Vợ chồng A Phủ
Nhà văn Nam Cao đã khẳng định: “Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa
dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau
khổ kia thốt ra từ những kiếp lầm than”. Trên hành trình khám phá và sáng tác nghệ
thuật, sứ mệnh của mỗi nhà văn là “trải nghiệm nỗi đau của quần chúng, hướng tới lẽ
sống của nhân dân” để từ đó vẽ nên những bức tranh chân thật nhất về thời đại, con
người trong mọi hồn cảnh. Ngịi bút tài hoa của nhà văn Tơ Hồi đã tìm kiếm, khám
phá và khắc hoạ thành cơng sự thật ấy qua nhân vật Mị trong tác phẩm “Vợ chồng A
Phủ”. Thông qua những nét đẹp quý giá ở đứa con tinh thần của mình, tác giả đã gửi
đến người đọc những thông điệp, tư tưởng nhân đạo sâu sắc. Đoạn trích sau đây thể
hiện rõ nét những thông điệp ấy: “Lần lần, mấy năm qua,... đến bao giờ chết thì
thơi.”
Tơ Hồi là cây đại thụ của nền văn học Việt Nam, là một trong những tác gia lớn
nhất của thế kỉ XX. Ông được mệnh danh là “nhà văn phong tục” khi những trang văn
của ông không chỉ hấp dẫn người đọc bằng xu hướng thể hiện những sự thật đời
thường mà còn bởi sự từng trải cùng vốn hiểu biết phong phú về đời sống, phong tục
tập quán của nhiều vùng miền. Kho tàng kiến thức đó của ơng khơng phải vốn dĩ đã
có mà là được trau dồi qua từng chuyến đi. Nếu như Nguyễn Tuân mang tâm thế xê
dịch để chơi, để thưởng ngoạn, thì với Tơ Hồi, đi là để học, để khám phá. Ơng ln
kè kè cuốn sổ và cây bút bên cạnh mình, “ln có tác phong vừa nghe người ta nói,
vừa xem họ làm, vừa sinh hoạt với họ, đồng thời cịn ghi chép lại… Từ đó mới thấy
nhà văn Tơ Hồi làm việc rất tỉ mỉ và những điều ông đưa ra làm cho chúng ta tin
được” (Hoàng Quốc Hải). Với 63 năm cầm bút miệt mài, Tơ Hồi đã để lại cho nền văn
chương nước nhà một gia tài sáng tác đồ sộ gồm hơn 200 đầu sách thuộc nhiều thể
loại khác nhau.
Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” (1952) là một trong số những truyện ngắn xuất
sắc nhất của Kim Lân, được in trong tập “Truyện Tây Bắc”, là thành quả nghệ thuật
của chuyến đi công tác dài tám tháng cùng bộ đội lên giải phóng Tây Bắc. Quãng thời
gian gắn bó cùng những đồng bào nơi vùng núi xa xôi ấy đã thôi thúc nhà văn sáng
tác để trả “món nợ ân tình” bởi họ sống ân nghĩa ân tình q đỗi, khiến Tơ Hồi phải
u mến, trân trọng, mãi mãi nhớ đến - “Đất nước và người miền Tây đã để thương
để nhớ cho tôi nhiều, khơng thể bao giờ qn… Hình ảnh Tây Bắc đau thương và
dũng cảm lúc nào cũng thành nét, thành người, thành việc trong tâm trí tơi” (Tơ
Hồi). Truyện đã xây dựng thành cơng nhân vật Mị để từ đó tái hiện lại một cách chân
thật nhất về cuộc sống và số phận đau khổ của người nông dân nghèo miền núi dưới
ách áp bức của các thế lực phong kiến và thực dân, đồng thời cũng là bài ca về sức
sống mãnh liệt và quá trình vùng lên gỡ bỏ gơng cùm, xiềng xích để đến với ánh
sáng của tự do của những con người nô lệ. Viết về nhân vật của mình, Tơ Hồi tâm
sự: “Nhưng điều kì diệu là dẫu trong cùng cực đến thế, mọi thế lực của tội ác cũng
khơng giết được sức sống con người. Lay lắt đói khổ, nhục nhã, Mị vẫn sống, âm
thầm, tiềm tàng, mãnh liệt”.
Đoạn trích nằm gần về phía mở đầu câu chuyện, khắc hoạ lại tấn bi kịch mà Mị
phải gánh chịu: bị đày đọa về thể xác lẫn tinh thần cùng diễn biến tâm lý mang nặng
tâm tư của Mị, là đoạn văn tiêu biểu cho những cảnh đời đầy tủi nhục dưới sự chèn
ép của những thế lực đen tối. Qua đoạn văn. ta thấy được giá trị hiện thực và giá trị
nhân đạo sâu sắc của tác phẩm, đồng thời thấy được tài năng của Kim Lân trong việc
khắc hoạ nhân vật.
