Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

Luận văn thạc sĩ luật học- pháp luật về bảo hiểm hưu trí và thực tiễn thực hiện tại thành phố hòa bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (355.49 KB, 81 trang )

MỤC LỤC
Trang
1

MỞ ĐẦU

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM HƯU TRÍ VÀ
SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT

8

1.1. Một số vấn đề lý luận về bảo hiểm hưu trí

8

1.2. Điều chỉnh pháp luật về bảo hiểm hưu trí

15

1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật về bảo
hiểm hưu trí

25

Chương 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN
HÀNH VỀ BẢO HIỂM HƯU TRÍ VÀ THỰC TIỄN THỰC
HIỆN TẠI THÀNH PHỐ HỊA BÌNH

28

2.1. Thực trạng quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo


hiểm hưu trí

28

2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật bảo hiểm hưu trí tại thành phố
Hịa Bình

44

Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
BẢO HIỂM HƯU TRÍ TẠI THÀNH PHỐ HỊA BÌNH

61

3.1. u cầu của việc hồn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
thực hiện pháp luật về bảo hiểm hưu trí

61

3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về bảo
hiểm hưu trí

64

3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật
về bảo hiểm hưu trí tại thành phố Hịa Bình

69


KẾT LUẬN

74

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHÀO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ASXH

: An sinh xã hội

BHHT

: Bảo hiểm hưu trí

BHTN

: Bảo hiểm thất nghiệp

BHXH

: Bảo hiểm xã hội

BHYT

: Bảo hiểm y tế

HĐLĐ


: Hợp đồng lao động

ILO

: Tổ chức Lao động quốc tế

NLĐ

: Người lao động

NSDLĐ

: Sử dụng lao động

TNLĐ-BNN : Tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu

Tên bảng

Trang

1.1

Điều kiện hưởng trợ cấp hưu trí của một số nước trên thế giới

24


2.1

Bảng điều kiện độ tuổi nghỉ hưu được hưởng BHHT

32

bảng

đối với NLĐ bị suy giảm khả năng lao động
2.2

Bảng điều chỉnh thời gian hưởng lương hưu với tỷ lệ 45%

34

đối với lao động nam
2.3

Số người tham gia BHHT thành phố Hịa Bình (2015-2018)

47

2.4

Số thu BHXH thành phố Hịa Bình (2016 - 2018)

48

2.5


Danh sách đơn vị ở thành phố Hịa Bình nợ BHXH,

52

BHYT, BHTN, bảo hiểm TNLĐ-BNN (tháng 3 năm 2019)


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo hiểm xã hội (BHXH) là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một
phần thu nhập của người lao động (NLĐ) khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập
do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp (TNLĐ-BNN), hết
tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH. Trong các chế độ
BHXH, chế độ hưu trí có vai trị đặc biệt quan trọng vì nó là hạt nhân của an
sinh xã hội (ASXH), là cơ sở đảm bảo cuộc sống cho NLĐ khi hết tuổi lao
động. Với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, chính sách
BHXH nói chung và chế độ hưu trí nói riêng đã từng bước được hồn thiện,
ngày càng đồng bộ, phù hợp với thực tế đất nước và thông lệ quốc tế, dần
khẳng định và phát huy vai trị là một trụ cột chính của hệ thống ASXH. Luật
BHXH năm 2014 với nhiều điểm mới, tiến bộ hơn so với các quy định trước
đó đảm bảo cuộc sống cho những người tham gia bảo hiểm khi hết tuổi lao
động. Tuy nhiên, qua hơn 02 năm triển khai thực hiện, một số nội dung về chế
độ hưu trí được quy định trong Luật cũng đã bộc lộ bất cập hạn chế, chưa tạo
được sự đồng thuận cao của xã hội như: Việc mở rộng đối tượng tham gia vào
hệ thống BHXH còn dưới mức tiềm năng, độ bao phủ BHXH tăng chậm; tình
trạng trốn đóng, nợ đọng BHXH chậm được khắc phục ảnh hưởng đến quyền
lợi NLĐ, khoảng cách giữa người có mức lương hưu thấp nhất và cao nhất
q xa, cịn có sự phân biệt trong cách tính lương hưu của khu vực trong và

ngồi nhà nước; số người hưởng BHXH một lần tăng nhanh; quỹ hưu trí và tử
tuất có nguy cơ mất cân đối trong dài hạn. Tuổi nghỉ hưu đang là vấn đề có
nhiều tranh luận trong việc sửa đổi Bộ luật Lao động hiện nay.
Thành phố Hịa Bình là thành phố nhỏ, tuy khơng có số lượng lao
động q nhiều như các thành phố lớn, song tỷ lệ người tham gia hưởng bảo
hiểm hưu trí (BHHT) cũng chiếm một tỷ lệ đáng kể. Thực tế cũng cho thấy


2

việc thực hiện pháp luật về BHHT cũng cịn có những tồn tại, bất cập cần phải
nâng cao hơn nữa hiệu quả thực hiện.
Chính vì vậy, việc đánh giá khách quan, tồn diện về BHHT, tìm ra
những bất cập, hạn chế trong thực tiễn triển khai, từ đó đề xuất những giải
pháp góp phần hồn thiện chính sách trong dài hạn, ổn định dư luận xã hội,
tạo lòng tin trong nhân dân đang là mối quan tâm rất lớn của các cơ quan xây
dựng, tổ chức thực hiện chính sách BHXH, trong đó có thành phố Hịa Bình.
Chính vì vậy tôi chọn đề tài "Pháp luật về bảo hiểm hưu trí và thực tiễn
thực hiện tại thành phố Hịa Bình" làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình với
mong muốn góp phần hồn thiện các quy định pháp luật về BHHT đồng thời
nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật BHHT tại thành phố Hịa Bình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Từ trước đến nay đã có rất nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu về
lĩnh vực BHXH cũng như BHHT, trong đó tác giả được biết đến một số các
cơng trình sau:
* Đề án, đề tài:
- Đề án nghiên cứu khoa học cấp Bộ "Khảo sát sự hài lịng của người
về hưu đối với chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế tại một số tỉnh,
thành phố" do Tiến sĩ Phạm Đình Thành, Viện Khoa học BHXH Việt Nam
làm chủ nhiệm (năm 2011). Đề án giúp các nhà hoạch định chính sách hiểu

