thì Tịnh độ trở thành tông
phái.Phật giáo truyền vào Trung Hoa vào cuối thế kỷ thứ nhất cho đến đầu thế kỷ thứ hai
nhưng những kinh luận thuộc giáo nghĩa Tịnh độ phải đến thế kỷ thứ ba mới xuất hiện. Vào
thời Ngụy (250), ngài Khang Tăng Ngãi (Sanghavarman) dịch kinh Vô Lượng Thọ, cư sĩ
Chí Khiếm (thời Tơn Quyền) dịch bộ Đại A Di Đà kinh. Đến đời Diêu Tần (thế kỷ IV), ngài
La Thập dịch Phật thuyết A Di Đà kinh, còn gọi là tiểu kinh A Di Đà, ngài Phật Đà Bạt Đà
La (Giác Hiền) dịch Tân Vô Lượng Thọ kinh, Quán Phật tam muội kinh, ngài Trí Nghiêm
dịch Tịnh độ tam muội. Thời Lưu Tống (thế kỷ V), ngài Cương Lương Da Xá (Kàlayàsas)
dịch Quán Vô Lượng Thọ kinh, ngài Bồ Đề Lưu Chi (thế kỷ VI) dịch Vô Lượng Thọ kinh
luận. Đặc biệt, ngài Thế Thân trước tác Vãng sinh Tịnh độ luận..., đến đây giáo nghĩa Tịnh
độ tơng tương đối hồn chỉnh. Ba tác phẩm được coi là nền tảng của Tịnh độ tông là kinh Vô
Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ, kinh A Di Đà, cộng thêm tác phẩm Vãng sinh Tịnh độ
luận của Thế Thân. Mặc dù chỉ một vài bộ kinh triển khai giáo lý Tịnh độ, nhưng rất nhiều

kinh luận trong hệ thống giáo lý Đại thừa ca ngợi tư tưởng Tịnh độ, làm cho Tịnh độ tông trở
nên phổ biến và nổi bật trong nền tư tưởng Phật học Trung Hoa.Lịch sử truyền thừa của Tịnh
độ tông không theo đường lối thông thường là người trước truyền cho người sau như các
tơng phái khác, mà chỉ căn cứ vào sự đóng góp nhiều ít cơng cuộc xiển dương giáo lý Tịnh
độ.Tịnh độ tông Trung Hoa, ngài Huệ Viễn (333-416) được coi là người sáng lập. Ngài quê ở
Nhạn Môn, 21 tuổi xuất gia làm môn đệ của ngài Đạo An. Ngài thơng minh xuất chúng,
được ngài Đạo An khen ngợi. Vì hoàn cảnh loạn lạc, Ngài di cư xuống Tương Dương, sau
đó trên đường hành đạo, Ngài đến Lơ Sơn, thấy cảnh trí u tịch, phù hợp với chí nguyện tu
hành, Ngài ở lại đó và thành lập chùa Đơng Lâm. Ngài chủ trương tu tập pháp môn niệm
Phật, ẩn dật tu hành không màng thế sự..., nhất là quan hệ gần gũi với vua chúa. Để phản đối
sắc lệnh của nhà vua về việc người xuất gia vào chầu phải lạy, Ngài viết bộ Sa môn bất bái
vương giả luận. Năm 402, Ngài lập ra Hội Niệm Phật tại Lô Sơn, lấy tên là Bạch liên xã, đây
là một hình thức tổ chức quần chúng tu tập, manh nha một đường lối tu Tịnh độ cho tứ
chúng về sau. Tổ chức Bạch liên xã không phân biệt tại gia hay xuất gia, cách tu đơn giản là
thành kính lễ bái và niệm hồng danh Đức Phật A Di Đà. Pháp tu của ngài Huệ Viễn đã tạo
nên đường lối của Tịnh độ tông.Đến thế kỷ sau, ngài Đàm Loan (476-542) tiếp nối xiển
dương pháp môn Tịnh độ. Ngài cũng là người ở Nhạn Môn, tu học rất tinh cần, chuyên
nghiên cứu chú giải kinh sách nhưng nửa chừng bị bệnh nặng, Ngài tìm thầy chữa
3


bệnh, nhân đó gặp đạo sĩ Đạo Hoằng Cảnh dạy cho tiên thuật và giao cho 10 cuốn tiên kinh.
Trên đường về phương Bắc gặp được ngài Bồ Đề Lưu Chi (Bodhiruci) trao cho Ngài những
tác phẩm pháp môn Tịnh độ, căn cứ vào đó Ngài chuyên tu Tịnh độ. Ngài trước tác những
bộ: Vãng sinh luận chú, Tán Phật A Di Đà kệ... Ngài dạy chúng tu học và xiển dương giáo lý
Tịnh độ, chú trọng yếu tố «Tín tâm niệm Phật«, đây cũng là sắc thái khác của Tịnh độ
tơng.Ngài Đạo Xước (562-645) có nhân dun với ngài Đàm Loan dù sống cách nhau vài
chục năm. Ngài đã tiếp nhận pháp môn Tịnh độ trong trường hợp đặc biệt. Ngài Đạo Xước
xuất gia năm 14 tuổi, chuyên nghiên cứu về Niết bàn tông, một hôm đến chùa Huyền Trung
núi Thạch Bích, đọc bia đá ghi chép sự tích ngài Đàm Loan thì lịng sinh cảm kích, Ngài