Tác phẩm xoay quanh nhân vật Mị, một người con của vùng Hồng Ngài, núi rừng
Tây Bắc. có nhan sắc xinh đẹp, thu hút “trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng
Mị”. lại có tài thổi sáo khiến “biết bao nhiêu người mê”. Chẳng những thế Mị cịn có
một tâm hồn đẹp với những phẩm chất đáng quý trọng: hiếu thảo, yêu lao động, tự
trọng, khao khát về cuộc sống tự do khi đứng trước món nợ từ đời cha mẹ, Mị thà làm
lụng vất vả, sống chắt chiu, khổ cực để trả chứ nhất quyết không làm dâu gạt nợ,
“Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố.
Bố đừng bán con cho nhà giàu.” Một cô gái đẹp người, đẹp nết như vậy xứng đáng
được hưởng hạnh phúc, nhưng trớ trêu làm sao khi “chữ tài đi với chữ tai một vần”.
Chính những nét đẹp đó của Mị lại là căn nguyên gây ra nỗi bất hạnh cho nàng. Dù
đã từ chối lời ngỏ cưới của gia đình thống lí Pá Tra nhưng Mị vẫn chẳng thể thốt khỏi
số kiếp “làm dâu gạt nợ” khi cơ bị bọn chúng bắt cóc đem về cúng trình ma, đem linh
hồn cơ trói buộc ở nhà thống lí. Kể từ đây, cô đành phải ở lại nhà chồng và sống
không khác gì một nơ lệ. Cơ phải chịu đựng những nỗi thống khổ về thể xác lẫn tinh
thần. Đoạn trích trên đã phần nào tái hiện lại phần nào cái cuộc sống đầy đau khổ đã
đã đày đọa, ám ảnh Mị.
Mang tiếng là làm dâu những Mị chẳng khác gì một cỗ máy lao động khi phải
quần quật làm việc không ngơi nghỉ. Trước tiên, tác giả để lại ấn tượng trong lòng
người đọc về khoảng thời gian mà Mị đã sống ở nhà thống lí: “Lần lần, mấy năm qua,
mấy năm sau”, chỉ mấy năm thôi nhưng chắc là lâu lắm. Đó chẳng phải là quãng thời
gian hạnh phúc gì cho cam mà là những năm tháng Mị phải lê lết tấm thân trong “bể
dâu” của cuộc sống, nếm trải sự xói mịn trong tâm hồn của mình. Cái khoảng thời
gian khơng xác định ấy tưởng chỉ mang tính chất giới thiệu thôi nhưng lại rất đáng
suy ngẫm, gợi cho người đọc cảm xúc đớn đau khó tả, khiến ta thương xót, ngậm
ngùi khi bao nhiêu năm đã chầm chậm trôi qua mà Mị lại chẳng hề nhớ đến hay để ý
đến. Mị đã mất đi nhận thức về thời gian bởi bấy giờ, đối với Mị ngày nào cũng như
ngày nào, lúc nào cũng quẩn quanh trong một vịng lặp khép kín, kéo dài vơ tận của
một nùi công việc nặng nề “mỗi năm mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại”, nào là
hái thuốc phiện, giặt đay, xe đay, tước đay thành sợi, tới đi nương bẻ bắp, bung ngô,
hái củi. Thế mới thấy, đời làm dâu của Mị thất vất vả, cơ cực, tủi nhục. Cái bọn ác ơn
đó bắt con gái nhà người ta về làm dâu chỉ để bổ sung thêm người lao động cho
những công việc làm nông, đồng áng, làm nguồn nhân lực không công cho chúng.
Với nghệ thuật liệt kê cùng phép điệp ngữ được sử dụng linh hoạt, Tơ Hồi đã tơ
đậm nỗi vất vả, lam lũ, tủi nhục của Mị khi mọi sinh lực, sức sống của cô đã bị hút hết
vào những cơng việc nặng nhọc đó. Mị bị vắt kiệt sức lực, bị biến thành sức nơ cho
nhà thống lí. Thơng qua những nỗi đau mà Mị phải gánh chịu, nhà văn tố cáo sự tàn
bạo của cường quyền và thể hiện sự đồng cảm của mình trước cảnh con người bị chà
đạp, vùi dập.