được tâm tư, nguyện vọng của người nghỉ hưu, từ đó làm cơ sở đánh giá
những mặt tích cực và hạn chế trong việc thực hiện chính sách BHXH, bảo
hiểm y tế (BHYT) và đề xuất xây dựng, sửa đổi, hoàn thiện chính sách để đáp
ứng được yêu cầu cuộc sống, đảm bảo cho người về hưu ngày càng có cuộc
sống tốt hơn.
- Đề án nghiên cứu khoa học cấp Bộ "Chế độ hưu trí, tử tuất theo quy
định của Luật Bảo hiểm xã hội - Thực trạng và kiến nghị hồn thiện" do
Hồng Thị Kim Dung, Phó Trưởng Ban thực hiện chính sách BHXH, BHXH


3

Việt Nam làm chủ nhiệm (năm 2014). Đề án đã đưa ra những hạn chế, bất
cập, một số điểm chưa chặt chẽ, phù hợp với thực tiễn gây ra sự bất bình đẳng
giữa làm việc và hưởng thụ của các nhóm lao động thuộc các thành phần kinh
tế, đặc biệt đối với chế độ mang tính chất dài hạn là hưu trí và tử tuất; việc
lạm dụng kẽ hở trong quy định về hưu trí, tử tuất để trục lợi quỹ BHXH diễn
ra khá phổ biến, dẫn đến nhiều khiếu nại, tố cáo và phát sinh tranh chấp giữa
cơ quan BHXH với đơn vị sử dụng lao động, người lao động, người thụ
hưởng. Từ đó phân tích ngun nhân, đề xuất các giải pháp hồn thiện về
chính sách và tổ chức thực hiện chế độ hưu trí, tử tuất trong thời gian tới.
- Đề án cải cách chính sách BHXH do Chính phủ giao Bộ Lao động Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành và các chuyên gia
xây dựng trình Hội nghị Trung ương 7, khóa XII tháng 5/2018 với nhiều điểm
mới tiến bộ mang tính đột phá, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước như xây dựng hệ thống BHXH đa tầng, hướng tới phổ cập tồn
dân, tn thủ ngun tắc đóng- hưởng và chia sẻ rủi ro; điều chỉnh tuổi nghỉ
hưu nhằm ứng phó với q trình già hóa dân số; rút ngắn điều kiện thời gian
tham gia BHXH để được hưởng lương hưu; thu hẹp khoảng cách chênh lệch
lương hưu giữa các nhóm đối tượng thông qua không điều chỉnh theo một tỷ lệ
đồng đều; đảm bảo an toàn quỹ BHXH trong dài hạn. Đề án đã được Hội nghị

trung ương 7, khóa XII thông qua bằng việc ban hành Nghị quyết số 28-NQ/TW.
* Sách:
- Nguyễn Hiền Phương: Bình luận khoa học những nội dung cơ bản
của Luật bảo hiểm xã hội, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội, năm 2016.
* Bài tạp chí:
- Bùi Ngọc Thanh: Kiến nghị sửa đổi chế độ hưu trí trong Luật Bảo
hiểm xã hội, Nghiên cứu lập pháp, số 19, tháng 10/2013.
- Nguyễn Hồng Ngọc: Về tuổi nghỉ hưu trong dự thảo Bộ luật lao
động (sửa đổi), Nghiên cứu lập pháp, số 11, tháng 6/2012.


4

- Nguyễn Hữu Chí và Bùi Thị Kim Ngân: Một số bình luận pháp lý
liên quan đến Điều 60 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, Tạp chí Luật học, số 6,
năm 2015.
* Luận án, luận văn:
- Nguyễn Thị Oanh: Pháp luật về bảo hiểm hưu trí tự nguyện. Những
vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ, Hà Nội, năm 2015.
- Nguyễn Lệ Huyền: Bảo hiểm hưu trí - Thực trạng và kiến nghị, Luận
văn thạc sĩ, Hà Nội, năm 2015.
- Nguyễn Thanh Minh: Chế độ bảo hiểm xã hội hưu trí theo pháp luật
Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Đại học Huế, 2017.
- Nông Văn Hưng: Pháp luật về bảo hiểm hưu trí và thực tiễn thực
hiện tại tỉnh Lạng Sơn, 2018.
Những bài viết này tuy đã phân tích quy định của pháp luật về bảo
hiểm hưu trí, đề cập tới các vấn đề đang được đặt ra như tăng tuổi nghỉ hưu,
điều chỉnh mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH, các giải pháp chi trả
bảo hiểm đúng đối tượng… Tuy nhiên, chưa có cơng trình nghiên cứu về bảo
hiểm hưu trí gắn với thực tiễn thực hiện tại thành phố Hịa Bình. Vì vậy, đây

sẽ là cơng trình khoa học nghiên cứu riêng về pháp luật bảo hiểm hưu trí và
thực tiễn thực hiện tại thành phố Hịa Bình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Vì đây là luận văn có định hướng ứng dụng nên mục đích nghiên cứu
của luận văn là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về BHHT cũng như pháp
luật về BHHT, đồng thời đi sâu vào đánh giá toàn diện thực trạng quy định
pháp luật hiện hành về BHHT cũng như thực tiễn thực hiện pháp luật về bảo
hiểm hưu trí tại thành phố Hịa Bình, từ đó đề xuất những giải pháp nhằm
hoàn thiện quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về
BHHT tại thành phố Hịa Bình.


5

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn phải thực hiện các
nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau:
- Khái quát một số vấn đề lý luận về BHHT cũng như pháp luật về BHHT;
- Mơ tả, phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về BHHT;
- Phân tích, đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về BHHT tại thành
phố Hịa Bình;
- Đề xuất những giải pháp góp phần hồn thiện pháp luật cũng như
nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về BHHT ở thành phố Hịa Bình.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật Việt
Nam hiện hành về BHHT mà cụ thể là Luật BHXH năm 2014 và các văn bản
hướng dẫn thi hành. Luận văn cũng nghiên cứu thực tiễn thực hiện pháp luật
về BHTH tại thành phố Hịa Bình. Pháp luật quốc tế được luận văn nghiên

cứu ở mức độ nhất định.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Bảo hiểm hưu trí là vấn đề rộng có thể nghiên cứu dưới nhiều góc độ
khác nhau và phạm vi rộng hẹp khác nhau. Trong luận văn này, tác giả nghiên
cứu BHHT dưới góc độ pháp lý và chỉ ở những nội dung trực tiếp của BHHT
như: BHHT bắt buộc, BHHT tự nguyện, BHHT bổ sung về các khía cạnh đối
tượng tham gia, điều kiện hưởng, mức hưởng, thủ tục giải quyết hưởng
BHHT. Luận văn không nghiên cứu về giải quyết tranh chấp về BHHT. Việc
xử lý vi phạm pháp luật về BHHT cũng chỉ được đề cập đến ở mức độ nhất
định ở những nội dung có liên quan.
Về khơng gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn thực hiện pháp luật
BHHT trên địa bàn thành phố Hịa Bình.
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn thực hiện pháp luật
BHHT trên địa bàn thành phố Hịa Bình từ năm 2015 - 2018.