quay sang tu Tịnh độ và thường giảng dạy Quán Vô Lượng Thọ kinh. Ngài nỗ lực giáo hóa
dân chúng trong vùng tu Tịnh độ và là người chế ra tràng hạt để dạy cách trì danh niệm Phật.
Đối với nơng dân, Ngài bày cách lấy hạt đậu đếm số niệm Phật gọi là «tiểu đậu niệm Phật«.
Ngài trước tác An lạc tập và một số tác phẩm khác, triển khai ý nghĩa tu dễ và tu khó để kết
luận rằng tu Tịnh độ là dễ. Ngài biện minh ý nghĩa tha lực của Đức Phật A Di Đà làm cho
mọi người đều thích thú pháp mơn này. Đệ tử của Ngài khá đơng, xuất sắc gồm có Thiện
Đạo, Đạo Phủ, Tăng Điền...
Ngài Thiện Đạo (613-681) nối chí thầy mình xiển dương giáo lý Tịnh độ. Phật giáo đời
Đường rất hưng thịnh, Tịnh độ tông cũng phát triển mạnh mẽ, phần lớn nhờ công lao của
Thiện Đạo. Ngài là người ở Lâm Truy, khi xuất gia tìm thầy học đạo, Ngài gặp Đạo Xước
học pháp môn Tịnh độ. Sau khi thầy mất, Ngài về Trường An trụ trì chùa Quang Minh và
chùa Từ Ân, giảng dạy và truyền bá pháp môn Tịnh độ. Ngài viết 10 vạn cuốn kinh A Di Đà
và vẽ 300 đồ hình tả cảnh Tịnh độ, làm cho thế giới Tịnh độ trở nên sống động và hiện thực
trong tâm người tu nên họ theo rất đông. Ngài trước tác nhiều kinh sách như Quán Vô
Lượng Thọ kinh sớ, Vãng sinh lễ tán, Quán niệm pháp môn, Ban châu tán. Đường lối tu tập
của Ngài được đời sau ca ngợi và trở thành một phương thức đặc trưng của Tịnh độ tông.
Ngài Từ Mẫn (680-748) là một hành giả Tịnh độ khá nổi tiếng vào đời Đường, Ngài noi
gương các vị tiền bối, lên đường «nhập Trúc cầu pháp«. Ngài ra đi năm 702 (thời Võ Tắc
Thiên), đến Bắc Thiên Trúc (Ấn Độ) gặp được hóa thân của Quán Thế Âm Bồ tát trao cho
pháp môn Tịnh độ. Ngài ở Ấn Độ 18 năm mới về nước, được vua Huyền Tơn tặng danh hiệu
«Từ Mẫn tam tạng«. Ngài trước tác Vãng sinh Tịnh độ tập để truyền bá pháp môn Tịnh độ
mà Ngài đã lãnh hội trên đất Ấn, trở thành một dòng tư tưởng Tịnh độ độc lập. Tuy nhiên, hệ
thống của Ngài không hưng thịnh lâu.
Như vậy, hệ thống truyền thừa pháp môn Tịnh độ từ sơ khởi cho đến đời Đường không tiếp
nối đời này qua đời khác mà tùy thuận vào nhân duyên của mỗi hành giả. Bắt đầu từ đời
Đường mới có sự truyền thừa, và rõ nét nhất phải chờ đến đời Tống. Sau này, các học giả
phân chia đường hướng tu tập của pháp môn Tịnh độ thành 4 hệ thống: Huệ Viễn chú trọng
4



«Quán tưởng niệm Phật«, Đàm Loan chú trọng «Tín tâm niệm Phật«, Thiện Đạo chú trọng
«Khẩu xưng niệm Phật«, Từ Mẫn thiên về «Thiện căn niệm Phật«.
Đến đời Tống (960-1279), Phật giáo vẫn duy trì các hệ tư tưởng và truyền thống tu tập của
các tông phái. Tịnh độ tông mặc dù vẫn duy trì truyền thống độc lập của mình, nhưng vẫn bị
ảnh hưởng tác động của các hệ tư tưởng khác. Vào thời kỳ này, các tông phái nói chung đều
có xu hướng dung hợp, ví dụ Thiên thai tông chủ trương kiêm tu Tịnh độ, đại biểu cho chủ
trương này có ngài Tn Thức, Từ Lễ, Trí Viên. Luật tông cũng kiêm tu Tịnh độ do ngài
Nguyên Chiếu chủ trương. Thiền tông cũng kiêm tu Tịnh độ do ngài Diên Thọ chủ trương...
cho nên sắc thái Tịnh độ muôn màu muôn vẻ. Những hội niệm Phật đua nhau xuất hiện, nổi
bật là hội «Tịnh hạnh xã« của ngài Tĩnh Thường.Đời Minh (1360-1661), Tịnh độ tông được
phát triển do các đại sư Vân Thê, Liên Trì, Trí Húc, nhất là hàng cư sĩ tu Tịnh độ phát triển
mạnh phổ cập sâu rộng trong quần chúng. Đến đời Thanh, tư tưởng Tịnh độ dung hợp trong
mọi pháp môn, tông phái. Những đại sư xiển dương Tịnh độ có ngài Tĩnh An, Thực Hiền
(1686-1734). Ngài Êẽn Quang ở cuối đời Thanh là một bậc cao đức truyền bá pháp môn
Tịnh độ. Pháp môn Tịnh độ hưng khởi ở Trung Quốc, sau đó được truyền qua các nước Tây
Tạng, Nhật Bản, Việt Nam, Triều Tiên, được tiếp nhận nhanh chóng và phát triển mạnh mẽ.
1.2. CÁC TƯ TƯỞNG TỊNH ĐỘ:
1.2.1. TƯ TƯỞNG TỊNH ĐỘ CỦA ĐẠI SƯ LIÊN TRÌ.
- Đại sư Liên Trì, cịn gọi là Châu Hoằng, tự Phật Huệ, hiệu là Liên Trì. Ngài là người huyện
Nhân Hịa tỉnh Chiết Giang, nay thuộc huyện Hàng Châu. Năm mười bảy tuổi, ngài thi đỗ tú
tài, nổi tiếng về học hành. Ngài thường nghe bà lão láng giềng hằng ngày niệm Phật, lấy làm
la. Nhân lúc rổi rảnh ngài sang chơi, mới hỏi Bà lão: “Niệm Phật để làm gì?” Bà lão trả lời:
“Ơng nhà của tơi lúc sinh tiền chun lo niệm Phật, đến khi lâm chung khơng bệnh tình gì
mà ra đi, nên tơi biết cơng đức niệm Phật khơng thể nghĩ bàn”. Do có túc căn sâu dày, nên
sau khi nghe xong câu chuyện này, đại sư Liên Trì liền thâm tín hiểu rõ, khơng cịn nghi ngờ,
từ đó hướng tâm về pháp mơn Tịnh độ. Ngài lại tự tay viết bốn chữ: “Sống chết việc lớn”
(Sanh tử sự đại) đặt ở đầu bàn viết, để tự cảnh tỉnh mình. Vào tháng 7 năm thứ 43 niên hiệu
Vạn Lịch, nhân lúc bệnh nặng ngài liền soạn ra “Ba điều đáng tiếc và mười điều đáng than”,
để cảnh sách đại chúng và dặn đi dặn lại phải “luôn luôn niệm Phật”. Khuyên bảo các đệ tử
xong, ngài an nhiên thị tịch, thọ 81 tuổi. Hậu thế suy tôn ngài làm tổ thứ tám của hội “Liên

xã”.Ngài trước tác rất nhiều tác phẩm như: A-di-đà kinh sớ sao (4 quyển), Vãng sanh tập (3
quyển), Tịnh độ nghi biện (1quyển), Thiền quan sách tấn (2 quyển), Phạm võng kinh giới sớ
phát ẩn (5 quyển), Lăng-già kinh mô tượng ký (1 quyển), Truy môn sùng hạnh lục (1 quyển),
Sơn phùng tạp lục (3 quyển), Trúc song tùy bút (2 quyển) ... Toàn tập của ngài gọi là “Vân
thê pháp vị”, tính tổng cộng là 32 quyển.
5