Những tháng ngày cực hình ấy đã chèn ép tinh thần Mị, khiến cô đánh mất ý
thức về quyền sống tự do của một con người và trở nên bng xi, phó mặc, đầu
hàng trước số phận. Nếu trước đây, khi mới về làm dâu nhà thống lý được vài tháng,
Mị vẫn cịn giữ được tình thần phản kháng từ yếu ớt “đêm nào Mị cũng khóc” đến
mạnh mẽ - trốn về nhà với đám lá ngón trong tay, nhưng vì thương cha, lại cũng vì
chữ hiếu nên “Mị khơng đành lịng chết” thì lúc này Mị chẳng cịn tưởng đến việc “ăn
lá ngón tự tử” nữa, dẫu cho bây giờ, Mị đã có khả năng tự quyết sự sống chết cho
mình bởi lẽ bố Mị đã chết, sợi dây duy nhất níu kéo Mị ở lại với trần gian đã biến mất,
chẳng cịn gì ràng buộc Mị nữa. Phải chăng là Mị đã cam chịu kiếp sống nơ lệ? Và có
lẽ nào, ý thức phản kháng của Mị đã hoàn toàn tan biến sạch sẽ? Thật xót xa làm sao
khi chứng kiến Mị - một cơ gái vốn tự chủ, kiên cường lại phải thỏa hiệp với một hồn
cảnh, mơi trường độc địa, tàn nhẫn như thế. “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”.
Cái khổ đã đồng hoá Mị, đã dập tắt ngọn lửa khát vọng muốn giải phóng bản thân
khỏi chốn cùng quẫn của Mị, làm thui chột đi ý thức đấu tranh của Mị. Những nỗi khổ
đau, tủi nhục ban đầu tưởng như sẽ chẳng thể nào chấp nhận được cũng dần trở nên
chai lì theo thời gian.
Khơng dừng lại ở đó, sự đau khổ triền miên mà cái hoàn cảnh tăm tối ấy gây ra
cho Mị còn mài mòn đi ý thức về thân phận con người của cô và và khiến cơ chai sạn
cảm xúc. Nếu như Chí Phèo bị sự khắc nghiệt của cuộc sống, của thời thế chèn ép
đến mức phải “tha hoá” biến thành “con quỷ của làng Vũ Đại” thì Mị lại bị “vật hố”
khi cơ “tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa”. Trong suy nghĩ của Mị,
cô cũng như chúng “chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”, suốt ngày lam lũ chẳng
hề than vãn, thậm chí có lẽ cịn chả bằng, vì chúng ít nhất cịn được nghỉ, “đêm nó
cịn đứng gãi chân, đứng nhai cỏ”, cịn “đàn bà con gái nhà này thì vùi vào làm việc
làm cả đêm cả ngày”. Người đàn bà ấy đã gồng gánh gian lao đi qua cơ cực mỏi mòn
mà chẳng biết nặng là gì. Cơ nghiễm nhiên cam chịu, chấp nhận, coi mình là thân
phận súc nơ trong nhà thống lí. Sự chịu đựng, nhẫn nhục cùng tâm hồn vơ cảm đã
hoá thành cái “cúi mặt” cùng dáng vẻ “Mỗi ngày Mị càng khơng nói, lùi lũi như con
rùa ni trong xó cửa”. Nhìn cái con người căm nin, lặng lẽ đó chắc chẳng thể ai có
thể biết rằng trước đây cô vốn yêu đời, vui tươi biết nhường nào cùng một đời sống
nội tâm vốn phong phú, sôi nổi. Khn mặt, hình bóng cơ giờ đây chỉ chất chứa sự
buồn rầu đến não lịng. Đó là một dáng vẻ heo hắt của một tâm hồn lay lắt.
Nhà văn như nhập thân vào nhân vật để nói lên suy nghĩ của Mị, khiến độc giả
thêm xót thương cho Mị. Đồng thời, chuỗi quá trình so sánh tăng cấp, từ so sánh
ngang bằng đến so sánh hơn đã khiến cho chân dung nhân vật được khắc họa rõ nét
hơn. Với ba hình ảnh ẩn dụ đắt giá: “con trâu”, “con ngựa”, “con rùa”, Tơ Hồi đã
thành cơng diễn tả lại q trình “vật hố” của Mị để từ đó hiện sự bé nhỏ, tội nghiệp
của cơ, đồng thời thể hiện niềm thương cảm thấm thía trước những kiếp người nô lệ
dưới sự áp bức của bọn thống trị.