6

5. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp và đánh giá các vấn
đề về bảo hiểm hưu trí và pháp luật về BHHT Chương 1.
Phương pháp tổng hợp, so sánh luật học và phân tích, phương pháp
thống kê được sử dụng trong Chương 2 để đánh giá thực trạng quy định về
BHHT và thực tiễn thực hiện pháp luật về BHHT tại thành phố Hịa Bình từ
đó rút ra những hạn chế, vướng mắc của pháp luật và thực thi pháp luật trong
lĩnh vực này.
Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng trong Chương 3 khi
xem xét, đánh giá đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật, các biện pháp
nhằm thực thi có hiệu quả quy định pháp luật về bảo hiểm hưu trí tại thành
phố Hịa Bình.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
* Ý nghĩa lý luận:
Thứ nhất, góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về BHHT;
Thứ hai, đánh giá đúng thực trạng chế độ hưu trí ở nước ta hiện nay,
chỉ ra được những kết quả đạt được cũng như bất cập, hạn chế trong thực
tiễn thực hiện tại thành phố Hịa Bình và ngun nhân của những tồn tại,
hạn chế đó;
Thứ ba, đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần hồn thiện pháp luật
và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về BHHT tại thành phố Hịa Bình.
* Ý nghĩa thực tiễn:
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và học tập
của sinh viên, học viên chuyên ngành luật. Ngồi ra, luận văn cịn có thể
cung cấp kiến thức cho các cán bộ làm công tác lao động - xã hội nói chung,
những người làm cơng tác BHXH, đặc biệt là cơng tác bảo hiểm hưu trí nói
riêng, giúp họ thực thi chính sách và pháp luật về BHHR hiệu quả.


7

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo hiểm hưu trí và sự điều chỉnh
của pháp luật.
Chương 2: Thực trạng quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về
bảo hiểm hưu trí và thực tiễn thực hiện tại thành phố Hịa Bình.
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao
hiệu quả thực hiện pháp luật bảo hiểm hưu trí tại thành phố Hịa Bình.



8

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM HƯU TRÍ
VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT
1.1. Một số vấn đề lý luận về bảo hiểm hưu trí
1.1.1. Khái niệm bảo hiểm hưu trí
Con người sinh ra vốn đã có các nhu về cuộc sống như (ăn, ở, mặc…)
và gia đình là nơi cung cấp chính các nhu cầu đó. Cùng với q trình trưởng
thành của bản thân, các nhu cầu thiết yếu đảm bảo cuộc sống ngày càng lớn
hơn đòi hỏi con người phải lao động để tạo ra của cải vật chất ni sống
mình, giúp đỡ gia đình và góp phần phát triển xã hội. Khi già yếu, hết tuổi lao
động (khơng cịn tham gia quan hệ lao động nữa), thu nhập bị giảm sút nhưng
những nhu cầu thiết yếu cần thiết cho con người khơng vì thế mất đi, trái lại,
có thể cịn tăng lên, thậm chí xuất hiện thêm nhu cầu mới như chi phí khám
chữa bệnh, chi phí phục vụ và lương hưu chính là thu nhập chính của họ trong
lúc này. Để được hưởng lương khi về hưu chính là mục đích, động lực cơ bản
để NLĐ tham gia quan hệ BHXH, chính vì vậy mà trong lịch sử phát triển của
BHXH, BHHT là một trong những chế độ được thực hiện sớm nhất.
Trước những rủi ro của cuộc sống (già yếu, ốm đau, tai nạn lao động)
đã buộc NLĐ tìm cách khắc phục bằng những hành động tương thân, tương
ái (lập các quỹ tương tế, các hội cơng đồn…) đồng thời họ địi hỏi giới chủ
và Nhà nước phải có trợ giúp đảm bảo cuộc sống cho họ khi gặp những rủi
ro đó. Năm 1850, một số bang của nước Đức lần đầu tiên thành lập quỹ hỗ
trợ nỗi đau. Năm 1883, họ tiếp tục ban hành Luật BHYT và bảo hiểm tai nạn
lao động sau đó là đạo luật về hưu trí với sự đóng góp của cả ba bên (NLĐ,
chủ sử dụng lao động, nhà nước) nhằm bảo vệ NLĐ trong các trường hợp rủi
ro. Kinh nghiệm về BHXH của Đức sau đó được lan dần sang nhiều nước
khác trên thế giới.



9

Tháng 6 năm 1952, ILO đã thông qua Công ước số 102 về Quy phạm
tối thiểu về an toàn xã hội, trong đó đưa ra hệ thống các chế độ BHXH bao
gồm 09 chế độ: Chăm sóc y tế, trợ cấp ốm đau, trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp
tuổi già (hưu bổng), trợ cấp TNLĐ, BNN, trợ cấp gia đình, trợ cấp sinh đẻ, trợ
cấp tàn tật, trợ cấp tiền tuất và khuyến nghị các nước thành viên ít nhất phải
thực hiện được 3 chế độ, trong đó ít nhất phải có một trong 5 chế độ: trợ cấp
thất nghiệp, trợ cấp tuổi già, trợ cấp TNLĐ-BNN, trợ cấp tàn tật và trợ cấp
tiền tuất. Điều này chứng tỏ, BHHT ln được ILO, Chính phủ các nước cũng
như NLĐ hết sức quan tâm.
Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ngay khi dành được chính
quyền cũng đã quan tâm đến các chế độ BHXH, trong đó có chế độ hưu trí thể
hiện trong nhiều văn bản khác nhau. Tuy nhiên chính sách BHXH nói chung
và chế độ hưu trí nói riêng thực sự có những thay đổi căn bản khi Quốc hội
thơng qua Bộ luật Lao động (có hiệu lực từ 01/01/1995). Trên cơ sở quy định
của Bộ luật Lao động, Chính phủ đã ban hành Điều lệ BHXH kèm theo Nghị
định số 12/CP ngày 26/01/1995 và Nghị định số 45/CP ngày 15/7/1995, đồng
thời có điều chỉnh các quy định về chế độ chính sách BHXH trong đó có chế
độ hưu trí cho phù hợp. Ngày 29/6/2006, Quốc hội thơng qua Luật BHXH tạo
cơ sở pháp lý để nâng cao hiệu quả thực thi chế độ, chính sách BHXH, bổ
sung các quy định mới phù hợp với quá trình chuyển đổi của nền kinh tế theo
cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm ASXH và hội nhập
quốc tế. Tiếp đến, tại kỳ họp thứ 8, ngày 20/11/2014, Quốc hội khóa XIII
thơng qua Luật BHXH 2014. Việc sửa đổi Luật BHXH đã cơ bản đáp ứng
mục tiêu đổi mới căn bản, toàn diện pháp luật về BHXH nhằm đáp ứng yêu
cầu phát triển hệ thống ASXH phù hợp nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế trong tình hình mới, khắc phục những hạn chế
trong chính sách, pháp luật BHXH hiện hành và tháo gỡ những khó khăn, bất