- Đứng về giáo lý Tịnh độ, lập trường của đại sư Liên Trì là đem kinh điển Tịnh độ chia làm
ba loại:
1. Kinh Vô lượng thọ và kinh A-di-đà gọi là “Đồng bộ”.
2. Kinh Quán vô lượng thọ và kinh Cổ âm vương cùng với bài kệ kinh A-di-đà gọi là “Đồng
loại”
3. Kinh Hoa nghiêm và kinh Pháp hoa cho đến tất cả kinh điển Tịnh độ đã nói rõ, gọi là “Phi
loại phi bộ”. Ở trong ba loại kinh này, đại sư Liên Trì đặc biệt chú trong kinh A-di-đà, vì để
“Trì danh niệm Phật”. Hơn nữa, pháp mơn này phù hợp với trình độ căn cơ và hoàn cảnh
mọi người. Kinh này cũng hoàn toàn do đức Phật nói ra nguyên do có mười việc lớn, cho
nên đại sư Liên Trì đối với kinh A-di-đà hết sức tinh tấn hành trì. Ngài nói rằng: “giáo lý bao
qt một đời của đức Phật, mục đích khơng ngồi việc: Khai thị chúng sanh ngộ nhập tri
kiến Phật”.Ngài dùng kinh này, để giải thích có mười nghĩa, hiện ghi chép ở trong “Di-đà
kinh sớ sao”, quyển 1:
1. Vì lịng đại bi thương xót chúng sanh, nên đức Phật nói kinh này làm cầu bến cho đời mạt
pháp nương tựa.
2. Vì trong vơ lượng pháp mơn, thì pháp mơn này là tối thắng.
3. Vì sanh tử của chúng sanh mà giúp họ lìa khổ được vui.
4. Vì giáo hóa dẫn dắt hàng nhị thừa “chấp không” chẳng lo tu Tịnh độ.
5. Vì khuyên những người mới phát tâm hành Bồ-tát đạo, nên cố gắng niệm Phật để được
gần gũi đức Như Lai.
6.Vì muốn độ thốt tất cả các hàng độn căn, lợi căn.
7. Vì muốn hộ trì những người tu hành gặp nhiều chướng nạn khỏi bị đọa lạc.

8. Vì khai ngộ cho người, tự tâm hữu niệm mà nhập vô niệm.
9. Vì khai ngộ, nhân vãng sanh mà thật ngộ quả vơ sanh .
10. Vì chỉ rõ trong các con đường tu hành thì đây là con đường ngắn nhất.
Đại sư Liên Trì căn cứ theo thuyết của ngài Tử Nguyên (đời nhà Tống) và ngài Phổ Độ (đời
nhà Nguyên), là xác nhận rằng, hành giả muốn thực hành pháp môn Tịnh độ, cần phải chuẩn
bị đầy đủ ba điều kiện Tín, Nguyện, Hạnh.
1. Tín: Là tin rằng chúng sanh với Phật chẳng phải hai, chúng sanh niệm Phật nhất định sẽ
6


được vãng sanh và cũng nhất định thành Phật. Cho nên, ở trong kinh A-di-đà đức Thích Tơn
đã nói: “Các ngươi đều phải tin theo lời Ta dạy”.
2. Nguyện: Nếu quả thật chỉ tin thôi mà không phát nguyện hành trì, thì làm sao đến được
cảnh giới Tây phương Cực lạc, cần phải cầu vãng sanh mới được vãng sanh. Vì thế trong
kinh A-di-đà nói: “Cần phải phát nguyện, nguyện sanh về cảnh giới Tây phương Cực lạc”.
3. Hạnh: Nếu phát nguyện mà khơng hành trì, thì chỉ là phát nguyện suông, bởi thế cần phải
tiến thêm một bước nữa, thường tinh tấn thực hành mỗi niệm mỗi niệm nối tiếp nhau khơng
để gián đoạn. Ví như trong kinh A-di-đà nói: “Phải nắm giữ danh hiệu Phật, niệm cho đến
nhất tâm bất loạn”.Điều kiện Tín, Nguyện, Hạnh chính là ba loại tư lương cần thiết cho việc
vãng sanh Tịnh độ, nếu thiếu một trong ba loại thì khơng thể được. Bởi vì ba loại tư lương
này như một vịng trịn không đầu mối, ba loại này là yếu tố quan trọng liên kết với nhau để
hành trì, dẫn dắt đến con đường giải thoát. Nhưng trong ba loại tư lương này thì loại thứ ba
“Chấp trì danh hiệu” (Phải nắm giữ danh hiệu Phật, niệm cho đến nhất tâm bất loạn) cũng
hàm chứa nội dung ba món tuệ: Văn, Tư, Tu.
1.2.2. TƯ TƯỞNG TỊNH ĐỘ CỦA ĐẠI SƯ NGẪU ÍCH.
Đại sư Ngẫu Ích sinh vào năm thứ hai mươi bảy niên hiệu Vạn lịch đời vua Thần Tông nhà
Minh (1599 Tây lịch). Ngài ở vùng Mộc Độc tỉnh Giang Tô (Tây nam huyện Ngơ), tục tánh là
Chung, tự là Trí Húc, hiệu là Ngẫu Ích. Lúc cuối đời ngài về ở chùa Linh Phong, huyện Hàng
Biên, tỉnh Chiết Giang, cho nên mọi người gọi ngài là đại sư Linh Phong Ngẫu Ích. Ngài sáng
tác rất nhiều loại như: kinh A-di-đà yếu giải 1 quyển, kinh Phạm võng huyền nghĩa 1 quyển,

Bồ-tát giới bổn tiên yếu 1 quyển, kinh Pháp hoa huyền nghĩa tiết yếu 2 quyển, kinh Pháp hoa
hội nghĩa 16 quyển, kinh Lăng nghiêm huyền nghĩa 2 quyển, kinh Lăng nghiêm văn cú 10
quyển, Duyệt tạng tri tân 44 quyển, Pháp hải quán lan 5 quyển, Chu dịch thiền giải 10 quyển
… . Tổng cộng hơn 40 bộ và trên 230 quyển, trong đó có một bộ “Tập lục” nói về pháp ngữ,
vấn đáp, tự thuyết, thi kệ … của đại sư mà soạn thành “Linh Phong Ngẫu Ích đại sư tông luận”,
tất cả những luận điểm của đại sư đều sưu tập từ trong bộ Tông luận này.Ngài Liên Trì chủ
trương Thiền tơng và Tịnh độ là một, còn ở trong “ Tham cứu niệm Phật luận” của đại sư
Ngẫu Ích thì biểu thị các nghĩa khác. Đại sư tự mình chủ trương “Tam học nhất nguyên”, vì mỗi
người có sự tiếp xúc với cảnh ngộ khơng đồng mà có sự sai biệt.
Tam học nhất nguyên là Thiền tông, Giáo tông (bao quát các tông Thiên Thai, Hiền Thủ, Từ
Ân), Luật tông tương quan tương duyên hỗ trợ lẫn nhau, khơng phải “chia sơng uống nước”. Vì
Thiền tơng là tâm Phật, Giáo tông là lời dạy của Phật, Luật tông là hành vi của Phật. Cái tư
tưởng này của đại sư Ngẫu Ích mãi đến thời cận đại mới có đại sư Thái Hư thừa kế phát huy về
sau. Chẳng qua đại sư Ngẫu Ích lấy Thiền, Giáo, Luật nhiếp hết các tơng, cịn đại sư Thái Hư thì
vẫn lấy tám tơng làm chỗ nương tựa để đề xướng: “Tám Tông này, đều chân thật chẳng phải cân
7