Cái sự khổ đau, bất hạnh, cơ cực mà Mị phải gánh chịu đã khiến Mị không chỉ
mất đi nhận thức về thời gian mà cịn cả về khơng gian. “Cái buồng Mị nằm, kín mít,
có một chiếc cửa sổ một lỗ vng bằng bàn tay” bó chặt cuộc sống, tâm hồn Mị
khiến mọi khái niệm về không gian và thời gian của Mị trở nên mờ nhòe cả đi “Lúc
nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng.” Không gian
sống chật chội, tăm tối, ngột ngạt đó chẳng khác gì một nhà ngục hữu hình, một nấm
mồ giam hãm, chơn vùi tuổi xn của Mị, mài mòn mọi cảm xúc của Mị, hút hết cả
sinh khí, khiến Mị tê liệt ý thức, từ đó nảy sinh những suy nghĩ u ám, tuyệt vọng: “Mị
nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vng ấy mà trơng ra, đến bao giờ chết thì
thơi”. Mị đã mất đi mọi niềm tin vào cuộc sống bởi khi sống giữa thần quyền và
cường quyền, giữa bạo lực và bất cơng thì làm gì cịn tia sáng hi vọng lẻ loi nào để Mị
bám víu lấy, “Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ cịn biết
đợi ngày rũ xương ở đây thôi”. Nỗi sợ những thế lực tàn bạo và độc ác ấy đã khiến Mị
cảm thấy đời bây giờ chẳng khác gì địa ngục trần gian đầy khổ ải, Mị tồn tại như cái
xác không hồn chỉ chực chờ được giải thốt bởi cái chết.
Qua đoạn trích, nhà văn Tơ Hồi đã dựng lên hình ảnh chân thật và đầy đáng
thương về q trình vật hố và nơ lệ hố của một người phụ nữ. Trước sự bóc lột cả
về sức khỏe lẫn tinh thần, sự chèn ép dã man bởi những thế lực phong kiến, giai cấp
thống trị tàn bạo, Mị khơng hề có ý thức phản kháng, Mị dửng dưng, vô cảm, mất hết
ý thức về quyền sống và thân phận của con người. Một nhân vật Mị vừa có ý nghĩa
điển hình, vừa mang những nét tính cách đầy cá tính, độc đáo đã được Tơ Hồi khắc
hoạ thành cơng bằng ngịi bút miêu tả tâm lí tinh tế, sắc sảo, chân thực. Những suy
nghĩ của Mị được tác giả nắm bắt thơng qua điểm nhìn độc đáo - từ bên trong nhân
vật và được thể hiện bằng ngôn ngữ độc thoại nội tâm và lời nửa trực tiếp, bằng sự
hòa quyện giữa lời của nhà văn và nhân vật. Bằng cách đó, nhà văn có thể nhập hồn
vào dòng cảm xúc của Mị để rồi nắm bắt sâu sắc những chuyển biến phong phú,
phức tạp của đời sống nội tâm của nhân vật. Từ đó, ta thấy được biệt tài khám phá
“con người bên trong con người” của tác giả. Đồng thời, cũng nhờ vào tài chọn lọc
những chi tiết nghệ thuật giàu ý nghĩa mà ta lại càng thêm thấm thía, thấu hiểu hơn
về những nỗi đắng cay mà Mị đang giấu trong lòng. Ngồi ra, nghệ thuật trần thuật
linh hoạt, hấp dẫn; ngơn ngữ gần gũi, chân thực, sinh động, giàu hình ảnh cùng giọng
điệu trầm lắng cũng góp phần khiến cho những trang văn về Mị càng thêm thu hút,
gây ấn tượng với độc giả.
Thơng qua nhân vật Mị, Tơ Hồi đã gửi gắm những giá trị hiện thực và giá trị
nhân đạo sâu sắc đến với người đọc. Ông lên án, tố cáo về một xã hội bất nhơn, một
thời đại suy đồi với sự đàn áp của thần quyền và cường quyền, đồng thời thể hiện sự
đồng cảm, xót thương đến những số phận bi thảm tương tự như Mị, những con người
bị đẩy vào nỗi thống khổ khi bị bòn rút sức lao động, bị tước đoạt quyền hạnh phúc,
đồng thời cắt đứt mạch sống, bị biến dạng tâm hồn. Tơ Hồi quả là “một nhà văn
chân chính”, “một nhà nhân đạo từ trong cốt tuỷ”.
Đoạn trích đã minh chứng cho tài năng nghệ thuật xuất sắc của tác giả
cũng như góp phần đưa “Vợ chồng A Phủ” trở thành một trong những tác phẩm
văn xuôi đặc sắc nhất của nền văn học hiện đại Việt Nam. Gấp trang sách lại,
đoạn văn của Tơ Hồi vẫn còn rưng rức trong lòng người đọc những tiếng ai
ốn, xót thương của những kiếp người tủi khổ như Mị. “Một tác phẩm chân
chính khơng bao giờ kết thúc ở trang cuối cùng”. Bởi lẽ khi trang sách đóng lại,
tác phẩm mới thực sự đang sống, sống với những trăn trở và tình cảm của
người đọc”.