cập trong tổ chức thực hiện, tiến tới BHXH cho mọi NLĐ. Vì vậy, Luật


10

BHXH 2014 có thêm nhiều quy định mới, đặc biệt là chế độ hưu trí như về
điều kiện nghỉ hưu, cơng thức tính lương hưu, mức bình qn tiền lương
tháng đóng BHXH để tính lương hưu, trợ cấp một lần, điều chỉnh lương hưu,
trợ cấp một lần khi nghỉ hưu.
Như vậy có thể thấy BHHT là bộ phận quan trọng của hệ thống ASXH,
là công cụ quan trọng để Nhà nước phòng ngừa, hạn chế, khắc phục rủi ro cho
mọi thành viên trong xã hội, đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế thị trường.
BHHT là chế độ BHXH áp dụng cho NLĐ khi họ đã hết tuổi lao động hoặc
khơng cịn tham gia quan hệ lao động nữa. Về bản chất, đây là khoản trợ cấp
nhằm đảm bảo thu nhập và đời sống cho người về hưu, thay thế cho khoản
tiền lương trước đây mà họ có được khi còn đang tham gia quan hệ lao động.
Từ sự phân tích ở trên có thể đưa ra định nghĩa về BHHT như sau:
BHHT là chế độ BHXH đảm bảo thu nhập cho người tham gia BHXH khi hết
tuổi lao động hoặc khơng cịn tham gia quan hệ lao động nữa. Còn chế độ
BHHT là tổng hợp các quy phạm pháp luật quy định về các điều kiện và mức
hưởng cho những người tham gia BHXH, khi đã hết tuổi lao động hoặc khơng
cịn tham gia quan hệ lao động.
Trong các chế độ BHXH, BHHT luôn được coi là "trụ cột" của
BHXH. BHHT có một số đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, BHHT là chế độ BHXH mang tính dài hạn.
Ở các chế độ khác của BHXH (như ốm đau, thai sản, tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp, tử tuất), người tham gia bảo hiểm có thể hưởng bảo
hiểm khi tham gia bảo hiểm ở một thời gian nhất định và thường là khi họ
đang tham gia quan hệ lao động. Đối với BHHT, người tham gia bảo hiểm
lại thường chỉ hưởng bảo hiểm khi họ hết tuổi lao động hoặc khơng cịn

tham gia quan hệ lao động. Bởi vậy q trình đóng bảo hiểm thường kéo dài
từ khi thiết lập quan hệ lao động cho đến khi kết thúc quá trình làm việc,
người lao động hết tuổi lao động. Hơn nữa, việc thụ hưởng BHHT về cơ bản


11

cũng mang tính chất dài hạn từ khi người lao động nghỉ hưu đến khi họ mất
đi (trừ trường hợp hưởng BHHT một lần). BHHT thường phụ thuộc vào thời
gian đóng BHXH dài hay ngắn và tuổi thọ của người lao động. Chính vì vậy,
chế độ BHHT được xem là chế độ mang tính dài hạn nằm ngồi q trình lao
động.
Thứ hai, đối tượng tham gia hưởng chế độ hưu trí rất rộng, được áp
dụng cho hầu hết những người trong độ tuổi lao động nhằm thực hiện mục
tiêu của ASXH.
Con người ai cũng đến lúc về già. Khi đó họ cần được nghỉ ngơi và
cũng cần có thu nhập để đảm bảo cuộc sống. BHHT thực chất là chế độ
hướng tới mục đích này. BHHT là chế độ trợ cấp dành cho những người hết
tuổi lao động khi họ khơng tham gia quan hệ lao động nữa. Chính vì vậy mà
hầu hết người lao động dù làm việc ở khu vực chính thức hay phi chức thức
đều muốn tham gia. Vì vậy, đối tượng tham gia BHXH thường rất rộng. Điều
này phù hợp với mục tiêu của ASXH, đảm bảo độ bao phủ đến mọi người dân
trong xã hội.
Thứ ba, BHHT là chế độ bảo hiểm chủ yếu áp dụng cho các đối tượng
đã hết tuổi lao động hoặc khơng cịn tham gia vào quan hệ lao động nữa.
Khác với các chế BHXH bắt buộc khác như chế độ ốm đau, thai sản,
tai nạn lao động thường được áp dụng đối với người lao động trong độ tuổi
lao động và trong quá trình lao động; BHHT thường được áp dụng đối với
người lao động khi họ không tham gia quan hệ lao động nữa. Điều này cũng
phù hợp với mục đích của BHHT bởi đây là chế độ hướng đến việc đảm bảo

thu nhập cho người lao động khi họ khơng cịn khả năng lao động.
1.1.2. Ý nghĩa của bảo hiểm hưu trí
Bảo hiểm hưu trí giữ vai trị rất quan trọng, là hạt nhân của hệ thống
BHXH, là động lực để NLĐ yên tâm làm việc để tích lũy khi trẻ, hưởng thụ
khi về già (khi họ bị suy giảm khả năng lao động, khi hết tuổi lao động,