lường, đều tròn đầy chẳng phải khiếm khuyết, đều khéo léo chẳng phải thô kệch, đều cứu cánh
Bồ-đề, đều đồng một Phật thừa vậy!”. Đại sư Ngẫu Ích hợp các tơng về thành một tơng và kết
tập lời nói, hành động, tâm ý của đức Phật thành một. Còn đại sư Thái Hư thì bỏ sự phân chia
các tơng mà quy về toàn thể. Tuy giữa hai vị đại sư có sự đặc sắc riêng biệt, nhưng quan niệm
cũng chỉ muốn cầu các tơng hồ hợp, do đó trước sau tuy xa vời nhưng hơ thì ứng. Luận niệm
Phật tam-muội là tư tưởng trọng tâm của đại sư Ngẫu Ích. Đối với đại sư lý niệm “Tâm,
Phật, chúng sanh tam vô sai biệt” là nền tảng, và chủ trương tất cả Phật pháp đều quy về với
niệm Phật tam-muội. Bất luận là niệm Phật A-di-đà hoặc “Tam quán nhất tâm” của tông
Thiên Thai, cùng với bốn loại tam-muội: Thường tọa, thường hành, bán hành bán tọa, phi
hành phi tọa …, cho đến sở truyền trực chỉ tâm pháp của Đạt-ma cũng đều thuộc pháp mơn
niệm Phật. Nhân vì nghĩa của niệm Phật quá rộng, cho nên phân ra làm ba loại:
1. Niệm Tha Phật (là niệm cảnh giới công đức trang nghiêm của đức Phật A-di-đà, niệm

tướng hảo của Ngài), 2. Niệm Tự Phật (là quán niệm tất cả tự tướng cùng ba đời chư Phật
đều bình đẳng khơng hai, vô thể tánh …), 3. Song niệm Tư, Tha Phật (là quán tâm, Phật,
chúng sanh tam vô sai biệt). Lại như trong văn “Thị niệm Phật tam-muội” (dạy Niệm Phật
tam-muội) nói: “Niệm Phật tam-muội là Bảo vương tam-muội, tam-muội trung vương (vua
của các tam-muội). Ngài lấy ba hạng pháp môn là: Niệm Tha Phật, niệm Tự Phật, Song niệm
tự tha Phật, phối hợp Tứ giáo của tông Thiên Thai: Tạng, Thông, Biệt, Viên, trong mỗi Tứ
giáo ấy đều đầy đủ ba loại pháp môn niệm Phật, lại thành mười hai loại niệm Phật tam-muội.
Đồng thời, đại sư đem mười hai loại niệm Phật tam-muội phối hợp với bốn loại tam-muội
của Ma-ha chỉ quán (như trước đã đề cử thường tọa, thường hành ..
1.2.3. TƯ TƯỞNG TỊNH ĐỘ CỦA CƯ SĨ DƯƠNG NHÂN SƠN.
Cư sĩ Dương Nhân Sơn là một nhân vật Tiền bối đại biểu cho hàng sử học Phật giáo thời
Trung Quốc cận đại. Ơng rất tơn sùng pháp mơn Tịnh độ và thường nói: “Lấy niệm Phật
vãng sanh làm tơng chỉ, xem việc hồng pháp lợi sanh là trợ duyên”. Cư sĩ Nhân Sơn cho
rằng những lời bàn về pháp môn viên đốn của Hoa nghiêm không hợp với nhau. Bành Tế
Thanh đối với tông chỉ và học thuyết của Phương Sơn hiểu biết còn mê hồ. Còn nếu hoàn
toàn nương vào quan điểm của Phương Sơn, cũng chỉ là pháp môn của một thời một
phương, không thể lập cái kiến giải cho mọi thời đại được. Ở đây, Bành Tế Thanh đối với
việc này lấy thời lượng làm thật pháp, nên hiểu biết riêng mà bỏ đi sự kiểm chứng. Tế Thanh
và cư sĩ Nhân Sơn đều học thơng suốt kinh Hoa nghiêm, đều có điểm thể hội và thâm nhập.
Cư sĩ Nhân Sơn đối với luận điểm đó, hiểu một cách rõ ràng, nên mới nêu lại quan điểm
tơng chỉ Phương Sơn cho thích hợp. Nếu hiểu biết đúng cách thắng giải nhất qn của Ơng,
thì bẻ gãy các lối lý luận lung tung, chỗ nào cũng nhận thức đúng khơng cịn lầm.

8


Chương 2
TỪ TƯ TƯỞNG ĐẾN TÍN NGƯỠNG CỦA PHÁP MƠN TỊNH ĐỘ
2.1. Khái lược về triết lý kinh điển của pháp môn Niệm Phật:
- Hầu hết các kinh luận Đại thừa đa số đều thuyết minh tổng quát về pháp mơn niệm Phật.

Trên thực tế hình thành pháp mơn Tịnh Độ phổ biến từ tư tưởng các bộ kinh căn bản như
Kinh Bát Chu Tam Muội (Ban Châu Tam Muội), Kinh A Di Đà, Kinh Quán Vô Lượng Thọ,
Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Hoa Nghiêm và Kinh Thủ Lăng Nghiêm và nhiều bộ kinh khác.
Pháp niệm Phật đến với quần chúng ước tính khoảng mười tám thế kỷ qua (Tính từ khi Kinh
Ban Châu Tam Muội được dịch tại Trung quốc năm 179), và pháp mơn Tịnh Độ được hình
thành và phát triển thời tổ sư Huệ Viễn (334-416 ) cho đến ngày nay. Thực tế lịch sử đã
chứng minh pháp mơn niệm Phật đã đóng một vai trị quan trọng trong lĩnh vực truyền bá
Phật giáo Đại thừa. Y cứ từ kinh điển liên quan Pháp môn niệm Phật, trên căn bản thì thiền
sư Tơng Mật (784-841), tổ thứ năm của tông Hoa Nghiêm đã phân thành bốn phương pháp
niệm Phật. Đó là trì danh niệm Phật, qn tượng niệm Phật, quán tưởng niệm Phật và thật
tướng niệm Phật.
- Niệm Phật theo hệ kinh Nikaya là pháp quán niệm chứ khơng phải là xưng niệm danh hiệu
như thời kì về sau này của Tịnh Độ tông. Nhưng vấn đề chú ý là Tịnh Độ tông lấy pháp niệm
Phật làm pháp mơn chủ đạo cho mục đích vãng sanh và chứng đắc Niết bàn. Nói niệm Phật
vãng sanh là có y cứ từ kinh luận Đại thừa.
-A Di Đà, phiên âm từ chữ Phạn Amita, có nghĩa là Vơ Lượng; A Di Đà là Vô Lượng Thọ
(Amitāyus) và Vô Lượng Quang (Amitābha). Tại sao từ A Di Đà chuyển đến ý nghĩa Vơ
Lượng Thọ và Vơ lượng Quang, đó là xuất phát từ nhiều lý do thích đáng. Các nhà dịch
thuật đều căn cứ vào ý nghĩa và nội dung kinh văn để nhận thức phẩm đức của Phật A Di Đà.
Theo từ điển Bách Khoa Phật Giáo Việt Nam giải nghĩa: “A Di Đà xuất hiện rất sớm ở
Trung Quốc qua bộ kinh Ban Châu Tam Muội do Chi Lâu Ca Sấm thực hiện năm 179, Đại A
Di Đà Kinh do Chi Khiêm dịch vào đầu thế kỷ thứ III và Kinh A Di Đà do La Thập dịch vào
đầu thế kỷ thứ V”. Điều chúng ta thấy là có nhiều kinh luận Đại thừa xuất hiện giới thiệu
Phật A Di Đà. Theo tinh thần các kinh Đại thừa nói chung thì A Di Đà (Amita) có
9