12

khơng cịn tạo ra thu nhập để đảm bảo cuộc sống), là mục tiêu đảm bảo
ASXH của hầu hết các quốc gia. Nếu như các chế độ BHXH khác chỉ áp
dụng cho một số đối tượng lao động nhất định như chế độ TNLĐ-BNN chỉ
dáp dụng cho những người bị TNLĐ-BNN; chế độ thai sản chủ yếu áp dụng
đối với lao động nữ khi sinh con thì chế độ hưu trí lại được áp dụng cho hầu
hết những đối tượng tham gia BHXH. Vì vậy, những thay đổi trong chế độ
hưu trí ln ảnh hưởng đến tất cả những người tham gia. Hơn nữa, phần lớn
chi phí đóng góp vào BHXH đều dành cho việc chi trả chế độ hưu trí. Chính
vì chiếm ví trí quan trọng nên chế độ BHHT đã góp phần cùng với các chế
độ BHXH tạo nên ý nghĩa của BHXH nói chung trên các phương diện kinh
tế, chính trị, xã hội và pháp lý. Ngồi ra chế độ hưu trí cịn có vai trị cụ thể
như sau:
- Đối với người lao động
Khi tham gia BHXH, người lao động phải đóng một khoản tiền trích
từ lương vào quỹ BHXH. Khi người lao động hết tuổi lao động hoặc không
tham gia quan hệ lao động, quỹ BHXH sẽ chi trả cho người lao động để bù
đắp một phần thu nhập hỗ trợ cho người lao động bị mất thu nhập để đảm bảo
ổn định thu nhập, ổn định đời sống. BHHT đã đảm bảo được việc thực hiện
quyền và lợi ích chính đáng của họ sau khi đã hoàn thành được nghĩa vụ lao
động đối với xã hội. Tiền lương hưu mà họ nhận được là kết quả tích lũy
trong suốt q trình làm việc thơng qua việc đóng góp vào quỹ BHXH.

Trong q trình lao động, khi NLĐ có sự đảm bảo về phần thu nhập
khi nghỉ hưu sẽ tạo nên tâm lí yên tâm để cống hiến sức lao động, tinh thần
thoải mái để làm việc với năng suất lao động cao. Khoản tiền lương hưu mà
họ nhận được là kết quả tích lũy trong suốt q trình làm việc thơng qua việc
đóng góp vào quỹ hưu trí; đây là khoản thu nhập và tiền lương chính, đảm
bảo cuộc sống vật chất cho NLĐ trong suốt quãng đời còn lại sau lao động, là
chỗ dựa tinh thần cho người người về hưu, không bị mặc cảm là gánh nặng


13

của gia đình và xã hội. Do đó BHHT tạo niềm tin tương lai cho NLĐ, thúc
đẩy họ gắn bó với công việc, với địa chỉ làm việc và yên tâm tích cực làm
việc để tăng thêm nguồn thu nhập và cũng từ đó có điều kiện tăng mức đóng
BHHT để khi hết tuổi lao động được nhận tiền lương BHHT.
- Đối với người sử dụng lao động
Ngoài việc quy định người lao động đóng vào quỹ BHHT, người sử
dụng lao động (NSDLĐ) cũng phải có trách nhiệm đóng góp vào quỹ BHHT.
Nếu theo nhìn nhận ban đầu, việc đóng góp vào quỹ BHHT cho người lao
động có thể sẽ làm tăng chi phí sản xuất, giảm lợi nhuận của doanh nghiệp.
Nhưng thực chất, về lâu dài, phương thức BHXH nói chung và BHHT nói
riêng đã chuyển giao trách nhiệm bảo vệ người lao động khi gặp rủi ro về
phía xã hội, rủi ro được điều tiết trên phạm vi toàn xã hội, giúp cho chủ sử
dụng lao động bớt những khó khăn, lo lắng về nguồn lao động của doanh
nghiệp, yên tâm tổ chức sản xuất, kinh doanh.
Hơn nữa, khi BHHT được thực hiện, người lao động cũng yên tâm
làm việc, tạo động lực để họ cống hiến cho doanh nghiệp. Chính điều đó sẽ
làm tăng năng suất lao động, tạo điều kiện để doanh nghiệp phát triển.
- Đối với Nhà nước và xã hội
Ở phương diện xã hội, BHHT là một công cụ để nâng cao điều kiện

sống cho người lao động. Ở phương diện kinh tế, BHHT là một công cụ phân
phối lại thu nhập giữa các thành viên trong cộng đồng. Nhờ sự điều tiết này
người lao động được thực hiện bình đẳng khơng phân biệt các tầng lớp trong
xã hội. BHHT vừa tạo động lực cho các thành phần kinh tế phát triển nhưng
mặt khác tạo ra sự bình đẳng giữa các tầng lớp dân cư thơng qua hệ thống
phân phối lại thu nhập góp phần lành mạnh hóa thị trường lao động.
Bảo hiểm hưu trí thể hiện trách nhiệm của Nhà nước, của xã hội, của
NSDLĐ đối với những người đã có q trình lao động, đóng góp vào sự phát


14

triển chung của đất nước, nay hết tuổi lao động. Chế độ này phản ánh rõ nét
các giá trị xã hội, tính nhân văn, nhân đạo của dân tộc, là một trong những nội
dung nịng cốt của chính sách ASXH quốc gia.
1.1.3. Các hình thức bảo hiểm hưu trí
Bảo hiểm hưu trí thường dược thực hiện dưới hai hình thức là BHHT
bắt buộc và BHHT tự nguyện.
Bảo hiểm hưu trí bắt buộc là hình thức bảo hiểm mà NLĐ và chủ sử
dụng lao động phải tham gia và hàng tháng cùng đóng vào quỹ hưu trí theo
mức quy định để NLĐ hưởng lương hưu. Khi đủ điều kiện về tuổi và thời
gian đóng BHXH, NLĐ được nghỉ hưu. Trong một số trường hợp vì điều
kiện, mơi trường làm việc, tính chất đặc thù công việc, NLĐ được nghỉ hưu
sớm hơn từ 01-05 tuổi. NLĐ cũng có quyền được nghỉ hưu sớm khi bị suy
giảm khả năng lao động ở một mức độ nhất định phù hợp với quy định của
pháp luật. Bởi vậy BHHT thường được áp dụng cho các lao động tham gia
quan hệ lao động thuộc khu vực chính thức.
Bảo hiểm hưu trí tự nguyện là hình thức bảo hiểm mà NLĐ tự nguyện
tham gia và được lựa chọn mức đóng, phương thức đóng phù hợp với thu
nhập của mình và Nhà nước có chính sách hỗ trợ tiền đóng BHXH để người

tham gia hưởng chế độ hưu trí. Cũng giống như loại hình BHHT bắt buộc, khi
đủ điều kiện về tuổi đời và thời gian đóng BHXH thì NLĐ được nghỉ hưu.
Tuy nhiên, NLĐ tham gia loại hình BHHT tự nguyện khơng được nghỉ hưu
sớm do điều kiện lao động, tính chất cơng việc hoặc bị suy giảm khả năng lao
động. BHHT tự nguyện thường được áp dụng cho những lao động thuộc khu
vực phi chính thức.
Hiện nay hầu hết các nước trên thế giới đều quy định về hai hình thức
BHHT, mục đích là để cho mọi NLĐ trong xã hội đều có điều kiện tham gia
BHXH, hưởng lương hưu khi về già, đảm bảo cuộc sống cho bản thân.