nghĩa rút gọn tên Vô Lượng Thọ và Vô Lượng Quang. Đặc biệt trong kinh điển Mật giáo, A
Di Đà Phật cịn có tên gọi là Cam Lồ Đại Minh Vương hay Kim Cương Cam Lồ Thân.
Ai đã từng đọc kinh văn Nguyên Thủy, đều biết ý nghĩa niệm Phật là phương pháp quán

tưởng, quán niệm về mười phẩm hạnh của Đức Phật trong pháp Lục niệm: Niệm Phật, niệm
Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Thí và niệm Thiên. Có nghĩa Niệm Phật ở đây là tư duy
về Phẩm đức Phật chứ không phải là xưng danh hiệu. Khi thuyết pháp cho các đệ tử cư sĩ,
Đức Phật dạy như sau: “Các ông sắp vào nơi hoang mạc, sẽ gặp nhiều khủng bố, tâm kinh
hồng dựng đứng cả lơng, lúc ấy nên niệm Như Lai sự: ‘Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh
Giác… cho đến Phật, Thế Tôn
- Vấn đề Tịnh Độ quan, chúng ta suy nghiệm từ kinh tạng Nikaya, qua bài Kinh Đại Thiện
Kiến Vương, ngôn từ Đức Phật thuật lại cho ngài Anan nghe quốc gia hưng thịnh của vua
Thiện Kiến làm Chuyển luân thánh vương trong thời quá khứ, ngôn từ diễn tả môi trường
của cảnh giới ấy căn bản có nhiều điểm giống như thế giới Tây phương cực lạc trong kinh A
Di Đà. Hơn nữa từ thực tế, Đức Thích Ca trước khi thành Phật cõi Ta Bà là Bồ tát Hộ Minh
trú tại cõi trời Đâu suất, Phật Di Lặc tương lai thành Phật cũng đang trú tại cõi trời Đâu suất.
Cảnh giới đó chúng ta có thể gọi là Thiên quốc tịnh độ. Đứng về phạm trù tâm mà luận, Phật
hay Bồ tát ln có Tịnh Độ hiện hữu, vì có cái tâm trong sạch thì có cảnh giới trong sạch là
Tịnh Độ. Nếu Phật và Bồ tát có tâm giải thốt khi thị hiện trong nhân gian này, thì thế giới
chúng ta có thể gọi là Phàm thánh đồng cư độ.
-Như thế, từ quan điểm tu niệm Phật của Phật giáo Nguyên Thủy, Tịnh Độ tông phát huy
yếu tố niệm Phật với tín ngưỡng tích cực, kinh luận Đại thừa cho là chánh tín trong pháp
mơn tu. Nhưng niệm Phật nhập vào cảnh giới Tam Muội (Chánh Định), phát huy sự quán
chiếu và chứng ngộ Niết bàn được nhấn mạnh trong kinh Bát Chu Tam Muội, Kinh Lăng
Nghiêm, hay Kinh Văn thù Thuyết Bát Nhã Kinh thì hồn tồn phù hợp với quan điểm niệm
Phật chứng đắc Niết Bàn trong kinh Nguyên thủy. Đức Phật đã dạy như sau: “Có một pháp,
này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly
tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Một pháp ấy là gì? Chính là Niệm
Phật. Chính một pháp này, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến
nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn”.
10


2.2. Bước chuyển từ triết lý niệm Phật đến tín ngưỡng niệm Phật:

- Kinh văn Đại thừa có quan niệm về yếu tố tha lực trong giáo nghĩa niệm Phật. Tha lực có
phải là năng lực và bổn nguyện của Phật hay là hy vọng được thiết lập từ tính chủ quan của
đệ tử Phật? Trong giáo lý Nguyên thủy hàm chứa yếu tố tha lực như là công đức phát sanh từ
lịng kính trọng Đức Phật, kính trọng Tam Bảo, hay là từ cơng đức bố thí. Trong bài kinh
“Lâu Đài Của Nàng Chiên Đà La (Candàlì -Vimàna)" kể câu chuyệnmột phụ nữ nghèo, hạnh
nghiệp xấu nhưng một lần lễ Phật với lịng thành kính, sau đó bị tại nạn lâm chung mà được
sanh lên cảnh thiên cung. Hay câu chuyện: "Lâu đài do cúng mè", kể lại một người phụ nữ
nghèo khổ, từ lâu sống với nghiệp xấu đáng đọa địa ngục, nhưng nhờ một lần cúng dường
mè cho Đức Phật mà được phước sanh thiên. Trong giáo lý Tịnh độ tin tưởng rằng người
thường niệm, lễ Phật và tu các thiện pháp sẽ được Phật tiếp độ vãng sanh. Đây là yếu tố
quan trọng phát huy quan niệm tha lực và tự lực hợp nhất trong giáo lý Tịnh Độ. Nguyên
Thủy Phật giáo, bậc thánh từ A na hàm trở lên mới thực sự khơng cịn bị tái sanh vào thế giới
Ta Bà, sẽ sanh vào cõi trời và sau cùng đắc quả A La Hán tại đó “Sau khi viên tịch ở đây,
Ngài tái sanh vào cảnh giới Vơ Phiền Thiên (Suddhavasa, cảnh giới hồn tồn tinh khiết),
một cảnh giới thích hợp với các vị A Na Hàm. Ngài sẽ chứng đắc Đạo Quả A La Hán và
sống hết tuổi thọ trong cảnh giới này.” Chúng ta có thể nói rằng từ bậc A Na Hàm mới được
an trú trong cảnh “Thiên quốc Tịnh Độ”.
- Theo giáo lý Tịnh Độ Phật A Di Đà là vị Phật ánh sáng luôn soi chiếu thông suốt mọi cảnh
giới, tiếp dẫn chúng sanh vãng sanh. Đại thừa triển khai chân lý Phật dạy với quan niệm Thế
giới quan và Phật đà quan hồn tồn khơng bị đóng khung trong quan niệm của Phật giáo
Nguyên thủy. Có thể nói niệm Phật theo hệ Nikaya là quán tưởng công đức Phật, Tịnh Độ
tơng phát huy yếu tố tha lực và tín ngưỡng một cách triệt để, để truyền bá rộng rãi trong
quần chúng. Nhưng phải ghi nhận rằng, yếu tố triết lý trong giáo nghĩa Tịnh Độ vẫn nhấn
mạnh vai trò pháp Niệm Phật hướng đến chứng ngộ Niết bàn như giáo lý Nguyên Thủy. Như
kinh Bát Chu Tam Muội, Kinh Văn Thù Thuyết Bát Nhã Kinh, Kinh Lăng Nghiêm và nhiều
kinh khác.
2.3. Vãng sanh và chứng ngộ là tinh hoa của pháp mơn niệm Phật:
-Vãng sanh có nhiều chánh nhân, nhưng căn bản kinh Quán Vô Lượng Thọ dạy rằng:
10



"Nầy Vi Ðề Hi! Người muốn sang nước Cực Lạc ấy nên tu ba phước. Một là hiếu nuôi cha
mẹ, kính thờ bực Sư Trưởng, có tâm nhơn từ chẳng giết hại và tu tập mười nghiệp lành. Hai
là thọ trì Tam Quy y, đầy đủ các cấm giới và chẳng phạm oai nghi. Ba là phát tâm Bồ Ðề,
sâu tin nhơn quả, đọc tụng Kinh điển Ðại Thừa và khuyên dạy sách tiến người tu hành. Ba
sự như vậy gọi là tịnh nghiệp." Đó là hạnh tu thiết thực trong đời sống con người, mang ý
nghĩa đạo đức, luân lý, giới luật và tu tập trí tuệ.Vãng sanh theo Kinh A Di Đà dạy là phải
đạt “Nhất tâm bất loạn”, một khi đạt nhất tâm bất loạn tức là thành tựu về thiền định và trí
tuệ. Khi có đủ tuệ giác thì mới có đầy đủ cơng đức giải thoát. Vãng sanh theo kinh Hoa
Nghiêm được đúc kết trong quá trình thực hành mười nguyện lớn của Bồ Tát Phổ Hiền, đây
là lộ trình tu học tích cực, có chí nguyện lớn trong tinh thần tự lợi và lợi tha, sau cùng đem
hết thảy công đức nguyện sanh về cõi Tây Phương Tịnh Độ.
Chương 3
PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ Ở VIỆT NAM
3.1. Tư tưởng Tịnh Độ trong Phật giáo Việt Nam và Nam Bộ:
3.1.1. Trong Phật giáo Việt Nam:
Theo Nguyễn Văn Quý, tư liệu hàm chứa tư tưởng Tịnh độ hiện cịn, có lẽ sớm nhất ở Việt
Nam là Lý hoặc luận, tác phẩm do Mâu Tử viết, một sĩ phu người Hán tỵ nạn đến Giao
Châu dưới thời Sĩ Nhiếp (…) sau đó là Lục độ tập kinh của Khương Tăng Hội (?-280) và
đến thế kỷ thứ V tư tưởng Tịnh độ đã được truyền vào nước ta [Nguyễn Văn Quý, 2015, tr.
28-30]. Thời Lý và thời Trần, thế kỷ XI đến XIV, là hai giai đoạn cực thịnh của Phật giáo tại
Việt Nam, chúng ta cũng tìm thấy tư tưởng Tịnh độ trong Phật giáo, biểu hiện qua tượng thờ
A Di Đà ở chùa Phật Tích, qua hình tượng Cửu Phẩm Liên Hoa2 tại nhiều ngôi chùa ở miền
Bắc Việt Nam như chùa Bút Tháp (tỉnh Bắc Ninh), chùa Động Ngọ và chùa Giám (tỉnh Hải
Dương).Thế kỷ XV và XVI giai đoạn Nam Bắc triều, Trịnh-Nguyễn phân tranh, xu hướng
nổi bật là Thiền - Tịnh song tu, do Diên Thọ khởi xướng. Nhưng theo Nguyễn Duy Hinh,
“Hiện tượng niệm Phật (cầu tha lực) thì phổ biến ở nước ta, xuất phát điểm không nhất thiết
từ kinh điển của tông Tịnh Độ Trung Quốc, mà trực tiếp từ kinh Pháp hoa đã lưu truyền ở
11



nước ta, ít ra từ thời Thiền sư Minh Tâm Bảo Giám [Nguyễn Duy Hinh,1999, tr.654]. Nhận
xét này chúng ta sẽ có dịp hiểu rõ hơn khi phân tích tư tưởng Tịnh độ lưu hành ở Nam Bộ từ
sau thế kỷ XVII đến nay.
3.1.2 Trong Phật giáo ở Nam Bộ:
a) Tại các chùa theo hệ phái Bắc tông
-Bốn thời sinh hoạt trong ngày tại các ngôi chùa thuộc hệ phái Bắc tơng gồm có cơng phu
khuya (4 giờ), cúng quả đường (10 giờ 30), cúng mơng sơn thí thực (16 giờ) và Tịnh độ (19
giờ). Như vậy, mỗi tối tại các chùa thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông đều có thực hành pháp
mơn Tịnh độ.Niệm Phật cơng cứ cũng là một hoạt động đạo sự giúp cho Phật tử có điều kiện
tập trung tư tưởng, tín tâm mạnh, qua công phu niệm Phật, đếm được số lượng câu niệm, qua
các thanh tre.Tại chùa Thiên Thai (Bà Rịa-Vũng Tàu), Hòa thượng Huệ Đăng đã phổ biến
việc hành trì pháp mơn Tịnh độ cho Phật tử qua quyển Tịnh độ Chánh tơng diễn giải. Để
khuyến tu Tịnh độ, Hịa thượng đã sử dụng văn vần, dùng từ ngữ bình dân, dễ hiểu, để nhiều
thành phần trong xã hội có thể dễ dàng tiếp thu, dễ nhớ, dễ thuộc. Hòa thượng đã cho rằng
trong các pháp mơn, thì pháp mơn Tịnh độ là ưu việt nhất:
Trong tám vạn bốn ngàn cửa pháp,Nói khơng cùng lý đạt khó thơng.Y theo Tịnh độ thiền
mơn,Mở ra một cửa Chánh tơng chơn truyền.[Thích Huệ Đăng, 1993, tr.23]
-Kinh sách phổ biến trong hệ phái, cũng như được sử dụng vào các buổi tối Tịnh độ là
những quyển kinh A Di Đà, kinh Vô lượng thọ và kinh Qn vơ lượng thọ… Ngồi ra, tùy
vào từng thời điểm mà tụng niệm các kinh khác như Pháp hoa, Vu Lan, Địa Tạng…
-Tuy nhiên, cũng cần nhận thức rõ rằng, trong các chùa Phật giáo Việt Nam thuộc hệ phái
Bắc tông không thực hành duy nhất và riêng lẻ pháp môn Tịnh độ, mà trong từng ngày, trong
tuần, trong tháng và cả năm, sinh hoạt Phật giáo lúc nào cũng đều có sự phối hợp với hai
pháp mơn của Thiền tông và Mật tông. Sự kết hợp 3 pháp môn Thiền-Tịnh-Mật được thể
hiện qua nghi thức thờ tự, qua kinh sách đọc tụng và qua cả cách hành trì. Các đạo tràng
niệm Phật ở chùa Phú Linh (Bến Tre), chùa Long Phước (Bạc Liêu) cho thấy yếu tố Thiền
tông và Tịnh Độ tơng đã hịa quyện, đan xen trong ngơi chùa. Thiền viện Sơn Thắng và chùa
Giác Thiên (Vĩnh Long) nhiều năm qua đã hành trì theo hệ thống Thiền Trúc Lâm Yên Tử
thời Trần, nhưng vẫn hướng dẫn Phật tử tụng kinh vào thời Tịnh độ mỗi tối.