15

1.2. Điều chỉnh pháp luật về bảo hiểm hưu trí
1.2.1. Khái niệm và các nguyên tắc cơ bản của pháp luật bảo hiểm
hưu trí
1.2.1.1. Khái niệm pháp luật bảo hiểm hưu trí
Bảo hiểm hưu trí có vai trị quan trọng trong việc đảm bảo thu nhập
cũng như đời sống của NLĐ khi họ hết tuổi lao động hoặc không tham gia
quan hệ lao động nữa. BHHT bên cạnh nguyên tắc đóng hưởng cũng hướng
đến nguyên tắc chia sẻ giữa những người tham gia BHXH. Do đó, để BHHT
hoạt động ổn định, bền vững thì Nhà nước phải là người tổ chức, quản lý,
thực hiện. Chính vì vậy, chính sách BHHT của Nhà nước cần phải được thể
chế hóa trong các văn bản pháp luật. Với vai trị của mình, pháp luật sẽ đảm
bảo cho chính sách BHHT của Nhà nước được thực thi trên thực tế.
Pháp luật được hiểu là hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà nước đặt ra
hoặc thừa nhận và bảo đảm thể hiện ý chí của giai cấp thống trị nhằm điều
chỉnh các quan hệ xã hội. Pháp luật là hệ thống các quy tắc mang tính chuẩn
mực, ảnh hưởng lớn đến đời sống xã hội, ảnh hưởng đến cách ứng xử của con
người trong xã hội. Trong xã hội hiện đại, pháp luật được hiểu là tập hợp các

quy tắc điều chỉnh hành vi của con người được áp dụng cho tất cả các thành
viên trong cộng đồng xã hội và được thực thi bởi cơ quan chính quyền thơng
qua việc áp dụng chế tài cho các chủ thể vi phạm.
Tùy theo điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội ở mỗi quốc gia mà pháp
luật có những quy định khác nhau về BHHT. Tuy nhiên, về cơ bản pháp luật
điều chỉnh BHXH ở nội dung như: Đối tượng tham gia BHXH, các chế độ
BHXH, quỹ BHXH, việc chi trả BHXH, xử lý vi phạm pháp luật BHXH…
Vì vậy, pháp luật về bảo hiểm BHXH bắt buộc có thể được hiểu là
tổng thể các quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
ban hành nhằm điều chỉnh những quan hệ xã hội hình thành trong q trình
đóng góp và chi trả các chế độ BHXH bắt buộc.


16

1.2.1.2. Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật bảo hiểm hưu trí
Chế độ BHHT là một trong các chế độ của BHXH nên cũng tuân thủ
theo các nguyên tắc chung của BHXH. Tuy nhiên bên cạnh đó, BHHT có
nhiều yếu tố đặc thù. Vì vậy, BHHT vừa tuân theo nguyên tắc chung của
BHXH lại vừa tuân theo một số nguyên tắc riêng biệt.
* Các nguyên tắc chung
Thứ nhất: Mức hưởng BHXH được tính trên cơ sở mức đóng, thời
gian đóng BHXH và có chia sẻ giữa những người tham gia BHXH.
Bảo hiểm xã hội là một trong những hình thức phân phối tổng sản
phẩm quốc dân nên việc thực hiện BHXH phải dựa trên cơ sở sự kết hợp hài
hòa giữa cống hiến và hưởng thụ1. Để đảm bảo hợp lý giữa đóng góp và
hưởng thụ, phải căn cứ vào mức đóng góp của NLĐ cho xã hội thể hiện qua
mức đóng, thời gian đóng…để từ đó quy định mức lương hưu và độ dài thời
gian hưởng lương hưu phù hợp với sự đóng góp cho xã hội của NLĐ.
Bảo hiểm xã hội xây dựng mức hưởng trên cơ sở mức đóng và chia

sẻ giữa những người tham gia BHXH nhằm góp phần thực hiện an sinh xã
hội, trên tinh thần "chia sẻ rủi ro", "lấy số đông bù số ít"; mỗi NLĐ sẽ đóng
góp một phần trong thu nhập của mình để tạo lập quỹ nhưng vì nhiều người
cùng đóng góp nên tạo nên quỹ có giá trị lớn đảm bảo chi trả lương hưu
hàng tháng, đủ để hỗ trợ cho NLĐ khi về hưu hoặc không tham gia quan hệ
lao động. Nhưng sự đóng góp của họ sẽ có ý nghĩa rất lớn cho những đối
tượng gặp phải những rủi ro nghiêm trọng mà nếu khơng có sự chia sẻ,
tương trợ cộng đồng sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống; đây chính
là mục đích thể hiện bản chất xã hội của BHXH là sự chia sẻ rủi ro trong
cộng đồng.
1

. Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Luật An sinh xã hội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 126.


17

Thứ hai: Mức đóng BHXH bắt buộc được tính trên cơ sở tiền lương
tháng của người lao động. Mức đóng BHXH tự nguyện được tính trên cơ sở
mức thu nhập tháng do người lao động lựa chọn.
Trên cơ sở mức sống, mức thu nhập bình quân thực tế của đại đa số
NLĐ và mức thu nhập quốc dân bình quân đầu người để quy định, lựa chọn
mức thu nhập được bảo hiểm để đảm bảo cho mức thu nhập này luôn thăng
bằng tương đối, đảm bảo đời sống cho NLĐ tham gia BHXH.
Nguyên tắc này góp phần đảm bảo cho thực hiện quản lý thu BHXH
trong điều kiện thực tế hiện nay. Đối với BHXH bắt buộc, lấy tiền lương làm
căn cứ đóng BHXH và cũng là cơ sở để quy định mức thu nhập được hưởng
bảo hiểm. Đối với BHXH tự nguyện, mức đóng BHXH được quy định trên
cơ sở mức thu nhập do người tham gia lựa chọn tùy khả năng kinh tế của họ
nhưng không thấp hơn mức tiền lương tối thiểu, đây là quy định hợp lý

nhằm thu hút và tạo điều kiện để đông đảo NLĐ trong xã hội có thể tham gia
BHXH; vừa đảm bảo cho việc sản xuất, kinh doanh cho các doanh nghiệp
được ổn định.
Thứ ba: NLĐ vừa có thời gian đóng BHXH bắt buộc vừa có thời gian
đóng BHXH tự nguyện được hưởng chế độ hưu trí trên cơ sở tổng thời gian
đã đóng BHXH.
Trên phương diện pháp lý, việc tham gia BHXH bắt buộc hay BHXH
tự nguyện đều tạo nên các quyền lợi về BHXH có giá trị như nhau và trong
thực tế tùy theo tính chất và đặc điểm của quan hệ lao động mà NLĐ có thể
có những thời gian tham gia BHXH theo các loại hình khác nhau. Vì vậy, để
đảm bảo quyền lợi cho NLĐ và tính liên thơng trong quan hệ BHXH thì NLĐ
vừa có thời gian đóng BHXH bắt buộc vừa có thời gian đóng BHXH tự
nguyện được hưởng chế độ hưu trí theo quy định của pháp luật trên cơ sở thời
gian đã đóng BHXH.