12


Cho đến nay, tại Nhất Nguyên Bửu Tự (TX.Thuận An, tỉnh Bình Dương) đã tổ chức thành
cơng khóa niệm Phật 100 ngày đêm lần thứ 50.
b) Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam (TĐCSPHVN).
-Người sáng lập ra Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam là ông Nguyễn Văn Bồng (1886-1958).
Pháp môn Tịnh độ được ông chọn làm phương pháp tu hành vì nó dễ áp dụng đối với mọi
người. Cư sĩ là người tu tại gia, không bắt buộc từ bỏ gia đình, xuống tóc. Tuy nhiên trong
Hội vẫn có tu sĩ xuất gia, như trường hợp ở Hưng Đức Tự (tỉnh Bình Dương). Năm 1934,
ơng chính thức thành lập Tịnh Độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam, là một tổ chức hội gồm những
người cư sĩ thực hành pháp môn Tịnh độ.
-Tịnh độ Cư sĩ Phật hội chủ trương pháp môn niệm Phật và hành Lục độ. Đến năm 1950,
nhằm nâng cao trình độ của hội viên, tín đồ, Đức Tơng sư Minh Trí chính thức lấy tôn chỉ
hành đạo là “Phước Huệ song tu”, lấy pháp môn niệm Phật làm căn bản, dùng y đạo làm
phương tiện phát triển hội quán”.
c) Hội Tịnh Độ tông Việt Nam
-Hội do cư sĩ Đồn Trung Cịn thành lập vào năm 1955. Đây là một hội lấy pháp môn Tịnh
độ làm căn bản để thực hành. Trụ sở trung ương là chùa Liên Tông (quận 1 TP.HCM). Tiếp
thu giáo lý của phái Tịnh Độ tông ở Trung Quốc và Nhật Bản, Hội Tịnh Độ tơng Việt Nam
có tổ chức quy mơ từ trung ương đến địa phương, có tơn chỉ mục đích, có điều lệ rõ ràng:
“Nhà sư Tịnh độ Việt Nam là người ở tại chùa, am, cốc, ăn chay mỗi tháng 6 ngày trở lên, có
thể lập gia đình (…), trong giao tế với xã hội có thể mặc thường phục Âu châu hoặc Việt
Nam, cũng có thể để tóc”.
d) Thiền-Tịnh đạo tràng
-Thiền-Tịnh đạo tràng là nơi thực hành phương pháp tu theo Thiền tông và Tịnh Độ tơng.
Giáo phái này do Hịa thượng Chơn Như Minh Trực5 (1895-1976) sáng lập vào năm 1948
tại Sài Gòn. Từ hai pháp mơn chính của Thiền tơng và Tịnh Độ tơng, Hòa thượng Sư tổ tiếp
tục nối truyền Chánh pháp từ chư Phật, chư Tổ ngày xưa. Về Thiền tông Bát-nhã biệt truyền,
lấy giáo pháp chỉ trong Pháp bảo đàn kinh, Kim cang kinh, Bát-nhã tâm kinh, Bát-nhã cương

yếu, kinh Duy Ma Cật, Đốn ngộ nhập đạo yếu môn luận v.v… làm căn bản để tu học, giảng
luận, tham thiền tịnh luyện.
13


e) Mật-Tịnh đạo tràng
-Đạo tràng này do Hịa thượng Thích Thiền Tâm khai sáng vào năm 1971, kết hợp hai
phương pháp tu của Mật tông và Tịnh Độ tông. Buổi đầu, vào năm 1971, đạo tràng Đại Ninh
và Hương Nghiêm, thuộc thôn Phú An, xã Phú Mỹ, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng, có cơ
sở đào tạo về Tịnh Độ tơng trong 3 năm liền. Giữa năm 1971, Hịa thượng Thiền Tâm lại
xây dựng thêm Phương Liên tịnh xứ và Mật Tịnh đạo tràng tại đây. Đến nay, pháp môn MậtTịnh vẫn được các tu sĩ, Phật tử hành trì, dù rằng Hòa thượng Thiền Tâm đã viên tịch.
f) Yếu tố Tịnh độ trong đạo Bửu Sơn Kỳ Hương.
Bửu Sơn Kỳ Hương (BSKH), Tứ Ân Hiếu Nghĩa và Phật giáo Hòa Hảo là 3 giáo phái lấy
nguồn gốc từ giáo lý Phật giáo. Ba giáo phái này đều kết hợp pháp môn tu tập của Thiền
tông, Tịnh Độ tông và Mật tơng trong phương thức hành trì; đều quan niệm trong tương lai
sẽ có Hội Long Hoa ra đời để phân định phẩm vị cho mỗi người có cơng đức, vì vậy các
giáo phái này dùng pháp mơn Thiền-Tịnh-Mật để khuyến người dân tu tập cho kịp kỳ Long
Hoa đại hội, mở ra một thời kỳ mới, thời Thượng Nguyên Thánh Đức, một kỷ nguyên mới,
một quốc độ mới, trong đó mọi người đều sống trong sự an lạc, hạnh phúc, một cõi nhân
gian Tịnh độ.Ơng Đồn Văn Hun, cịn được gọi là Đức Phật Thầy Tây An, người khai mở
mối đạo vào năm 1849, tại cốc Ông Đạo Kiến (nay là Tây An cổ tự, xã Long Kiến, huyện
Chợ Mới, tỉnh An Giang). Đạo BSKH không dùng kinh Phật giáo, khơng theo cách tổ chức
trong hàng tu sĩ. Ơng đã vận dụng tinh hoa trong giáo lý Phật giáo, rồi cải biên, làm cho Phật
giáo có thể dễ dàng thâm nhập vào con người Việt Nam, mà trước hết và cụ thể là vùng đất
Tây Nam Bộ. Những yếu tố của Thiền tông, Tịnh Độ tông đã được Phật Thầy Tây An sử
dụng như một phương tiện, nhằm củng cố niềm tin thiêng liêng và lòng tự hào dân tộc. Dùng
Mật tông với phù chú chữa bệnh để tạo niềm tin được khỏi bệnh; dùng pháp môn niệm Phật
của Tịnh Độ tông để khuyên sống thiện, tránh điều ác; dùng Thiền tơng để nâng cao nhận
thức, khai mở trí huệ...
g) Yếu tố Tịnh độ trong đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa.

-Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa (TÂHN) do ông Ngô Lợi, được gọi là Đức Bổn Sư, lập tại An
Giang vào năm 1867. Đạo có mối quan hệ với đạo Bửu Sơn Kỳ Hương qua việc ơng phát
lịng phái cho tín đồ có 4 chữ Bửu Sơn Kỳ Hương và tại ngơi tổ đình của đạo có thờ một
14


trong những tín ngưỡng của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương là tấm trần điều.Đạo chủ trương hàng
ngày tín đồ phải thành tâm niệm lục tự Di Đà, tức Nam-mô A Di Đà Phật. Muốn đến Tây
phương Cực lạc, nơi không có khổ não, chỉ có hạnh phúc, an lạc, thì chỉ cần niệm Nam-mô
A Di Đà Phật là đã được cứu độ. Danh hiệu này được tín đồ xưng tụng khi hành lễ tại nhà,
trong các lễ cúng dường, nguyện hương tại chùa. Đức Bổn Sư dạy rằng:
“Niệm Phật đừng có lơi thơi
Niệm cho chánh niệm mới ngồi tịa sen”.
h) Yếu tố Tịnh độ trong Phật giáo Hòa Hảo
-Phật giáo Hịa Hảo (PGHH) do ơng Huỳnh Phú Sổ lập vào năm 1939 tại An Giang. Ơng
cịn được gọi là Đức Thầy hay Đức Huỳnh Giáo chủ. Tiếp nối truyền thống “học Phật, tu
nhân” từ đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, đạo PGHH chủ trương thực hành pháp môn Tịnh độ. Giáo
chủ PGHH cho rằng niệm Phật là niệm cái bản lai thanh tịnh của Phật, cho lịng của mình
nương theo đó mà được thanh tịnh và chẳng còn trược nhiễm trần ai. “Sự trì niệm này phải
thành khẩn, thiết tha, niệm niệm cho đến chừng nào nhất tâm bất loạn mới đạt được hiệu
quả” [Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo, 1969, tr. 36]. Theo PGHH, nhờ có cố gắng, tâm trí sẽ
được an nhiên, bình tĩnh, diệt được ma trược phiền não… Như thế cõi Tịnh độ sẽ thể hiện
trước mắt ta một cách chân thực vậy.

15


KẾT LUẬN
Trên phương diện tu học, thực tập bất cứ một pháp mơn nào cũng có những phương tiện
nhất định để điều phục và chuyển hóa tâm. Tịnh Độ đã từng phát triển mạnh mẽ trong tri

thức quần chúng qua nhiều thế kỷ tại các nước Phật Giáo Đại thừa. Liên quan vấn đề tín
ngưỡng và triết lý trong pháp niệm Phật chúng ta có thể đi đến một vài nhận xét sau:
Thứ nhất: Tín ngưỡng và triết lý trong pháp niệm Phật là điều kiện căn bản của mục đích
vãng sanh và thành tựu tuệ giác. Bồ tát Long Thọ xem pháp môn niệm Phật dễ thành tựu đạo
quả vơ thượng một cách mau chóng, gọi là “Dị hành đạo”(Dễ tu hành): “Phật pháp có vơ
lượng mơn, như những con đường ở thế gian có khó có dễ, đi bộ thì khó ngồi thuyền bè thì
dễ. Muốn dễ đi mau đến phải nên niệm Phật, phải nên xưng danh hiệu Phật A-Di-Đà thì mau
được đạo giác ngộ Chân Chánh Vô Thượng”.

Thứ hai: Niệm Phật là phương pháp rất thù thắng để điều phục phiền não và thể nhập trạng
thái chánh định, đó là tiềm năng của sự quán tâm để chứng ngộ Niết bàn. Vấn đề đặt ra là
phương pháp niệm và quán tưởng theo đúng kinh điển Nikaya và kinh Đại thừa hướng dẫn.
Thứ ba: Trên phương diện triết lý thì Thực tướng niệm Phật là nội dung căn bản của các
pháp mơn , vạn pháp khơng ngồi tâm, mười pháp giới khơng ngồi tâm, vũ trụ khơng ngồi
tâm, Tây Phương Tịnh Độ khơng ngồi tâm và niết bàn Niết Bàn khơng ngồi tâm. Tâm ấy
là bản thể vạn pháp, chính là “Tự tánh Di Đà, Duy Tâm Tịnh Độ”. Dù tu bất cứ pháp môn
nào sau cùng cũng chứng ngộ tâm tánh ấy. Đó là tinh hoa của pháp môn Tịnh Độ, cho nên
các vị tổ sư xem Pháp Niệm Phật là phương tiện thiết thực trong sự tu học và truyền bá Phật
pháp.

16


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.Cư sỹ Nguyên Thanh Hoa (2014), “Nguồn gốc lịch sử, ra đời và phát triển củaTịnh Độ
tông”, Nghiên cứu Phật học.
2.Lý Hiếu Bổn (Quảng Hiếu dịch), Lịch sử Tịnh Độ tông Trung Quốc, bản PDF.
3. Nguyễn Duy Hinh (2006), Triết học Phật giáo Việt Nam, Nxb. Văn hóa Thơng tin và Viện
Văn hóa, Hà Nội.

4. Lê Mạnh Thát (2001), Nghiên cứu về Thiên uyển tập anh, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh:
5. Nguyễn Tài Thư (chủ biên, 1988), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà
Nội:
6. Lê Mạnh Thát (1999), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, tập 1, sđd: 749.
7. Nguyễn Duy Hinh (2009), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb. Tôn Giáo và Nxb.Từ điển
Bách khoa, Hà Nội.
8. Mật Thể (2004), Việt Nam Phật giáo sử lược, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội: 4-Lịch sử Phật Giáo
Đàng Trong – Nguyễn Hiền Đức.

17



×