18

Theo quy định của pháp luật hiện hành thì trong cùng một thời điểm,
NLĐ chỉ được tham gia đóng BHXH bắt buộc hoặc BHXH tự nguyện. Như
vậy, với nguyên tắc này, giữa BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện có sự liên
thông, đảm bảo cho người tham gia BHXH khi hết tuổi lao động có nhiều cơ
hội được hưởng chế độ hưu trí do thời gian đóng BHXH được tính bằng tổng
thời gian đóng BHXH của hai loại hình.
Thứ tư: Quỹ BHXH được quản lý tập trung, thống nhất, công khai,
minh bạch; được sử dụng đúng mục đích và được hạch tốn độc lập theo các
quỹ thành phần, các nhóm đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà
nước quy định và chế độ tiền lương do NSDLĐ quyết định.
Bảo hiểm xã hội là chính sách lớn ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời
sống xã hội, chứa đựng cả nội dung kinh tế, xã hội, pháp lý; để đảm bảo thực

hiện hài hịa các nội dung nói trên và đạt được mục tiêu mà BHXH đặt ra thì
một trong những vấn đề quan trọng là việc quản lý quỹ và sử dụng quỹ. Việc
sử dụng quản lý quỹ trên cơ sở Nhà nước thống nhất quản lý và hạch toán
theo quy định pháp luật. Nhà nước với tư cách là chủ thể đại diện cho xã hội
có trách nhiệm thực hiện các chính sách xã hội, quản lý thơng qua việc ban
hành pháp luật về BHXH, quy định cơ chế quản lý, tổ chức và hoạt động
BHXH thống nhất trong cả nước. Tùy thuộc vào điều kiện của đất nước trong
từng thời kỳ mà Nhà nước quy định chính sách quốc gia về BHXH cho phù
hợp với thực tiễn cuộc sống.
Thứ năm: Việc thực hiện BHXH phải đơn giản, dễ dàng, thuận tiện,
bảo đảm kịp thời và đầy đủ quyền lợi của người tham gia BHXH.
Với nguyên tắc này việc thực hiện BHXH đối với NLĐ phải được
nghiên cứu để quy định cụ thể về hồ sơ, quy trình, thời hạn giải quyết sao cho
phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho NLĐ, NSDLĐ khi tham gia BHXH
và khi giải quyết hưởng các chế độ BHXH.


19

* Nguyên tắc riêng
- Nguyên tắc điều chỉnh hợp lý chế độ BHHT giữa lao động nam và
lao động nữ.
Xuất phát từ sự khác biệt về yếu tố thể lực, q trình lão hóa, tâm sinh
lý giữa lao động nữ và lao động nam. Xét về thể lực, sức khỏe, thông thường
nữ giới yếu hơn nam giới. Xét về mặt sinh lý, trong thời kỳ lao động, phụ nữ
phải trải qua các giai đoạn đặc biệt như thai nghén, sinh con làm ảnh hưởng
thậm chí giảm sút sức khỏe; ngồi công việc xã hội như nam giới, với thiên
chức làm vợ, làm mẹ, phụ nữ vẫn phải dành nhiều thời gian cho gia đình và
con cái nên ít có thời gian nghỉ ngơi, chăm sóc bản thân dẫn đến quá trình lão
hóa diễn ra nhanh hơn nam giới. Tuy nhiên, những yếu tố này có thể thay đổi

do điều kiện phát triển kinh tế, dịch vụ xã hội, sự phát triển của khoa học y
dược. Vì vậy, một số nước đã quy định điều kiện nghỉ hưu thống nhất đối với
cả hai giới.
Tuy nhiên ở một số nước (trong đó có Việt Nam), truyền thống ưu đãi
phụ nữ đã được tồn tại từ lâu và được nhà nước thừa nhận bằng pháp luật nên
chính sách BHXH đối với lao động nữ nằm trong tương quan với các chính
sách khác về phụ nữ như: chính sách về bảo vệ chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ
em; chính sách về sự tiến bộ của phụ nữ; chính sách bình đẳng giới. Bởi vậy
độ tuổi về hưu của nữ giới thường thấp hơn nam giới.
Thực tế vấn đề về tuổi lao động còn phụ thuộc vào quan niệm lao
động là quyền hay nghĩa vụ của con người. Nếu quan niệm lao động thiên về
góc độ là nghĩa vụ thì quyền nghỉ hưu của lao động nữ thường được quy định
sớm hơn so với lao động nam. Nếu xem xét lao động là vấn đề thuộc quyền
của con người thì tuổi lao động và tuổi nghỉ hưu có thể được quy định như
nhau đối với hai giới nếu điều kiện kinh tế xã hội cho phép. Những quan điểm
này cũng có thể thay đổi do sự thay đổi của các điều kiện kinh tế - xã hội và
vì vậy, quy định về tuổi nghỉ hưu của NLĐ cũng có thể thay đổi theo từng


20

thời kỳ. Chính vì vậy mà hiện nay, có nước ghi nhận sự khác biệt này nhưng
cũng có nước chỉ có một loại quy định thống nhất, có nước đang thực hiện lộ
trình điều chỉnh để từ chỗ phân biệt tuổi nghỉ hưu của hai giới thành quy định
một mức tuổi nghỉ hưu thống nhất. Tuy nhiên khá nhiều nước có sự phân biệt
chế độ hưởng BHHT theo giới tính.
- Nguyên tắc ưu đãi đối với một số ngành nghề, lĩnh vực nhất định.
Nguyên tắc này xuất phát từ lý do điều kiện làm việc của NLĐ trong
một số ngành nghề có tính chất nặng nhọc, độc hại, ở những nơi xa xôi, hẻo
lánh hoặc trong những lĩnh vực quan trọng như an ninh quốc phịng có sự

khác nhau. Đồng thời nó cũng khuyến khích NLĐ vào làm việc trong các
ngành nghề, lĩnh vực này tạo sự phân công lao động đồng đều giữa các ngành,
các vùng với nhau. Những NLĐ phải làm việc trong điều kiện lao động không
thuận lợi hoặc làm những công việc mà tầm quan trọng của nó đối với an ninh
đất nước có thể ảnh hưởng đến cuộc sống bình thường của họ thì sẽ được
hưởng những chế độ ưu đãi đặc biệt. Trong chế độ hưu trí, sự ưu đãi này được
thể hiện ở việc luật pháp cho phép họ được nghỉ hưu ở tuổi sớm hơn so với
quy định chung nhưng không phải trừ tỷ lệ lương hưu vì thời gian nghỉ sớm đó.
- Khi tuổi thọ của người lao động và mức sống được nâng cao thì tuổi
hưởng chế độ hưu trí có thể được nâng lên.
Thực tế nhiều nước phát triển cho thấy, khi nền kinh tế đạt trình độ
phát triển tương đối cao thì mức sống của NLĐ, người dân (thể hiện GDP/đầu
người) và tuổi thọ cũng không ngừng được nâng cao, cấu trúc dân số sẽ có sự
biến đổi. Chính vì vậy, trong các trường hợp này tuổi về hưu của NLĐ có thể
kéo dài, ví dụ nam đến 63 và 65 tuổi, nữ 58 và 60 tuổi. Sự kéo dài tuổi về hưu
này nhằm tăng khả năng cống hiến của NLĐ khi sức khỏe còn tốt, sử dụng
nguồn nhân lực xã hội hiệu quả khi nguồn cung lao động ngày càng ít đi trước
nhu cầu phát triển của xã hội và ở khía cạnh kinh tế là tạo điều kiện tăng thu
nhập cho NLĐ.


21

Hơn nữa, khi vấn đề già hóa dân số diễn ra, tuổi thọ trung bình được
nâng lên, số người cao tuổi ngày càng tăng đồng nghĩa với thời gian hưởng
lương hưu kéo dài trong khi việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH gặp khó
khăn do tỷ lệ sinh giảm, số lao động trẻ tham gia thị trường lao động ít, số
người về hưu ngày càng tăng làm cho việc chi trả chế độ hưu trí sẽ tăng ảnh
hưởng lớn đến sự đảm bảo cân đối thu chi quỹ BHXH trong tương lai lâu dài
nếu khơng có sự điều chỉnh về mặt chính sách, và một trong những giải pháp

hiệu quả mà nhiều nước trên thế giới đã đã áp dụng thành cơng đó là việc tăng
tuổi nghỉ hưu (ví dụ Pháp, Nhật Bản, Hy Lạp).
1.2.2. Nội dung điều chỉnh pháp luật về bảo hiểm hưu trí
Bảo hiểm xã hội nói chung và BHHT nói riêng nằm trong hệ thống an
sinh xã hội. Chính vì vậy để đạt được mục tiêu mở rộng độ bao phủ để mọi
người dân đều được hưởng an sinh xã hội, pháp luật của các quốc gia đều
hướng tới mở rộng độ bao phủ BHXH mà đặc biệt là BHHT. Tùy theo điều
kiện kinh tế xã hội mà các quốc gia có quy định khác nhau, song nhìn chung
pháp luật các quốc gia đều hướng tới hệ thống BHHT gồm: BHHT bắt buộc,
BHHT tự nguyện và BHHT bổ sung. Trong hệ thống này BHHT bắt buộc là
quan trọng nhất và các quốc gia đều hướng tới mở rộng độ bao phủ chế độ
BHHT này. Tuy nhiên, dù là hình thức BHHT nào thì pháp luật các quốc gia
thường quy định ở các nội dung sau:
* Về đối tượng tham gia BHHT
Đối tượng tham gia BHHT theo quan điểm của ILO cũng như pháp
luật của các quốc gia là những người đang trong độ tuổi lao động. ILO cũng
như pháp luật của các quốc gia khuyến khích mở rộng độ bao phủ BHHT để
đảm bảo an sinh xã hội cho người dân. NLĐ có thể tham gia BHHT ở hình
thức BHXH bắt buộc hoặc hình thức BHXH tự nguyện.
Theo Công ước số 102 đối tượng tham gia BHHT bao gồm:


22

i) Những loại làm công ăn lương được quy định, tổng số ít nhất chiếm
50% tồn bộ những người làm công ăn lương;
ii) Hoặc những loại được quy định trong dân số hoạt động kinh tế,
tổng số ít nhất chiếm 20% toàn bộ những người thường trú;
iii) Hoặc mọi người thường trú mà phương tiện sinh sống trong khi
trường hợp bảo vệ xảy ra không vượt quá giới hạn quy định;

iv) Hoặc, khi đã có bản tuyên bố để áp dụng, phải bao gồm những loại
làm công ăn lương được quy định, tổng số ít nhất chiếm 50% tồn bộ những
người làm công ăn lương làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp đang
sử dụng 20 người trở lên2.
* Về điều kiện hưởng bảo hiểm hưu trí
Để được hưởng BHHT, người tham gia bảo hiểm phải đảm bảo những
điều kiện nhất định. ILO cũng như pháp luật các quốc gia đều quy định độ
tuổi và thời gian đóng BHXH là những điều kiện mang tính tiên quyết để
hưởng BHHT ở cả hình thức BHHT bắt buộc và BHHT tự nguyện.
+ Về tuổi nghỉ hưu
Theo Công ước 102 của ILO, những trường hợp bảo vệ là trường hợp
sống lâu hơn một độ tuổi được quy định. Độ tuổi được ấn định theo ILO là
không quá 65. Tuy nhiên, ILO cũng quy định có thể ấn định một độ tuổi cao
hơn, xét theo khả năng làm việc của những người cao tuổi trong nước đó. Độ
tuổi nghỉ hưu phải được hạ thấp hơn đối với những người lao động làm những
công việc nặng nhọc và độc hại.
Tuổi nghỉ hưu ở các nước trong khu vực thường dao động từ 55-60;
tuổi nghỉ hưu của nam và nữ có thể bằng nhau, hoặc cách nhau 5 tuổi. Chẳng
hạn như ở Mỹ, Canada: 65 tuổi (cho cả nam và nữ); Anh: 65 tuổi (nam) và 60
tuổi (nữ); Đức: 65 tuổi (nam) và 63 tuổi (nữ); Trung Quốc: 60 tuổi (nam) và
55 tuổi (nữ);
2

. Công ước số 102 về quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội năm 1952.


×